WHĐ (21.08.2023)Nhân dịp Ủy ban Giáo sĩ và Chủng sinh tổ chức Hội nghị thường niên của các Đại Chủng viện ở Việt Nam, tại Tòa Giám mục Tổng Giáo phận Hà Nội, từ ngày 07-10/8/2023, với chủ đề: “Đồng hành Tòa trong và Tòa ngoài trong việc đào tạo linh mục tại Việt Nam,” xin gửi tới quý độc giả một số bài viết cho Hội nghị của Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Hương, Phó Giám đốc Đại Chủng viện Thánh Phanxicô Xaviê.

Bài 1:
HƯỚNG TỚI MỘT CHỦNG VIỆN HIỆP HÀNH: HIỆP THÔNG, THAM GIA VÀ SỨ VỤ

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Mục lục

DẪN NHẬP. 1

I. CHỦNG VIỆN LÀ HỘI THÁNH HIỆP HÀNH. 1

       1. Hội Thánh hiệp hành là gì?. 1

       2. Chủng viện là Hội Thánh hiệp thông. 2

       3. Chủng viện là Hội Thánh tham gia. 4

       4. Chủng viện là Hội Thánh sứ vụ. 5

II. CHỦNG VIỆN CÙNG MỘT TẦM NHÌN, MỘT MỤC TIÊU HUẤN LUYỆN. 5

       1. Huấn luyện mang tính toàn vẹn. 6

       2. Huấn luyện tiệm tiến theo từng giai đoạn. 6

       3. Huấn luyện trở nên “người của Thiên Chúa”. 6

       4. Huấn luyện trở nên “người của Hội Thánh”. 7

       5. Huấn luyện là hướng tới giá trị 7

       6. Huấn luyện bao gồm mọi phạm vi 7

       7. Huấn luyện theo nguyên tắc bao gồm.. 7

       8. Huấn luyện là can đảm đi xa hơn. 7

       9. Cuối cùng, lối tiếp cận, thái độ và tinh thần huấn luyện. 8

KẾT LUẬN


DẪN NHẬP

Thượng Hội đồng Giám mục thế giới XVI được tổ chức với chủ đề: “Hướng tới một Hội Thánh hiệp hành: Hiệp thông, tham gia và sứ vụ.” Quả thế, con đường hiệp hành là dấu chỉ thời đại như Đức Giáo Hoàng Phanxicô quả quyết rằng: “Con đường hiệp hành chính là con đường mà Thiên Chúa mong đợi nơi Hội Thánh trong thiên niên kỷ thứ ba.”[1] Mọi tổ chức và mọi thành viên của Hội Thánh được mời gọi tham gia, canh tân và lên đường theo con đường hiệp hành ấy để thi hành tốt sứ vụ truyền giáo. Đặc biệt, con đường hiệp hành phải là con đường mà mỗi Chủng viện được mời gọi bước đi và hướng tới. Vì thế, chúng ta tìm hiểu về ý nghĩa chủ đề này liên quan đến đời sống, cách tổ chức và việc huấn luyện của Chủng viện theo hướng hiệp hành.

I. CHỦNG VIỆN LÀ HỘI THÁNH HIỆP HÀNH

1. Hội Thánh hiệp hành là gì?

“Hiệp hành” là một khái niệm còn mới mẻ đối với phần lớn tín hữu Công Giáo Việt Nam. Vì thế, hiểu đúng về khái niệm hiệp hành là điều cần thiết.

Trước hết, xét theo từ nguyên, trong tiếng Hy Lạp, hạn từ σύνοδος (synodus), được cấu tạo bởi giới từ συν (với) và danh từ όδός (con đường), diễn tả ý nghĩa: cùng đi trên một con đường. Nên từ “hiệp hành” diễn tả ý nghĩa ấy: hiệp là cùng và hành là con đường.

Theo ý nghĩa Giáo Hội học, hiệp hành diễn tả mô hình Hội Thánh là Dân Thiên Chúa cùng nhau tiến bước trên một con đường, hiệp thông, đồng trách nhiệm để cùng nhau thi hành sứ vụ, một Hội Thánh hoàn toàn khác biệt với mô hình Hội Thánh kim tự tháp hoặc cơ chế “giáo phẩm luận” như một thời từng quan niệm. Đây là một Hội Thánh do Chúa Ba Ngôi triệu tập, được kêu gọi và được gọi là Dân Thiên Chúa để lên đường thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng.

Theo ý nghĩa thần học, σύνοδος – hiệp hành còn diễn tả về Chúa Giêsu, Đấng tự giới thiệu mình là “con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga 14,6), Đấng dẫn đến Chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần (x. Ga 16,13) và thực tế, các Kitô hữu, môn đệ của Người, ban đầu được gọi là “những người đi theo Đường” (x. Cv 9,2; 19,9.23; 22,4; 24,14.22).[2]

Nên tính hiệp hành là phương thức sống và hành động (modus vivendi et operandi) của Hội Thánh. Như vậy, Hội Thánh hiệp hành có nghĩa là cùng nhau tiến bước để truyền giáo, một Hội Thánh lữ hành, luôn ở “trên đường” để truyền giáo.

Cộng đoàn Chủng viện cũng là một cộng đoàn Dân Chúa thu nhỏ, cùng nhau tiến bước trên cùng một con đường, chung một tầm nhìn, hướng tới một ơn gọi, một lý tưởng, một sứ vụ: Linh Mục.

Trở thành linh mục là một hành trình dài thăm thẳm và tiện tiến. Chương trình đào tạo linh mục là một chương trình đào tạo suốt đời, bao gồm ba giai đoạn: trước, tại và sau chủng viện.

Một cách cụ thể, trước Chủng viện gồm thời gian của những năm dự bị, dự tu và những năm Tiền Chủng viện; Tại Chủng viện có 2 (hay 3) năm Triết, 1 năm Thử và 4 năm Thần học; Sau Chủng viện với một năm Mục vụ, 5 năm đầu đời linh mục và những năm mục vụ tiếp theo, về hưu dưỡng…

Hành trình này cũng tương tự như hành trình mà Chúa Giêsu đã thực hiện với hai môn đệ trên đường về Emmaus. Theo đó, Chúa Giêsu gặp gỡ, cùng bước đi với họ, trò chuyện với họ, nói cho họ nghe những chuyện xảy ra và giải thích cho họ hiểu các sự kiện dưới ánh sáng Lời Chúa. Rồi sau đó, cùng với họ, Người “bẻ bánh”, mắt họ liền sáng ra, lòng họ bừng cháy, họ liên quay trở về Giêrusalem để loan báo cho mọi người biết Chúa đã sống lại (x. Lc 24,13-35).

Trong hành trình này, nhà đào tạo và người thụ huấn là bạn đường của nhau, để đồng hành và chia sẻ với nhau những “kinh nghiệm đức tin”, kinh nghiệm về cuộc chiến đấu thiêng liêng, về việc tìm kiếm giá trị thiêng liêng, và cả tình yêu dành cho Thiên Chúa trong quá trình theo đuổi ơn gọi và sứ vụ linh mục.

2. Chủng viện là Hội Thánh hiệp thông

Hiệp thông là một trong những yếu tố cần thiết quyết định cho sự sống còn của Hội Thánh. Bởi lẽ, hiệp thông là yếu tố làm cho mọi thành phần Dân Chúa hiệp nhất nên một với nhau trong đời sống và sứ vụ để trở nên Nhiệm Thể duy nhất của Chúa Kitô. Sự hiệp thông Hội Thánh bắt nguồn từ chính Thiên Chúa Ba Ngôi, nghĩa là từ sự hiệp thông giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi là nguồn gốc, nền tảng và khuôn mẫu của Hội Thánh hiệp thông.

Hội Thánh hiệp hành là Hội Thánh hiệp thông. Để cùng đi với nhau trên một con đường, trước hết, mọi thành phần trong Hội Thánh được mời gọi hiệp nhất nên một với nhau. Thiên Chúa quy tụ chúng ta lại với nhau trong Hội Thánh như một Dân mới với những khác biệt nhưng cùng một đức tin.[3]

Hiệp thông phải trở thành nền linh đạo để huấn luyện mọi thành phần Dân Chúa vượt qua những xung khắc và chia rẽ, để nhường chỗ cho nhau và mang lấy gánh nặng của nhau (x. Gl 6,2), nhằm chống lại những cám dỗ ích kỷ thường bao vây chúng ta cũng như vượt thắng sự ganh đua, tham vọng, ngờ vực và ghen tương trong Hội Thánh.

Chủng viện trước hết là “kinh nghiệm nguyên tuyền về Hội Thánh hiệp thông” (PDV 60) và là “ngôi nhà hiệp thông.” Việc đào tạo linh mục chính yếu là đào tạo trở thành “con người hiệp thông.” Bởi lẽ, thiên chức linh mục từ tình yêu và sự hiệp thông giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, qua bí tích Truyền Chức, linh mục được hội nhập vào sự hiệp thông với giám mục và với các linh mục khác, để phục vụ Dân Chúa là Hội Thánh và để hướng dẫn mọi người đến với Chúa Kitô.

Trên bình diện nhân bản, Chủng viện phải nỗ lực trở thành một cộng đoàn trong đó các thành phần liên kết với nhau bằng tình phụ tử, tình huynh đệ và một đức ái sâu xa, tạo thành một gia đình thực sự với bầu khí vui tươi và huynh đệ. Trên bình diện đức tin, Chủng viện phải tạo thành một “cộng đoàn Hội Thánh”, một cộng đoàn môn đệ Chúa được quy tụ để cùng cử hành Thánh Thể, cầu nguyện, lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, nhờ đó, được hiệp nhất với nhau; cộng đoàn ấy hiệp nhất với nhau nhờ sống đức ái huynh đệ và tinh thần công bằng.[4]

Việc huấn luyện linh mục là sự kiện thuộc Hội Thánh mà Chủng viện là nôi để sống và thể hiện mô hình Hội Thánh hiệp thông theo hình tròn: Nghĩa là làm sao tạo được tinh thần và phương pháp làm việc nhóm với nhau nơi Ban Đào tạo và các chủng sinh theo các nguyên tắc: hiệp thông với Thiên Chúa để với nhau, lắng nghe Chúa để lắng nghe nhau, lắng nghe nhau để lắng nghe tiếng Chúa, sống tinh thần huynh đệ bí tích là nền tảng cho đời sống cộng đoàn.

Sứ vụ đào tạo là công trình chung, nên nếu tạo được bầu khí hiệp thông này ở Chủng viện, thì sẽ tránh được lối đào tạo “mỗi người một kiểu,” thiếu tính thống nhất và phối hợp, thiếu lắng nghe và đối thoại. Chương trình huấn luyện không phải là sáng kiến cá nhân, nhưng phải theo đường hướng của Tin Mừng, giáo huấn của Hội Thánh. Quan điểm đào tạo của mỗi nhà đào tạo dựa trên nền tảng này. Đây là nền tảng bảo đảm cho tính hiệp nhất và chính thống của chương trình đào tạo linh mục.

Theo đường hướng ấy, việc đào tạo sẽ mang lại nhiều hiệu quả thiết thực hơn. Mọi thành viên trong Chủng viện sống “linh đạo hiệp thông” này để xây dựng cộng đoàn hiệp nhất và hướng tới những thiện ích chung.

3. Chủng viện là Hội Thánh tham gia

Hội Thánh hiệp hành là Hội Thánh tham gia, nghĩa là tất cả những ai thuộc về Dân Chúa – giáo dân, tu sĩ và giáo sĩ - đều được mời gọi dấn thân vào đời sống và sứ vụ của Hội Thánh. Nền tảng thực sự của việc tham gia này là: mọi người được rửa tội đều bình đẳng với nhau, đều có quyền lợi và bổn phận trong Hội Thánh (x. LG 32).

Trong Hội Thánh hiệp hành, với các thành viên hết sức đa dạng, toàn thể cộng đồng Dân Chúa được kêu gọi cùng nhau cầu nguyện, lắng nghe, phân tích, đối thoại, phân định và góp ý cho việc đưa ra các quyết định mục vụ phù hợp hết sức có thể với ý muốn của Thiên Chúa.

Khi nói về sự tham gia ở Chủng viện, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viết: “Trong Chủng viện, giám mục hiện diện qua thừa tác thừa tác vụ mà vị giám đốc thi hành cùng với các nhà đào tạo khác trong tinh thần đồng trách nhiệm và hiệp thông dưới sự hướng dẫn và vận dụng của vị giám đốc, nhắm đến sự tăng triển mục vụ và tông đồ của các ứng sinh. Các thành phần khác biệt trong cộng đoàn Chủng viện liên kết với nhau nhờ Chúa Thánh Thần bằng một tinh thần huynh đệ duy nhất, hợp tác với nhau, mỗi người tùy theo khả năng của mình, để làm cho mọi người được tăng trưởng trong đức tin và đức ái…” (PDV 60).

Là môi trường đào tạo linh mục, Chủng viện được mời gọi trở thành một cộng đoàn tích cực tham gia vào sứ vụ đào tạo. Mỗi người biết đối thoại, cộng tác, đồng hành, thấu cảm và tin tưởng lẫn nhau, để cùng phân định và quyết định theo sự khôn ngoan của Thánh Thần.

Bởi lẽ, Chúa Thánh Thần chính là nhà đào tạo chính trong tiến trình đào tạo, để biến đổi các ứng sinh nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu Kitô là Đầu và Mục Tử, với cao điểm là sự biến đổi trong bí tích Truyền Chức. Đặc biệt, các chủng sinh được mời gọi cộng tác tích cực và chủ động vào chương trình huấn luyện và tự huấn luyện mình. Cụ thể, hằng nằm, Đại Chủng viện Thánh Phanxicô tạo cơ hội và tổ chức cho các chủng sinh tham gia vào việc tổ chức đời sống, sinh hoạt, lao động, giải trí, dã ngoại, hoạt động mục vụ qua hệ thống tổ chức: Ban đại diện, các ban chuyên môn và các tổ chia sẻ Lời Chúa… Tùy theo khả năng riêng, mỗi chủng sinh đều được mời gọi tham gia và xây dựng đời sống chung của Chủng viện. Đó là hình ảnh của một Hội Thánh thu nhỏ đồng tham gia.

4. Chủng viện là Hội Thánh sứ vụ

Hội Thánh được Chúa thiết lập không phải cho chính mình, nhưng được sai đi để loan báo Tin Mừng. Do đó, nhiệt tâm truyền giáo và thực thi sứ vụ truyền giáo là thuộc bản chất của toàn thể Dân Chúa, một Dân phải không ngừng “đi ra”, bởi vì “niềm vui Tin Mừng đang chiếm đầy đời sống cộng đoàn các môn đệ là niềm vui mang tính truyền giáo.”[5] Sứ mạng của Hội Thánh là làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa giữa toàn thể gia đình nhân loại. Vì thế, loan báo Tin Mừng là sự sống còn của Hội Thánh, đồng thời cũng là thước đo cho một đời sống đức tin sống động của mỗi người và mỗi cộng đoàn đến mức nào. Sứ vụ ấy gắn chặt với những người lữ hành trên dương thế, những người đang tiến bước trong một Hội Thánh hiệp hành.

Áp dụng vào việc đào tạo linh mục ở Chủng viện, Ratio của Bộ Giáo Sĩ kêu gọi: “Ý tưởng căn bản là làm sao các chủng viện có thể đào tạo được những người môn đệ truyền giáo “say mê” đối với Thầy, những mục tử mang “mùi chiên”, những người sống giữa đoàn chiên để phục vụ và mang đến cho đàn chiên lòng thương xót Thiên Chúa.”[6] Người môn đệ truyền giáo là người được Chúa gọi để ở với Người (Mc 3,14), đi theo Người là trở thành người truyền giảng Tin Mừng. Các linh mục hiện hữu và hoạt động để loan báo Tin Mừng cho thế giới và xây dựng Hội Thánh nhân danh Chúa Kitô, trong tư cách Chúa Kitô là Đầu và Mục Tử với ba chức năng: rao giảng, thánh hoá, lãnh đạo cộng đoàn” (x. PDV 15; 2;12; PO 2). Như vậy, cả ba chức năng mục vụ của linh mục đều hướng về mục đích “loan báo Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh.” Và mục đích đào tạo ở Chủng viện là đào tạo “những người loan báo Tin Mừng cách mới mẻ trong tư cách là mục tử” (PDV 2). Truyền giáo cũng là chân trời của toàn bộ công cuộc đào tạo linh mục, để nối kết, linh hoạt và tạo sức sống cho các chiều kích khác. Truyền giáo giúp cho người linh mục đã được đào tạo tốt trên bình diện nhân bản, thiêng liêng, tri thức, mục vụ, sống tốt thừa tác vụ của mình cách viên mãn.[7]

II. CHỦNG VIỆN CÙNG MỘT TẦM NHÌN, MỘT MỤC TIÊU HUẤN LUYỆN

Như đã nói, Chủng viện hiệp hành là cùng nhau tiến bước trên một con đường sứ vụ. Ban huấn luyện và cả người thụ huấn đều phải có chung một tầm nhìn và hướng tới một mục tiêu huấn luyện. Hơn nữa, việc huấn luyện linh mục là một nghệ thuật của các nghệ thuật. Để có kết quả tốt đẹp, cần có sự hiểu biết chuyên môn về huấn luyện, biết phương pháp huấn luyện và có chiến lược huấn luyện. Theo đường hướng huấn luyện hiện nay của Hội Thánh, mỗi Chủng viện cố gắng thực hiện chương trình đào tạo linh mục theo 9 nguyên tắc sau:

1. Huấn luyện mang tính toàn vẹn

Trở thành linh mục là một sự dấn thân toàn bộ con người cho một ơn gọi, một cuộc sống và một sứ vụ cao cả. Đào tạo linh mục là đào tạo các ứng sinh biến đổi và trưởng thành toàn vẹn về các phương diện nhân bản, tu đức, tri thức, mục vụ. Mỗi phương diện đều quan trọng trong suốt hành trình huấn luyện, kể cả khi đã là linh mục. Nên không được xem nhẹ một phương diện nào và tránh nguy cơ quá nhấn mạnh một phương diện, để không rơi vào lối đào tạo “duy tu đức”, “duy tri thức” hay “duy hoạt động”... Đặc biệt ngày nay, cần tránh lối huấn luyện linh mục trở thành “những công chức tôn giáo”, nhưng huấn luyện ứng sinh trở thành “mục tử” của Dân Chúa.

2. Huấn luyện tiệm tiến theo từng giai đoạn

Công cuộc đào tạo linh mục là một tiến trình dài với các giai đoạn trước, trong và sau Chủng viện. Mỗi giai đoạn có những nét đặc trưng riêng. Cần tránh sự lẫn lộn, chồng chéo, hay đốt giai đoạn. Ví dụ, việc huấn luyện giai đoạn ở Tiền Chủng viện sẽ khác với giai đoạn ở Đại Chủng viện. Ratio của Bộ Giáo sĩ (2016) hướng dẫn việc huấn luyện theo từng giai đoạn: Giai đoạn Triết học là giai đoạn đào tạo “người môn đệ Chúa Kitô”, bước theo Người (sequela Christi); Giai đoạn Thần học: đào tạo “nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô” là Tôi Tớ và là Mục Tử; Giai đoạn Tập vụ (hay tổng hợp ơn gọi) là giai đoạn học hỏi mục vụ, thực tập sứ vụ phó tế và linh mục. Vì thế, mỗi năm, mỗi giai đoạn, chương trình đào tạo của Đại Chủng viện Thánh Phanxicô có những mục tiêu, những chủ đề riêng cho việc huấn luyện theo tiến trình này.

3. Huấn luyện trở nên “người của Thiên Chúa”

Huấn luyện là hướng người thụ huấn tới sự siêu việt và tuyệt đối. Đây là năng động kép: Một đàng, Thiên Chúa đến với ta và tự thông ban chính mình cho ta. Đàng khác, mỗi người được phú bẩm khả năng tự siêu việt để hướng về Người. Nói theo ngôn ngữ của Rahner, đó là sự hiện sinh siêu nhiên (supernatural existential). Theo đó, huấn luyện là hướng các ứng sinh tới Thiên Chúa. Huấn luyện là giúp ứng sinh trở thành “người của Thiên Chúa.” Ratio của HĐGMVN nói đến việc đào tạo ứng sinh trở thành “con người của mầu nhiệm.” Việc nghiên cứu Triết – Thần dẫn người thụ huấn tới Thiên Chúa để sống chiều kích dọc của mình một cách ý nghĩa nhất. Nghĩa là người có kinh nghiệm sống động và hiểu biết đầy đủ về Thiên Chúa, biết yêu mến Người trên hết mọi sự và hiến thân cho Người.

4. Huấn luyện trở nên “người của Hội Thánh”

Huấn luyện cũng là giúp người thụ huấn biết yêu mến Hội Thánh và phục vụ người khác. Ơn gọi linh mục ở trong Hội Thánh và cho người khác, chứ không phải cho mình. Nên việc huấn luyện đích thực là giúp ứng sinh biết yêu mến Hội Thánh và có khả năng phục vụ tha nhân, trở thành “người của Hội Thánh.” Nghĩa là trở thành một linh mục tử tế, gần gũi, thân thiện, biết tôn trọng kẻ khác, biết đối thoại, biết cộng tác, biết làm việc nhóm và có tâm hồn Tông Đồ... cũng như nắm vững giáo huấn của Hội Thánh để thi hành tốt sứ vụ mình theo cảm thức và tinh thần Hội Thánh (Sentire cum Ecclesia).

5. Huấn luyện là hướng tới giá trị

Huấn luyện là hướng người thụ huấn tới giá trị hơn là cấm đoán. Mục tiêu huấn luyện là giúp ứng sinh biến đổi. Nếu không biến đổi là không có kết quả trong đào tạo. Mà con người chỉ thực sự biến đổi nhờ nội tâm hoá và sống các giá trị. Đó là lý do tại sao Đức Giáo hoàng Phanxicô khuyên rằng: “Đừng huấn luyện theo kiểu cảnh sát!” Các chủng sinh chỉ có thể trở nên những mục tử khi sống các giá trị Tin Mừng. Nếu không sống các giá trị sẽ không có giá trị bản thân.

6. Huấn luyện bao gồm mọi phạm vi

Huấn luyện bao gồm mọi phạm vi, không chỉ ở phạm vi chính thức (formal) mà cả phạm vi không chính thức (informal). Nghĩa là không chỉ huấn luyện trong môi trường nghiêm túc, như ở lớp học, nhà thờ, nhưng ở mọi nơi, mọi lúc, mọi lĩnh vực, như thể thao, âm nhạc, hoạt động văn hóa, lao động chân tay, nơi sân cỏ, tại bàn ăn, ngoài đường, khi giao tiếp, đi dã ngoại, khi nghỉ hè… tất cả đều được nhìn như là phương tiện và cơ hội để đào tạo.

7. Huấn luyện theo nguyên tắc bao gồm

Huấn luyện phải theo nguyên tắc bao gồm (inclusive) và loại bỏ não trạng loại trừ (exclusive). Đây là lối tiếp cận huấn luyện một con người bao gồm cả quá khứ, hiện tại và tương lai; bao gồm những khả năng, tiềm năng và cả những yếu đuối, giới hạn cũng như những tổn thương của người thụ huấn. Nguyên tắc này có thể áp dụng cho nhiều lãnh vực như nghiên cứu, mục vụ, tổ chức và lượng giá... Nó mở ra cho ta nhiều cơ hội mới. Còn lối tiếp cận loại trừ thì ngày nay đã lỗi thời và không nên áp dụng trong môi trường đào tạo.

8. Huấn luyện là can đảm đi xa hơn

Huấn luyện là giúp người thụ huấn dám can đảm đi từ vùng an toàn tới vùng rủi ro, cần mạo hiểm để đi sâu hơn, đi xa hơn tới vùng mới lạ trong con người và cả chân trời tri thức. Nghĩa là không chỉ dừng lại ở khu vực an toàn, nhưng phải thám hiểm vào vùng rủi ro. Đức Giáo hoàng Phanxicô có trực giác rất hay: “Người ta không thể giáo dục ở vùng an toàn. Không! Điều này ngăn chặn nhân cách phát triển. Cần phải đi vào vùng rủi ro. Hãy giữ sự quân bình giữa các bước đó thật tốt.”[8] Hầu hết người ta chỉ thích dừng lại ở vùng an toàn, thoả mãn với những gì đã có và bề ngoài, nên ít biến đổi và tiến bộ thực sự. Huấn luyện là dám mạo hiểm đặt chân đến những vùng ẩn khuất, tới tận tiềm thức, nơi chứa đựng những bất nhất và những vấn đề ‘dấu mặt’ để được uốn nắn, biến đổi từ bên trong cốt tuỷ.

9. Cuối cùng, lối tiếp cận, thái độ và tinh thần huấn luyện

Bối cảnh thế giới hôm nay đòi hỏi những người môn đệ của Đức Giêsu biết đa diện trong cách nhìn, gia tăng đối thoại và mềm dẻo trong cách hành xử. Các ứng sinh linh mục phải được đào tạo toàn vẹn về mọi lĩnh vực liên quan đến đời sống và sứ vụ linh mục, nên lối tiếp cận đào tạo phải mang tính liên ngành (interdisciplinary) và đa diện trong cách nhìn (plural approach), thì mới phù hợp với hoàn cảnh hiện nay. Các chủng sinh được mời gọi theo sát chương trình đào tạo, học tốt tất cả các môn, không coi nhẹ một phương diện hay một môn học nào.

Ban Đào tạo mời gọi các chủng sinh luôn biết vượt thắng tâm thức đào tạo cho qua chuyện, đối phó, hay “nín thở qua sông”, nhưng luyện tập ý chí không ngừng học hỏi, với tư duy logic, độc đáo và sáng tạo, phát huy tối đa tinh thần tự đào tạo, biết quản trị thời gian, sử dụng nhiều hơn thư viện, tạo nên sự mới mẻ và độc đáo cho từng công việc của mình. Trong thời đại hôm nay, chúng ta đừng để mình bị lạc hậu về tư duy và tầm nhìn! Do đó, các chủng sinh mặc lấy nếp sống thinh lặng, khiêm tốn, lắng nghe và suy tư, tận dụng tốt nhất điều kiện Chúa ban ở Chủng viện để thủ đắc cho mình hành trang đủ đầy cho sứ vụ mai ngày.

KẾT LUẬN

Trước khi kết thúc, thiết tưởng cần nhắc lại lời quả quyết đầy xác tín của Công Đồng Vaticanô II trong Sắc lệnh Optatam Totius:

“Việc đào tạo linh mục là vô cùng quan trọng… Vì tính cách duy nhất của chức linh mục Công Giáo, nên việc đào tạo linh mục là cần thiết cho tất cả các linh mục dòng cũng như triều, thuộc bất cứ lễ chế nào” (OT 1).

Chính vì thế, công cuộc đào tạo linh mục là mối quan tâm hàng đầu của toàn thể Hội Thánh. Vì tương lai của Hội Thánh tuỳ thuộc rất nhiều vào công cuộc đào tạo linh mục nơi các Chủng viện. Hơn nữa, sứ vụ đào tạo linh mục là sứ vụ chung của toàn thể Dân Chúa. Vì thế, kính mong mọi người đồng hành, cộng tác và cùng nhau xây dựng Chủng viện trở nên một Chủng viện hiệp hành: hiệp thông, tham gia và sứ vụ. Tất cả tâm nguyện là thế đó!

Đọc thêm các bài trong loạt bài "Đồng hành ơn gọi linh mục: sứ vụ và nghệ thuật” của tác giả Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Hương:

 



[2] X. Uỷ Ban Thần Học Quốc Tế (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương dịch), Tính Hiệp Hành Trong Đời Sống và Sứ Vụ của Hội Thánh, Nxb. Đồng Nai, 10-11.

[4] X. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Pastores Dabo Vobis, số 60, 131.

[5] Đức Giáo Hoàng Phanxicô, Niềm Vui Tin Mừng, số 21, AAS 105 (2013), 1028.

[6] Bộ Giáo Sĩ, Đào Tạo Linh Mục – Hồng Ân Ơn Gọi Linh Mục, Nxb. Tôn Giáo, 2017, 10-11.

[7]X. Bộ Giáo Sĩ, Đào Tạo Linh Mục – Hồng Ân Ơn Gọi Linh Mục, Nxb. Tôn Giáo, 2017, 81-82.

[8] ĐGH. Phanxicô, Discorso agli studenti delle scuole Gesuiti in Italia e Albania, 7 tháng 6 năm 2013.