WHĐ (18.07.20230) - Hôm 20.06.2023, Tổng Thư ký của Thượng Hội đồng Giám mục đã công bố Tài liệu Làm việc (Instrumentum Laboris) như là cơ sở hướng dẫn các cuộc thảo luận trong Khoá họp thứ nhất của Đại hội Thượng Hội đồng sẽ diễn ra vào tháng 10.2023. Sau đây là toàn văn Tài liệu theo bản dịch Việt ngữ của Ban Thư ký Hiệp Hành Hội đồng Giám mục Việt Nam.
* * *
ĐẠI HỘI THƯỜNG LỆ LẦN THỨ XVI
CỦA THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC
HƯỚNG TỚI MỘT GIÁO HỘI HIỆP HÀNH:
HIỆP THÔNG, THAM GIA VÀ SỨ VỤ
TÀI LIỆU LÀM
VIỆC
(INSTRUMENTUM
LABORIS)
Cho Khoá họp Thứ nhất
(Tháng Mười, 2023)
Chữ
viết tắt
AA Công đồng Vaticanô II, Sắc
lệnh Apostolicam actuositatem (18.11.1965)
AG Công đồng Vaticanô II, Sắc
lệnh Ad gentes (07.12. 1965)
CA Thánh Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus annus (01.05.1991)
CL Thánh Gioan Phaolô II, Tông huấn hậu Thượng Hội đồng Christifideles laici (30.12.1988)
CV Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông huấn hậu Thượng Hội đồng Christus vivit (25.03.2019)
PD Tổng Thư ký của Thượng Hội đồng, Hướng tới một Giáo hội hiệp hành: Hiệp thông, Tham gia, Sứ vụ. Tài liệu Chuẩn bị (2021)
DCS Tổng Thư ký của Thượng Hội đồng, Hướng tới một Giáo hội hiệp hành: Hiệp
thông, Tham gia, Sứ vụ. “Hãy nới rộng lều ngươi đang ở” (Is 54,2). Tài liệu Làm việc cho Giai đoạn Châu lục (2022)
DV Công đồng Vaticanô II, Hiến
chế Tín lý Dei Verbum (18.11.1965)
EC Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông hiến Episcopalis communio (15.09.2018)
EG Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông huấn Evangelii gaudium (24.11.2013)
FT Đức Thánh Cha Phanxicô, Thông điệp Fratelli tutti (03.10.2020)
GS Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et spes (07.12.1965)
IL Tài liệu Làm việc (Instrumentum
Laboris)
LG Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Tín lý Lumen gentium (21.11.1964)
PE Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông hiến Praedicate Evangelium (19.03.2022)
SC Công đồng Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium (04.12.1963)
UR Công đồng Vaticanô II, Sắc
lệnh Unitatis redintegratio (21.11.1964)
TÀI LIỆU
LÀM VIỆC
Lời nói
đầu
“Xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn
và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau, như Ðức Kitô Giêsu
đòi hỏi. Nhờ đó, anh em sẽ có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa, là
Thân Phụ Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm 15, 5- 6).
Cuộc
hành trình cho đến nay
1. Dân Chúa đã và đang tiến bước kể từ khi Đức Thánh Cha Phanxicô triệu tập
toàn thể Giáo hội trong Thượng hội đồng vào tháng 10. 2021. Khởi đi từ cấp độ
cơ bản và quan trọng nhất, các Giáo hội địa phương trên toàn thế giới đã khởi
xướng việc thỉnh ý Dân Chúa, bắt đầu với câu hỏi cơ bản được trình bày trong số
2 của Tài liệu Chuẩn bị: “Hiện nay việc ‘đồng hành
cùng nhau’ này đang diễn ra thế nào trên các bình diện khác nhau (từ bình diện
địa phương đến bình diện hoàn vũ), cho phép Giáo hội loan báo Tin Mừng đúng
theo sứ vụ Giáo hội được ủy thác; và Chúa Thánh Thần mời gọi chúng ta thực hiện
những bước nào để thăng tiến như một Giáo hội hiệp hành?”. Các kết quả của cuộc tham vấn được thu thập ở cấp
giáo phận, sau đó được tóm tắt và gửi đến các Thượng Hội đồng của các Giáo hội
Công giáo Đông phương và các Hội đồng Giám mục. Đến lượt mình, mỗi tổ chức này
lại soạn thảo một bản tổng hợp được gởi tới Văn phòng Tổng Thư ký của Thượng Hội
đồng.
2. Để phục vụ một giai đoạn mới trong tiến trình Thượng Hội đồng đang diễn
ra, Tài liệu Làm việc cho Giai đoạn Châu lục đã được soạn thảo từ việc đọc và
phân tích các tài liệu thu thập được. Tài liệu Làm việc cho Giai đoạn Châu lục đã được gửi lại cho các
Giáo hội địa phương trên khắp thế giới, mời họ tham gia học hỏi và sau đó gặp gỡ
và tham gia đối thoại tại bảy Đại hội Châu lục. Trong thời gian này, công việc
của Thượng Hội đồng kỹ thuật số cũng được tiếp tục. Mục đích là tập trung vào
những hiểu biết và những căng thẳng cộng hưởng mạnh mẽ nhất với trải nghiệm của
Giáo hội ở mỗi châu lục và để xác định, từ quan điểm của mỗi châu lục, những ưu
tiên cần được đề cập trong khoá họp thứ nhất của Đại hội Thượng Hội đồng (tháng
10. 2023).
3. Tài liệu Làm việc này được soạn thảo dựa trên cơ sở của tất cả các tài liệu thu thập
được trong giai đoạn lắng nghe, và nhất là các Tài liệu cuối cùng của các Đại hội
Châu lục. Việc công bố Tài liệu Làm việc khép lại giai đoạn thứ nhất của Thượng Hội
đồng “Hướng tới một Giáo hội hiệp
hành: Hiệp thông, Tham gia và Sứ vụ” và mở ra giai đoạn thứ hai, bao gồm
hai khoá họp[1] (tháng
10. 2023 và tháng 10. 2024), trong đó Đại Hội Thường lệ lần thứ XVI của Thượng
Hội đồng Giám mục sẽ diễn ra. Mục đích của giai đoạn thứ hai là tiếp tục làm
sinh động tiến trình hiệp hành trong đời sống thường ngày của Giáo hội, xác định
những lộ trình nào mà Thánh Thần mời gọi chúng ta bước đi với quyết tâm cao hơn
với tư cách là một Dân của Chúa. Hoa trái mà chúng ta cầu xin tại Đại hội sắp tới
là Thánh Thần – Đấng thúc đẩy việc bước đi cùng nhau của Giáo hội với tư cách
là Dân Chúa trung thành với sứ vụ mà Chúa đã ủy thác cho Giáo hội. Thật vậy, mục
đích của tiến trình hiệp hành “không phải
là tạo ra các tài liệu mà là mở ra những chân trời hy vọng cho việc chu toàn sứ
vụ của Giáo hội” (DCS, 6).
4. Cuộc hành trình cho đến nay, đặc biệt là giai đoạn châu lục, đã
giúp chúng ta có thể xác định và chia sẻ những hoàn cảnh cụ thể mà Giáo hội đã
trải qua tại các khu vực khác nhau trên thế giới. Những hoàn cảnh này bao gồm
thực tế từ quá nhiều cuộc chiến tranh làm vấy máu thế giới của chúng ta dẫn đến
lời kêu gọi cam kết đổi mới để xây dựng một nền hòa bình công bằng, mối đe dọa
do biến đổi khí hậu gây ra cho thấy ưu tiên hàng đầu là chăm sóc ngôi nhà
chung, tiếng kêu gọi phản đối một hệ thống kinh tế tạo ra sự bóc lột, bất bình
đẳng và một nền văn hóa vứt bỏ, và mong muốn chống lại áp lực đồng nhất hóa của
chủ nghĩa thực dân văn hóa đang tiêu diệt các nhóm thiểu số. Những hoàn cảnh bị
bách hại đến mức tử đạo và việc di cư dần dần làm rỗng cộng đoàn đang đe dọa
chính sự sống còn của họ là những điều hết sức đau buồn. Các Giáo hội địa
phương đã nói lên mối quan tâm của họ cần được trang bị để giải quyết những thực
tế xã hội cấp bách, từ sự đa nguyên văn hóa đang gia tăng trên toàn bộ hành
tinh, đến kinh nghiệm của các cộng đồng Kitô hữu đại diện cho các nhóm thiểu số
rải rác trong quốc gia nơi họ sinh sống, đến kinh nghiệm chấp nhận một sự tục
hóa ngày càng tiến xa hơn, và đôi khi hung hăng, dường như coi kinh nghiệm tôn
giáo là không thích hợp, nhưng ở đó vẫn còn sự khao khát Tin Mừng của Phúc âm.
Tại nhiều vùng, các Giáo hội bị ảnh hưởng sâu sắc bởi cuộc khủng hoảng do nhiều
hình thức lạm dụng gây ra, bao gồm lạm dụng tình dục, quyền lực, lương tâm, và
kinh tế. Đây là những vết thương hở, hậu quả vẫn chưa được giải quyết triệt để.
Cùng với niềm sám hối đối với các nạn nhân và những người sống sót vì những đau
khổ mà mình đã gây ra, Giáo hội phải cam kết mạnh mẽ trong việc hoán cải và đổi
mới nhằm ngăn chặn những tình huống tương tự tái diễn trong tương lai.
5. Chính trong bối cảnh này, tuy đa dạng nhưng có những đặc điểm chung
mang tính toàn cầu, mà hành trình Thượng Hội đồng diễn ra. Đại hội Thượng Hội đồng
Giám mục vào tháng 10. 2023 cũng sẽ phải lắng nghe cách sâu sắc những hoàn cảnh
mà Giáo hội đang sống và thi hành sứ vụ của mình. Cùng nhau bước đi có nghĩa là
gì, câu hỏi ấy càng mang tính khẩn thiết hơn khi được đặt ra trong một bối cảnh
cụ thể với những con người và hoàn cảnh thực trong tâm trí. Điều cần được quan
tâm là khả năng loan báo Tin Mừng bằng việc bước đi cùng nhau với những người
nam nữ trong thời đại chúng ta, bất kể họ ở đâu, cũng như việc thực hành tính
công giáo xuất phát từ việc bước đi cùng nhau với các Giáo hội đang sống trong
những điều kiện đau khổ đặc biệt (x. LG 23).
6. Đến với Đại hội Thượng Hội đồng, chúng ta mang theo những thành quả đã
thu thập được trong giai đoạn lắng nghe. Trước hết, chúng ta cảm nghiệm niềm
vui được thể hiện trong cuộc gặp gỡ chân thành và trân trọng giữa anh chị em
trong đức tin: gặp gỡ nhau là gặp gỡ Chúa đang ở giữa chúng ta! Nhờ đó,
chúng ta đã có thể chạm đến tính công giáo của Giáo hội, một Giáo hội mà trong
sự đa dạng về tuổi tác, giới tính và điều kiện xã hội, thể hiện sự phong phú
phi thường về các đặc sủng và ơn gọi trong Giáo hội, và là người canh giữ một
kho tàng đa dạng về ngôn ngữ, văn hóa, cách diễn đạt phụng vụ và truyền thống
thần học. Trên thực tế, sự đa dạng phong phú này là quà tặng của mỗi Giáo hội địa
phương cống hiến cho tất cả các Giáo hội khác (x. LG 13), và động lực hiệp hành
là một phương thế để trân trọng và tăng cường sự đa dạng phong phú này mà không
san bằng nó thành sự đồng nhất. Tương tự như vậy, chúng ta khám phá ra rằng có
những câu hỏi mọi người đều chia sẻ, kể cả khi tính hiệp hành được sống và được
hiểu cách khác nhau ở những nơi khác nhau trên thế giới, trên cơ sở di sản
chung của Truyền thống tông đồ. Một phần thách thức của tính hiệp hành là phân
định mức độ thích hợp nhất để giải quyết từng vấn đề. Một số căng thẳng cũng được
mọi người cùng chia sẻ. Chúng ta
không cần phải sợ hãi chúng, cũng không tìm cách giải quyết chúng bằng mọi giá,
nhưng phải tham gia vào việc phân định hiệp hành đang diễn ra. Chỉ bằng cách
này, những căng thẳng mới có thể trở thành nguồn năng lượng và không rơi vào
tình trạng phân cực hủy diệt.
7. Giai đoạn thứ nhất đã đổi mới nhận thức của chúng ta rằng ơn gọi và
căn tính của chúng ta là ngày càng trở thành một Giáo hội hiệp hành hơn:
cùng nhau bước đi, trở nên hiệp hành, là cách để thực sự trở thành môn đệ và bạn
hữu của Thầy và Chúa, Đấng đã nói về chính mình: “Thầy là đường” (Ga 14, 6). Ngày nay, điều này cũng là một ước muốn
sâu xa: sau khi trải nghiệm việc cùng nhau bước đi như một hồng ân, chúng ta
muốn tiếp tục như thế, biết rằng hành trình này sẽ được hoàn thành trọn vẹn vào
ngày sau hết, khi mà, nhờ ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta là một phần của
đoàn người được mô tả trong sách Khải Huyền như sau: “Kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi
chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình
mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô: "Chính
Thiên Chúa chúng ta, Ðấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng
ta’” (Kh 7, 9-10). Bản văn này cho chúng ta hình ảnh về tính hiệp hành đã
được hoàn thành một cách vĩnh viễn, trong đó sự hiệp thông hoàn hảo ngự trị
trên tất cả những khác biệt gồm chứa trong đó, những khác biệt được duy trì và
hiệp nhất trong một sứ mạng đã được hoàn thành: tham gia vào phụng vụ ngợi khen
mà mọi thụ tạo, nhờ Đức Kitô, dâng lên Chúa Cha trong sự hiệp nhất với Chúa
Thánh Thần.
8. Chúng ta phó dâng công việc của Đại hội và việc tiếp tục dấn thân của
chúng ta vì một Giáo hội hiệp hành cho sự chuyển cầu của các anh chị em, những
người đã sống trọn vẹn mầu nhiệm hiệp thông các thánh (x. LG 50), và đặc biệt
là của đấng đứng hàng đầu trong các thánh (x. LG 63) là Đức Maria – Mẹ Giáo hội.
Chúng con cầu xin cho Đại hội là thời điểm tuôn đổ Thánh Thần, nhưng hơn nữa, ân
sủng đó sẽ đồng hành với chúng ta khi đến lúc đưa hoa trái của Thượng Hội đồng
vào hành động trong cuộc sống hàng ngày của các cộng đoàn Kitô hữu trên khắp thế
giới.
Một công
cụ làm việc cho giai đoạn thứ hai của hành trình hiệp hành
9. Những đặc nét đánh dấu Thượng Hội đồng Giám mục 2021-2024 không thể
không được phản ánh trong ý nghĩa và động lực của Đại hội Thượng Hội đồng và do
đó, trong cấu trúc của Tài liệu Làm việc phục vụ cho Đại hội Thượng Hội đồng. Đặc
biệt, giai đoạn chuẩn bị lâu dài đã dẫn đến việc phát hành nhiều tài liệu: Tài liệu Chuẩn bị, báo cáo của các Giáo hội
địa phương, Tài liệu Làm việc cho Giai đoạn Châu lục và Tài liệu cuối cùng của
các Đại hội châu lục. Bằng cách này, một chu trình truyền thông liên lạc đã được
thiết lập giữa các Giáo hội địa phương với nhau và giữa các Giáo hội địa phương
với Văn phòng Tổng Thư ký của Thượng Hội đồng. Tài liệu Làm việc hiện tại không
hủy bỏ các tài liệu trước cũng không hấp thụ được hết những phong phú của các
tài liệu ấy, nhưng bắt nguồn từ chúng và liên tục tham khảo lại chúng. Để chuẩn
bị cho Đại hội, các Thành viên của Thượng Hội đồng được mời ghi nhớ các tài
liệu trước đó, đặc biệt là Tài liệu Làm việc cho Giai đoạn Châu lục và các Tài
liệu Cuối cùng của các Đại hội Châu lục, cũng như bản báo cáo của Thượng Hội đồng
kỹ thuật số và sử dụng chúng như những công cụ cho việc phân định riêng của
mình. Đặc biệt, các Văn kiện Cuối cùng của các Đại hội Châu lục rất có giá
trị trong việc duy trì tính cụ thể của các bối cảnh khác nhau và những thách đố
mà mỗi bối cảnh đặt ra. Công việc chung của Đại hội Thượng Hội đồng không thể bỏ
qua những nguồn này cho việc phân định. Nhiều nguồn tài liệu được thu thập
trong phần đặc biệt của trang web Thượng Hội đồng 2021-2024, www.synod.va, đặc biệt là Tông hiến Episcopalis communio (Tính hiệp
thông giữa giám mục) và hai tài liệu của Ủy ban Thần học Quốc tế, Tính hiệp hành trong Đời sống và Sứ vụ của
Giáo hội (Synodality in the Life and Mission of the Church, 2018) và Cảm thức đức tin trong Đời sống Giáo hội
(The sensus fidei in the Life of the Church, 2014) cũng có thể hữu ích.
10. Với nguồn tài liệu phong phú đã có sẵn, Tài liệu Làm việc hướng tới mục
tiêu trở thành một công cụ hỗ trợ thiết thực cho việc tiến hành Đại hội Thượng
Hội đồng vào tháng 10. 2023, và do đó, là một công cụ để chuẩn bị cho việc chuẩn
bị Đại hội. Những gì đã mô tả về Tài liệu Làm việc cho Giai đoạn Châu lục càng
đúng hơn đối với Tài liệu Làm việc: “không
phải là một tài liệu của Huấn quyền Giáo hội, cũng không phải là bản tường
trình một cuộc khảo sát xã hội học; nó không nhằm trình bày các chỉ dẫn, các mục
tiêu, cũng không xây dựng trọn vẹn một viễn tượng thần học” (DCS, số 8).
Đây là điều không thể khác được, vì Tài liệu Làm việc là một phần của tiến
trình chưa hoàn tất. Tuy nhiên, Tài liệu Làm việc tiến một bước xa hơn Tài liệu
Làm việc cho Giai đoạn Châu lục, nó rút ra từ những ý tưởng được thu thập được
trong giai đoạn thứ nhất, và đặc biệt là từ công việc của các Đại hội Châu lục,
nêu rõ một số ưu tiên nảy sinh từ việc lắng nghe Dân Chúa, nhưng tránh
trình bày chúng như những lời khẳng định hoặc lập trường. Thay vào đó, Tài liệu
Làm việc diễn đạt những ưu tiên này như những câu hỏi gửi đến Đại hội Thượng
Hội đồng. Đại hội có nhiệm vụ thực hiện một việc phân định để xác định một
số bước cụ thể giúp cho sự phát triển tiếp tục của một Giáo hội hiệp hành, những
bước mà sau đó Đại hội sẽ đệ trình lên Đức Thánh Cha. Chỉ khi đó, tiến trình lắng
nghe cụ thể mới kết thúc, trong đó “mỗi người đều có điều gì đó để học hỏi. Các
tín hữu, Giám mục đoàn, Giám mục Rôma: người này lắng nghe người kia; và tất cả
cùng lắng nghe Chúa Thánh Thần, ‘Thần Khí
sự thật’ (Ga 14, 17), để biết Ngài ‘đang
nói gì với các Giáo Hội’ (Kh 2, 7)”[2]. Trong ánh sáng này, mục đích
của Tài liệu Làm việc không phải là một bản dự thảo đầu tiên của Văn kiện Cuối
cùng của Thượng Hội đồng, chỉ để được điều chỉnh hoặc bổ sung. Thay vào đó, Tài
liệu Làm việc cung cấp một sự hiểu biết ban đầu về chiều kích hiệp hành của
Giáo hội, để trên cơ sở này có thể thực hiện sự phân định sâu sắc hơn. Các
Thành viên của Đại hội Thượng Hội đồng là những người tiếp nhận chính yếu Tài
liệu Làm việc, vốn cũng được công khai không chỉ vì lý do minh bạch mà còn như
một đóng góp vào việc thực hiện các sáng kiến của Giáo hội. Đặc biệt, Tài liệu
Làm việc có thể khuyến khích sự tham gia vào các động lực hiệp hành ở cấp địa
phương và khu vực, trong khi chờ đợi kết quả của Đại hội tháng 10. Đại hội này
sẽ cung cấp thêm tài liệu mà các Giáo hội địa phương được mời gọi để cầu nguyện,
suy tư, hành động và đóng góp của riêng mình.
11. Các câu hỏi do Tài liệu Làm việc đặt ra diễn tả sự phong phú của tiến
trình phát sinh chúng: những câu hỏi mang dấu ấn của những cái tên và khuôn mặt
cụ thể của những người tham gia, và chúng làm chứng cho trải nghiệm đức tin của
Dân Chúa, và do đó biểu lộ thực tại của một trải nghiệm siêu việt. Từ quan điểm
này, các câu hỏi chỉ ra một chân trời và mời gọi chúng ta tự tin tiến bước, để
đào sâu việc thực hành chiều kích hiệp hành của Giáo hội. Giai đoạn thứ nhất
giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng của việc coi Giáo hội địa phương như một
điểm tham chiếu ưu tiên[3],
như một địa điểm thần học trong đó những người đã nhận phép Rửa trải nghiệm một
cách thực tế “việc cùng nhau bước đi”. Tuy nhiên, điều
này không dẫn đến việc rút lui vào chính mình. Không một Giáo hội địa phương
nào có thể sống bên ngoài các mối tương quan liên kết mình với tất cả các Giáo
hội khác, kể cả mối tương quan đặc biệt với Giáo hội Rôma, vốn được ủy thác phục
vụ sự hiệp nhất nhờ thừa tác vụ của vị Mục tử của mình, người đã triệu tập toàn
thể Giáo hội trong Thượng Hội đồng.
12. Việc tập trung này vào các Giáo hội địa phương đòi hỏi phải tính đến
sự đa dạng và phong phú của các nền văn hóa, ngôn ngữ và phương thức diễn đạt của
họ. Cụ thể, cùng một từ - chẳng hạn như nghĩ về quyền bính và lãnh đạo - có thể
có những âm vang và ý nghĩa rất khác nhau tùy theo các vùng ngôn ngữ và văn hóa
khác nhau, đặc biệt là khi trong một số ngữ cảnh một thuật ngữ cần được liên kết
với đúng các cách tiếp cận lý thuyết hoặc ý thức hệ. Tài liệu Làm việc cố gắng
tránh ngôn ngữ gây chia rẽ với hy vọng tăng cường sự hiểu biết tốt hơn giữa các
thành viên của Đại hội Thượng Hội đồng đến từ các khu vực hoặc truyền thống
khác nhau. Tầm nhìn của Công đồng Vatican II là điểm quy chiếu chung, bắt đầu từ
tính công giáo của Dân Chúa, nhờ đó “mỗi
phần tử thực thi những đóng góp của riêng mình cho các phần tử khác
và cho toàn thể Giáo Hội, để tất cả và từng người được tăng triển
nhờ cùng chia sẻ mọi sự và cùng hiệp lực đạt đến tình trạng viên
mãn trong tình hợp nhất [...]trong khi vẫn bảo toàn quyền tối
thượng của ngai tòa Phêrô đứng đầu toàn thể cộng đoàn đức ái, bảo
toàn các dị biệt hợp pháp, đồng thời lưu tâm giữ gìn sao cho các dị
biệt ấy không làm phương hại, trái lại còn phục vụ cho sự hợp nhất”
(LG 13). Tính công giáo này được thể hiện trong mối tương quan nội tại hỗ tương
giữa Giáo hội hoàn vũ và các Giáo hội địa phương, trong đó và từ đó “tạo thành một Giáo hội Công giáo duy nhất”
(LG 23). Tiến trình hiệp hành giai đoạn thứ nhất diễn ra tại các Giáo hội địa
phương, giờ đây bước vào giai đoạn thứ hai trong Giáo hội hoàn vũ, với việc tổ
chức hai khoá họp của Đại hội Thường lệ lần thứ XVI của Thượng Hội đồng Giám mục.
Cấu trúc
của bản văn
13. Tài liệu Làm việc được chia thành 2 phần, tương ứng với 2 nhiệm vụ được
giao cho các Đại hội Châu lục (và do đó, phù hợp với nội dung của các Tài liệu
Cuối cùng có liên quan): trước hết, các Đại hội Châu lục được mời thực hiện việc
đọc lại lộ trình đã thực hiện trong giai đoạn thứ nhất, nhằm xác định những gì
Giáo hội ở mỗi châu lục đã học được từ kinh nghiệm sống chiều kích hiệp hành để
phục vụ cho sứ vụ; thứ đến, các Đại hội Châu lục được mời suy tư về Tài liệu
Làm việc cho Giai đoạn Châu lục và phân định các cộng hưởng được thực hiện
trong các Giáo hội địa phương của châu lục, hầu xác định các ưu tiên cần tiếp tục
phân định trong Đại hội Thượng Hội đồng.
14. Phần A của Tài liệu Làm việc, có tựa đề “Hướng tới một Giáo hội hiệp hành”, cố gắng thu thập những thành quả
của lộ trình đã đi cho đến nay. Trước hết, phần này liệt kê một loạt các đặc
tính cơ bản hoặc các đặc điểm nổi bật của một Giáo hội hiệp hành. Sau đó nêu rõ
nhận thức rằng một Giáo hội hiệp hành cũng được đặc trưng bởi một cách thức tiến
hành cụ thể. Theo kết quả của giai đoạn đầu, cuộc đối thoại trong Thánh Thần
là cách thức tiến hành này. Đại hội sẽ được mời để trả lời cho kết quả của việc
đọc lại này với mục đích xác định và hoàn thiện chúng. Phần B của Tài liệu
Làm việc, với tựa đề “Hiệp thông, sứ vụ,
tham gia”[4], trình
bày rõ ràng, dưới hình thức các câu hỏi về ba ưu tiên nổi bật nhất từ công việc
của tất cả các châu lục, do đó đệ trình chúng cho Đại hội để phân định. Để
hỗ trợ tiến trình làm việc của Đại hội Thượng Hội đồng, đặc biệt là công việc
nhóm (Circuli Minores), 5 phiếu làm
việc được đề xuất cho mỗi ưu tiên trong số ba ưu tiên này, cho phép chúng được
tiếp cận từ những quan điểm khác nhau.
15. Ba ưu tiên của phần B, được phát triển thông qua các phiếu làm việc
tương ứng, bao gồm những đề tài rộng lớn có tính liên quan cao. Nhiều đề tài có
thể là chủ đề của toàn bộ Thượng Hội đồng, và một số đã là chủ đề rồi. Trong một
số trường hợp, những can thiệp của Huấn Quyền cũng rất nhiều và được xác định
rõ ràng. Trong quá trình làm việc của Đại hội, những vấn đề ấy không thể được xử
lý một cách thấu đáo, và nhất là cũng không nên coi những vấn đề ấy là độc lập
với nhau. Thay vào đó, chúng sẽ phải được tiếp cận bắt đầu từ mối tương quan của
chúng với chủ đề thực sự của (đại hội) tức là một Giáo hội hiệp hành. Ví dụ, những
đề cập về tính cấp bách của việc quan tâm thích đáng đến gia đình và giới trẻ
không nhằm mục đích khuyến khích một cách xử lý mới về mục vụ gia đình hoặc mục
vụ giới trẻ. Mục đích của những đề cập ấy là giúp tập trung vào việc thực hiện
các kết luận của hai Đại hội Thường lệ trước đó của Thượng Hội đồng Giám mục
(năm 2015 và năm 2018) và của các Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng từ hai Thượng Hội
đồng này là Amoris laetitia và Christus vivit, việc thực hiện ấy đã thể
hiện ra sao cơ hội cùng nhau bước đi với tư cách là một Giáo hội có khả năng
chào đón và đồng hành cùng các gia đình và những người trẻ, chấp nhận những
thay đổi cần thiết về quy tắc, cấu trúc và thủ tục. Điều tương tự cũng áp dụng
cho nhiều vấn đề khác xuất hiện trong các chủ đề thảo luận.
16. Đại hội và các Thành viên Đại hội cam kết duy trì trạng thái cân bằng
năng động giữa việc duy trì một cái nhìn tổng thể, đặc trưng cho công việc
được nêu trong phần A, và việc xác định các bước cần phải thực hiện một
cách cụ thể và kịp thời, như là trọng tâm của phần B. Điều này tùy thuộc vào
thành quả của việc phân định của Đại hội Thượng Hội đồng mà nhiệm vụ của các
Thành viên Đại hội là mở ra cho toàn thể Giáo hội để đón nhận tiếng nói của
Chúa Thánh Thần. Nguồn cảm hứng cho công việc của Đại hội có thể đến từ việc
suy tư về cách trình bày rõ ràng của Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, vốn “gồm hai
phần”, khác nhau về đặc điểm và trọng tâm, nhưng trở thành “một tổng thể thống
nhất” (GS, chú thích 1)
A. Hướng
tới một Giáo hội hiệp hành. Một trải nghiệm toàn diện
“Có nhiều đặc sủng khác
nhau, nhưng chỉ có một Thánh Thần. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ
có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm
mọi sự trong mọi người. Thánh Thần tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích
chung” (1Cr 12, 4-7).
17. Một đặc điểm chung hiệp nhất các câu chuyện về các chặng của giai đoạn
thứ nhất: đó là sự ngạc nhiên của những người tham gia, họ thấy mình đã có thể
chia sẻ hành trình hiệp hành theo cách vượt quá mong đợi của họ. Đối với những
người tham gia, tiến trình hiệp hành mang đến cơ hội gặp gỡ trong đức tin tạo
nên mối liên kết với Chúa, tình huynh đệ giữa mọi người và tình yêu đối với
Giáo hội, không chỉ ở cấp độ cá nhân, mà còn thu hút và tiếp thêm sinh lực
cho toàn thể cộng đoàn. Kinh nghiệm này là chân trời hy vọng đang mở ra cho
Giáo hội, một dấu chỉ rõ ràng về sự hiện diện và hoạt động của Thánh Thần, Đấng
hướng dẫn Giáo hội xuyên suốt lịch sử trên hành trình tiến về Nước Trời (x. LG
5): “Nhân vật chính của Thượng Hội đồng
là Chúa Thánh Thần”[5]. Do đó,
lời mời cùng nhau bước đi càng được chấp nhận một cách mạnh mẽ bao nhiêu, thì
Thượng Hội đồng càng trở thành một lộ trình mà Dân Chúa tiến hành với lòng nhiệt
thành bấy nhiêu, không hề có sự ngây thơ ở đây. Thật vậy, các vấn đề, sự chống
đối, khó khăn và căng thẳng không bị che giấu hoặc ngụy trang nhưng được xác định
và đặt tên nhờ vào một bối cảnh đối thoại đích thực giúp chúng ta có thể nói và
lắng nghe một cách tự do và chân thành. Những vấn đề thường được đặt ra theo
cách đối nghịch, hoặc là những vấn đề mà đời sống Giáo hội ngày nay không có chỗ
cho việc đón nhận và phân định, những vấn đề ấy có thể được tiếp cận theo cách
thức Tin Mừng trong tiến trình của Thượng Hội đồng.
18. Như thế, một từ ngữ trừu tượng hoặc lý thuyết như tính hiệp hành bắt
đầu được thể hiện trong một trải nghiệm cụ thể. Từ việc lắng nghe Dân Chúa, nảy
sinh một sự tiếp nhận và hiểu biết tiệm tiến về tính hiệp hành “từ bên trong”, vốn không bắt nguồn từ việc
đưa ra một nguyên tắc, một lý thuyết hay một công thức, nhưng phát triển từ chỗ
sẵn sàng bước vào một sự năng động của việc nói, lắng nghe và đối thoại mang
tính xây dựng, tôn trọng và cầu nguyện. Nền tảng của tiến trình này là sự chấp
nhận của cả cá nhân và cộng đoàn, một điều vừa là hồng ân vừa là thách thức: trở
thành một Giáo hội gồm các anh chị em trong Đức Kitô, những người lắng nghe
nhau và khi làm như vậy, dần dần được Thánh Thần biến đổi.
A 1. Những
dấu chỉ đặc trưng của một Giáo hội hiệp hành
19. Trong khuôn khổ của sự hiểu biết toàn diện này, nổi lên một nhận thức
về một số dấu chỉ đặc trưng hoặc đặc biệt của một Giáo hội hiệp hành. Đây là những
xác tín chung mà chúng ta cùng dựa vào và suy nghĩ khi bước vào hành trình sẽ
tiếp tục làm sáng tỏ và cải thiện chúng, bắt đầu từ công việc mà Đại hội Thượng
Hội đồng sẽ đảm nhận.
20. Tất cả các châu lục đều có ý thức mạnh mẽ rằng: một Giáo hội hiệp
hành được thành lập trên cơ sở nhìn nhận phẩm giá chung bắt nguồn từ Bí tích Rửa
tội, một phẩm giá làm cho tất cả những ai lãnh nhận Bí tích này trở thành con
cái của Thiên Chúa, trở nên thành viên của gia đình Thiên Chúa, và do đó là anh
chị em trong Đức Kitô, được Thánh Thần cư ngụ và được sai đi để hoàn thành một
sứ vụ chung. Nói theo ngôn ngữ của Phaolô, “Tất cả chúng ta, là Dothái hay Hylạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã
chịu phép rửa trong cùng một Thánh Thần để trở nên một thân thể. Tất cả chúng
ta đã được đầy tràn một Thánh Thần duy nhất” (1Cr 12, 13). Do đó, Bí tích Rửa
tội tạo ra một sự đồng trách nhiệm thực sự giữa tất cả các phần tử của Giáo hội,
được thể hiện qua sự tham gia của tất cả mọi người vào sứ vụ và qua việc xây dựng
cộng đoàn giáo hội tuỳ theo đặc sủng của mỗi người. Một Giáo hội hiệp hành
chỉ có thể được hiểu trong chân trời của hiệp thông, vốn luôn luôn có sứ vụ
loan báo và nhập thể Tin Mừng trong mọi chiều kích của sự hiện hữu con người. Sự
hiệp thông và sứ vụ được nuôi dưỡng bằng việc cùng nhau tham dự Thánh Thể, là điều
biến Giáo Hội thành một thân thể “được ăn
khớp và đan kết với nhau” (Ep 4, 16) trong Đức Kitô, có khả năng cùng nhau
tiến về Nước Trời.
21. Nhận thức này đi kèm với ước muốn về một Giáo hội càng mang tính
hiệp hành cả trong các thể chế, cơ cấu và thủ tục của mình, để tạo thành một
không gian trong đó phẩm giá chung của phép Rửa và sự đồng trách nhiệm đối với
sứ vụ không chỉ được khẳng định mà còn được thực thi, và thực hành. Trong không
gian này, việc thi hành quyền bính trong Giáo Hội được trân trọng như một hồng
ân, và ngày càng phải được định hình như “một
công việc phục vụ đích thực, mà Kinh Thánh gọi một cách có ý nghĩa là
‘diakonia’ hay thừa tác vụ” (LG 24), theo gương mẫu của Chúa Giêsu, Đấng đã
cúi xuống rửa chân cho các môn đệ (x. Ga 13, 1-11).
22. “Một Giáo hội hiệp hành là một
Giáo hội lắng nghe”[6]: nhận thức
này là kết quả của trải nghiệm về hành trình hiệp hành, đó là lắng nghe Thánh
Thần qua việc lắng nghe Lời Chúa và lắng nghe nhau với tư cách cá nhân và giữa
các cộng đoàn giáo hội, từ cấp địa phương đến cấp châu lục và hoàn vũ. Đối với
nhiều người, điều ngạc nhiên lớn chính là trải nghiệm được cộng đoàn lắng nghe,
trong một số trường hợp là lần đầu tiên, do đó việc được nhìn nhận về giá trị
con người độc nhất của chính mình minh chứng cho tình yêu của Chúa Cha dành cho
từng người con nam, nữ của Ngài. Trải nghiệm lắng nghe và được lắng nghe như thế
không chỉ có chức năng thực tế mà còn mang chiều sâu thần học và giáo hội vì
theo gương Chúa Giêsu đã lắng nghe những người mà Người gặp gỡ. Phong cách lắng
nghe này là cần thiết để đánh dấu và biến đổi tất cả các mối tương quan mà cộng
đoàn Kitô hữu thiết lập giữa các thành viên của mình, với các cộng đoàn đức tin
khác, và với toàn xã hội, nhất là đối với những người mà tiếng nói của họ thường
bị phớt lờ nhất.
23. Là một Giáo hội cam kết lắng nghe, một Giáo hội hiệp hành mong muốn
trở nên khiêm tốn, và biết rằng mình phải xin sự tha thứ và còn nhiều điều phải
học hỏi. Một số báo cáo lưu ý rằng lộ trình hiệp hành nhất thiết phải là lộ
trình mang tính sám hối, nhìn nhận rằng chúng ta không phải lúc nào cũng sống
chiều kích hiệp hành cấu thành cộng đoàn giáo hội. Khuôn mặt của Giáo hội ngày
nay mang những dấu hiệu khủng hoảng nghiêm trọng về lòng tin và sự khả tín.
Trong nhiều bối cảnh, những cuộc khủng hoảng liên quan đến lạm dụng tình dục, lạm
quyền, tiền bạc, và lương tâm đã đẩy Giáo hội đến một cuộc kiểm điểm lương tâm
đòi hỏi khắt khe “để dưới tác động của
Chúa Thánh Thần, Giáo hội không ngừng canh tân chính mình” (LG 9), trong
hành trình sám hối và hoán cải mở ra những lộ trình hòa giải, chữa lành và công
lý.
24. Một Giáo hội hiệp hành là một Giáo hội gặp gỡ và đối thoại.
Trên lộ trình chúng ta đã đi, khía cạnh hiệp hành này đặc biệt liên quan đến
các mối tương quan với các Giáo hội và các Cộng đoàn giáo hội khác, mà chúng ta
được liên kết với nhau bằng mối dây của một Phép Rửa duy nhất. Thánh Thần, Đấng
là “nguyên lý hiệp nhất của Giáo hội”
(UR 2), đang hoạt động trong các Giáo hội và các Cộng đoàn giáo hội này, và mời
gọi chúng ta thực hiện những lộ trình hiểu biết lẫn nhau, chia sẻ và xây dựng một
đời sống chung. Ở cấp độ địa phương, tầm quan trọng của những gì đã được thực
hiện cùng với các thành viên của các Giáo hội và các Cộng đoàn giáo hội khác nổi
lên mạnh mẽ, đặc biệt là một chứng tá chung trong các bối cảnh văn hóa xã hội
thù địch đôi khi đến mức bị bách hại – đây là phong trào đại kết của sự tử đạo
—và trước tình trạng khẩn cấp về sinh thái. Ở khắp nơi, theo Huấn quyền của
Công đồng Vatican II, nổi lên ước muốn đào sâu hành trình đại kết: một Giáo hội
hiệp hành đích thực không thể không có sự tham gia của tất cả những người cùng
chia sẻ một Phép Rửa.
25. Một Giáo hội hiệp hành cũng được kêu gọi thực hành văn hóa gặp
gỡ và đối thoại với các tín hữu của các tôn giáo khác và với các nền văn hóa và
xã hội mà Giáo hội sống trong đó, nhưng trên hết là giữa nhiều khác biệt vốn có
trong chính Giáo hội. Giáo hội không sợ sự đa dạng mà mình có được, nhưng
luôn coi trọng mà không ép buộc nó phải trở nên đồng nhất. Tiến
trình hiệp hành là một cơ hội để bắt đầu tìm hiểu ý nghĩa của việc sống hiệp nhất
trong đa dạng, một thực tại phải tiếp tục được khám phá, tin tưởng rằng lộ
trình sẽ trở nên rõ ràng hơn khi chúng ta tiến bước. Nói cách khác, một Giáo
hội hiệp hành thúc đẩy việc chuyển từ “tôi”
sang “chúng ta”, bởi vì nó tạo
thành một không gian trong đó vang lên lời kêu gọi trở thành chi thể của một
thân thể coi trọng sự đa dạng nhưng được Thánh Thần làm cho nên một. Chính
Thánh Thần thúc đẩy chúng ta lắng nghe Chúa và đáp lại Ngài như một dân phục vụ
sứ vụ duy nhất là loan báo cho muôn dân ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban trong Chúa
Giêsu Kitô. Điều này được thực hiện trong rất nhiều bối cảnh khác nhau: không
ai bị yêu cầu rời khỏi bối cảnh của chính mình, mà phải hiểu và thâm nhập vào bối
cảnh ấy sâu sắc hơn. Trở lại tầm nhìn này sau trải nghiệm của giai đoạn thứ nhất,
tính hiệp hành trước hết xuất hiện như một động lực làm sinh động các cộng đoàn
địa phương cụ thể. Đi đến một cấp độ phổ quát hơn, động lực này bao trùm mọi
chiều kích và thực tại của Giáo hội, trong một chuyển động của tính công giáo
đích thực.
26. Được trải nghiệm trong nhiều bối cảnh và văn hóa khác nhau, tính hiệp
hành chứng tỏ là một chiều kích cấu thành Giáo hội ngay từ những ngày đầu tiên,
ngay cả khi vẫn đang trong tiến trình hoàn thành. Thật vậy, tính hiệp hành ngày
càng phải được thực hiện cách trọn vẹn hơn, diễn tả một lời kêu gọi triệt để phải
hoán cải, thay đổi, cầu nguyện và hành động hướng đến tất cả mọi người. Theo
nghĩa này, một Giáo hội hiệp hành là một Giáo hội cởi mở, chào đón và dành
cho tất cả mọi người. Chuyển động này của Thánh Thần vượt qua mọi biên giới
để thu hút tất cả mọi người vào sự năng động của mình. Tính triệt để của Kitô
giáo không phải là đặc quyền của một số ơn gọi đặc thù, nhưng là lời kêu gọi
xây dựng một cộng đoàn sống và làm chứng cho một cách hiểu khác về mối tương
quan giữa con cái Thiên Chúa, một mối tương quan thể hiện sự thật về tình yêu,
một tình yêu dựa trên ân ban và sự nhưng không. Do đó, lời kêu gọi triệt để này
mời gọi chúng ta cùng nhau xây dựng, theo cách hiệp hành, một Giáo hội thu hút
và cụ thể: một Giáo hội cởi mở, trong đó tất cả mọi người đều cảm thấy được
chào đón.
27. Đồng thời, một Giáo hội hiệp hành đối diện một cách trung thực và
không sợ hãi trước lời mời gọi nhận thức sâu sắc hơn về mối tương quan giữa
tình yêu và sự thật theo lời mời gọi của Thánh Phaolô: “Nhưng, sống theo sự thật và trong tình bác
ái, chúng ta sẽ lớn lên về mọi phương diện, vươn tới Ðức Kitô vì Người là Ðầu.
Chính Người làm cho các bộ phận ăn khớp với nhau và toàn thân được kết cấu chặt
chẽ, nhờ mọi thứ gân mạch nuôi dưỡng và mỗi chi thể hoạt động theo chức năng của
mình. Như thế Người làm cho toàn thân lớn lên và được xây dựng trong tình bác
ái” (Ep 4, 15-16). Để thực sự bao gồm tất cả mọi người, cần phải đi vào mầu
nhiệm Đức Kitô để cho chính mình được hình thành và biến đổi theo cách Người đã
sống mối tương quan giữa tình yêu và sự thật.
28. Một Giáo hội hiệp hành cũng được đặc trưng bởi khả năng quản lý những
căng thẳng mà không bị chúng đè bẹp, sống sự căng thẳng như một động lực để
đào sâu cách hiểu và sống sự hiệp thông, tham gia và sứ vụ. Hiệp hành là một lộ
trình ưu tiên của sự hoán cải, bởi vì sự hoán cải tái lập Giáo hội trong sự hiệp
nhất: chữa lành các vết thương, và hàn gắn ký ức của Giáo hội, đón nhận những khác
biệt mà Giáo hội mang nơi mình và cứu chuộc Giáo hội khỏi những chia rẽ ngày
càng trầm trọng, nhờ đó giúp Giáo hội thể hiện trọn vẹn hơn ơn gọi của mình là
“ở trong Đức Kitô như một bí tích tức là
như một dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và sự hiệp nhất
toàn thể nhân loại” (LG 1). Việc lắng nghe đích thực và khả năng tìm ra những
cách thế để tiếp tục việc bước đi cùng nhau giúp vượt thắng sự phân mảnh và
phân cực là điều cần thiết để Giáo hội tiếp tục tồn tại và sống động, và là dấu
chỉ mạnh mẽ đối với các nền văn hóa của thời đại chúng ta.
29. Việc cố gắng cùng nhau bước đi cũng giúp chúng ta tiếp xúc với sự
khắc khoải lành mạnh về sự bất toàn, với ý thức rằng vẫn còn nhiều điều
chúng ta không thể lĩnh hội hoặc mang nổi (x. Ga 16, 12). Đây không phải là một
vấn đề cần giải quyết, nhưng là một hồng ân cần được vun trồng. Chúng ta đối diện
với mầu nhiệm vô tận và thánh thiện của Thiên Chúa và chúng ta phải luôn mở
lòng đón nhận những điều bất ngờ của mầu nhiệm ấy khi tiến bước trong cuộc lữ
hành tiến về Nước Trời. Điều này cũng áp dụng cho những vấn đề mà tiến trình hiệp
hành đã làm sáng tỏ. Bước đầu, chúng đòi phải lắng nghe và chú ý, không vội
vàng đưa ra các giải pháp tức thì.
30. Mang sức nặng của những câu hỏi này không phải là gánh nặng mang tính
cá nhân mà những người đảm nhận một số vai trò nhất định phải gánh chịu, với
nguy cơ bị chúng đè bẹp, mà là nhiệm vụ của cả cộng đoàn, mà đời sống tương
quan và bí tích thường là câu trả lời tức thì hiệu quả nhất. Đó là lý do tại
sao một Giáo hội hiệp hành luôn được nuôi dưỡng bởi nguồn mạch của mầu nhiệm
mà Giáo hội cử hành trong Phụng vụ, “đỉnh
cao mà hoạt động của Giáo hội hướng tới” đồng thời là “nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Giáo hội” (SC 10), và nhất là
trong Bí Tích Thánh Thể.
31. Một khi Dân Chúa được giải thoát khỏi nỗi lo lắng về sự giới hạn, thì
sự bất toàn không thể tránh khỏi của một Giáo hội hiệp hành và sự sẵn sàng của
các thành viên chấp nhận những sự dễ bị tổn thương của chính mình trở thành
không gian cho hoạt động của Thánh Thần, Đấng mời gọi chúng ta nhận ra những dấu
chỉ về sự hiện diện của Ngài. Vì lý do này, một Giáo hội hiệp hành cũng là một
Giáo hội phân định, trong sự phong phú của những ý nghĩa mà thuật ngữ này
mang lấy trong các truyền thống tu đức khác nhau. Giai đoạn thứ nhất giúp Dân
Chúa bắt đầu nếm trải hương vị của sự phân định qua việc thực hành đối thoại
trong Thánh Thần. Khi chăm chú lắng nghe trải nghiệm sống của nhau, chúng ta lớn
lên trong sự tôn trọng lẫn nhau và bắt đầu nhận ra những chuyển động của Thánh
Thần Thiên Chúa trong cuộc sống của người khác và của chính mình. Nhờ đó, chúng
ta bắt đầu chú ý nhiều hơn đến “những gì
Thánh Thần nói với các Giáo hội” (Kh 2, 7), trong sự cam kết và hy vọng trở
thành một Giáo hội ngày càng có khả năng đưa ra những quyết định mang tính ngôn
sứ vốn là hoa trái của sự hướng dẫn của Thánh Thần.
A 2. Một
nẻo đường đi tới cho Giáo hội hiệp hành: đối thoại trong Thánh Thần
32. Trong suốt giai đoạn đầu của Thượng Hội đồng và trên khắp các châu lục,
hiệu quả của phương pháp được gọi ở đây là “đối
thoại trong Thánh Thần” hoặc “phương
pháp hiệp hành” (x. hình trên trang 16).
33. Theo nghĩa từ nguyên, thuật ngữ “đối
thoại” không ám chỉ một sự trao đổi ý kiến chung chung, mà là một vận hành
trong đó lời được nói và được nghe tạo ra sự quen thuộc, cho phép những người
tham gia trở nên thân thiết với nhau hơn. Việc đặc tả “trong Thánh Thần” xác định nhân vật chính đích thực: ước muốn của
những người tham gia đối thoại có khuynh hướng lắng nghe tiếng của Ngài, mà
trong lời cầu nguyện mở lòng đón nhận hành động tự do của Đấng, giống như gió,
muốn thổi đâu thì thổi (x. Ga 3, 8). Dần dần, cuộc đối thoại giữa các anh chị
em trong đức tin mở ra không gian cho ‘việc
cùng nhau lắng nghe’, nghĩa là cùng nhau lắng nghe tiếng nói của Thánh Thần.
Sẽ không phải là cuộc đối thoại trong Thánh Thần nếu không có một bước tiến
theo một hướng chính xác, thường là bất ngờ dẫn đến hành động cụ thể.
34. Trong các Giáo hội địa phương, việc đối thoại trong Thánh Thần đã
được chấp nhận và đôi khi được “khám phá”
như một bầu khí giúp cho việc chia sẻ kinh nghiệm sống và là không gian cho việc
phân định trong một Giáo hội hiệp hành trở thành hiện thực. Trong các Tài
liệu Cuối cùng của các Đại hội cấp Châu lục, thực hành được mô tả như một khoảnh
khắc của Lễ Ngũ tuần, một cơ hội để trải nghiệm việc trở thành Giáo hội và chuyển
từ việc lắng nghe các anh chị em trong Đức Kitô sang việc lắng nghe Thánh Thần,
Đấng là nhân vật chính đích thực, và được Ngài sai đi thi hành sứ vụ. Đồng thời,
nhờ phương pháp này, ân sủng của Lời Chúa và của Thánh Thể trở thành một thực tại
được cảm nhận, hiện thực hóa và biến đổi, một thực tại chứng thực và thực hiện
sáng kiến nhờ đó Chúa Giêsu làm cho chính Người hiện diện và hoạt động trong
Giáo Hội. Đức Kitô sai chúng ta đi thi hành sứ vụ và quy tụ chúng ta quanh Người
để tạ ơn và tôn vinh Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần. Do đó, từ khắp các châu lục
xuất hiện yêu cầu rằng phương pháp này có thể ngày càng sinh động và thấm nhuần
vào cuộc sống hàng ngày của các Giáo hội.
35. Đối thoại trong Thánh Thần là một phần của truyền thống lâu đời về
phân định trong Giáo Hội, một truyền thống vốn tạo ra nhiều phương pháp và cách
tiếp cận. Giá trị truyền giáo chính xác của việc đối thoại cần phải được nhấn mạnh.
Thực hành tâm linh này giúp chúng ta chuyển từ cái “tôi” sang cái “chúng ta”:
nó không đánh mất hay xóa bỏ chiều kích cá nhân của cái “tôi”, nhưng nhận ra cái tôi và đưa cái tôi vào chiều kích cộng
đoàn. Theo cách này, việc giúp cho những người tham dự nói và nghe trở thành một
biểu hiện của phụng vụ và cầu nguyện, trong đó Chúa hiện diện và dẫn chúng ta đến
những hình thức hiệp thông và phân định đích thực hơn bao giờ hết.
36. Trong Tân Ước, có nhiều ví dụ về phong cách đối thoại này. Trình
thuật về cuộc gặp gỡ của Chúa Phục Sinh với hai môn đệ trên đường Emmau là một
kiểu mẫu (x. Lc 24, 13-35, và lời giải thích được đưa ra trong CV 237). Như
kinh nghiệm của hai môn đệ cho thấy, cuộc đối thoại trong Thánh Thần xây dựng sự
hiệp thông và mang lại động lực truyền giáo. Thật vậy, hai ông trở lại cộng
đoàn mà họ đã ra đi để chia sẻ lời loan báo Phục Sinh rằng Chúa đã sống lại.
37. Một cách cụ thể, cuộc đối thoại trong Thánh Thần có thể được mô tả
như một lời cầu nguyện chung hướng tới một sự phân định chung mà những người
tham gia tự chuẩn bị bằng việc suy tư và suy niệm cá nhân. Họ trao cho nhau món
quà là một lời nói sâu sắc đã được suy niệm và nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện,
chứ không phải một ý kiến ngẫu hứng ngay tại chỗ. Sự năng động giữa những
người tham gia nói lên 3 bước cơ bản. Trước hết là dành cho mỗi người tham gia
phát biểu, bắt đầu từ trải nghiệm cá nhân của họ được đọc lại trong lời cầu
nguyện trong thời gian chuẩn bị. Những người khác lắng nghe với nhận thức rằng
mỗi người đều có những đóng góp quý giá để cống hiến và cố gắng không tranh luận
hoặc thảo luận.
38. Sự thinh lặng và cầu nguyện giúp chuẩn bị cho bước tiếp theo, trong
đó mỗi người được mời gọi mở ra một không gian nội tâm cho người khác và cho
Thiên Chúa. Một lần nữa, mỗi thành viên trong nhóm lên phát biểu: không phải để
phản ứng hoặc phản đối những gì đã được nghe bằng cách khẳng định lại quan điểm
của mình, mà để bày tỏ điều mà trong tiến trình lắng nghe đã khiến họ cảm động
sâu sắc nhất và bị thách thức mạnh mẽ nhất. Những dấu ấn nội tâm nơi mỗi người
do việc lắng nghe anh chị em là ngôn ngữ mà Chúa Thánh Thần dùng để làm cho tiếng
nói của Ngài vang lên. Mỗi tham dự viên càng được nuôi dưỡng bằng việc suy
niệm Lời Chúa và các Bí tích, càng lớn lên trong sự thân mật với Chúa, thì càng
có khả năng nhận ra tiếng của Ngài (x. Ga 10, 14.27), cũng được trợ giúp bởi sự
đồng hành của Huấn quyền và thần học. Tương tự như vậy, những người tham gia
càng chú ý và chăm chú lắng nghe tiếng nói của Thánh Thần thì sẽ càng phát triển
trong cảm thức chung về sứ vụ.
39. Cũng trong bầu khí cầu nguyện và dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần,
bước thứ ba là xác định những điểm mấu chốt đã xuất hiện và đạt được sự đồng
thuận về thành quả của công việc chung, mà mọi người đều cho là trung thành
với tiến trình và do đó họ có thể cảm thấy được đại diện. Lập một báo cáo liệt
kê những điểm thường được đề cập đến nhất là chưa đủ. Đúng hơn, cần có sự phân
định, đồng thời chú ý đến những tiếng nói bên lề và mang tính ngôn sứ, cũng như
không bỏ qua tầm quan trọng của những điểm liên quan đến việc nảy sinh bất đồng.
Chúa là nền tảng cho phép “công trình xây
dựng” đứng vững, và Thánh Thần, bậc thầy của sự hài hòa, sẽ giúp chuyển từ
tạp âm sang bản giao hưởng.
40. Hành trình này kết thúc với lời cầu nguyện ngợi khen Thiên Chúa và
lòng biết ơn về trải nghiệm. “Khi chúng
ta sống một thứ linh đạo gần gũi với người khác và tìm kiếm hạnh phúc của họ,
lòng chúng ta được mở rộng trước các quà tặng tuyệt vời và đẹp nhất của Chúa. Khi
chúng ta gặp gỡ người khác với lòng yêu thương, chúng ta học được một điều gì mới
về Thiên Chúa. Mỗi khi mắt chúng ta mở ra để nhìn nhận người khác, chúng ta
lớn lên trong ánh sáng của đức tin và của sự hiểu biết Thiên Chúa” (EG
272). Tóm lại, đây là món quà mà những người để mình được lôi cuốn vào cuộc đối
thoại trong Thánh Thần nhận được.
41. Trong những tình huống cụ thể, vấn đề không phải là rập khuôn theo từng
chữ, mà là luôn cần thích nghi. Đôi khi cần ưu tiên cho mỗi người phát biểu và
lắng nghe những người khác; trong những trường hợp khác, cần làm nổi bật những
mối liên hệ giữa các quan điểm khác nhau, tìm kiếm điều làm cho “lòng chúng ta bừng cháy lên” (x. Lc 24,
32); trong những người khác nữa, cần giải thích về sự đồng thuận và làm việc
cùng nhau để xác định hướng mà chúng ta cảm thấy được Thánh Thần kêu gọi để di
chuyển. Tuy nhiên, ngoài những thích ứng cụ thể phù hợp, thì ý định và động lực
liên kết ba bước này là và vẫn là đặc điểm của cách thức tiến hành của một Giáo
hội hiệp hành.
42. Ghi nhớ tầm quan trọng của cuộc đối thoại trong Thánh Thần để làm
sinh động kinh nghiệm sống của Giáo hội hiệp hành, việc đào tạo theo phương
pháp này, và đặc biệt là đào tạo các điều phối viên có khả năng đồng hành cùng
các cộng đoàn trong việc thực hành phương pháp này, được coi là ưu tiên ở mọi cấp
độ của đời sống Giáo hội và cho tất cả những người đã lãnh phép Rửa, bắt đầu với
các Thừa tác viên chức thánh trong tinh thần đồng trách nhiệm và cởi mở với các
ơn gọi khác nhau trong Giáo hội.
Cuộc đối thoại
trong Thánh Thần
Một động lực của sự phân định trong Giáo hội hiệp
hành
(1) Chuẩn
bị cá nhân
Bằng cách tín thác vào Chúa Cha, đối thoại trong cầu nguyện với Chúa
Giêsu và lắng nghe Chúa Thánh Thần, mỗi người chuẩn bị phần đóng góp của mình
cho vấn đề mà mình được mời gọi để phân định.
Thinh lặng, cầu
nguyện và lắng nghe Lời Chúa
(2) “Nói
và lắng nghe”
Mỗi người thay phiên nhau nói, dựa trên chính trải nghiệm và việc cầu
nguyện của mình, đồng thời chăm chú lắng nghe sự đóng góp của người khác
Thinh lặng và
Cầu nguyện
(3) “Tạo
không gian cho người khác và cho Chúa”
Từ những gì những người khác đã nói, mỗi người chia sẻ điều gì có âm hưởng
trong lòng mình nhất hoặc điều gì đã khơi dậy sự phản kháng mạnh mẽ nhất, để bản
thân được Chúa Thánh Thần hướng dẫn: “Trong
khi lắng nghe, lòng tôi có bừng cháy lên chăng?"
Thinh lặng và
Cầu nguyện
(4) “Cùng
nhau xây dựng”
Chúng ta cùng nhau đối thoại trên cơ sở những gì đã xuất hiện ở bước trên
để phân định và thu thập thành quả của cuộc đối thoại trong Thánh Thần: nhận ra
những trực giác và những sự hội tụ; xác định những bất đồng, trở ngại và những
câu hỏi mới; cho phép những tiếng nói ngôn sứ xuất hiện. Điều quan trọng là mọi
người có thể cảm thấy được đại diện bởi kết quả của công việc. “Chúa Thánh Thần kêu gọi chúng ta cùng nhau
tiến đến những bước nào?”
(5) Lời
cầu nguyện tạ ơn kết thúc
B. Hiệp
thông, sứ vụ, tham gia. Ba vấn đề ưu tiên cho Giáo hội hiệp hành
“Cũng như trong một thân thể, chúng
ta có nhiều bộ phận, mà các bộ phận có cùng một chức năng; thì chúng ta cũng vậy:
tuy nhiều nhưng chỉ là một phần thân thể trong Ðức Kitô, ai nấy liên đới với nhau
như những bộ phận của một thân thể” (Rm 12, 4-5).
43. Trong số những thành quả của giai đoạn thứ nhất, và đặc biệt là của
các Đại hội Châu lục, thu được nhờ vào cách thức tiến hành vừa được trình bày,
ba ưu tiên đã được xác định và hiện đang được đề xuất cho việc phân định của Đại
hội Thượng Hội đồng vào tháng 10. 2023. Đây là những thách thức mà toàn thể
Giáo hội phải tự đo lường mình để tiến tới và phát triển trong thực thể hiệp
hành của mình ở mọi cấp độ và từ nhiều quan điểm. Những điều này cần được tiếp
cận từ quan điểm thần học và giáo luật, cũng như từ quan điểm chăm sóc mục vụ
và linh đạo. Những ưu tiên này đặt câu hỏi về cả định hướng mục vụ của các giáo
phận lẫn lối sống và những lựa chọn hàng ngày của mỗi thành viên Dân Chúa. Đồng
thời, những ưu tiên này cũng thực sự mang tính hiệp hành bởi vì việc tiếp cận
chúng đòi hỏi phải bước đi cùng nhau như một dân, với tất cả các thành viên của
mình. Ba ưu tiên sẽ được minh họa liên quan đến ba từ khóa của Thượng Hội đồng:
Hiệp thông, Sứ vụ, Tham gia. Mặc dù sự lựa chọn này được thực hiện vì mục đích
trình bày đơn giản và rõ ràng, nhưng nó có nguy cơ trình bày ba từ khóa như ba
“trụ cột” độc lập với nhau. Trái lại,
trong đời sống của Giáo hội hiệp hành, sự Hiệp thông, Sứ vụ, và việc Tham gia
được nối kết, nuôi dưỡng và hỗ trợ lẫn nhau. Chúng phải luôn được hiểu với sự hợp
nhất này.
44. Sự thay đổi trong thứ tự xuất hiện của ba thuật ngữ, với thuật ngữ “sứ vụ” hiện chiếm vị trí trung tâm, cũng
bắt nguồn từ nhận thức về các mối liên kết được phát triển trong giai đoạn thứ
nhất. Đặc biệt, Hiệp thông và Sứ vụ đan xen và phản chiếu lẫn nhau, như
Thánh Gioan Phaolô II đã dạy: “Hiệp thông
và sứ vụ liên kết sâu xa với nhau, chúng thâm nhập và bao hàm lẫn nhau, đến độ
hiệp thông vừa là nguồn mạch vừa là hoa trái của sứ vụ: hiệp thông phát sinh sứ
vụ và sứ vụ được hoàn thành trong hiệp thông” (CL 32, được đề cập trong PE
I, 4). Chúng ta được mời gọi vượt lên trên cách hiểu nhị nguyên, trong đó các mối
tương quan trong cộng đoàn giáo hội là lĩnh vực của sự hiệp thông, còn sứ vụ
liên quan đến động lực đi ra (ad extra).
Thay vào đó, giai đoạn thứ nhất đã làm nổi bật cách thức hiệp thông là điều kiện
cho sự khả tín của việc loan báo Tin Mừng, một nhận thức gợi lại nhận thức của
Đại Hội Thường lệ lần thứ XV của Thượng Hội đồng Giám mục về Người trẻ, Đức tin, và sự Phân định Ơn gọi[7].
Đồng thời, có một nhận thức ngày càng tăng rằng định hướng sứ vụ là tiêu chí
duy nhất được thiết lập theo Tin Mừng cho việc tổ chức nội bộ của cộng đồng
Kitô hữu, sự phân chia vai trò và trách nhiệm cũng như việc quản lý các tổ chức
và cơ cấu của nó. Chính trong mối tương quan với hiệp thông và sứ vụ mà
chúng ta hiểu được ý nghĩa của sự tham gia, và vì lý do này, sự tham gia chỉ có
thể được đề cập sau hiệp thông và sứ vụ. Một đàng, sự tham gia mang lại cho
sự hiệp thông và sứ vụ một biểu hiện cụ thể: sự chú ý đến các thủ tục, quy tắc,
cơ cấu và thể chế giúp củng cố sứ vụ theo thời gian và giải thoát sự hiệp thông
khỏi tính tự phát đơn thuần về cảm xúc. Đàng khác, sự tham gia nhận được một ý
nghĩa, định hướng và động lực cho phép nó thoát khỏi nguy cơ biến thành một cơn
điên cuồng của việc đòi hỏi các quyền cá nhân, chắc chắn dẫn đến sự chia rẽ hơn
là hiệp nhất.
45. Để đi kèm với việc chuẩn bị và sắp xếp công việc của Đại hội, năm phiếu
làm việc đã được soạn thảo nhằm giúp tiếp cận từng ưu tiên, và được trình bày ở
cuối phần này. Mỗi phiếu làm việc tạo thành một điểm khởi đầu dẫn đến câu hỏi về
mối ưu tiên, bằng cách này mối ưu tiên có thể được tiếp cận từ những quan điểm
khác nhau nhưng bổ sung cho nhau, liên quan đến các khía cạnh khác nhau của đời
sống Giáo hội đã xuất hiện thông qua công việc của các Đại hội Châu lục. Trong
trường hợp này, ba đoạn tiếp theo, tương ứng với ba nhóm phiếu làm việc trong
phần phụ lục, không nên được đọc như các cột song song không có bất kỳ liên kết
nào. Đúng hơn, những đoạn này là những tia sáng chiếu sáng cùng một thực tại,
đó là đời sống hiệp hành của Giáo hội, từ những điểm thuận lợi khác nhau, liên
tục đan xen và kêu gọi lẫn nhau, mời gọi chúng ta phát triển.
B 1. Một
sự hiệp thông tỏa sáng: Làm thế nào chúng ta có thể trở thành dấu chỉ và khí cụ
hiệp nhất với Thiên Chúa và hiệp nhất toàn thể nhân loại một cách trọn vẹn hơn?
46. Hiệp thông không phải là một cuộc tập hợp xã hội học của các thành
viên thuộc một nhóm đồng nhất, nhưng trên hết đó là hồng ân của Thiên Chúa Ba
Ngôi, đồng thời là một nhiệm vụ không bao giờ mệt mỏi trong việc xây dựng cái
“chúng ta” của Dân Chúa. Như các Đại hội Châu lục đã trải nghiệm, sự hiệp thông
đan xen chiều dọc, mà Hiến chế Lumen gentium
gọi là “sự kết hiệp với Thiên Chúa”,
và chiều ngang, “sự hiệp nhất của toàn thể
nhân loại”, trong một động lực mạnh mẽ mang tính cánh chung. Hiệp thông là
hành trình mà trên đó chúng ta được mời gọi để lớn lên, “cho đến khi tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất trong đức tin và trong
sự nhận biết Con Thiên Chúa, tới tình trạng con người trưởng thành, tới tầm vóc
viên mãn của Đức Kitô” (Ep 4, 13).
47. Chúng ta đón nhận thời khắc ấy trong Phụng vụ, nơi mà Giáo hội, trên
hành trình trần thế của mình, cảm nghiệm sự hiệp thông, nuôi dưỡng và xây dựng
nó. Nếu phụng vụ thực sự là “phương tiện
nổi bật nhờ đó các tín hữu có thể diễn tả trong cuộc sống của họ, và biểu lộ
cho người khác, mầu nhiệm Đức Kitô và bản chất đích thực của Giáo hội chân
chính” (SC 2) thì chính Phụng vụ là điều mà chúng ta phải nhìn để hiểu đời
sống hiệp hành của Giáo hội. Trước hết và trên hết, chính nhờ việc chia sẻ
hành động phụng vụ, và đặc biệt là việc cử hành Thánh Thể, mà Giáo hội cảm nghiệm
được sự hiệp nhất triệt để, được diễn tả trong cùng một kinh nguyện nhưng bằng
nhiều ngôn ngữ và nghi thức khác nhau: một điểm chính yếu cơ bản của hiệp hành.
Từ quan điểm này, sự đa dạng của các nghi thức trong Giáo hội Công giáo duy nhất
là một phúc lành đích thực, cần được bảo vệ và phát huy, như đã được trải nghiệm
trong các cử hành Phụng vụ của các Đại hội Châu lục.
48. Một Đại hội Thượng Hội đồng không thể được hiểu là đại diện và lập
pháp, giống như cơ cấu nghị viện với động lực của nó là tìm kiếm đa số. Trái lại,
chúng ta được mời gọi để hiểu Đại hội Thượng Hội đồng theo một cách tương tự với
cộng đoàn phụng vụ. Truyền thống cổ xưa cho chúng ta biết rằng khi cử hành một
Thượng Hội đồng, thì luôn bắt đầu với việc cầu xin Chúa Thánh Thần, tiếp đến là
tuyên xưng đức tin và kết thúc bằng những quyết định chung nhằm bảo đảm hoặc
khôi phục sự hiệp thông trong giáo hội. Trong một Đại hội Thượng Hội đồng, Đức
Kitô hiện diện và hành động, biến đổi lịch sử và các biến cố hàng ngày, đồng thời
ban Thánh Thần để hướng dẫn Giáo hội tìm ra sự đồng thuận trong việc làm thế
nào để cùng nhau tiến về Nước Trời và giúp toàn thể nhân loại tiến tới sự hiệp
nhất bao quát hơn. Cùng
nhau bước đi trong khi lắng nghe Lời Chúa và lắng nghe anh chị em trong việc
tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa và sự đồng tâm nhất trí, dẫn đến việc tạ ơn Chúa
Cha nhờ Chúa Con trong một Thánh Thần duy nhất. Trong một Đại hội Thượng Hội đồng,
những người quy tụ nhân danh Đức Kitô để lắng nghe Lời Người, lắng nghe nhau,
phân định trong sự ngoan ngùy với Thánh Thần, công bố những gì họ đã nghe và nhận
ra đó là ánh sáng cho hành trình của Giáo hội.
49. Theo viễn cảnh này, đời sống hiệp hành không phải là một chiến lược để
tổ chức Giáo hội, mà là trải nghiệm tìm kiếm một sự hiệp nhất bao gồm sự đa dạng
chớ không xóa bỏ nó, bởi vì sự hiệp nhất được đặt nền tảng trên sự kết hợp với
Thiên Chúa trong việc tuyên xưng cùng một đức tin. Động lực này sở hữu một sức
mạnh thúc đẩy chúng ta không ngừng mở rộng phạm vi hiệp thông, nhưng điều này
phải đối diện với những mâu thuẫn, giới hạn và vết thương của lịch sử.
50. Vấn đề ưu tiên hàng đầu nảy sinh từ tiến trình hiệp hành bắt nguồn từ
chính điểm này. Trong tính cụ thể của thực tại lịch sử của chúng ta, việc bảo tồn
và cổ vũ sự hiệp thông đòi phải thừa nhận tính bất toàn của việc có thể sống hiệp
nhất trong đa dạng (x. 1 Cr 12). Lịch sử tạo ra những chia rẽ, gây ra những vết
thương cần được chữa lành và đòi hỏi phải vạch ra những lộ trình hòa giải.
Trong bối cảnh này, đâu là những mối liên kết cần được củng cố nhân danh Tin
Mừng, để vượt qua những chiến hào và hàng rào, và những nơi trú ẩn và bảo vệ
nào cần được xây dựng, và để bảo vệ ai? Bộ phận nào không hiệu quả? Khi nào thì
luật tiệm tiến có thể tạo ra được lộ trình dẫn đến sự hiệp thông trọn vẹn?
Những câu hỏi này có vẻ lý thuyết, nhưng chúng bắt nguồn từ cuộc sống cụ thể
hàng ngày của các cộng đồng Kitô hữu được tham vấn trong giai đoạn thứ nhất. Thật
vậy, họ quan tâm đến câu hỏi liệu có giới hạn nào đối với sự sẵn lòng chào đón
mọi người và các nhóm hay không, làm thế nào để tham gia đối thoại với các nền
văn hóa và tôn giáo mà không ảnh hưởng đến bản sắc Kitô hữu, và quyết tâm trở
thành tiếng nói của những người bị bỏ ra bên lề và tái khẳng định rằng không ai
bị bỏ lại phía sau. Năm phiếu làm việc dành cho ưu tiên này cố gắng nghiên cứu
những câu hỏi trên từ năm quan điểm bổ trợ.
B 2. Đồng
trách nhiệm trong Sứ vụ: Làm thế nào chúng ta có thể chia sẻ tốt hơn các ân ban
và nhiệm vụ trong việc phục vụ Tin Mừng?
51. “Giáo hội lữ hành tự bản chất
là thừa sai” (AG 2). Sứ vụ tạo nên chân trời năng động mà từ đó chúng ta phải
nghĩ về Giáo hội hiệp hành, từ đó Giáo hội thúc đẩy hướng tới “sự xuất thần” hệ tại ở việc “ra khỏi chính mình và tìm kiếm điều tốt cho
người khác, thậm chí hy sinh mạng sống của mình” (CV 163; xem thêm FT 88).
Nói cách khác, sứ vụ cho phép người ta sống lại trải nghiệm của Lễ Hiện Xuống:
sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, Phêrô và Nhóm Mười Một đứng lên và rao giảng
Chúa Giêsu chịu đóng đinh và phục sinh cho tất cả những người sống ở Giêrusalem
(x. Cv 2, 14-36). Đời sống hiệp hành được cắm rễ trong cùng động lực này. Có
nhiều chứng từ mô tả trải nghiệm sống động của giai đoạn thứ nhất bằng những từ
ngữ trên, và thậm chí còn nhiều hơn nữa là những chứng từ liên kết tính hiệp
hành và sứ vụ một cách không thể tách rời.
52. Trong một Giáo hội tự xác định mình là dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp
với Thiên Chúa và hiệp nhất toàn thể nhân loại (x. LG 1), diễn từ về truyền
giáo tập trung vào tính dễ hiểu của dấu chỉ và hiệu quả của khí cụ, nếu không
có nó, bất kỳ tuyên bố nào cũng thiếu độ tin cậy. Sứ vụ không phải là quảng cáo
một sản phẩm tôn giáo, mà là xây dựng một cộng đồng trong đó các mối tương quan
là biểu hiện của tình yêu Thiên Chúa và do đó, chính đời sống trở thành một lời
loan báo. Trong sách Công Vụ Tông Đồ, ngay sau diễn từ của Thánh Phêrô là trình
thuật về đời sống của cộng đoàn sơ khai, trong đó mọi sự trở thành cơ hội để hiệp
thông (x. 2, 42-47), làm cho cộng đoàn trở nên hấp dẫn.
53. Trong viễn cảnh này, câu hỏi đầu tiên về sứ vụ liên quan đến những
gì mà các thành viên của cộng đoàn Kitô hữu sẵn sàng chia sẻ với nhau, bắt
đầu từ tính độc đáo không thể giản lược của mỗi người, nhờ mối tương quan trực
tiếp của họ với Đức Kitô trong Bí tích Rửa tội, và là nơi cư ngụ của Thánh Thần.
Điều này làm cho sự đóng góp của mỗi người đã chịu phép Rửa trở nên quý giá và
không thể thiếu. Một trong những lý do khiến sự ngạc nhiên được ghi nhận trong
giai đoạn thứ nhất có liên quan đến khả năng đóng góp này: “Tôi thực sự có thể cống hiến điều gì không?”.
Đồng thời, mỗi người được được mời gọi nhìn nhận sự bất toàn của chính mình,
nghĩa là ý thức rằng trong sự viên mãn của sứ vụ, mọi người đều cần thiết. Nói
cách khác, chính sứ vụ cũng có một chiều kích hiệp hành cấu thành.
54. Vì lý do này, ưu tiên thứ hai được xác định bởi một Giáo hội tự nhận
mình là thừa sai và hiệp hành liên quan đến cách thức mà Giáo hội có thể thu
hút sự đóng góp của tất cả mọi người, mỗi người với tài năng và vai trò của
mình, bằng việc coi trọng sự đa dạng của các đặc sủng và việc hội nhập mối
tương quan giữa các hồng ân phẩm trật và đặc sủng[8]. Viễn tượng sứ vụ đặt các
đoàn sủng và thừa tác vụ trong tầm nhìn của những gì chung, và theo cách này, bảo
vệ tính phong phú của chúng, vốn bị tổn hại khi chúng trở thành những đặc quyền
hợp pháp hóa các hình thức loại trừ. Một Giáo hội hiệp hành mang tính sứ mạng
có nhiệm vụ tự vấn làm thế nào Giáo hội có thể nhận ra và đánh giá cao sự đóng
góp mà mỗi người đã lãnh phép Rửa có thể cống hiến trong sứ vụ, vượt ra khỏi
chính mình và cùng tham gia với những người khác vào một điều gì đó lớn lao
hơn. “Đóng góp tích cực vào ích chung của
nhân loại” (CA 34) là một thành phần bất khả nhượng của phẩm giá con người,
ngay cả trong cộng đoàn Kitô hữu. Sự đóng góp đầu tiên mà mọi người có thể thực
hiện là hướng tới việc phân định các dấu chỉ thời đại (x. GS 4), để duy trì ý
thức về sứ vụ chung của chúng ta phù hợp với hơi thở của Thánh Thần. Tất cả các
quan điểm đều có thể góp phần vào sự phân định này, bắt đầu với quan điểm của
người nghèo và những người bị loại trừ: cùng bước đi với họ không chỉ có nghĩa
là đáp ứng những nhu cầu và đau khổ của họ, mà còn là tôn trọng vai trò chính của
họ và học hỏi từ họ. Đây là cách để nhận ra phẩm giá bình đẳng của họ, thoát ra
khỏi những cạm bẫy của chủ nghĩa phúc lợi và thúc đẩy càng nhiều càng tốt logic
của trời mới đất mới mà chúng ta đang tiến tới.
55. Các phiếu làm việc liên quan đến ưu tiên này cố gắng cụ thể hóa câu hỏi
cơ bản này liên quan đến các chủ đề như công nhận sự đa dạng của các ơn gọi, đặc
sủng và thừa tác vụ, thăng tiến phẩm giá phép rửa của phụ nữ, vai trò của thừa
tác vụ giáo sĩ và đặc biệt Thừa tác vụ của Giám mục trong Giáo hội hiệp hành
mang tính sứ mạng.
B 3.
Tham gia, quản trị và quyền bính: Những tiến trình, cơ cấu và định chế nào có
trong một Giáo hội hiệp hành mang tính sứ mạng?
56. “'Hiệp thông' và ‘sứ vụ’ có nguy cơ vẫn còn là những thuật ngữ hơi trừu tượng, nếu chúng ta
không nuôi dưỡng một tập quán mang tính giáo hội diễn tả thực tại cụ thể của
tính hiệp hành ở mỗi giai đoạn của hành trình và hoạt động của chúng ta, khuyến
khích sự tham gia thực sự của mỗi người và tất cả mọi người”[9]. Những lời
này của Đức Thánh Cha giúp chúng ta đặt sự tham gia trong mối tương quan với
hai thuật ngữ kia. Sự tham gia bổ sung tính đông đúc về nhân sự cho tính chất
tính cụ thể về mặt thủ tục. Nó bày tỏ mối quan tâm đến sự phát triển của con
người, nghĩa là nhân bản hóa các mối tương quan tại tâm điểm của dự án hiệp
thông và dấn thân sứ vụ. Nó bảo tồn nét độc đáo trên khuôn mặt của mỗi người,
việc thúc giục quá trình chuyển đổi sang cái “chúng ta” không sáp nhập cái “tôi”
vào sự ẩn danh của một tập thể mơ hồ. Nó tránh rơi vào tính trừu tượng của các
quyền hoặc biến con người thành những công cụ phục vụ cho hoạt động của tổ chức.
Sự tham gia về cơ bản là một biểu hiện của tính sáng tạo, một cách thức nuôi dưỡng
các mối tương quan hiếu khách, chào đón và vì hạnh phúc của con người, là những
điều nằm ở trung tâm của sứ vụ và sự hiệp thông.
57. Từ tầm nhìn về sự tham gia toàn diện được trình bày ở trên, xuất hiện
ưu tiên thứ ba cũng được đề cập tại các cuộc họp ở giai đoạn châu lục: vấn đề
về quyền bính, ý nghĩa và cách thức thực thi quyền bính trong một Giáo hội hiệp
hành. Một cách cụ thể, liệu quyền bính phát sinh như một dạng quyền lực bắt nguồn
từ các mô hình do thế giới đưa ra, hay nó bắt nguồn từ sự phục vụ? “Giữa anh em thì không được như vậy” (Mt
20, 26; x. Mc 10, 43), Chúa nói như thế, sau khi rửa chân cho các môn đệ, Người
đã khuyên nhủ họ: “Thầy đã nêu gương cho
anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,15). Theo nguồn
gốc, thuật ngữ “quyền bính” chỉ khả
năng giúp người khác phát triển, và do đó, quyền bính phục vụ cho thiên chức
riêng của mỗi người, hỗ trợ sự sáng tạo chứ không phải là một hình thức kiểm
soát ngăn chặn nó, và phục vụ cho sự phát triển tự do cá nhân chứ không phải là
một sự ràng buộc hạn chế nó. Liên kết với câu hỏi này là câu hỏi thứ hai, mang
đậm dấu ấn quan tâm đến tính cụ thể và tính liên tục theo thời gian: làm thế
nào chúng ta có thể thấm nhuần các cơ cấu và thể chế của mình với động lực của
Giáo hội hiệp hành mang tính sứ mạng?
58. Từ trọng tâm này dẫn đến một chủ đề khác, cũng cụ thể không kém, nhằm
mục đích chính xác vào việc duy trì động lực tham gia trở nên bền vững. Đó là
đào tạo, một chủ đề xuất hiện trên tất cả các tài liệu của giai đoạn thứ nhất.
Như đã được nhấn mạnh nhiều lần trong các báo cáo của các Đại hội Châu lục và
trước đó là các báo cáo của các Giáo hội địa phương, chỉ riêng các thể chế
và cơ cấu thôi thì không đủ để làm cho Giáo hội có tính hiệp hành. Cần
có một văn hóa và linh đạo hiệp hành được linh hoạt bởi ước muốn hoán cải và được
duy trì bởi sự đào tạo thích hợp. Nhu cầu đào tạo không giới hạn ở việc cập
nhật nội dung, nhưng có chiều kích toàn diện, ảnh hưởng đến tất cả các khả năng
và khuynh hướng của con người, bao gồm định hướng sứ vụ, khả năng liên kết và
xây dựng cộng đoàn, sẵn sàng lắng nghe tâm linh và quen thuộc với sự phân định
cá nhân và cộng đoàn. Cũng cần phải kiên nhẫn, kiên trì, tự tin và tự do nói ra
sự thật (parrhesia).
59. Việc đào tạo là phương tiện không thể thiếu để biến phương thức hiệp
hành thành một mô hình mục vụ cho đời sống và hoạt động của Giáo hội. Chúng
ta cần một sự đào tạo toàn diện, từ lúc khởi đầu và tiếp tục lâu dài, cho mọi
thành phần Dân Chúa. Không một tín hữu đã lãnh nhận phép Rửa nào có thể cảm
thấy xa lạ với cam kết này, và do đó, cần phải đưa ra những đề xuất thích hợp
cho việc đào tạo theo phương thức hiệp hành đến với tất cả các tín hữu. Đặc biệt,
càng được kêu gọi phục vụ Giáo hội, người ta càng phải cảm thấy sự cấp bách của
việc đào tạo: các Giám mục, Linh mục, Phó tế, Tu sĩ nam nữ và tất cả những ai
thi hành thừa tác vụ cần được đào tạo để đổi mới cách thức thi hành quyền bính
và tiến trình đưa ra quyết định theo phương thức hiệp hành, đồng thời học biết
làm thế nào để đồng hành với sự phân định và đối thoại cộng đoàn trong Thánh Thần.
Các ứng viên cho Thừa tác vụ giáo sĩ phải được đào tạo theo phong cách và não
trạng hiệp hành. Việc cổ vũ văn hóa hiệp hành bao hàm việc đổi mới chương trình
giảng dạy hiện nay của các chủng viện và việc đào tạo các giảng viên và giáo sư
thần học để có một định hướng rõ ràng và dứt khoát hơn đối với việc đào tạo cho
một đời sống hiệp thông, sứ vụ và tham gia. Việc đào tạo để có một linh đạo hiệp
hành đích thực hơn chính là trọng tâm của việc canh tân Giáo hội.
60. Nhiều đóng góp nhấn mạnh sự cần thiết phải có một nỗ lực tương tự để
đổi mới ngôn ngữ được Giáo hội sử dụng trong Phụng vụ, giảng thuyết, giáo lý,
nghệ thuật thánh, cũng như trong mọi hình thức truyền thông dành cho các Tín hữu
và công chúng rộng lớn hơn, kể cả thông qua các hình thức truyền thông mới hoặc
truyền thống. Không giảm bớt hoặc hạ thấp chiều sâu của mầu nhiệm mà Giáo hội
công bố hay sự phong phú của truyền thống, trái lại, việc đổi mới ngôn ngữ phải
nhằm mục đích làm cho những sự phong phú này trở nên dễ tiếp cận và hấp dẫn đối
với con người của thời đại chúng ta, chứ không phải là một rào cản khiến họ
tránh xa. Cảm hứng về sự mới mẻ của ngôn ngữ Tin Mừng, khả năng hội nhập văn
hóa mà lịch sử Giáo hội thể hiện, và những trải nghiệm đầy hứa hẹn đã và đang
diễn ra, ngay cả trong môi trường kỹ thuật số, mời gọi chúng ta tự tin và quyết
tâm theo đuổi nhiệm vụ vô cùng quan trọng này đối với hiệu quả của việc loan
báo Tin Mừng, vốn là mục tiêu mà một Giáo hội hiệp hành mang tính sứ mạng hướng
tới.
* * *
ĐẠI HỘI THƯỜNG LỆ LẦN THỨ XVI
CỦA THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC
CÁC PHIẾU LÀM
VIỆC CHO ĐẠI HỘI THƯỢNG HỘI ĐỒNG
(KHOÁ HỌP THỨ NHẤT – THÁNG MƯỜI 2023)
CÁC PHIẾU
LÀM VIỆC CHO ĐẠI HỘI THƯỢNG HỘI ĐỒNG
Giới thiệu
Nếu toàn bộ Tài liệu Làm việc “được thiết kế như một công cụ hỗ trợ thực
tiễn nhằm phục vụ cho việc điều hành Đại hội Thượng Hội đồng vào tháng 10 năm
2023, và do đó để chuẩn bị cho Đại hội” (số 10), thì điều này đặc biệt đúng đối
với các phiếu làm việc được trình bày ở đây. Các phiếu này đã được chuẩn bị để
giúp cho việc phân định ba “mối ưu tiên nổi lên mạnh mẽ nhất từ công việc của
tất cả các Châu lục” (số 14), nhằm xác định các bước cụ thể mà chúng ta cảm nhận
Chúa Thánh Thần mời gọi mình, ngõ hầu lớn lên trong tư cách một Giáo hội hiệp
hành. Vì thế, việc trình bày các phiếu, việc giải thích cấu trúc của chúng và
những hướng dẫn cách sử dụng chúng cần phải được đặt trong bối cảnh là công cuộc
rộng lớn hơn của Đại hội Thượng Hội đồng.
Các năng động
của Đại hội Thượng Hội đồng
Đại hội Thượng Hội đồng sẽ giải quyết các câu hỏi do Tài liệu Làm việc
nêu ra bằng cách xen kẽ các phiên họp toàn thể (Congregationes Generales) và làm việc theo nhóm nhỏ (Circuli Minores), như được dự kiến bởi
Tông hiến EC, điều 14.
Cách riêng, Đại hội sẽ tiến hành bằng cách thảo luận các chủ đề khác nhau
theo thứ tự mà Tài liệu Làm việc đề xuất. Khởi đầu sẽ làm việc về Phần A, “Vì một
Giáo hội Hiệp hành. Một kinh nghiệm toàn diện” (các số 17-42), với mục đích tập
trung cách rõ ràng hơn vào các đặc điểm cơ bản của một Giáo hội hiệp hành, bắt
đầu từ kinh nghiệm cùng nhau bước đi của Dân Thiên Chúa trong hai năm nay, và
được thu thập trong các tài liệu được hình thành suốt giai đoạn đầu tiên để các
mục tử phân định. Đại hội được yêu cầu tiến hành công việc của mình theo một
cách thức toàn diện khi xem xét kinh nghiệm của Dân Thiên Chúa như một tổng thể
trong tất cả tính phức tạp của nó.
Sau đó, Đại hội sẽ tiến hành bàn thảo ba vấn đề ưu tiên đã xuất hiện từ
giai đoạn thỉnh ý như được trình bày trong Phần B của Tài liệu Làm việc (các số
43-60). Mỗi vấn đề ưu tiên này là chủ đề của một trong ba phần theo như bố cục
của Phần B, “liên quan đến ba từ khóa của Thượng Hội đồng: hiệp thông, sứ mạng,
tham gia” (số 43). Thứ tự xuất hiện của ba thuật ngữ này được đảo ngược như đã
giải thích ở số 44. Thứ tự này được duy trì trong các phiếu làm việc, cũng được
chia thành ba phần, mỗi phần mang tiêu đề của phần tương ứng trong Phần B, để
làm nổi bật chủ đề thống nhất:
- “B1. Một sự hiệp thông tỏa sáng: Bằng cách nào chúng ta có thể làm một
dấu hiệu và khí cụ của sự kết hợp với Thiên Chúa và sự hiệp nhất toàn thể nhân
loại cách trọn vẹn hơn?” (các số 46-50);
- “B 2. Đồng trách nhiệm trong Sứ mạng: Bằng cách nào chúng ta có thể
chia sẻ một cách tốt hơn các ân ban và các nhiệm vụ phục vụ Tin Mừng?” (các số
51-55);
- “B 3. Tham gia, cai quản và quyền bính: Đâu là những tiến trình, những
cấu trúc và những cơ chế được cần đến trong một Giáo hội hiệp hành mang tính sứ
mạng?” (các số 56-60).
Tương ứng với từng điểm trong ba điểm ưu tiên ấy, sẽ có năm phiếu làm việc,
mỗi phiếu xác lập “một khởi điểm cho mối ưu tiên đang đề cập, bằng cách này điểm
ưu tiên ấy có thể được tiếp cận từ những nhãn quan khác nhau nhưng bổ sung cho
nhau, liên hệ với các khía cạnh khác nhau của đời sống Giáo hội vốn đã hiện lộ
lên thông qua công việc của các Đại hội cấp Châu lục” (số 45).
Việc cấu trúc công việc theo từng bước nối tiếp nhau không làm giảm tính
năng động gắn kết hai Phần. Kinh nghiệm của Dân Thiên Chúa được thảo luận với
nhãn quan hội nhập của Phần A tiếp tục biểu trưng cho chân trời trong đó đặt ra
các câu hỏi khác nhau được nêu ở Phần B, vốn vẫn cắm rễ trong kinh nghiệm đó. Đại
hội sẽ được yêu cầu “giữ trạng thái cân bằng năng động giữa việc duy trì một
cái nhìn tổng quan […] và việc xác định các bước cần thực hiện” (số 16). Cái
sau mang lại chiều sâu và làm cho cái trước trở nên cụ thể, đồng thời nhận được
phối cảnh và sự gắn kết chống lại nguy cơ phân tán trong các chi tiết.
Cuối cùng, phần cuối công việc của Đại hội sẽ được dành để thu thập các
thành quả của quá trình, nghĩa là phân định những nẻo đường để chúng ta sẽ tiếp
tục bước đi cùng nhau. Đại hội sẽ xem xét các cách thức để tiếp tục đọc kinh
nghiệm của Dân Thiên Chúa, bao gồm cả việc thúc đẩy các nghiên cứu chuyên sâu cần
thiết về thần học và giáo luật, nhằm chuẩn bị cho cuộc nhóm họp thứ hai của Đại
hội Thượng Hội đồng vào tháng 10 năm 2024.
Đại hội sẽ tiếp tục dùng phương pháp thảo luận trong Thánh Thần (x. các số
32-42) vốn đặc trưng toàn bộ tiến trình Thượng Hội đồng, với sự điều chỉnh khi
cần thiết. Thông qua kinh nghiệm trực tiếp về phương pháp này (xem hình ở trang
…), Đại hội sẽ có thể suy tư sâu sắc hơn về những cách thế để dễ dàng đưa nó
vào hơn trong đời sống bình thường của Giáo hội, như một cách phân định thánh ý
Thiên Chúa cùng với nhau.
Cách dùng các
phiếu làm việc
Các phiếu làm việc được thiết kế như một công cụ làm việc để thảo luận ba
điểm ưu tiên được nêu ở Phần B trong cuộc Đại hội vào tháng 10 năm 2023. Do đó,
chúng không phải là các chương của một quyển sách để đọc nối tiếp nhau, cũng
không phải là những khảo luận ngắn và ít nhiều hoàn chỉnh về một chủ đề. Chúng
phải “được làm” chứ không phải để “được đọc”, theo nghĩa là chúng cung ứng một
dàn ý để cầu nguyện và suy tư cá nhân nhằm chuẩn bị cho cuộc thảo luận nhóm và
toàn thể. Cũng vậy, chúng có thể được sử dụng cho các cuộc họp chuyên đề đào
sâu theo phong cách hiệp hành ở mọi cấp độ của đời sống Giáo hội. Chúng không
nhằm được xử lý nối tiếp nhau: mỗi phiếu phải được giữ gắn kết với mục tương ứng
với nó trong Phần B của Tài liệu Làm việc, nhưng có thể được xử lý độc lập đối
với tất cả các mục khác.
Tất cả các phiếu làm việc đều theo cùng một cấu trúc: chúng bắt đầu với một
phần bối cảnh hóa ngắn gọn của câu hỏi được đưa ra trong tiêu đề, mỗi phiếu chỉ
bao gồm những gì xuất hiện ở giai đoạn đầu tiên. Sau đó, các phiếu nêu một câu
hỏi để phân định. Cuối cùng, chúng cung cấp một số nhận thức, bao quát các quan
điểm khác nhau (thần học, mục vụ, giáo luật, v.v.), các chiều kích và các bình
diện (Giáo xứ, Giáo phận, v.v.). Trên hết, chúng nhắc nhớ đặc nét trên khuôn mặt
của các thành viên Dân Thiên Chúa, các đặc sủng và các tác vụ của họ, và những
câu hỏi mà họ đã bày tỏ trong giai đoạn lắng nghe. Rất nhiều gợi ý của mỗi phiếu
làm việc là kết quả của việc cố gắng trung thành với sự phong phú và đa dạng của
các chất liệu thu thập được từ cuộc thỉnh ý, nhưng chúng không nhằm để được coi
như một bảng câu hỏi đòi phải trả lời cho mọi câu hỏi. Một số nhận thức sẽ được
thấy đặc biệt gây cảm kích ở một số vùng nhất định trên thế giới, những nhận thức
khác thì ở những vùng khác. Mỗi người được mời gọi chọn những gì mà mình cảm thấy
tốt nhất để có thể chia sẻ sự phong phú trong bối cảnh Giáo hội của mình với những
người khác. Đây sẽ là sự đóng góp của họ vào công việc chung.
Mỗi phiếu làm việc tập trung vào chủ đề như thấy nơi tiêu đề, vận dụng
khung qui chiếu thể hiện bởi Tài liệu Làm việc, trong đó nội dung không được nhắc
lại cũng như không được trích dẫn cách minh nhiên trong mỗi trường hợp. Tuy
nhiên, chúng là cơ sở để làm việc, cùng với tất cả các tài liệu được hình thành
trong giai đoạn thỉnh ý: “Để chuẩn bị cho Đại hội Thượng Hội đồng, các thành
viên của Thượng Hội đồng được yêu cầu ghi nhớ các tài liệu trước đó, đặc biệt
là Tài liệu Làm việc cho Giai đoạn Châu lục và các Tài liệu Chung kết của các Đại
hội cấp Châu lục khác nhau, cũng như bản báo cáo của Thượng Hội đồng Kỹ thuật số,
và sử dụng chúng như những công cụ để phân định” (số 9). Vì thế, vấn đề không
phải là bắt đầu lại từ đầu, mà là tiếp tục một hành trình vốn đang diễn ra. Vì
lý do này, cũng như vì không gian giới hạn rõ ràng, các phiếu làm việc không
đưa ra một xử lý có tính hệ thống đối với từng chủ đề, cũng như không đề cập
sâu đến các vấn đề. Sự kiện tiến trình Thượng Hội đồng đã nhấn mạnh một số điểm
là ưu tiên không hề có nghĩa rằng các vấn đề khác kém quan trọng hơn. Trên cơ sở
cuộc thỉnh ý Dân Thiên Chúa, các câu hỏi được đề ra trong các phiếu làm việc
tiêu biểu cho các khởi điểm để thảo luận câu hỏi cơ bản thúc đẩy và hướng dẫn
toàn bộ tiến trình: “Làm thế nào để 'hành trình cùng nhau' này, diễn ra ngày
nay trên các bình diện khác nhau (từ địa phương cho đến hoàn vũ), cho phép Giáo
hội loan báo Tin Mừng theo như sứ mạng được ủy thác cho mình; và Chúa Thánh Thần
mời gọi chúng ta đi những bước nào để lớn lên trong tư cách một Giáo hội hiệp
hành?” (PD 2).
Có những điểm nối kết rõ ràng và có một số chồng chéo giữa các phiếu làm
việc. Đây không phải là vấn đề lặp đi lặp lại. Khi soạn thảo, người ta hiểu rằng
các phiếu làm việc được thiết kế để sử dụng độc lập với nhau. Hơn nữa, điều này
làm nổi bật mạng lưới kết nối phong phú giữa các chủ đề được đề cập.
Một số câu hỏi hiện lộ từ cuộc thỉnh ý Dân Thiên Chúa liên quan đến các vấn
đề vốn đã có giáo huấn thần học và huấn quyền cần được xem xét. Chỉ đưa ra hai
ví dụ, chúng ta có thể lưu ý đến việc đón nhận những người ly dị tái hôn, được
đề cập trong Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng Amoris
laetitia, hoặc việc hội nhập văn hóa của phụng vụ, chủ đề của Huấn thị Varietates legitimae (1994) của Bộ Phụng
tự và Kỷ luật các Bí tích. Thực tế là các câu hỏi tiếp tục nổi lên về các vấn đề
như thế này không nên bị bác bỏ vội vàng, mà đúng hơn, nó đòi hỏi sự phân định,
và Đại hội Thượng Hội đồng là một diễn đàn đặc quyền để làm công việc này. Đặc
biệt, những trở ngại, thực tế hoặc do cảm nhận, đã cản trở việc thực hiện các
bước được chỉ ra trong các tài liệu trước đây, thì cần được xem xét và đưa ra
những phản ánh về cách để loại bỏ chúng. Ví dụ: nếu sự cản trở là do thiếu
thông tin cách chung, thì sẽ cần phải cải thiện việc truyền đạt. Mặt khác, nếu
vấn đề bắt nguồn từ việc khó nắm bắt các hàm ý của các tài liệu trong các tình
huống thông thường hoặc do người ta không có khả năng nhận ra chính mình trong
những gì được đề xuất, thì một hành trình hiệp hành để Dân Chúa tiếp nhận cách
hiệu quả có thể là giải pháp thích hợp. Một trường hợp khác có thể là sự xuất
hiện trở lại của một câu hỏi nổi lên như dấu hiệu của một thực tế đã thay đổi
hay những hoàn cảnh cần có Ân sủng “chứa chan”. Điều này đòi hỏi phải suy tư
thêm về Kho tàng Đức tin và về Truyền thống sống động của Giáo hội.
Sẽ rất khó cho công việc của khóa họp đầu tiên của Đại hội Thường lệ lần
thứ XVI của Thượng Hội đồng Giám mục để đưa ra những hướng dẫn mang tính kết luận
về nhiều chủ đề này. Đây là lý do tại sao Đức Thánh Cha đã quyết định rằng Thượng
Hội đồng sẽ được tổ chức trong hai lượt nhóm họp. Mục tiêu chính của cuộc nhóm
họp thứ nhất sẽ là vạch ra các lộ trình nghiên cứu chuyên sâu sẽ được xúc tiến
theo phong cách hiệp hành, xác định các nhân sự thích ứng để tham gia và các
cách thức để bảo đảm một tiến trình hiệu quả nhằm phục vụ cho việc phân định sẽ
được hoàn thành trong cuộc nhóm họp thứ hai vào tháng 10 năm 2024. Sau đó, các
đề nghị về cách chúng ta có thể phát triển như một Giáo hội hiệp hành sẽ được đệ
trình lên Đức Thánh Cha.
Những
phiếu làm việc cho B 1. Một sự hiệp thông tỏa sáng
Bằng cách nào chúng ta có thể làm một dấu hiệu và khí cụ của sự kết hợp với
Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại cách trọn vẹn hơn?
B 1.1.
Làm sao để việc phục vụ bác ái và sự dấn thân cho công lý cũng như sự quan tâm
đối với ngôi nhà chung của chúng ta có thể nuôi dưỡng sự hiệp thông trong một
Giáo hội hiệp hành?
Các Đại hội cấp Châu lục nêu ra những chỉ dẫn khác nhau cho sự phát triển
của chúng ta trong tư cách một Giáo hội hiệp hành mang tính sứ mạng:
a) Trong một Giáo hội hiệp hành, người nghèo, theo nghĩa trước hết là những
người sống trong điều kiện nghèo nàn về vật chất và bị xã hội loại trừ, chiếm một
vị trí trung tâm. Họ là những người đón nhận sự chăm sóc, nhưng trên hết, họ là
những người mang Tin Mừng mà cả cộng đoàn cần được nghe. Giáo hội có điều gì đó
để học hỏi và tiếp nhận từ họ (x. Lc 6,20, EG 198). Một Giáo hội hiệp hành nhìn
nhận và trân trọng vai trò trung tâm của họ.
b) Việc quan tâm đến ngôi nhà chung của chúng ta kêu gọi hành động chung.
Giải pháp cho nhiều vấn đề, như sự biến đổi khí hậu, đòi hỏi sự dấn thân của
toàn thể gia đình nhân loại. Việc cùng nhau làm việc để chăm sóc ngôi nhà chung
của chúng ta tạo ra một bối cảnh cho sự gặp gỡ và hợp tác với thành viên của
các Giáo hội và các Cộng đoàn Giáo hội khác, với tín đồ của các tôn giáo khác,
và với mọi người thiện chí. Sự dấn thân này đòi hỏi chúng ta phải hành động đồng
thời trên nhiều bình diện: công việc huấn giáo và mục vụ, việc thúc đẩy những lối
sống tốt hơn, việc quản lý tài sản của Giáo hội (bất động sản và tài chính).
c) Các phong trào di cư là một dấu chỉ của thời đại chúng ta, và “những
người di cư là một ‘mẫu thức’ có thể soi sáng thời đại của chúng ta”.[10] Sự hiện
diện của họ đặc biệt kêu gọi các tín hữu Công giáo cùng nhau bước đi. Họ biểu
hiện lời mời gọi kiến tạo những mối liên kết với các Giáo hội ở các quốc gia gốc
của những người di cư, cũng là biểu hiện cơ hội để kinh nghiệm tính đa dạng của
Giáo hội, bao gồm cả những cộng đoàn hải ngoại của các Giáo hội Công giáo Đông
phương.
d) Một Giáo hội hiệp hành có thể đưa ra chứng tá ngôn sứ cho một thế giới
bị chia cắt và phân cực, nhất là khi các thành viên của Giáo hội cam kết bước
đi cùng với những người khác để xây dựng công ích. Ở những nơi in dấu xung đột
sâu sắc, điều này đòi hỏi khả năng trở thành những tác nhân hòa giải và kiến
tạo hòa bình.
e) “Mỗi cá nhân Kitô hữu và mỗi cộng đoàn được mời gọi trở thành khí cụ của
Thiên Chúa để giải phóng và thăng tiến người nghèo” (EG 187). Điều này hàm ý sẵn
sàng đứng về phía những người bị gạt bỏ nhất trong các cuộc tranh luận công
khai, góp tiếng nói bênh vực họ cũng như tố cáo các tình huống bất công và phân
biệt đối xử, đồng thời tìm cách tránh thỏa hiệp với những kẻ gây ra sự bất công.
Câu hỏi để
phân định
Bước đi cùng
nhau có nghĩa là không bỏ ai lại phía sau, và sát cánh với những người khốn khó
nhất. Chúng ta đang xây dựng một Giáo hội hiệp hành như thế nào để có khả năng
thúc đẩy sự thuộc về và sự tham gia của những người bé nhỏ nhất trong Giáo hội
và trong xã hội?
Những đề nghị
cho việc cầu nguyện và gợi ý suy tư
1) Những công cuộc của công lý và lòng thương xót là một hình thức tham dự
vào sứ mạng của Đức Kitô. Do đó, mọi người đã lãnh Phép Rửa đều được kêu gọi
tham gia vào lãnh vực này. Làm thế nào để đánh thức, vun trồng và củng cố ý thức
này trong các cộng đoàn Kitô hữu?
2) Những sự bất bình đẳng in dấu trong thế giới hiện nay cũng được thấy
trong Giáo hội, chẳng hạn, sự tách biệt các Giáo hội của những nước giàu và
nghèo, và sự tách biệt các cộng đoàn của những khu vực giàu nhất và nghèo nhất
trong cùng một quốc gia. Bằng cách nào chúng ta có thể vượt qua những sự bất
bình đẳng này, để cùng nhau bước đi trong tư cách là các Giáo hội địa phương, hầu
có thể kinh nghiệm một sự chia sẻ thực sự các ân ban?
3) Trên nẻo đường hiệp hành, những nỗ lực nào đã được thực hiện để tiếp
nhận tiếng nói của những người nghèo nhất và hội nhập sự đóng góp của họ? Chúng
ta đã học được gì về cách hỗ trợ sự thuộc về và sự tham gia của những người bị
gạt bỏ nhất? Điều gì cần xảy ra để giúp họ tham gia nhiều hơn vào việc bước đi
cùng với nhau, và bằng cách nào chúng ta cho phép họ chất vấn cách làm của
chúng ta khi nó không đủ bao gồm họ?
4) Làm thế nào để việc tiếp đón những người di cư trở thành một cơ hội để
bước đi với những người đến từ một nền văn hóa khác, nhất là khi chúng ta chia
sẻ cùng một đức tin? Đâu là sự tiên liệu trong việc chăm sóc mục vụ tại địa
phương cho các cộng đồng di cư? Các cộng đoàn hải ngoại của các Giáo hội Công
giáo Đông phương được đánh giá như thế nào, và làm thế nào để sự hiện diện của
họ có thể trở thành một cơ hội để trải nghiệm sự hiệp nhất trong khác biệt? Làm
thế nào để có thể tạo ra những mối kết nối giữa các Giáo hội ở các quốc gia nơi
rời đi và nơi đến?
5) Cộng đoàn Kitô hữu có biết cách đồng hành với toàn thể xã hội trong việc
xây dựng công ích, hay chỉ tìm cách bảo vệ những lợi ích riêng của mình? Cộng
đoàn Kitô hữu có thể làm chứng cho khả năng hòa hợp vượt khỏi những phân cực
chính trị không? Bằng cách nào cộng đoàn tự trang bị cho mình qua việc cầu nguyện
và đào tạo để đáp ứng những nhiệm vụ này? Làm việc phục vụ công ích đòi phải
hình thành các liên hiệp và các liên minh. Chúng ta nên dùng những tiêu chuẩn
phân định nào? Cộng đoàn đồng hành thế nào với các thành viên của mình dấn thân
vào chính trị?
6) Chúng ta có kinh nghiệm gì về việc bước đi cùng với những người khác
bên ngoài Giáo hội Công giáo (các cá nhân, các nhóm và phong trào) trong việc
chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta? Chúng ta đã học được gì? Những bước tiến
nào đang được thực hiện để phối hợp các cấp độ hành động khác nhau cần thiết
cho việc chăm sóc hiệu quả ngôi nhà chung của chúng ta?
7) Bước đi cùng với người nghèo và người bị gạt ra bên lề đòi hỏi sự sẵn
sàng lắng nghe. Giáo hội có nên công nhận một thừa tác vụ chuyên biệt lắng nghe
và đồng hành cho những người đảm nhận công việc này không? Làm thế nào một Giáo
hội hiệp hành có thể đào tạo và hỗ trợ những người cống hiến sự đồng hành như vậy?
Chúng ta có thể trao sự công nhận của Giáo hội như thế nào cho những người mang
ơn gọi đích thực để đóng góp cho một xã hội công bằng và chăm sóc ngôi nhà
chung của chúng ta?
B 1.2.
“Tình yêu và chân lý sẽ gặp nhau” (Tv 85,11). Bằng cách nào một Giáo hội hiệp
hành có thể làm cho lời hứa ấy trở thành khả tín?
Việc nhận hiểu ý nghĩa thực sự và cụ thể của tiếng gọi mời Kitô hữu gặp gỡ
Chúa qua sự chào đón và đồng hành đã nổi lên như một mối quan tâm cốt lõi trong
giai đoạn đầu tiên của hành trình Thượng Hội đồng.
DCS đã chọn hình ảnh Thánh Kinh về chiếc lều rộng mở (x. Is 54,2) để diễn
tả tiếng gọi trở thành một cộng đoàn vừa cởi mở vừa bám rễ sâu. Các Đại hội cấp
Châu lục, phát biểu từ các bối cảnh khác nhau, đã đề xuất những hình ảnh ấn tượng
khác nắm bắt chiều kích tiếp đón vốn là cốt lõi sứ mạng của Giáo hội. Á Châu
đưa ra hình ảnh một người cởi giày để bước qua ngưỡng cửa, như một dấu hiệu của
sự khiêm tốn mà chúng ta chuẩn bị để gặp gỡ Thiên Chúa và người thân cận của
mình. Châu Đại Dương đề xuất hình ảnh con thuyền và Châu Phi đề xuất hình ảnh
Giáo hội như gia đình của Thiên Chúa, có khả năng mang lại sự thuộc về và chào
đón tất cả các thành viên của mình trong tất cả sự đa dạng của họ.
Trong sự đa dạng này, chúng ta có thể dò ra một sự thống nhất về mục
đích. Ở khắp mọi nơi, Giáo hội đang tìm cách canh tân sứ mạng của mình để trở
thành một cộng đoàn chào đón và hiếu khách, để gặp gỡ Chúa Kitô nơi những người
mà mình chào đón, và trở thành một dấu chỉ sự hiện diện của Người và là lời
loan báo Tin Mừng đáng tin cậy trong đời sống của tất cả mọi người. Có một nhu
cầu sâu xa để bắt chước Chúa và Thầy trong khả năng sống điều dường như nghịch
lý: “can đảm rao giảng giáo huấn đích thực của Người, đồng thời trao chứng tá về
sự bao gồm và chấp nhận triệt để” (DCS 30).
Về điểm này, con đường hiệp hành đã là một cơ hội để tham gia vào một cuộc
gặp gỡ sâu xa, với sự khiêm tốn và chân thành. Một số người đã ngạc nhiên khi
khám phá rằng phong cách hiệp hành cho phép đặt các câu hỏi phát sinh từ cuộc gặp
gỡ trong một nhãn quan sứ mạng. Những cuộc gặp gỡ này đã không dẫn đến tình trạng
tê liệt nhưng đã nuôi dưỡng niềm hy vọng rằng Thượng Hội đồng sẽ là chất xúc
tác cho việc đổi mới sứ mạng và sẽ thúc đẩy chúng ta hàn gắn mạng lưới tương
quan của Giáo hội.
Mong muốn cung ứng sự tiếp đón chân thành, đó là một tâm cảm được các
tham dự viên Thượng Hội đồng bày tỏ trong nhiều bối cảnh khác nhau:
a) các tài liệu chung kết của các Đại hội cấp Châu lục thường đề cập đến
những người không cảm thấy mình được chấp nhận trong Giáo hội, như những người
ly dị và tái hôn, những người trong các cuộc hôn nhân đa thê hay đa phu, hay những
người Công giáo LGBTQ+;
b) các tài liệu ấy cũng ghi nhận sự kỳ thị chủng tộc, sắc tộc, giai cấp
hay tầng lớp xã hội cũng tồn tại trong Dân Thiên Chúa, làm cho một số người cảm
thấy mình kém quan trọng hay không được nồng nhiệt tiếp đón trong cộng đoàn;
c) có những báo cáo rộng rãi về nhiều rào cản văn hóa và thực tiễn làm
cho những người khuyết tật bị loại trừ, tình trạng này phải được khắc chế;
d) cũng nổi lên mối ưu tư rằng những người nghèo nhất, vốn dĩ Tin Mừng phải
được hướng trước hết đến họ, lại rất thường nằm ở bên lề các cộng đoàn Kitô hữu
(chẳng hạn, những di dân và những người tị nạn, các trẻ em đường phố, những người
vô gia cư, những nạn nhân buôn người, và những người khác);
e) các tài liệu của các Đại hội cấp Châu lục ghi nhận rằng cần phải duy
trì sự nối kết giữa cuộc hoán cải có tính hiệp hành và việc chăm sóc những người
sống sót qua nạn lạm dụng cũng như những người bị gạt ra lề trong Giáo hội. Các
Đại hội cấp Châu lục đặc biệt nhấn mạnh việc học thực thi công lý như một hình
thức chăm sóc những người bị làm tổn thương bởi các thành viên của Giáo hội, nhất
là các nạn nhân và những người sống sót từ mọi hình thức lạm dụng;
f) việc lắng nghe những tiếng nói bị lãng quên nhiều nhất được nhận diện
là cách để lớn lên trong tình yêu và công lý mà Tin Mừng kêu gọi chúng ta.
Câu hỏi để
phân định
Một Giáo hội
hiệp hành có thể thực hiện những bước nào để noi gương sâu sát hơn nữa theo Thầy
và Chúa của mình, Đấng đồng hành với mọi người trong tình yêu vô điều kiện và
là Đấng công bố chân lý trọn vẹn của Tin Mừng?
Những đề nghị
cho việc cầu nguyện và gợi ý suy tư
1) Đâu là thái độ chúng ta tiếp cận thế giới? Chúng ta có biết nhận ra điều
gì tốt, và đồng thời dấn thân trong tinh thần ngôn sứ để tố cáo tất cả những sự
xâm phạm phẩm giá của con người, của các cộng đồng con người và của công trình
tạo dựng?
2) Bằng cách nào chúng ta có thể nói tiếng nói ngôn sứ để vạch trần sự dữ
mà không xâu xé thêm các cộng đoàn của chúng ta? Bằng cách nào chúng ta có thể
trở nên một Giáo hội biết xử lý cách trung thực những xung khắc của mình và
không sợ bảo đảm có chỗ cho những bất đồng?
3) Bằng cách nào chúng ta có thể khôi phục sự gần gũi và những mối quan hệ
đầy quan tâm xét như cốt lõi sứ mạng của Giáo hội, “bước đi với người ta thay
vì nói về họ hay duy chỉ giành quyền nói áp đảo họ”?
4) Theo tinh thần của Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng Christus Vivit, chúng ta có thể bước đi cùng với những người trẻ
như thế nào? Làm thế nào để “sự ưu tiên chọn lựa người trẻ” có thể nằm ở trung
tâm các sách lược mục vụ và đời sống hiệp hành của chúng ta?
5) Bằng cách nào chúng ta có thể tiếp tục thực hiện những bước cụ thể đầy
ý nghĩa để đem lại công lý cho các nạn nhân và những người sống sót qua nạn lạm
dụng tình dục, cũng như nạn lạm dụng tâm linh, kinh tế, quyền lực và lương tâm
bởi những kẻ thi hành một sứ vụ hay trách nhiệm trong Giáo hội?
6) Bằng cách nào chúng ta có thể tạo ra những không gian nơi những người
cảm thấy bị Giáo hội làm tổn thương và không được cộng đồng chào đón cảm thấy
được công nhận, được đón nhận, được tự do đặt câu hỏi và không bị phán xét? Dưới
ánh sáng của Tông huấn Hậu Thượng Hội đồng Amoris
Laetitia, cần có những bước cụ thể nào để chào đón những người cảm thấy bị
loại trừ khỏi Giáo hội vì địa vị hoặc giới tính của họ (ví dụ, những người ly
hôn tái hôn, những người có hôn nhân đa thê, những người LGBTQ+, v.v.)?
7) Bằng cách nào chúng ta có thể cởi mở hơn và chào đón những người di cư
và tị nạn, các nhóm thiểu số về sắc tộc và văn hóa, cũng như các cộng đồng bản
địa, những người từ lâu đã là một phần của Giáo hội nhưng thường bị gạt ra bên
lề? Bằng cách nào Giáo hội có thể đón nhận tốt hơn sự hiện diện của họ như một
quà tặng?
8) Chúng ta cần phá bỏ những rào cản thể chất và văn hóa nào để người
khuyết tật cảm thấy họ là thành viên thực sự của cộng đoàn?
9) Bằng cách nào chúng ta có thể cổ võ sự đóng góp của những người cao tuổi
vào đời sống của cộng đoàn Kitô hữu và xã hội?
B 1.3.
Làm sao để có thể phát triển một tương quan năng động trao đổi ân ban giữa các
Giáo hội?
Sự hiệp thông mà Giáo hội được mời gọi là một mối tương quan năng động
trao đổi ân ban, nó làm chứng cho một sự hiệp nhất siêu việt trong sự đa dạng.
Một trong những ân ban quan trọng nhất của hành trình hiệp hành cho đến nay là
việc tái khám phá sự phong phú trong tính đa dạng của chúng ta và chiều sâu của
mối nối kết giữa chúng ta. Tính đa dạng và sự nối kết không đe dọa mà đúng hơn
cung cấp bối cảnh để đón nhận cách sâu xa hơn sự hợp nhất của chúng ta đặt nền
trên cùng một công trình tạo dựng, tiếng gọi vận mệnh.
Tiến trình Thượng Hội đồng đã được trải nghiệm một cách hăng hái và sống
động ở cấp độ địa phương của Giáo hội, nhất là là khi có những cơ hội bàn thảo
trong Thánh Thần. Tài liệu Làm việc cho Giai đoạn Châu lục đã tìm cách nắm bắt
sự sống động này khi nhấn mạnh sự hội tụ phi thường của các vấn đề và các chủ
điểm đã hiện lên trong các bối cảnh. Trong các Đại hội cấp Châu lục, các khía cạnh
của đời sống Giáo hội trong những bối cảnh rất khác nhau đã được khám phá như một
quà tặng quý giá. Đồng thời, các Châu lục đi vào một mối tương quan sâu sắc hơn
với tính đa dạng đặc trưng các vùng miền khác nhau của mình. Sự đa dạng này bao
gồm những khác biệt giữa các vùng lân cận nhau trong các Châu lục cũng như các
biểu hiện đa dạng của tính Công giáo ở những nơi mà các Giáo hội Công giáo La
tinh và Đông phương chia sẻ cùng một lãnh thổ, thường là kết quả của những làn
sóng di cư Công giáo và sự hình thành các cộng đồng hải ngoại. Như một Đại hội
cấp Châu lục đã ghi nhận, chúng ta đã kinh nghiệm chính mình rất cụ thể như là
“những cộng đồng của các cộng đồng”, với lưu ý đến những ân ban và những căng
thẳng mà điều này có thể đem lại.
Những cuộc gặp gỡ này đã dẫn tới các ghi nhận chung và các yêu cầu rõ
ràng:
a) Mong ước rằng chúng ta có thể nghe được rõ hơn và nhận ra các truyền
thống khác nhau của các vùng và các Giáo hội cụ thể trong một cuộc thảo luận có
tính Giáo hội và thần học vốn thường bị chi phối bởi các tiếng nói phương Tây/
La tinh. Phẩm giá của những người đã chịu Phép Rửa được công nhận là một điểm
then chốt trong nhiều bối cảnh, cũng vậy, cách riêng đối với nhiều thành viên của
các Giáo hội Công giáo Đông phương, Mầu nhiệm Vượt qua được cử hành trong các
Bí tích Khai tâm Kitô giáo vẫn là tâm điểm suy tư về căn tính Kitô giáo và về
Giáo hội hiệp hành.
b) các Giáo hội Công giáo Đông phương có một kinh nghiệm lâu dài và nổi bật
về tính hiệp hành, cùng chia sẻ với các Giáo hội Chính thống, đó là một truyền
thống mà họ muốn được lưu tâm trong các cuộc thảo luận và phân định của tiến
trình Thượng Hội đồng này.
c) cũng vậy, có những thực tế cụ thể và đặc biệt mà các Kitô hữu Đông
phương ở hải ngoại phải đối mặt trong những bối cảnh mới, cùng với các anh chị
em Chính thống giáo của họ. Chúng ta mong ước rằng các Giáo hội Công giáo Đông
phương ở cộng đồng hải ngoại có thể bảo tồn bản sắc của mình và được nhìn nhận
không chỉ là những cộng đồng sắc tộc, tức là như các Giáo hội tự quản (sui iuris - thuộc quyền riêng của mình)
với các truyền thống thiêng liêng, thần học và phụng vụ phong phú góp phần vào
sứ mạng của Giáo hội ngày nay trong bối cảnh toàn cầu.
Câu hỏi để
phân định
Bằng cách nào
mỗi Giáo hội địa phương, chủ thể của sứ mạng trong bối cảnh của mình, có thể
tăng cường, thúc đẩy và hội nhập việc trao đổi ân ban với các Giáo hội địa
phương khác trong phạm vi của Giáo hội Công giáo duy nhất? Bằng cách nào các
Giáo hội địa phương có thể được giúp đỡ để thăng tiến đặc tính Công giáo của
Giáo hội trong mối tương quan hài hòa giữa hiệp nhất và đa dạng, bảo tồn nét đặc
thù của mỗi Giáo hội?
Những đề nghị
cho việc cầu nguyện và gợi ý suy tư
1) Bằng cách nào chúng ta có thể nâng cao nhận thức rằng Giáo hội, vừa
duy nhất vừa Công giáo, ngay từ đầu đã mang tính đa dạng rất phong phú?
2) Các Giáo hội địa phương có thể diễn tả lòng hiếu khách với nhau bằng
những cử chỉ nào để nhận được ích lợi từ việc trao đổi các ân ban cho Giáo hội
và thể hiện mối hiệp thông Giáo hội trong các lãnh vực phụng vụ, linh đạo, chăm
sóc mục vụ và suy tư thần học? Đặc biệt, bằng cách nào chúng ta có thể tạo điều
kiện cho việc trao đổi kinh nghiệm và tầm nhìn về tính hiệp hành giữa các Giáo
hội Công giáo Đông phương và Giáo hội La tinh?
3) Bằng cách nào Giáo hội La tinh có thể tăng thêm sự cởi mở đối với các
truyền thống thiêng liêng, thần học và phụng vụ của các Giáo hội Công giáo Đông
phương?
4) Bằng cách nào các Giáo hội Công giáo Đông phương ở hải ngoại có thể bảo
tồn bản sắc của mình và được nhìn nhận không chỉ là các nhóm sắc tộc?
5) Một số Giáo hội sống trong tình trạng rất bấp bênh. Bằng cách nào các
Giáo hội khác có thể gánh vác nỗi khổ của họ và chu cấp cho các nhu cầu của họ,
thực hành lời dạy của Thánh Phaolô Tông đồ, người đã yêu cầu các cộng đoàn ở Hy
Lạp quảng đại hỗ trợ Giáo hội Giêrusalem: “Hãy để sự dư dả của anh em bù đắp
cho sự thiếu thốn của họ, để sự dư dả của họ cũng bù đắp cho sự thiếu thốn của
anh em, và như vậy có sự cân bằng” (2Cr 8,14)? Các tổ chức toàn cầu và các tổ
chức của Tòa thánh chuyên phục vụ bác ái có thể đóng vai trò gì trong phương diện
này?
6) Bằng cách nào chúng ta có thể lưu tâm và trân trọng những đóng góp và
kinh nghiệm của các Giáo hội địa phương trong giáo huấn của Huấn quyền và các
quy tắc của Giáo hội ở cấp độ hoàn vũ?
7) Trong một thế giới ngày càng toàn cầu hóa và nối kết nhau, làm sao để
phát triển mạng lưới tương quan giữa các Giáo hội địa phương của cùng một vùng
miền cũng như của các Châu lục khác nhau? Làm sao để sự gia tăng tính lưu động
của người ta và do đó sự hiện diện của các cộng đồng di cư có thể trở thành một
cơ hội xây dựng mối nối kết giữa các Giáo hội và trao đổi các ân ban? Làm thế
nào để những căng thẳng và hiểu lầm vốn có thể phát sinh giữa các tín hữu thuộc
các nền văn hóa và truyền thống khác nhau có thể được giải quyết một cách xây dựng?
8) Làm thế nào để các tổ chức toàn cầu của Giáo hội, bắt đầu với những tổ
chức trực thuộc Tòa thánh và các Bộ của Giáo triều Rôma, có thể thúc đẩy việc
điều phối các ân ban giữa các Giáo hội?
9) Làm thế nào để việc trao đổi các kinh nghiệm và các ân ban trở nên
tích cực và hiệu quả, không chỉ giữa các Giáo hội địa phương khác nhau, mà còn
giữa các ơn gọi, đặc sủng và linh đạo khác nhau trong Dân Thiên Chúa, kể cả các
hội dòng thánh hiến và các tu đoàn tông đồ, các hiệp hội và phong trào giáo
dân, và các cộng đoàn mới? Làm sao có thể bảo đảm sự tham gia của các cộng đoàn
đời sống chiêm niệm vào trong việc trao đổi này?
B 1.4. Bằng
cách nào một Giáo hội hiệp hành có thể chu toàn sứ mạng của mình xuyên qua một
sự dấn thân đại kết được canh tân?
“Nẻo đường hiệp hành mà Giáo hội Công giáo đang đi thiết yếu phải mang
tính đại kết, cũng như nẻo đường đại kết phải có tính hiệp hành”.[11] Tính hiệp
hành là một thách thức chung liên quan đến tất cả những người tin vào Chúa
Kitô, cũng như tinh thần đại kết trước hết là một con đường cùng đi (syn-odos) với các Kitô hữu khác. Tính hiệp
hành và tinh thần đại kết là hai nẻo đường cùng bước đi với nhau, với một mục
tiêu chung: hướng đến một chứng tá Kitô giáo tốt đẹp hơn. Điều này có thể mang
dạng thức cùng sống chung trong một “sự sống đại kết” ở các cấp độ khác nhau, kể
cả thông qua các cuộc hôn nhân hỗn hợp giữa các Giáo hội, cũng như thông qua
hành động tột đỉnh là trao hiến mạng sống mình để làm chứng cho lòng tin vào
Chúa Kitô trong tính đại kết của việc tuẫn đạo.
Có một số hàm ý đại kết trong việc dấn thân xây dựng một Giáo hội hiệp
hành:
a) Qua Phép Rửa duy nhất, mọi Kitô hữu đều tham dự vào sensus fidei (cảm thức đức tin siêu
nhiên; xem LG 12), đó là lý do tại sao trong một Giáo hội hiệp hành, tất cả những
người đã chịu Phép Rửa đều phải được chăm chú lắng nghe;
b) Hành trình đại kết là một “sự trao đổi ân ban”, và một trong những ân
ban mà người Công giáo có thể đón nhận được từ các Kitô hữu khác chính là kinh
nghiệm hiệp hành của họ (x. EG 246). Việc tái khám phá tính hiệp hành xét như một
chiều kích làm nên Giáo hội là một hoa trái của cuộc đối thoại đại kết, đặc biệt
là với Chính thống giáo.
c) Phong trào đại kết như một phòng thí nghiệm của tính hiệp hành. Đặc biệt,
phương pháp đối thoại và xây dựng sự đồng thuận được trải nghiệm ở các cấp độ
khác nhau trong phong trào đại kết có thể là một nguồn cảm hứng;
d) Tính hiệp hành là một phần của “cuộc cải cách liên tục” của Giáo hội,
vì chủ yếu chính nhờ sự cải cách bên trong, trong đó tính hiệp hành đóng một
vai trò thiết yếu, mà Giáo hội Công giáo xích lại gần các Kitô hữu khác (UR
4.6);
e) Có một mối quan hệ hỗ tương giữa tính cách hiệp hành của Giáo hội Công
giáo và tính khả tín của sự dấn thân đại kết của mình;
f) Một tính hiệp hành nào đó giữa các Giáo hội sẽ được kinh nghiệm bất cứ
khi nào các Kitô hữu từ các cộng đoàn khác nhau đến với nhau nhân danh Chúa
Giêsu Kitô để cùng cầu nguyện, hành động và cùng làm chứng, cũng như thường
xuyên tham vấn và tham gia vào các tiến trình hiệp hành của nhau.
Tất cả các Tài liệu Chung kết của các Đại hội cấp Châu lục đều nêu bật mối
quan hệ chặt chẽ giữa tính hiệp hành và tinh thần đại kết, và một số Tài liệu
dành trọn cả chương cho nó. Thật vậy, cả tính hiệp hành và đại kết đều cắm rễ
trong phẩm giá do Phép Rửa của toàn thể Dân Thiên Chúa. Cả hai cùng mời gọi sự
dấn thân mới mẻ cho tầm nhìn về một Giáo hội hiệp hành mang tính sứ mạng. Cả
hai đều là những tiến trình lắng nghe và đối thoại, và mời gọi chúng ta lớn lên
trong một sự hiệp thông vốn không phải là đồng nhất mà là hiệp nhất trong sự đa
dạng chính đáng. Cả hai nêu bật nhu cầu phải có tinh thần đồng trách nhiệm, vì
các quyết định và các hành động của chúng ta ở các cấp độ khác nhau sẽ ảnh hưởng
đến tất cả các thành viên của Thân thể Chúa Kitô. Đó là những tiến trình tâm
linh của sự sám hối, tha thứ và hòa giải trong một cuộc đối thoại về sự hoán cải
có thể dẫn đến một sự chữa lành ký ức.
Câu hỏi để
phân định
Bằng cách nào
kinh nghiệm và thành quả của hành trình đại kết có thể giúp xây dựng một Giáo hội
Công giáo hiệp hành hơn; Bằng cách nào tính hiệp hành có thể giúp Giáo hội Công
giáo đáp ứng tốt hơn lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: “Xin cho tất cả nên một...
để thế gian tin” (Ga 17,21)?
Những đề nghị
cho việc cầu nguyện và gợi ý suy tư
1) Thượng Hội đồng này là một cơ hội để học hỏi từ các Giáo hội và các Cộng
đoàn Giáo hội khác, và để “gặt hái những gì Chúa Thánh Thần đã gieo nơi họ như
một quà tặng cho cả chúng ta nữa” (EG 246). Người Công giáo có thể học (lại) những
gì từ kinh nghiệm hiệp hành của các Kitô hữu khác và của phong trào đại kết?
2) Bằng cách nào chúng ta có thể thúc đẩy sự tham gia tích cực của toàn
thể Dân Thiên Chúa vào phong trào đại kết? Đặc biệt, bằng cách nào chúng ta có
thể cổ động sự đóng góp quan trọng của những người sống đời thánh hiến, các đôi
bạn và các gia đình liên Giáo hội, những người trẻ, các phong trào Giáo hội và
các cộng đoàn đại kết?
3) Trong những lĩnh vực nào một sự “chữa lành ký ức” là cần thiết, liên
quan đến mối quan hệ với các Giáo hội và các Cộng đoàn Giáo hội khác? Bằng cách
nào chúng ta có thể cùng nhau xây dựng một “ký ức mới”?
4) Bằng cách nào có thể cải thiện việc chúng ta “bước đi cùng” với các
Kitô hữu thuộc mọi truyền thống? Làm thế nào để dịp kỷ niệm chung 1700 năm Công
đồng Nicê (325-2025) có thể mang lại một cơ hội như thế?
5) “Thừa tác vụ hiệp nhất của giám mục được nối kết chặt chẽ với tính hiệp
hành”.[12] Giám mục,
trong tư cách là “nguyên lý và nền tảng hữu hình của sự hiệp nhất” (LG 23), được
kêu gọi cổ võ đại kết theo cách thức hiệp hành tại Giáo hội địa phương của mình
như thế nào?
6) Tiến trình Thượng Hội đồng đang diễn ra có thể đóng góp như thế nào
vào việc “tìm ra một thể thức thực thi quyền tối thượng mà trong khi không từ bỏ
bản chất thiết yếu thuộc sứ mạng của nó, vẫn mở ra cho một tình huống mới”?[13]
7) Bằng cách nào các Giáo hội Công giáo Đông phương có thể giúp đỡ, ủng hộ
và thúc đẩy Giáo hội La tinh trong sự dấn thân chung mang tính hiệp hành và đại
kết? Bằng cách nào Giáo hội La tinh có thể hỗ trợ và thúc đẩy bản sắc của các
tín hữu Công giáo Đông phương ở hải ngoại?
8) Khẩu hiệu đại kết của Đức Thánh Cha Phanxicô, “Bước đi với nhau, làm
việc với nhau, cầu nguyện với nhau”,[14] có thể truyền cảm hứng như
thế nào cho một sự dấn thân mới mẻ vào công cuộc hiệp nhất Kitô giáo theo cách
hiệp hành?
B 1.5. Bằng
cách nào dưới ánh sáng Tin Mừng, chúng ta có thể nhìn nhận và thu thập sự phong
phú của các nền văn hóa và phát triển việc đối thoại giữa các tôn giáo?
Để lắng nghe mọi người, cần phải biết cách lắng nghe các nền văn hóa mà họ
gắn bó, trong nhận thức rằng mọi nền văn hóa đều đang liên tục tiến triển. Một
Giáo hội hiệp hành cần học cách diễn đạt Tin Mừng tốt hơn trong các nền văn hóa
và các bối cảnh địa phương, nhờ một sự phân định xuất phát từ xác quyết rằng
Chúa Thánh Thần ban cho Giáo hội một chiều rộng đến mức Giáo hội có thể chào đón
bất kỳ nền văn hóa nào, không có ngoại lệ. Bằng chứng về điều này là sự kiện
các Giáo hội địa phương vốn được đặc trưng bởi sự đa dạng lớn lao, đó là một ân
phúc. Trong đó, các quốc tịch và nhóm dân tộc khác nhau cũng như các tín đồ từ
các truyền thống Đông và Tây phương cùng tồn tại. Sự phong phú này không phải
lúc nào cũng dễ sống và có thể trở thành nguồn gốc của chia rẽ và xung đột.
Ngoài ra, thời của chúng ta được đánh dấu bằng sự tràn ngập của một nền
văn hóa mới, đó là các môi trường kỹ thuật số và phương tiện truyền thông mới.
Như sáng kiến Thượng Hội đồng Kỹ thuật số cho thấy, Giáo hội vốn hiện diện ở
đó thông qua hoạt động của nhiều Kitô hữu, đặc biệt là giới trẻ. Tuy nhiên, vẫn
còn thiếu một nhận thức đầy đủ hơn về tiềm năng mà môi trường này mang lại cho
việc rao giảng Tin Mừng, hoặc một suy tư - đặc biệt về mặt nhân học - về những
thách thức mà môi trường này đặt ra.
Trong công việc của giai đoạn chuẩn bị, nhiều căng thẳng khác nhau đã xuất
hiện. Chúng ta không nên choáng ngợp bởi những căng thẳng này, nhưng chúng có
thể được vận dụng như những nguồn động lực:
a) trong tương quan giữa Tin Mừng và các nền văn hóa địa phương, với những
kinh nghiệm và những quan điểm khác nhau. Một số người coi việc áp dụng các
truyền thống của Giáo hội hoàn vũ là một sự áp đặt lên các nền văn hóa địa
phương, hoặc thậm chí là một hình thức của chủ nghĩa thực dân. Những người khác
tin rằng Chúa Thánh Thần hoạt động trong mọi nền văn hóa, làm cho nó vốn có khả
năng diễn đạt các chân lý của đức tin Kitô giáo. Những người khác nữa lại cho rằng
các Kitô hữu không thể áp dụng hoặc thích ứng những thực hành văn hóa tiền Kitô
giáo.
b) trong tương quan giữa Kitô giáo với các tôn giáo khác. Trong khi có những
kinh nghiệm đầy hoa trái về việc đối thoại và gắn kết với các tín đồ của các
tôn giáo khác, thì ở một số vùng lại xuất hiện những khó khăn, những hạn chế và
những biểu hiện của sự ngờ vực, thậm chí có sự xung đột và bách hại trực tiếp
hay gián tiếp. Giáo hội mong muốn xây dựng những nhịp cầu để cổ võ hòa bình,
hòa giải, công lý và tự do, nhưng cũng có những hoàn cảnh đòi hỏi chúng ta phải
hết sức kiên nhẫn và hy vọng rằng mọi thứ có thể thay đổi;
c) trong mối tương quan giữa một bên là Giáo hội với bên kia là văn hóa
phương Tây và các hình thức thực dân văn hóa. Có những thế lực đang hoạt động
trong thế giới chống lại sứ mạng của Giáo hội, dựa trên các ý thức hệ có tính
triết học, kinh tế và chính trị đặt nền trên những giả định thù địch với đức
tin. Không phải ai cũng hiểu những căng thẳng này theo cách giống nhau, chẳng hạn,
đối với hiện tượng thế tục hóa, mà một số người coi là mối đe dọa và những người
khác coi đó là cơ hội. Đôi khi sự căng thẳng này được diễn giải theo cách giản
lược hóa như là xung đột giữa những người mong muốn thay đổi và những người sợ
thay đổi;
d) trong mối tương quan giữa các cộng đồng bản địa và các mẫu thức hoạt động
thừa sai của phương Tây. Nhiều nhà thừa sai Công giáo đã thể hiện sự tận tâm và
quảng đại trong việc chia sẻ đức tin của mình, nhưng trong một số trường hợp,
các hành động của họ đã cản trở khả năng các nền văn hóa địa phương cống hiến sự
đóng góp riêng của mình cho việc xây dựng Giáo hội;
e) trong mối tương quan giữa cộng đoàn Kitô hữu và giới trẻ, nhiều người
trẻ cảm thấy bị loại trừ bởi ngôn ngữ được áp dụng trong các bối cảnh Giáo hội,
thứ ngôn ngữ dường như không thể hiểu được đối với họ.
Những căng thẳng này trước hết phải được giải quyết thông qua sự phân định
ở cấp địa phương, và không có những giải pháp đóng gói sẵn. Các Đại hội cấp
Châu lục đã nhấn mạnh một số thái độ của cá nhân và cộng đoàn có thể giúp ích:
một thái độ khiêm tốn và tôn trọng; khả năng lắng nghe và thúc đẩy việc thảo luận
chân thực trong Thánh Thần; sự sẵn sàng để thay đổi, đón nhận năng động Vượt
Qua của cái chết và sự phục sinh, cũng như với sự tôn trọng những hình thức sống
cụ thể của Giáo hội; đào tạo để phân định văn hóa khi có xung khắc giữa các cảm
thức địa phương và linh đạo, và đào tạo để đồng hành cho những người từ các nền
văn hóa khác nhau.
Câu hỏi để
phân định
Bằng cách nào
chúng ta có thể loan báo Tin Mừng một cách hiệu quả trong các bối cảnh và các nền
văn hóa khác nhau, để thúc đẩy cuộc gặp gỡ của những con người nam nữ thời đại
chúng ta với Đức Kitô? Chúng ta có thể thiết lập những mối gắn kết nào với các
tín đồ của các tôn giáo khác để xây dựng một nền văn hóa gặp gỡ và đối thoại?
Những đề nghị
cho việc cầu nguyện và gợi ý suy tư
1) Các Giáo hội địa phương sử dụng những công cụ nào để đọc hiểu các nền
văn hóa mà mình sống trong đó? Dưới ánh sáng Tin Mừng, bằng cách nào các Giáo hội
địa phương có thể tôn trọng và đề cao các nền văn hóa của các bối cảnh địa
phương khác nhau? Các Giáo hội địa phương có thể tạo ra những cơ hội nào để đọc
lại các giáo huấn của Giáo hội dưới ánh sáng của các nền văn hóa địa phương?
2) Những không gian nào có sẵn để cho các nền văn hóa thiểu số và nhập cư
tìm cách thể hiện trong các Giáo hội địa phương?
3) Nhiều Giáo phận, Hội đồng Giám mục, và Đại hội cấp Châu lục đã bày tỏ
mong muốn có thể diễn đạt lại đời sống cộng đoàn và đặc biệt là phụng vụ phù hợp
với các nền văn hóa địa phương. Chúng ta có thể đưa ra động lực hiệp hành nào để
đáp ứng mong muốn này?
4) Làm thế nào để thúc đẩy việc huấn luyện trong việc phân định văn hóa?
Làm thế nào để chúng ta cổ vũ, giáo dục và thừa nhận các đặc sủng và ơn gọi của
“những người chuyển dịch”, tức là những người giúp xây dựng nhịp cầu giữa các
tôn giáo, các nền văn hóa và dân chúng?
5) Chúng ta cảm thấy được kêu gọi thực hiện những cử chỉ hòa giải và hòa
bình nào với các tôn giáo khác? Trong tinh thần xây dựng, các Giáo hội xử lý những
thành kiến, căng thẳng và xung đột như thế nào? Bằng cách nào chúng ta có thể
làm chứng cho Tin Mừng ở những quốc gia mà Giáo hội chỉ là thiểu số, mà không
làm suy yếu chứng tá đức tin của chúng ta, nhưng cũng không làm cho các Kitô hữu
bị đe dọa và bách hại một cách không cần thiết?
6) Bằng cách nào Giáo hội có thể liên hệ với văn hóa phương Tây và các nền
văn hóa khác, kể cả bên trong Giáo hội, một cách thẳng thắn, có tính ngôn sứ và
trong tinh thần xây dựng, và tránh mọi hình thức của chủ nghĩa thực dân?
7) Đối với một số người, xã hội thế tục hóa là một mối đe dọa cần phải chống
lại, đối với những người khác thì đó là một thực tế cần phải chấp nhận, và đối
với những người khác nữa thì đó lại là một nguồn cảm hứng và một cơ hội. Bằng
cách nào các Giáo hội có thể tiếp tục đối thoại với thế giới mà không trở nên
trần tục?
8) Bằng cách nào chúng ta có thể tạo ra các cơ hội để phân định trong môi
trường kỹ thuật số? Chúng ta cần kiến tạo những hình thức cộng tác nào và những
cơ cấu nào cho mục đích loan báo Tin Mừng trong một môi trường thiếu chiều kích
lãnh thổ?
Các phiếu
làm việc cho B 2. Đồng trách nhiệm trong Sứ mạng
Chúng ta có thể chia sẻ
các ân ban và các nhiệm vụ trong công việc phục vụ Tin Mừng như thế nào?
B 2.1. Bằng
cách nào chúng ta có thể đồng hành hướng đến một nhận thức chung về ý nghĩa và
nội dung của sứ mạng?
Sứ mạng của Giáo hội là loan báo Tin Mừng và làm cho Chúa Kitô hiện diện,
nhờ ân ban Thánh Thần. Nhiệm vụ này thuộc về mọi người đã lãnh Phép Rửa (x. EG
120): tính hiệp hành tự thân nó có tính sứ mạng thừa sai, và bản thân sứ mạng
là hành động có tính hiệp hành. Chúng ta không ngừng được mời gọi lớn lên trong
việc đáp trả tiếng gọi này, đổi mới cách thức Giáo hội thi hành sứ mạng của
mình trong phong cách hiệp hành. Trong những phản ánh của các Đại hội cấp Châu
lục, sứ mạng diễn tả nhiều chiều kích phải được điều hòa và không đối nghịch
nhau trong cái nhìn toàn diện được Evangelii
nuntiandi cổ võ và Evangelii gaudium
tiếp nhận. Ví dụ:
a) một lời kêu gọi tha thiết đổi mới đời sống phụng vụ của Giáo hội địa
phương, như một nơi rao giảng qua Lời Chúa và Bí tích, nhấn mạnh phẩm chất của
việc rao giảng và ngôn ngữ của phụng vụ. Vấn đề ngôn ngữ phụng vụ đòi hỏi một sự
cân bằng đúng đắn giữa một bên là sự hiệp nhất của Giáo hội, cũng được diễn tả
trong sự thống nhất về nghi thức, và bên kia là những sự đa dạng hợp pháp được
xét đến trong một công cuộc hội nhập văn hóa thích hợp;[15]
b) sự nhấn mạnh niềm mong ước có một Giáo hội nghèo và gần gũi những người
đau khổ, có khả năng loan báo Tin Mừng bằng sự gần gũi và lòng bác ái. Theo dấu
chân của Chúa, chứng tá này đi xa đến mức tuẫn đạo và diễn tả ơn gọi
“Samaritanô” của Giáo hội. Về những tình huống mà Giáo hội gây ra các tổn
thương lẫn những tình huống mà chính Giáo hội bị thương tích, thì nếu những người
liên quan không được chăm sóc thích đáng, những trường hợp này sẽ trở thành một
cản trở cho chứng tá của Giáo hội về tình yêu của Thiên Chúa và sự thật của Tin
Mừng;
c) trong tinh thần ngôn sứ, một chìa khóa để chống lại chủ nghĩa thực dân
mới đầy sức phá hoại là việc mở ra những nơi phục vụ vô điều kiện theo gương
Chúa Kitô, Đấng đến không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ (x. Mc 10,45).
Đây là những nơi mà các nhu cầu cơ bản của con người có thể được đáp ứng, nơi
người ta cảm thấy được tiếp đón và không bị phán xét, được tự do chất vấn về những
lý do cho niềm hy vọng của chúng ta (x. 1 Pr 3,15), và người ta được tự do rời
đi và trở lại. Đối với một Giáo hội hiệp hành, sứ mạng luôn là việc xây dựng
cùng với người khác, hơn là cho người khác;
d) trong môi trường kỹ thuật số, Giáo hội đang khám phá ra một cơ hội
loan báo Tin Mừng. Giáo hội nhận ra rằng việc xây dựng những mạng lưới các mối
quan hệ trong không gian này giúp mọi người, đặc biệt giới trẻ, có thể kinh
nghiệm những cách thức mới mẻ của việc bước đi cùng nhau. Sáng kiến về Thượng
Hội đồng Kỹ thuật số thu hút sự chú ý của Giáo hội đối với thực tại của con người
như một hữu thể truyền thông, ngay cả trong những mạng truyền thông đang định
hình thế giới hiện nay của chúng ta;
Ước muốn tăng triển trong sự dấn thân sứ mạng không bị cản trở bởi ý thức
về những giới hạn của các cộng đoàn Kitô hữu hay bởi sự nhìn nhận những thất bại
của các cộng đoàn ấy. Ngược lại, chuyển động đi ra khỏi chính mình trong đức
tin, đức cậy và đức ái là một cách xử lý sự bất toàn này. Tuy nhiên, bên cạnh
việc khẳng định ước muốn này, các Đại hội cấp Châu lục cũng nói lên tình trạng
thiếu rõ ràng và thiếu nhận thức chung về ý nghĩa, phạm vi và nội dung của sứ mạng
Giáo hội hay các tiêu chuẩn để diễn đạt rõ ràng những cách thể hiện đa dạng của
sứ mạng ấy. Điều này cản trở việc chúng ta bước đi cùng nhau và có thể chia rẽ
chúng ta. Do đó, đòi hỏi phải có những phương thức đào tạo mới cũng như những
nơi gặp gỡ và đối thoại, theo tinh thần hiệp hành, giữa các nhãn quan, linh đạo
và cảm thức khác nhau làm nên sự phong phú của Giáo hội.
Câu hỏi để
phân định
Giáo hội hôm
nay được chuẩn bị và trang bị thế nào để loan báo Tin Mừng với lòng xác tín, với
tinh thần tự do, và sự hữu hiệu? Nhãn quan về một Giáo hội hiệp hành sẽ chuyển
hóa cách nhận hiểu sứ mạng và giúp diễn đạt rõ các chiều kích khác nhau của sứ
mạng như thế nào? Kinh nghiệm về việc thực thi sứ mạng cùng với nhau sẽ làm
phong phú cho sự nhận hiểu về tính hiệp hành như thế nào?
Những đề nghị
cho việc cầu nguyện và gợi ý suy tư
1) Đời sống phụng vụ là nguồn mạch sứ mạng của cộng đoàn. Làm thế nào để
sự canh tân đời sống phụng vụ có thể được nâng đỡ trong chiều hướng hiệp hành bằng
việc củng cố các tác vụ, các đặc sủng và ơn gọi, cũng như cung ứng các không
gian để người ta được tiếp đón và thuộc về?
2) Làm thế nào việc giảng thuyết, huấn giáo và mục vụ có thể thúc đẩy một
nhận thức chung về ý nghĩa và nội dung của sứ mạng? Làm thế nào có thể truyền đạt
rằng sứ mạng là một tiếng gọi thực sự và cụ thể cho mọi người đã lãnh Phép Rửa?
3) Các bản tổng hợp của các Hội đồng Giám mục và các Đại hội cấp Châu lục
lặp đi lặp lại lời kêu gọi “ưu tiên lựa chọn” giới trẻ và các gia đình, nhìn nhận
họ là những chủ thể chứ không phải đối tượng của sự chăm sóc mục vụ. Bằng cách
nào cuộc canh tân có tính hiệp hành và sứ mạng này của Giáo hội có thể định
hình, bao gồm cả việc thực hiện các kết luận của Thượng Hội đồng Giám mục
2014-2015 và 2018?
4) Đối với đại đa số Dân Thiên Chúa, sứ mạng được thực thi bằng cách “dấn
thân vào những công việc trần thế và sắp xếp chúng theo kế hoạch của Thiên
Chúa” (LG 31; xem thêm AA 2). Bằng cách nào chúng ta có thể nâng cao ý thức rằng
sự dấn thân chính trị, xã hội, nghề nghiệp cũng như công việc thiện nguyện là
những lĩnh vực thực thi sứ mạng? Bằng cách nào chúng ta có thể đồng hành và hỗ
trợ tốt hơn cho những ai thi hành sứ mạng này, nhất là trong những môi trường
không thân thiện và đầy thách thức?
5) Học thuyết xã hội của Giáo hội thường được coi là đặc quyền của các
chuyên gia và các nhà thần học, và bị tách rời khỏi cuộc sống hàng ngày của các
cộng đồng. Bằng cách nào chúng ta có thể khuyến khích Dân Thiên Chúa lấy lại nó
như một nguồn lực cho sứ mạng?
6) Môi trường kỹ thuật số hiện định hình đời sống xã hội. Bằng cách nào
Giáo hội có thể thi hành sứ mạng của mình một cách hiệu quả hơn trong không
gian này? Việc rao giảng, đồng hành và chăm sóc nên được suy nghĩ lại như thế
nào đối với môi trường này? Bằng cách nào chúng ta có thể nhìn nhận những người
đang dấn thân sứ mạng trong đó, và tạo ra những lộ trình huấn luyện mới cho họ?
Bằng cách nào chúng ta có thể khuyến khích hoạt động tiên phong của những người
trẻ, là những người đồng trách nhiệm cách đặc biệt về sứ mạng của Giáo hội
trong không gian này?
7) Trong nhiều lĩnh vực, việc thực thi sứ mạng đòi hỏi phải cộng tác với
rất nhiều người và các tổ chức có nguồn cảm hứng khác nhau, bao gồm tín hữu của
các Giáo hội và các Cộng đoàn Giáo hội khác, thành viên của các tôn giáo khác,
và những người thiện chí. Chúng ta học được gì từ “việc bước đi cùng nhau” với
họ, và bằng cách nào chúng ta có thể trang bị tốt hơn cho mình để làm điều đó?
B 2.2. Cần
phải làm gì để một Giáo hội hiệp hành cũng là một Giáo hội thừa sai ‘có tính
tác vụ toàn diện’?
Tất cả các Đại hội cấp Châu lục đều thảo luận về các tác vụ trong Giáo hội,
thường bằng những thuật ngữ hàm súc và khơi gợi tư duy. Tiến trình Thượng Hội đồng
cung ứng một tầm nhìn tích cực về các tác vụ, đặt tác vụ chức thánh trong bối cảnh
tác vụ rộng lớn hơn của Giáo hội mà không tạo ra những sự đối lập. Tuy nhiên, các
Đại hội cấp Châu lục cũng lưu ý một nhu cầu cấp thiết là phải phân định các đặc
sủng mới xuất hiện và các hình thức phù hợp để thi hành các tác vụ do Phép Rửa
(gồm các tác vụ được thiết chế, ngoại thường, và de facto tức trên thực tế)
trong Dân Thiên Chúa, là Dân tham dự vào chức năng ngôn sứ, tư tế và vương giả
của Đức Kitô. Phiếu làm việc này tập chú vào các tác vụ này, trong khi mối quan
hệ với tác vụ chức thánh và các nhiệm vụ của giám mục trong một Giáo hội hiệp
hành sẽ được đề cập trong những phiếu khác. Cách riêng:
a) có một lời kêu gọi rõ ràng phải vượt qua một nhãn giới trong đó mọi chức
năng chủ động trong Giáo hội chỉ dành riêng cho các thừa tác viên chức thánh mà
thôi (giám mục, linh mục, phó tế), giảm trừ sự tham gia của những người đã lãnh
Phép Rửa đến chỉ còn là một sự cộng tác phụ thuộc. Không giảm bớt sự trân trọng
đối với Bí tích Truyền chức thánh, các tác vụ trong chân trời hiệp hành được hiểu
từ một quan niệm mang tính tác vụ về toàn thể Giáo hội. Một thái độ đón nhận
thanh thản đối với Công đồng Vatican II hiện lộ ra, với sự thừa nhận phẩm giá của
Phép Rửa như nền tảng cho sự tham gia của mọi người vào đời sống Giáo hội. Phẩm
giá do Phép Rửa dễ dàng được liên kết với chức Tư tế chung như là gốc rễ của
các tác vụ do Phép Rửa, và mối quan hệ thiết yếu giữa chức Tư tế chung và chức
Tư tế thừa tác được tái khẳng định, vì chúng “liên hệ với nhau”, trong đó mỗi
bên “theo cách riêng của mình” là một “sự tham dự vào chức Tư tế duy nhất của
Chúa Kitô” (LG 10).
b) có sự nhấn mạnh rằng nơi chốn hữu hiệu nhất để hiện thực hóa sự tham
gia của mọi người vào chức Tư tế của Chúa Kitô, đồng thời đề cao các tác vụ do
Phép Rửa cũng như tính đặc thù của tác vụ chức thánh, đó là tại Giáo hội địa
phương. Ở đây, chúng ta được mời gọi phân định những đặc sủng và những tác vụ
nào hữu ích cho mọi người trong một bối cảnh xã hội, văn hóa và Giáo hội cụ thể.
Cần phải cung ứng động lực mới cũng như kỹ năng sắc bén hơn cho sự tham gia đặc
biệt của giáo dân vào công việc loan báo Tin Mừng trong các cảnh vực khác nhau
của đời sống xã hội, văn hóa, kinh tế và chính trị, đảm nhận trách nhiệm của họ,
cũng như tăng cường sự đóng góp của những người nam nữ thánh hiến, với những đặc
sủng khác nhau của họ, trong đời sống của Giáo hội địa phương.
c) kinh nghiệm của việc bước đi cùng nhau trong Giáo hội địa phương giúp
ta có thể hình dung ra những tác vụ mới để phục vụ cho một Giáo hội hiệp hành.
Thường xuyên tham chiếu đến bản văn, tầm nhìn và ngôn ngữ của LG 10-12, các Đại
hội cấp Châu lục yêu cầu sự nhìn nhận nhiều hơn nữa các tác vụ do Phép Rửa, và
yêu cầu điều này được diễn tả tốt hơn nữa thông qua việc thiết chế các hình thức
bổ trợ giữa các cấp khác nhau của Giáo hội. Trong tinh thần này, nhiều câu hỏi
về các tác vụ do Phép Rửa có thể được trả lời thông qua công cuộc hiệp hành sâu
đậm hơn trong các Giáo hội địa phương, trong đó - dựa trên nguyên tắc về sự
tham gia có phân biệt vào bộ ba chức vụ (tria
munera) của Chúa Kitô - sẽ dễ dàng hơn để cho thấy rõ tính bổ sung giữa chức
Tư tế chung và chức Tư tế thừa tác, nhờ đó phân định và nhận diện các tác vụ do
Phép Rửa mà cộng đoàn cần.
d) một Giáo hội có tính tác vụ toàn diện không nhất thiết phải hoàn toàn
là một Giáo hội gồm các thừa tác vụ được thiết chế. Nhiều tác vụ đương nhiên đến
từ ơn gọi Phép Rửa, bao gồm các tác vụ tự phát và những tác vụ khác được nhìn
nhận mà không được thiết chế, và các tác vụ khác nữa, do được thiết chế nên nhận
được một sự đào tạo, sứ mạng và tính ổn định cách chuyên biệt. Việc lớn lên
trong tư cách một Giáo hội hiệp hành sẽ bao hàm sự dấn thân phân định với nhau
xem những tác vụ nào nên được lập ra hoặc cổ võ dưới ánh sáng của các dấu chỉ
thời đại để phục vụ thế giới.
Câu hỏi để
phân định
Bằng cách nào
chúng ta có thể tiến tới một sự đồng trách nhiệm hữu hiệu và đầy ý nghĩa trong
Giáo hội, trong đó có sự nhận thức đầy đủ hơn về các ơn gọi, các đặc sủng và
các tác vụ của mọi người đã lãnh nhận Phép Rửa trong một tâm thức sứ mạng?
Chúng ta có thể làm gì để bảo đảm rằng một Giáo hội hiệp hành hơn cũng là một
“Giáo hội tác vụ toàn diện”?
Những đề nghị
cho việc cầu nguyện và gợi ý suy tư
1) Chúng ta nên cử hành Bí tích Rửa tội, Thêm sức và Thánh Thể như thế
nào để các cử hành này trở thành những dịp làm chứng và thúc đẩy sự tham gia và
đồng trách nhiệm của mọi người như những chủ thể tích cực trong đời sống và sứ
mạng của Giáo hội? Bằng cách nào chúng ta có thể đổi mới nhận thức về tác vụ
không chỉ giới hạn trong tác vụ chức thánh mà thôi?
2) Bằng cách nào chúng ta có thể phân định các tác vụ do Phép Rửa cần thiết
cho sứ mạng trong một Giáo hội địa phương, dù đó là những tác vụ được hay không
được thiết chế? Những không gian nào có sẵn để thử nghiệm ở cấp địa phương? Nên
gán giá trị nào cho những tác vụ này? Trong những điều kiện nào chúng có thể được
tiếp nhận và công nhận bởi toàn thể Giáo hội?
3) Chúng ta có thể học được gì từ các Giáo hội và các Cộng đoàn Giáo hội
khác về tính tác vụ cũng như về chính các tác vụ?
4) Tính đồng trách nhiệm được biểu hiện và thực hiện trước hết nơi sự
tham gia của mọi người vào sứ mạng. Bằng cách nào để có thể tăng cường sự đóng
góp đặc biệt của những người có các đặc sủng và ơn gọi khác nhau, nhằm phục vụ
tốt nhất cho tính hài hòa giữa sự dấn thân cộng đồng và đời sống trong Giáo hội,
đặc biệt là tại các Giáo hội địa phương? Những đặc sủng và ơn gọi này có thể
bao gồm từ những kỹ năng và năng lực cá nhân, kể cả năng lực chuyên môn, cho đến
nguồn cảm hứng nền tảng của các hội dòng và các tu hội sống đời Thánh hiến cũng
như các Tu đoàn Tông đồ, các phong trào, hiệp hội, v.v.
5) Bằng cách nào chúng ta có thể tạo ra những không gian và những thời
gian tham gia hiệu quả vào sứ mạng có tính đồng trách nhiệm với những tín hữu,
vì nhiều lý do khác nhau, đang ở bên lề đời sống cộng đoàn, nhưng theo luận lý
của Tin Mừng, họ cống hiến một phần đóng góp không thể thay thế? (Ở đây chúng ta
nói đến cả những người già và những người đau ốm, người khuyết tật, những người
sống trong cảnh nghèo túng, những người không được tiếp cận giáo dục chính thức,
v.v.)?
6) Nhiều người dấn thân xây dựng một xã hội công bằng và chăm sóc ngôi
nhà chung của chúng ta như sự đáp trả một ơn gọi đích thực và như một lựa chọn
cuộc sống, bỏ qua các khả năng lựa chọn nghề nghiệp ổn định và có thu nhập tốt
hơn. Bằng cách nào chúng ta có thể nhìn nhận sự dấn thân này theo cách cho thấy
rõ rằng đây không chỉ là một hành động cá nhân mà còn là sự hiện thực hóa việc
Giáo hội chăm sóc thế giới?
B 2.3. Bằng
cách nào Giáo hội thời chúng ta có thể chu toàn sứ mạng của mình xuyên qua việc
nhìn nhận và cổ võ nhiều hơn đối với phẩm giá do Phép Rửa nơi phụ nữ?
Trong Phép Rửa, người Kitô hữu đi vào một mối gắn kết mới với Chúa Kitô,
và – nhờ Người và trong Người – họ gắn kết với mọi người đã chịu Phép Rửa, với
toàn thể nhân loại và với toàn thể thụ tạo. Là con cái của một Cha, được xức dầu
bởi cùng một Thánh Thần, nhờ chia sẻ cùng một mối gắn kết với Chúa Kitô, những
người đã chịu Phép Rửa được trao ban cho nhau như những chi thể của một thân thể
duy nhất có phẩm giá bình đẳng (x. Gl 3,26-28). Giai đoạn lắng nghe đã tái khẳng
định nhận thức về thực tại này, cho thấy rằng nó phải tìm thấy được sự thể hiện
cụ thể hơn nữa trong đời sống Giáo hội, kể cả qua các mối quan hệ với nhau, qua
tính hỗ tương và bổ sung giữa nam và nữ. Đặc biệt:
a) Các Đại hội cấp Châu lục đã nhất trí kêu gọi sự chú ý đến kinh nghiệm,
vị thế và vai trò của phụ nữ, bất chấp những quan điểm khác nhau đang tồn tại
nơi mỗi Châu lục. Các Đại hội ấy biểu dương đức tin, sự tham gia và chứng tá của
rất nhiều nữ tu và nữ giáo dân trên khắp thế giới, thường hiện diện như những
người loan báo Tin Mừng và những thầy dạy đầu tiên trên nẻo đường đức tin, thi
hành sứ vụ ở những nơi xa xôi và những bối cảnh đầy thách đố, cũng như ở “những
vùng bên lề có tính ngôn sứ”;
b) Các Đại hội cấp Châu lục cũng kêu gọi suy tư sâu hơn về những thất bại
trong tương quan của Giáo hội, đó cũng là những thất bại về cấu trúc ảnh hưởng
đến đời sống của phụ nữ trong Giáo hội, mời gọi chúng ta đi vào một tiến trình
hoán cải liên tục để tìm cách phát triển đầy đủ hơn trong căn tính được ban cho
chúng ta qua Phép Rửa. Các mối ưu tiên của Đại hội Thượng Hội đồng bao gồm việc
thảo luận về những niềm vui và những căng thẳng, cũng như về các cơ hội để hoán
cải và canh tân, trong cách chúng ta sống các mối tương quan giữa nam và nữ
trong Giáo hội, cụ thể là các tương quan: giữa các thừa tác viên chức thánh, những
người nam nữ thánh hiến, và nam nữ giáo dân;
c) trong giai đoạn đầu của Thượng Hội đồng, các vấn đề về sự tham gia và
sự nhìn nhận phụ nữ, về các mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau giữa nam và nữ, và về
mong muốn có sự hiện diện nhiều hơn của phụ nữ trong các vị trí chịu trách nhiệm
và quản trị, đã nổi lên như những yếu tố quan trọng trong việc tìm kiếm các
cách thức có tính hiệp hành hơn để sống sứ mạng của Giáo hội. Những phụ nữ tham
gia trong giai đoạn đầu này đã bày tỏ ước muốn rõ ràng rằng xã hội và Giáo hội
phải là nơi cho sự phát triển, sự tham gia tích cực, và sự thuộc về lành mạnh
cho tất cả phụ nữ. Họ yêu cầu Giáo hội sát cánh với họ để đồng hành và thúc đẩy
việc thực hiện điều này. Một Giáo hội hiệp hành phải cùng nhau giải quyết những
vấn đề này, tìm kiếm những câu trả lời mang lại sự thừa nhận nhiều hơn đối với
phẩm giá do Phép Rửa của các phụ nữ, và loại bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử
và loại trừ mà phụ nữ phải đối mặt trong Giáo hội và xã hội;
d) cuối cùng, các Đại hội cấp Châu lục nêu bật tính đa dạng của các kinh
nghiệm, các quan điểm và các nhãn giới của phụ nữ, và yêu cầu rằng sự đa dạng
này phải được nhìn nhận trong công việc của Đại hội Thượng Hội đồng, tránh coi
phụ nữ như một nhóm đồng nhất hoặc như một chủ đề tranh luận có tính ý thức hệ
hay trừu tượng.
Câu hỏi để
phân định
Giáo hội có thể
thực hiện những bước cụ thể nào để đổi mới và cải cách các thủ tục, các sắp xếp
thể chế và các cơ cấu của mình, để tạo điều kiện cho phụ nữ được nhìn nhận và
tham gia nhiều hơn, kể cả trong quản trị, trong các tiến trình đưa ra quyết định,
và trong chính việc quyết định, với một tinh thần hiệp thông và với đích nhắm sứ
mạng?
Những đề nghị
cho việc cầu nguyện và gợi ý suy tư
1) Phụ nữ đóng một vai trò chủ yếu trong việc thông truyền đức tin trong
gia đình, giáo xứ, trong đời sống thánh hiến, trong các hiệp hội và phong trào,
và các đoàn thể giáo dân, cũng như trong vai trò giáo viên và giảng viên giáo
lý. Bằng cách nào chúng ta có thể nhìn nhận, hỗ trợ và đồng hành tốt hơn với sự
đóng góp rất đáng kể của họ? Bằng cách nào chúng ta có thể đẩy mạnh sự đóng góp
ấy để học cách trở thành một Giáo hội hiệp hành ngày càng hơn?
2) Các đặc sủng của phụ nữ vốn vẫn tồn tại và hoạt động trong Giáo hội
ngày nay. Chúng ta có thể làm gì để phân định và hỗ trợ các đặc sủng ấy, cũng
như để học biết điều mà Chúa Thánh Thần muốn dạy chúng ta qua đó?
3) Tất cả các Đại hội cấp Châu lục đều kêu gọi bàn bạc về vấn đề phụ nữ
tham gia vào việc quản trị, việc ra quyết định, công cuộc sứ mạng và các sứ vụ
của Giáo hội ở mọi cấp, cũng như kêu gọi cung ứng những cơ cấu thích hợp để hỗ
trợ sự tham gia này, để điều này không chỉ dừng lại ở một ao ước chung chung.
a) Làm thế nào để phụ nữ có thể tham gia vào các lĩnh vực này với số lượng
lớn hơn và theo những cách thức mới mẻ?
b) Bằng cách nào, trong đời sống thánh hiến, phụ nữ có thể được đại diện
tốt hơn trong các tiến trình quản trị và
đưa ra quyết định của Giáo hội, được bảo vệ tốt hơn khỏi bị lạm dụng trong mọi
bối cảnh Giáo hội, và được trả thù lao công bằng hơn cho công việc của họ, ở những
nơi mà điều này phù hợp?
c) Bằng cách nào phụ nữ có thể đóng góp vào việc quản trị, giúp tăng cường
sự tín nhiệm và sự minh bạch nhiều hơn, cũng như giúp củng cố sự tin tưởng vào
Giáo hội?
d) Bằng cách nào chúng ta có thể đào sâu suy tư về sự đóng góp của phụ nữ
cho việc suy tư thần học và việc đồng hành với các cộng đoàn? Bằng cách nào
chúng ta có thể dành không gian và sự nhìn nhận cho sự đóng góp này trong các
tiến trình phân định chính thức ở mọi cấp độ của Giáo hội?
e) Những tác vụ mới nào có thể được lập ra để cung cấp phương tiện và cơ
hội cho phụ nữ tham gia cách hiệu quả vào các bộ phận làm công việc phân định
và đưa ra quyết định? Trong các quá trình đưa ra quyết định, bằng cách nào có
thể gia tăng tính đồng trách nhiệm giữa các phụ nữ giáo dân và thánh hiến và
các giáo sĩ ở những vùng xa xôi và trong những bối cảnh xã hội đầy thách đố,
nơi mà phụ nữ thường là những tác nhân chính của việc chăm sóc mục vụ và loan
báo Tin Mừng? Những đóng góp nhận được trong giai đoạn đầu tiên lưu ý rằng các
căng thẳng với các thừa tác viên chức thánh nảy sinh khi không có động lực cho
cảm thức đồng trách nhiệm và không có các tiến trình cùng đưa ra quyết định.
4) Đa số các Đại hội cấp Châu lục và một số bản tổng hợp của các Hội đồng
Giám mục kêu gọi xem xét vấn đề bao gồm phụ nữ vào chức phó tế. Có thể hình
dung điều này hay không, và theo cách nào?
5) Bằng cách nào những người nam và nữ có thể hợp tác tốt hơn trong sứ vụ
mục vụ và thực thi các trách nhiệm liên quan?
B 2.4.
Trong một nhãn quan sứ mạng, bằng cách nào chúng ta có thể đề cao tác vụ chức
thánh trong mối tương quan của nó với các tác vụ do Phép Rửa?
Các Tài liệu Chung kết của các Đại hội cấp Châu lục bày tỏ mong muốn mạnh
mẽ rằng Thượng Hội đồng nên suy tư về mối quan hệ giữa tác vụ chức thánh và các
tác vụ do Phép Rửa, có nhấn mạnh sự khó khăn khi làm điều này trong đời sống
bình thường của các cộng đoàn. Dưới ánh sáng giáo huấn của Công đồng Vatican
II, tiến trình hiệp hành cung cấp cơ hội quý giá để tập trung vào mối quan hệ
giữa việc thực thi phẩm giá do Phép Rửa (trong sự phong phú của các ơn gọi, các
đặc sủng và các tác vụ cắm rễ trong Phép Rửa) và tác vụ chức thánh, được coi
như một ân ban và một nhiệm vụ bất khả nhượng nhằm phục vụ Dân Thiên Chúa. Đặc
biệt:
a) Nối bước Công đồng Vatican II, mối tương quan thiết yếu giữa chức tư tế
phổ quát và chức tư tế thừa tác được tái khẳng định. Chúng “liên hệ với nhau” bởi
vì mỗi bên “theo cách riêng của mình là sự tham dự vào chức Tư tế duy nhất của
Chúa Kitô” (LG 10). Không có sự đối lập hoặc cạnh tranh, cũng không có cơ sở
cho yêu sách giữa hai bên. Tính bổ sung của chúng cần được nhìn nhận;
b) Các Đại hội cấp Châu lục diễn tả sự trân trọng rõ ràng đối với ân ban
chức linh mục thừa tác, đồng thời diễn tả ước muốn sâu xa về việc canh tân chức
linh mục này trong nhãn quan hiệp hành. Các Đại hội cũng chỉ ra những khó khăn
trong việc vận động một số linh mục tham gia tiến trình hiệp hành, và ghi nhận
mối quan tâm rộng rãi đối với những trường hợp các linh mục loay hoay đối mặt với
các thách đố của thời đại chúng ta, xa rời cuộc sống và nhu cầu của dân chúng
hoặc chỉ tập trung vào lãnh vực phụng vụ-bí tích mà thôi. Các Đại hội ấy cũng
bày tỏ ưu tư về tình trạng cô đơn của nhiều linh mục và nhấn mạnh các vị cần được
chăm sóc, cần tình bạn và sự nâng đỡ;
c) Công đồng Vatican II dạy rằng “thừa tác vụ trong Giáo hội do Thiên
Chúa thiết lập được thi hành ở các cấp độ khác nhau bởi những người từ xa xưa
đã được gọi là Giám mục, Linh mục và Phó tế” (LG 28). Từ các Đại hội cấp Châu lục
nổi lên yêu cầu rằng tác vụ chức thánh, trong các nhiệm vụ khác nhau, phải là một
chứng tá sống động về sự hiệp thông và phục vụ cho tất cả mọi người theo luận
lý của tính nhưng không của Tin Mừng. Các Đại hội cũng bày tỏ mong muốn các
giám mục, linh mục và phó tế thi hành tác vụ hướng dẫn và hiệp nhất của mình
theo phong cách hiệp hành. Điều này bao gồm những thao thức cụ thể muốn nhìn nhận
và đẩy mạnh các ân ban và đặc sủng có sẵn trong cộng đoàn, khuyến khích và đồng
hành với các tiến trình giúp cộng đoàn đảm nhận sứ mạng, cũng như tìm kiếm các
quyết định phù hợp với Tin Mừng, nhờ việc lắng nghe Chúa Thánh Thần. Các Đại hội
cũng yêu cầu một sự canh tân các chương trình chủng viện để hướng đến tính hiệp
hành nhiều hơn và tiếp xúc nhiều hơn với toàn thể Dân Thiên Chúa;
d) Khi suy tư về tác vụ chức thánh phục vụ đời sống ơn gọi Phép Rửa, giai
đoạn đầu của Thượng Hội đồng trình bày não trạng giáo sĩ trị như một lực gây cô
lập, chia rẽ, do đó làm suy yếu và tiêu tan các năng lực của một Giáo hội lành
mạnh và có tính tác vụ toàn diện. Điều đó cho thấy rằng việc đào tạo là cách thức
chuyên biệt để vượt qua nó một cách hiệu quả. Não trạng giáo sĩ trị không được
coi là chỉ có nơi các thừa tác viên chức thánh mà thôi, nhưng nó vẫn có nơi mọi
thành phần Dân Thiên Chúa, bằng những cách khác nhau;
e) Nhiều vùng báo cáo rằng sự tin tưởng đặt nơi các thừa tác viên chức
thánh, nơi những người thi hành các nhiệm vụ trong Giáo hội, nơi các tổ chức
trong Giáo hội và nơi chính toàn thể Giáo hội, đã bị xói mòn do hậu quả của
“tai tiếng về lạm dụng của các thành viên hàng giáo sĩ hoặc của những người nắm
giữ chức vụ trong Giáo hội: trước hết, đó là những lạm dụng trẻ vị thành niên
và những người dễ bị tổn thương, nhưng cũng có những loại lạm dụng khác nữa
(thiêng liêng, tình dục, kinh tế, quyền bính, lương tâm). Đây là một vết thương
hở tiếp tục gây đau đớn cho các nạn nhân và những người sống sót, cho gia đình
họ và cộng đoàn của họ” (DCS, số 20).
Câu hỏi để
phân định
Bằng cách nào
trong Giáo hội chúng ta có thể cổ vũ cả một nền văn hóa lẫn các hình thức đồng
trách nhiệm cụ thể để mối quan hệ giữa các tác vụ do Phép Rửa và tác vụ chức
thánh được đơm hoa kết trái? Nếu Giáo hội có tính tác vụ toàn diện, thì từ nhãn
quan sứ mạng chúng ta có thể hiểu thế nào về những ân ban riêng biệt của các thừa
tác viên chức thánh trong Dân duy nhất của Thiên Chúa?
Những đề nghị
cho việc cầu nguyện và gợi ý suy tư
1) Thừa tác vụ của các linh mục, “được thánh hiến để rao giảng Tin Mừng,
chăm sóc các tín hữu và cử hành việc phụng tự” (LG 28), liên hệ thế nào đến các
tác vụ do Phép Rửa? Bộ ba chức năng của tác vụ chức thánh liên hệ thế nào đến
Giáo hội xét như một Dân ngôn sứ, tư tế và vương giả?
2) Trong Giáo hội địa phương, các linh mục cùng với giám mục của mình
“làm nên một chức tư tế duy nhất” (LG 28). Bằng cách nào chúng ta có thể giúp củng
cố mối hiệp nhất này giữa giám mục và các linh mục của ngài để phục vụ hữu hiệu
hơn cho đoàn Dân Thiên Chúa được giao phó cho giám mục coi sóc?
3) Giáo hội được phong phú nhờ tác vụ của rất nhiều linh mục thuộc các Hội
dòng Thánh hiến và các Tu đoàn Tông đồ. Làm thế nào để tác vụ của họ, được đặc
trưng bởi đặc sủng của hội dòng mà họ thuộc về, có thể thúc đẩy một Giáo hội hiệp
hành hơn?
4) Thừa tác vụ của phó tế vĩnh viễn được hiểu như thế nào trong một Giáo
hội hiệp hành có tính sứ mạng?
5) Những hướng dẫn nào có thể được vận dụng để cải cách chương trình giảng
dạy của chủng viện và của các trường cao đẳng và các trường thần học nhằm thúc
đẩy đặc tính hiệp hành của Giáo hội? Làm thế nào để việc đào tạo các linh mục
có thể gắn bó mật thiết hơn với đời sống và các thực tế mục vụ của đoàn Dân
Thiên Chúa mà họ được kêu gọi phục vụ?
6) Những lộ trình đào tạo nào nên được áp dụng trong Giáo hội để thúc đẩy
một nhận thức về các tác vụ mà không giảm trừ đến mức chỉ còn là tác vụ chức
thánh, nhưng đồng thời cũng nâng cao nó?
7) Liệu chúng ta có thể cùng nhau phân định cách mà một não trạng giáo sĩ
trị, dù ở nơi giáo sĩ hay giáo dân, ngăn cản việc thể hiện đầy đủ cả ơn gọi của
các tác vụ chức thánh trong Giáo hội lẫn của các thành viên khác của Dân Thiên
Chúa? Bằng cách nào chúng ta có thể tìm ra những con đường để vượt qua điều này
cùng với nhau?
8) Giáo dân có thể thi hành vai trò lãnh đạo cộng đoàn hay không, nhất là
ở những nơi mà con số thừa tác viên chức thánh rất ít? Đâu là những hàm ý của
điều này cho việc nhận thức tác vụ chức thánh?
9) Như một số Châu lục đề xuất, liệu có thể mở ra một suy tư liên quan đến
kỷ luật về việc tiếp cận chức linh mục đối với những người đàn ông đã kết hôn,
ít nhất là ở một số khu vực?
10) Làm thế nào để một sự nhận hiểu về tác vụ chức thánh và về việc đào tạo
các ứng viên cắm rễ nhiều hơn trong tầm nhìn về Giáo hội hiệp hành mang tính sứ
mạng có thể đóng góp vào các nỗ lực ngăn chặn sự tái diễn của nạn lạm dụng tình
dục và các hình thức lạm dụng khác?
B 2.5. Bằng
cách nào chúng ta có thể canh tân và thúc đẩy tác vụ của giám mục từ một nhãn
quan hiệp hành mang tính sứ mạng?
Tác vụ của giám mục bắt nguồn từ Kinh Thánh và đã phát triển trong Truyền
thống theo sự trung thành với ý muốn của Chúa Kitô. Trung thành với truyền thống
này, Công đồng Vatican II đã đưa ra một giáo huấn phong phú về chức giám mục.
“Các giám mục, những người kế vị các Tông đồ, cùng với người kế vị thánh Phêrô,
đại diện của Chúa Kitô và là thủ lãnh hữu hình của toàn thể Giáo hội, cai quản nhà
của Thiên Chúa hằng sống” (LG 18). Chương về thiết chế phẩm trật của Giáo hội
trong Lumen gentium khẳng định tính
bí tích của chức giám mục. Trên cơ sở này, bản văn phát triển chủ đề về tính hiệp
đoàn (LG 22/23) và tác vụ giám mục như việc thi hành ba chức vụ (tria munera, LG 24-27). Theo đó Thượng Hội
đồng Giám mục được thành lập như một cơ quan cho phép các giám mục tham gia với
Giám mục Rôma trong việc chăm sóc toàn thể Giáo hội. Lời mời gọi sống chiều
kích hiệp hành sâu đậm hơn đòi hỏi phải đào sâu lại tác vụ giám mục, để đặt nó
vững chắc hơn trong toàn khung hiệp hành. Đặc biệt:
a) Giám mục đoàn, cùng với Đức Giáo hoàng Rôma là người đứng đầu và không
bao giờ vắng mặt ngài, là chủ thể của “quyền tối cao và đầy đủ trên Giáo hội
hoàn vũ” (LG 22). Giám mục đoàn tham gia vào tiến trình Thượng Hội đồng khi mỗi
giám mục khởi xướng, hướng dẫn và đúc kết việc thỉnh ý Dân Thiên Chúa được ủy
thác cho ngài, và khi các giám mục tập hợp lại thi hành đặc sủng phân định
trong các Đại hội khác nhau: Các Công nghị hay Công đồng các vị Lãnh đạo của
các Giáo hội Công giáo Đông phương, các Hội đồng Giám mục, các Đại hội cấp Châu
lục, và đặc biệt là Đại hội Thượng Hội đồng;
b) Về các Giám mục, những người kế vị các Tông đồ, những người đảm nhận
“việc phục vụ cộng đoàn, thay mặt Thiên Chúa chủ tọa đoàn chiên mà các ngài là
mục tử” (LG 20), các Đại hội cấp Châu lục yêu cầu một cuộc hoán cải hiệp hành.
Nếu Công đồng Vatican II nhắc lại rằng “nhiệm vụ mà Chúa đã ủy trao cho các mục
tử của dân Người là một sự phục vụ thực sự” (LG 24), thì tiến trình Thượng Hội
đồng yêu cầu các ngài phải sống một niềm tin tưởng triệt để vào tác động của
Chúa Thánh Thần trong đời sống các cộng đoàn của mình, mà không sợ rằng sự tham
gia của mọi người trở thành một mối đe dọa đối với tác vụ lãnh đạo cộng đoàn của
các ngài. Thay vào đó, nó thúc giục các ngài thực sự trở thành một nguyên lý hiệp
nhất trong Giáo hội của mình, kêu gọi mọi người (linh mục và phó tế, những người
nam nữ thánh hiến, nam nữ giáo dân) cùng nhau bước đi trong tư cách là Dân Thiên
Chúa và cổ vũ một phong cách hiệp hành của Giáo hội.
c) Việc thỉnh ý Dân Thiên Chúa đã nêu bật rằng việc trở thành một Giáo hội
hiệp hành hơn cũng bao hàm sự tham gia rộng rãi hơn của tất cả mọi người vào việc
phân định, điều này đòi hỏi phải suy nghĩ lại về các tiến trình đưa ra quyết định.
Do đó, cần có các cơ cấu quản trị phù hợp, đáp ứng cho đòi hỏi cao hơn về sự
minh bạch và về tính đáng tin cậy, điều sẽ ảnh hưởng đến cách thức thi hành tác
vụ của giám mục. Điều này cũng dẫn đến sự phản kháng, sự sợ hãi và cảm giác mất
phương hướng. Đặc biệt, trong khi một số tiếng nói kêu gọi sự tham gia nhiều
hơn của mọi tín hữu, và do đó kêu gọi việc thực thi vai trò của các giám mục
“ít độc quyền hơn”, thì những người khác lại bày tỏ nghi ngờ và lo sợ về nguy
cơ bị trôi dạt nếu buông theo các tiến trình dân chủ chính trị;
d) Có một nhận thức mạnh mẽ không kém rằng mọi quyền bính trong Giáo hội
đều phát xuất từ Chúa Kitô và được Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Sự đa dạng của
các đặc sủng mà không có quyền bính thì sẽ trở thành vô chính phủ, cũng như sự
cứng nhắc của quyền bính mà không có sự phong phú của các đặc sủng, các tác vụ
và các ơn gọi thì sẽ trở thành chế độ độc tài. Giáo hội có tính hiệp hành và đồng
thời có tính phẩm trật, đó là lý do tại sao việc thực thi quyền bính giám mục
có tính hiệp hành gợi ý rằng phải đồng hành và bảo vệ sự hiệp nhất. Tác vụ giám
mục được quan niệm lại và được thực hiện một cách đúng đắn thông qua việc thực
thi tính hiệp hành, vốn mang lại sự thống nhất cho các ân ban, đặc sủng, tác vụ
và ơn gọi khác nhau mà Chúa Thánh Thần làm phát sinh trong Giáo hội;
e) Việc tiến hành canh tân tác vụ giám mục trong một Giáo hội hiệp hành
cách đầy đủ hơn sẽ đòi hỏi những thay đổi về văn hóa và cấu trúc, đòi hỏi nhiều
sự tin tưởng lẫn nhau, và trên hết là tin tưởng vào sự hướng dẫn của Chúa. Đây
là lý do tại sao các Đại hội cấp Châu lục hy vọng rằng động lực của cuộc thảo
luận trong Thánh Thần có thể đi vào đời sống hàng ngày của Giáo hội và làm sinh
động các cuộc gặp gỡ, các hội đồng và các cơ quan đưa ra quyết định, hỗ trợ cho
việc xây dựng một cảm thức tin tưởng lẫn nhau và hình thành một sự đồng thuận
có hiệu quả;
f) Thừa tác vụ của giám mục cũng bao gồm việc thuộc về giám mục đoàn và
do đó thực thi tính đồng trách nhiệm đối với toàn thể Giáo hội. Việc thực thi
này cũng là một phần trong nhãn quan về Giáo hội hiệp hành, “trong tinh thần
'phân quyền lành mạnh'", nhằm "trao thẩm quyền cho các giám mục,
trong khi thi hành 'nhiệm vụ riêng của các ngài trong tư cách thầy dạy và mục tử,
để giải quyết những vấn đề mà các ngài vốn quen thuộc và không ảnh hưởng đến sự
thống nhất của Giáo hội về giáo lý, kỷ luật và sự hiệp thông, luôn hành động với
tinh thần đồng trách nhiệm vốn là hoa trái và là sự diễn tả của mysterium communionis (mầu nhiệm hiệp
thông) đặc biệt, tức là Giáo hội” (PE II,2; x. EG 16; DV 7).
Câu hỏi để
phân định
Chúng ta hiểu
thế nào về ơn gọi và sứ mạng của giám mục trong một nhãn quan có tính sứ mạng
và hiệp hành? Cần sự đổi mới nào về tầm nhìn và về việc thi hành tác vụ giám mục
cho một Giáo hội hiệp hành được đặc trưng bởi tinh thần đồng trách nhiệm?
Những đề nghị
cho việc cầu nguyện và gợi ý suy tư
1) “Một cách trổi vượt và hữu hình, các giám mục giữ vai trò của chính
Chúa Kitô là Thầy, Mục tử và Thượng tế” (LG 21). Tác vụ này có tương quan thế
nào với tác vụ của các linh mục, những người “được thánh hiến để rao giảng Tin
Mừng, chăm sóc các tín hữu và cử hành việc phụng tự” (LG 28)? Bộ ba chức vụ này
của các thừa tác viên chức thánh có mối tương quan thế nào với Giáo hội trong
tư cách là một Dân ngôn sứ, tư tế và vương giả?
2) Việc thi hành thừa tác vụ giám mục cần sự tham vấn, sự cộng tác và
tham gia vào các tiến trình đưa ra quyết định của Dân Thiên Chúa như thế nào?
3) Dựa trên những tiêu chuẩn nào, một giám mục có thể tự đánh giá mình và
được đánh giá về việc thi hành công việc phục vụ theo phong cách hiệp hành?
4) Khi nào thì một giám mục có thể cảm thấy buộc phải đưa ra một quyết định
khác với lời khuyên đã được xem xét của các cơ quan tư vấn? Điều gì sẽ là cơ sở
cho một quyết định như vậy?
5) Đâu là bản chất của mối tương quan giữa “cảm thức đức tin siêu nhiên”
(x. LG 12) và việc phục vụ theo chức năng giáo huấn của giám mục? Bằng cách nào
chúng ta có thể hiểu và diễn đạt rõ hơn về mối tương quan giữa Giáo hội hiệp
hành và tác vụ của giám mục? Các giám mục nên phân định cùng với hay tách biệt
khỏi các thành phần khác của Dân Thiên Chúa? Phải chăng cả hai lựa chọn (cùng
nhau và riêng rẽ) đều có chỗ trong một Giáo hội hiệp hành?
6) Bằng cách nào chúng ta có thể bảo đảm sự quan tâm và thế cân bằng của
ba chức vụ (thánh hóa, giảng dạy, cai quản) trong đời sống và tác vụ của giám mục?
Các mô hình đời sống và tác vụ của giám mục hiện nay giúp giám mục trở thành một
người cầu nguyện, một thầy dạy đức tin, một nhà quản trị khôn ngoan và hiệu quả,
đồng thời giữ ba vai trò này trong sức căng có tính sứ mạng và đầy sáng tạo ở mức
độ nào? Bằng cách nào hồ sơ của giám mục và tiến trình phân định có thể được
duyệt lại để xác định các ứng viên theo một nhãn quan hiệp hành?
7) Vai trò của Giám mục Rôma và việc thực thi quyền tối thượng của ngài
nên phát triển như thế nào trong một Giáo hội hiệp hành?
Các phiếu
làm việc cho B 3. Tham gia, quản trị và quyền bính
Những tiến trình, cấu
trúc và cơ chế nào được cần đến trong một Giáo hội hiệp hành mang tính sứ mạng?
B 3.1. Bằng
cách nào chúng ta có thể đổi mới việc phục vụ của quyền bính và việc thực thi
trách nhiệm trong một Giáo hội hiệp hành mang tính sứ mạng?
Một Giáo hội hiệp hành được kêu gọi giữ gìn cả quyền của mọi người tham
gia vào đời sống và sứ mạng của Giáo hội do Bí tích Phép Rửa, lẫn việc phục vụ
của quyền bính và việc thực thi trách nhiệm được giao phó cho một số người.
Hành trình hiệp hành là một cơ hội để phân định những cách thức mà điều này có
thể được thực hiện cách phù hợp với thời đại của chúng ta. Giai đoạn đầu tiên
cho phép thu thập một số ý tưởng giúp cho việc suy tư này:
a) quyền bính, trách nhiệm và các vai trò quản trị - đôi khi được cô đọng
trong từ ‘leadership’ (lãnh đạo) của tiếng Anh - có nhiều hình thức khác nhau
trong Giáo hội. Quyền bính trong đời sống thánh hiến, trong các phong trào và
các hiệp hội, trong các tổ chức liên quan đến Giáo hội (như đại học, các cơ sở,
trường học, v.v.) khác với quyền rút ra từ Bí tích Truyền Chức; thẩm quyền
thiêng liêng được nối kết với một đặc sủng thì khác với thẩm quyền được nối kết
với việc phục vụ có tính tác vụ. Sự khác biệt giữa các hình thức này phải được
bảo vệ, mà không quên rằng tất cả chúng đều có điểm chung là một việc phục vụ
trong Giáo hội;
b) đặc biệt, tất cả đều chia sẻ ơn gọi nên đồng hình đồng dạng theo gương
của Chúa, Đấng đã nói về chính mình: “Thầy ở giữa anh em như một người phục vụ”
(Lc 22,27). “Đối với các môn đệ Chúa Giêsu, hôm qua, hôm nay và mãi mãi, quyền
bính duy nhất là quyền bính để phục vụ”.[16] Đó là những yếu tố tích hợp
nền tảng để phát triển trong việc thực thi quyền bính và trách nhiệm, trong mọi
hình thức của chúng và ở mọi cấp độ của đời sống Giáo hội. Đó là tầm nhìn về cuộc
hoán cải sứ mạng “nhắm canh tân Giáo hội như một tấm gương phản chiếu sứ mạng
yêu thương của chính Chúa Kitô” (PE I, 2).
c) theo chiều hướng này, các tài liệu của giai đoạn đầu tiên diễn tả một
số đặc điểm của việc thực thi quyền bính và trách nhiệm trong một Giáo hội hiệp
hành mang tính sứ mạng: một thái độ phục vụ chứ không phải quyền lực hay kiểm
soát; sự minh bạch, sự khích lệ và sự triển nở của con người; khả năng và năng
lực về tầm nhìn, sự phân định, sự bao gồm, hợp tác và ủy nhiệm. Trên hết, khả
năng và sự sẵn sàng lắng nghe được nhấn mạnh. Đây là lý do tại sao có sự nhất quán
về nhu cầu phải có sự đào tạo chuyên biệt về những kỹ năng và năng lực này cho
những người ở vị trí có trách nhiệm và quyền bính, cũng như về các qui trình
tuyển chọn có sự tham gia nhiều hơn, nhất là liên quan đến việc tuyển chọn các
giám mục.
d) một cách tiếp cận minh bạch và đáng tin cậy sẽ là nền tảng cho việc thực
thi quyền bính và trách nhiệm đích thực theo Tin Mừng. Tuy nhiên, nó cũng khơi
dậy những nỗi sợ hãi và sự phản kháng. Đó là lý do tại sao điều quan trọng là
phải trình bày, với một thái độ phân định, những khám phá gần đây nhất của khoa
học quản lý và lãnh đạo. Hơn nữa, việc thảo luận trong Chúa Thánh Thần được coi
là một cách xúc tiến việc ra quyết định và xây dựng sự đồng thuận, nhờ đó xây dựng
sự tin tưởng và thúc đẩy việc thực thi quyền bính phù hợp với một Giáo hội hiệp
hành.
e) Các Đại hội cấp Châu lục cũng chỉ ra những kinh nghiệm trong đó quyền
lực và các tiến trình đưa ra quyết định đã bị chiếm đoạt bởi một số người ở các
vị trí có thẩm quyền và trách nhiệm. Các Đại hội ấy nối kết những kinh nghiệm
này với nền văn hóa giáo sĩ trị và các hình thức lạm dụng khác nhau (tình dục,
tài chính, tâm linh, và quyền lực), vốn làm xói mòn uy tín của Giáo hội và làm
tổn hại đến hiệu quả sứ mạng của Giáo hội, nhất là trong những nền văn hóa mà sự
tôn trọng quyền bính được đánh giá cao.
Câu hỏi để
phân định
Quyền bính và
trách nhiệm có thể được hiểu và thực thi thế nào để phục vụ cho sự tham gia của
toàn thể Dân Thiên Chúa? Cần sự đổi mới nào về tầm nhìn, và về các hình thức thực
thi cụ thể quyền bính, trách nhiệm và sự quản trị, để phát triển trong tư cách
một Giáo hội hiệp hành mang tính sứ mạng?
Những đề nghị
cho việc cầu nguyện và gợi ý suy tư
1) Giáo huấn của Công đồng Vatican II về sự tham gia của mọi người vào đời
sống và sứ mạng của Giáo hội có được đưa vào trong ý thức và thực hành của các
Giáo hội địa phương một cách hiệu quả hay không, nhất là bởi các mục tử và những
người thi hành các chức năng có trách nhiệm? Điều gì có thể thúc đẩy một nhận
thức và sự trân trọng sâu xa hơn đối với giáo huấn này, trong việc chu toàn sứ
mạng của Giáo hội?
2) Trong Giáo hội có những vai trò nắm quyền bính và trách nhiệm mà không
gắn với Bí Tích Truyền Chức, được thi hành để phục vụ cho sự hiệp thông và sứ mạng
trong các Hội dòng Đời Sống Thánh Hiến và các Tu Đoàn Tông Đồ, trong các hiệp hội
và các phong trào giáo dân, trong các phong trào Giáo hội và các cộng đoàn mới,
v.v. Bằng cách nào để những dạng quyền bính này được cổ vũ cách thích hợp và bằng
cách nào chúng có thể được thực thi trong mối tương quan với thẩm quyền thuộc
tác vụ của các mục tử trong một Giáo hội hiệp hành?
3) Đâu là những yếu tố cần thiết trong việc đào tạo những người lãnh đạo
Giáo hội về việc thực thi quyền bính? Làm thế nào để có thể khuyến khích việc
đào tạo theo phương pháp trao đổi đầy hiểu biết và chân thực trong Thánh Thần?
4) Các chủng viện và các cơ sở đào tạo có thể được cải cách như thế nào để
đào tạo các ứng viên cho tác vụ chức thánh, là những người sẽ phát triển một
cách thức thực thi quyền bính phù hợp với một Giáo hội hiệp hành? Ratio Fundamentalis Institutionis
Sacerdotalis và các tài liệu liên quan nên được xem xét lại ở cấp quốc gia
như thế nào? Chương trình giảng dạy trong các trường thần học nên được định hướng
lại như thế nào?
5) Những hình thức giáo sĩ trị nào vẫn tồn tại dai dẳng trong cộng đoàn
Kitô hữu? Một cảm nhận về khoảng cách giữa tín hữu giáo dân và các mục tử của họ
vẫn còn đó: điều gì có thể giúp vượt qua khoảng cách này? Những hình thức thực
thi quyền bính và trách nhiệm nào nên được thay thế, vì chúng không phù hợp với
một Giáo hội hiệp hành được thiết chế đúng cách?
6) Sự thiếu hụt linh mục ở một số vùng tạo ra sự thúc đẩy đến mức nào để
dẫn tới việc chất vấn về mối tương quan giữa tác vụ chức thánh, việc quản trị
và việc đảm nhận các trách nhiệm trong cộng đoàn Kitô hữu?
7) Chúng ta có thể học được gì về việc thực thi quyền bính và trách nhiệm
của các Giáo hội và các Cộng đoàn Giáo hội khác?
8) Ở mọi thời đại, việc thực thi quyền bính và trách nhiệm trong Giáo hội
đều bị ảnh hưởng bởi các mẫu thức quản lý thịnh hành và bởi cảm nhận về quyền lực
trong xã hội. Bằng cách nào chúng ta có thể ý thức được điều này và thực hiện một
sự phân định theo Tin Mừng về những thực hành phổ biến trong việc thực thi quyền
bính, trong Giáo hội cũng như trong xã hội?
B 3.2. Bằng
cách nào chúng ta có thể phát triển những thực hành phân định và những tiến
trình đưa ra quyết định theo một cách thức đích thực có tính hiệp hành, luôn
tôn trọng vai trò tác nhân chủ yếu của Chúa Thánh Thần?
Trong tư cách một Giáo hội hiệp hành, chúng ta được kêu gọi cùng nhau
phân định các bước chúng ta nên thực hiện để chu toàn sứ mạng loan báo Tin Mừng,
nhấn mạnh quyền của mọi người được tham gia vào đời sống và sứ mạng của Giáo hội,
và cho thấy sự đóng góp không thể thay thế của tất cả những người đã nhận Phép
Rửa. Nền tảng của mọi sự phân định là ước muốn làm theo thánh ý của Chúa và lớn
lên trong sự gần gũi với Ngài qua cầu nguyện, suy gẫm Lời Chúa và tham gia vào
đời sống bí tích, nhờ đó chúng ta có thể lựa chọn như Chúa muốn. Về vị trí của
việc phân định trong một Giáo hội hiệp hành mang tính sứ mạng:
a) Các Đại hội cấp Châu lục bày tỏ mong muốn các tiến trình cùng nhau đưa
ra quyết định có khả năng hội nhập sự đóng góp của toàn thể Dân Thiên Chúa, đặc
biệt những người có chuyên môn liên quan, cũng như bao gồm những người vì nhiều
lý do khác nhau vẫn còn ở bên lề đời sống cộng đoàn, chẳng hạn phụ nữ, giới trẻ,
các nhóm thiểu số, người nghèo và những người bị loại trừ. Mong muốn này thường
được diễn tả cùng với sự không hài lòng với các hình thức thực thi quyền bính
trong đó các quyết định được đưa ra mà chẳng cần có sự tham vấn;
b) Các Đại hội cấp Châu lục cũng ghi nhận những nỗi sợ hãi của những người
nhìn thấy một sự cạnh tranh giữa các chiều kích hiệp hành và phẩm trật, vốn đều
là những yếu tố cấu thành nên Giáo hội. Tuy nhiên, các dấu hiệu ngược lại cũng
đang xuất hiện. Một ví dụ, kinh nghiệm của một thẩm quyền thích đáng đưa ra một
quyết định trong một tiến trình hiệp hành đã làm cho cộng đoàn sẵn sàng hơn để
chấp nhận tính hợp pháp của nó. Ví dụ thứ hai là ý thức ngày càng tăng rằng việc
thiếu sự trao đổi lành mạnh trong cộng đoàn sẽ làm suy yếu vai trò của quyền
bính, đôi khi giảm trừ nó đến mức chỉ còn là một sự khẳng định quyền lực. Ví dụ
thứ ba, tại một vùng có số lượng linh mục rất thấp, các trách nhiệm trong Giáo
hội đã được giao phó cho các tín hữu giáo dân, họ thi hành chúng một cách xây dựng
và không có tính đối kháng.
c) việc áp dụng rộng rãi phương pháp trao đổi trong Thánh Thần trong giai
đoạn thỉnh ý đã cho phép nhiều người kinh nghiệm các yếu tố của việc phân định
trong cộng đoàn và việc tham gia xây dựng sự đồng thuận, theo cách không che giấu
những xung đột, cũng không tạo ra những sự phân cực;
d) những người thi hành các nhiệm vụ quản trị và trách nhiệm được kêu gọi
khởi xướng, tạo điều kiện thuận lợi và đồng hành với các tiến trình phân định
trong cộng đoàn, bao gồm việc lắng nghe Dân Thiên Chúa. Cách riêng, thẩm quyền
của giám mục có một vai trò nền tảng trong việc làm sinh động và chứng thực đặc
tính hiệp hành của các tiến trình này, cũng như trong việc xác nhận tính trung
thực của các kết luận xuất hiện trong tiến trình. Đặc biệt, các vị mục tử có
trách nhiệm chứng thực mối tương quan giữa những cảm hứng của các cộng đoàn của
mình và “kho tàng Lời Chúa thánh thiêng được trao phó cho Giáo hội” (DV 10), một
mối tương quan cho phép coi những cảm hứng ấy như một sự diễn tả chân thực cảm
thức đức tin của Dân Thiên Chúa;
e) việc chấp nhận nhãn quan về sự phân định trong cộng đoàn sẽ thách thức
Giáo hội ở mọi cấp độ và trong mọi hình thức tổ chức của nó. Ngoài các cơ cấu
giáo xứ và giáo phận, điều này cũng liên quan đến các tiến trình đưa ra quyết định
của các hiệp hội, các phong trào và các nhóm do giáo dân lãnh đạo, trong đó người
ta nại đến các cơ chế có tính thiết chế thường liên quan đến các thực hành như
bỏ phiếu. Nó chất vấn về cách thức mà các cơ quan đưa ra quyết định của các tổ
chức liên quan đến Giáo hội (như các trường học, đại học, tổ chức, bệnh viện,
các trung tâm tiếp nhận và hành động xã hội, v.v.) nhận diện và vạch ra các hướng
dẫn hoạt động. Cuối cùng, nó thách thức các Hội dòng Đời sống Thánh hiến và các
Tu đoàn Tông đồ về những cách nối kết các đặc nét của đặc sủng với hiến pháp của
mình (x. DCS 81);
f) Việc áp dụng các tiến trình đưa ra quyết định trong đó sự phân định
trong cộng đoàn được sử dụng cách ổn định sẽ đòi hỏi một sự hoán cải của cá
nhân, tập thể, về văn hóa và về thể chế, cũng như đòi hỏi một sự đầu tư vào việc
đào tạo.
Câu hỏi để
phân định
Chúng ta có thể
hình dung thế nào về các quá trình đưa ra quyết định với nhiều sự tham gia hơn,
dành chỗ cho sự lắng nghe và sự phân định trong cộng đoàn được hỗ trợ bởi quyền
bính được hiểu như là sự phục vụ cho hiệp nhất?
Những đề nghị
cho việc cầu nguyện và gợi ý suy tư
1) Chúng ta dành chỗ nào trong các quá trình đưa ra quyết định để lắng
nghe Lời Chúa? Bằng cách nào chúng ta dành chỗ cho tác nhân chính là Chúa Thánh
Thần, một cách cụ thể chứ không chỉ bằng lời lẽ?
2) Làm thế nào để cuộc trao đổi trong Chúa Thánh Thần, là điều mở ra động
lực phân định trong cộng đoàn, có thể đóng góp vào việc đổi mới các tiến trình
đưa ra quyết định trong Giáo hội? Làm thế nào nó có thể được qui hướng nhiều
hơn vào đời sống chính thức của Giáo hội, và do đó trở thành một thực hành
thông thường? Cần những thay đổi nào trong giáo luật để tạo điều kiện thuận lợi
cho việc này?
3) Bằng cách nào chúng ta có thể cổ vũ tác vụ của người điều hợp các tiến
trình phân định trong cộng đoàn, bảo đảm rằng những người thi hành nhiệm vụ này
nhận được sự huấn luyện và sự đồng hành thích đáng? Bằng cách nào chúng ta có
thể đào tạo các thừa tác viên chức thánh để đồng hành với các tiến trình phân định
trong cộng đoàn?
4) Bằng cách nào chúng ta có thể thúc đẩy phụ nữ, giới trẻ, các nhóm thiểu
số và những tiếng nói bị gạt ra bên lề tham gia vào các tiến trình phân định và
đưa ra quyết định?
5) Làm thế nào để một giải thích rõ ràng hơn về mối tương quan giữa toàn
bộ tiến trình đưa ra quyết định và thời điểm cụ thể của việc quyết định có thể
giúp chúng ta xác định rõ hơn các trách nhiệm của các chủ thể khác nhau ở mỗi
giai đoạn? Chúng ta hiểu thế nào về mối tương quan giữa việc quyết định và việc
phân định nói chung?
6) những người nam nữ thánh hiến có thể và phải tham gia như thế nào vào
các tiến trình đưa ra quyết định của các Giáo hội địa phương? Chúng ta có thể học
được gì từ kinh nghiệm của họ và các linh đạo khác nhau của họ liên quan đến
các tiến trình phân định và đưa ra quyết định? Chúng ta có thể học được gì từ
các hiệp hội, phong trào và các nhóm do giáo dân lãnh đạo?
7) Bằng cách nào chúng ta có thể giải quyết một cách xây dựng các trường
hợp trong đó những người có thẩm quyền cảm thấy họ không thể xác nhận các kết
luận đạt được bởi một quá trình phân định của cộng đoàn, và họ đưa ra quyết định
theo một hướng khác? Thẩm quyền đó phải cung cấp loại đền đáp nào cho những người
đã tham gia vào tiến trình này?
8) Chúng ta có thể học được gì từ cách mà các xã hội và các nền văn hóa của
chúng ta quản lý những tiến trình có sự tham gia? Ngược lại, những mô hình văn
hóa nào, được Giáo hội vận dụng, lại chứng tỏ là một trở ngại cho việc xây dựng
một Giáo hội có tính hiệp hành hơn?
9) Chúng ta có thể học và nhận được gì từ kinh nghiệm của các Giáo hội và
các Cộng đoàn Giáo hội khác, và từ kinh nghiệm của các tôn giáo khác? Những
kích ứng nào từ các nền văn hóa bản địa, thiểu số và bị áp bức có thể giúp
chúng ta suy nghĩ lại về các tiến trình đưa ra quyết định của mình? Những hiểu
biết nào có thể thu được từ các kinh nghiệm trong môi trường kỹ thuật số?
B 3.3.
Những cơ cấu nào có thể được phát triển để củng cố một Giáo hội hiệp hành mang
tính sứ mạng?
Các Đại hội cấp Châu lục bày tỏ mong muốn mạnh mẽ rằng cách thức xúc tiến
Thượng Hội đồng, được kinh nghiệm trong hành trình đang diễn ra, nên thâm nhập
vào đời sống hàng ngày của Giáo hội ở mọi cấp độ, hoặc bằng cách đổi mới các cơ
cấu hiện có - như các Hội đồng Mục vụ giáo phận và giáo xứ, các Hội đồng Kinh tế,
các Công nghị cấp giáo phận - hoặc bằng cách thiết lập các cơ cấu mới. Mặc dù
không có ý làm giảm tầm quan trọng của các mối tương quan được canh tân trong
Dân Thiên Chúa, nhưng việc xây dựng các cơ cấu là điều tất yếu để củng cố những
thay đổi theo thời gian. Đặc biệt:
a) để không dừng lại chỉ ở một bài tập trên giấy tờ hoặc hoàn toàn phụ
thuộc vào thiện chí của các cá nhân, tính đồng trách nhiệm trong sứ mạng do
Phép Rửa phải mang những dạng cấu trúc cụ thể. Do đó, cần có các khung thiết chế
thích hợp, cùng với các không gian trong đó sự phân định trong cộng đoàn có thể
được thực hành một cách thường xuyên. Điều này không nên được hiểu như một đòi
hỏi về việc phân phối lại quyền lực, nhưng là nhu cầu thực thi hiệu quả tính đồng
trách nhiệm do Phép Rửa. Chính Phép Rửa trao quyền và bổn phận cho mỗi người,
mà mỗi người phải có khả năng thi hành theo các đặc sủng và tác vụ của mình;
b) điều này yêu cầu các cơ cấu và các thể chế hoạt động với các thủ tục
thích hợp, có tính minh bạch, qui hướng vào sứ mạng, và mở ra cho sự tham gia;
các thủ tục có dành chỗ cho phụ nữ, giới trẻ, các nhóm thiểu số, người nghèo và
những người bị gạt ra ngoài lề. Điều này đúng với các cơ quan có tính tham gia
như đã đề cập, vai trò của mỗi cơ quan này phải được tái khẳng định và củng cố.
Điều này cũng đúng đối với các cơ quan đưa ra quyết định của các hiệp hội,
phong trào và các cộng đoàn mới; các cơ quan quản trị của các Hội dòng Đời sống
Thánh hiến và các Tu đoàn Tông đồ (theo cách thức phù hợp với đặc sủng riêng);
nhiều tổ chức đa dạng, thường cũng thuộc luật dân sự, qua đó hoạt động sứ mạng
và sự phục vụ cộng đoàn Kitô hữu được thể hiện, chẳng hạn như các trường học, bệnh
viện, đại học, phương tiện truyền thông đại chúng, các trung tâm tiếp nhận và
hành động xã hội, các trung tâm văn hóa, các cơ sở, v.v.;
c) Lời kêu gọi cải cách các cơ cấu, các tổ chức và cơ chế hoạt động nhằm
đạt được tính minh bạch thì đặc biệt mạnh mẽ trong những bối cảnh được đánh dấu
rõ nhất bởi cuộc khủng hoảng lạm dụng (tình dục, kinh tế, tâm linh, tâm lý, cơ
chế, lương tâm, quyền lực, quyền tài phán). Việc xử lý không thỏa đáng các trường
hợp lạm dụng thường là một phần của vấn đề, đặt ra câu hỏi về các cơ chế, thủ tục
và hoạt động tổng thể của các cơ cấu và các tổ chức Giáo hội, cũng như tâm thức
của những người làm việc trong đó. Việc tìm kiếm sự minh bạch và đồng trách nhiệm
cũng dấy lên những nỗi sợ hãi và phản kháng; chính vì vậy cần phải đào sâu việc
đối thoại, tạo cơ hội chia sẻ và đối thoại ở tất cả các cấp;
d) phương pháp đối thoại trong Chúa Thánh Thần đã chứng tỏ là có giá trị
đặc biệt để xây dựng lại sự tin tưởng trong những bối cảnh mà vì nhiều lý do
khác nhau, một bầu khí ngờ vực đã phát triển giữa các thành viên khác nhau của
Dân Thiên Chúa. Một hành trình hoán cải và canh tân, lắng nghe tiếng nói của
Chúa Thánh Thần, sẽ đòi hỏi những cơ cấu và thể chế có khả năng đồng hành và hỗ
trợ hành trình này. Tuy nhiên, đồng thời, các Đại hội cấp Châu lục bày tỏ mạnh
mẽ niềm xác tín rằng chỉ các cơ cấu thôi thì chưa đủ, mà còn cần phải thay đổi
tư duy, do đó cần phải đầu tư vào việc đào tạo;
e) Hơn nữa, dường như cũng nên hành động trong lĩnh vực giáo luật bằng
cách: cân bằng lại mối tương quan giữa nguyên tắc thẩm quyền, vốn được khẳng định
mạnh mẽ trong luật hiện hành, và nguyên tắc tham gia; tăng cường định hướng hiệp
hành của các tổ chức hiện có; lập ra các tổ chức mới, ở nơi mà điều này xem ra
cần thiết cho các nhu cầu của đời sống cộng đoàn; giám sát việc vận dụng hiệu
quả pháp luật hiện hành.
Câu hỏi để
phân định
Một Giáo hội
hiệp hành cần sống tinh thần đồng trách nhiệm và tính minh bạch: làm thế nào nhận
thức này có thể hình thành nền tảng cho việc cải cách các thể chế, các cơ cấu
và thủ tục, để củng cố sự thay đổi theo thời gian?
Những đề nghị
cho việc cầu nguyện và gợi ý suy tư
1) Các cơ cấu giáo luật và các thủ tục mục vụ nên thay đổi như thế nào để
thúc đẩy tinh thần đồng trách nhiệm và tính minh bạch? Các cơ cấu của chúng ta
có thích hợp để bảo đảm sự tham gia, hay chúng ta cần những cơ cấu mới?
2) Giáo luật có thể đóng góp như thế nào vào việc đổi mới các cơ cấu và
các định chế? Những thay đổi nào xem ra cần thiết hoặc phù hợp?
3) Những cản trở nào (não trạng, thần học, thực tiễn, tổ chức, tài chính,
văn hóa) ngăn chặn việc chuyển đổi các cơ quan có tính tham gia được Giáo luật
hiện hành qui định thành các cơ quan đảm trách hữu hiệu việc phân định trong cộng
đoàn? Những cải cách nào là cần thiết để các cơ quan ấy có thể hỗ trợ cho sứ mạng
một cách hiệu quả, sáng tạo và sinh động? Bằng cách nào các cơ quan ấy có thể cởi
mở hơn với sự hiện diện và đóng góp của phụ nữ, giới trẻ, người nghèo, người di
cư, thành viên của các nhóm thiểu số và những người vì nhiều lý do khác nhau cảm
thấy mình ở bên lề đời sống cộng đoàn?
4) Nhãn quan về một Giáo hội hiệp hành thách thức thế nào đối với các cơ
cấu và qui trình của đời sống thánh hiến, các dạng khác nhau của hiệp hội giáo
dân, và hoạt động của các tổ chức liên quan đến Giáo hội?
5) Trong những lĩnh vực nào của đời sống thể chế cần có sự minh bạch hơn
(báo cáo kinh tế và tài chính, sự lựa chọn ứng viên cho các vị trí chịu trách
nhiệm, sự bổ nhiệm, v.v.)? Những công cụ nào chúng ta có thể sử dụng để đạt được
điều này?
6) Triển vọng minh bạch và cởi mở đối với các tiến trình tham vấn và phân
định chung cũng làm dấy lên những lo ngại. Những lo ngại ấy bộc lộ thế nào? Những
người bày tỏ mối quan tâm lo ngại điều gì? Những lo ngại này có thể được giải
quyết và vượt qua như thế nào?
7) Có thể phân biệt tới mức độ nào giữa các thành viên của một tổ chức với
chính tổ chức đó? Trách nhiệm về việc xử lý không đúng các trường hợp lạm dụng
là trách nhiệm của cá nhân hay của hệ thống? Bằng cách nào một nhãn quan hiệp
hành có thể góp phần tạo ra một nền văn hóa ngăn chặn mọi hình thức lạm dụng?
8) Chúng ta có thể học được gì từ cách mà các cơ chế công và công pháp
cũng như luật dân sự cố gắng đáp ứng nhu cầu về sự minh bạch và sự tin cậy
trong xã hội (sự chia tách quyền lực, các cơ quan giám sát độc lập, bổn phận
công khai một số qui trình nhất định, giới hạn về thời gian của nhiệm kỳ,
v.v.)?
9) Chúng ta có thể học được gì từ kinh nghiệm của các Giáo hội và các Cộng
đoàn Giáo hội khác liên quan đến hoạt động của các cơ cấu và các thiết chế theo
phong cách hiệp hành?
B 3.4. Bằng
cách nào chúng ta có thể tạo nên cơ cấu cho những điển hình về tính hiệp hành
và tính hiệp đoàn liên quan đến các nhóm Giáo hội địa phương?
Giai đoạn đầu tiên của tiến trình Thượng Hội đồng đã nêu bật vai trò của
các cơ quan mang tính hiệp hành và hiệp đoàn đã điều phối các Giáo hội địa
phương khác nhau: các Cơ cấu Giáo phẩm Đông phương và các Hội đồng Giám mục
trong Giáo hội La tinh (x. PE I, 7). Các tài liệu được soạn thảo trong các giai
đoạn khác nhau nhấn mạnh cách mà việc thỉnh ý Dân Thiên Chúa tại các Giáo hội địa
phương và các giai đoạn phân định tiếp theo là một kinh nghiệm thực sự của việc
lắng nghe Thánh Thần xuyên qua việc lắng nghe nhau. Từ kinh nghiệm phong phú
này, chúng ta có thể rút ra những nhận thức để giúp xây dựng một Giáo hội ngày
càng có tính hiệp hành hơn:
a) tiến trình hiệp hành có thể trở thành “một động lực hiệp thông truyền
cảm hứng cho mọi quyết định của Giáo hội”[17] bởi vì nó thực sự liên quan
đến tất cả các chủ thể - Dân Thiên Chúa, giám mục đoàn, Giám mục Rôma - mỗi
thành phần theo chức năng riêng của mình. Việc diễn ra có trật tự các giai đoạn
của Thượng Hội đồng này đã xua tan nỗi sợ rằng việc thỉnh ý Dân Thiên Chúa sẽ dẫn
đến sự suy yếu trong tác vụ của các mục tử. Ngược lại, việc thỉnh ý ấy có thể
thực hiện được vì nó được khởi xướng bởi mỗi giám mục, trong tư cách là “nguyên
lý và nền tảng hữu hình của sự hiệp nhất” (LG 23) trong Giáo hội của mình. Tiếp
theo đó, trong các Cơ cấu Giáo phẩm Đông phương và trong các Hội đồng Giám mục,
các mục tử đã xúc tiến một hành động phân định tập thể để cân nhắc những đóng
góp đến từ các Giáo hội địa phương. Như vậy, tiến trình hiệp hành đã thúc đẩy
việc thực thi thực sự tính hiệp đoàn giám mục trong một Giáo hội hiệp hành trọn
vẹn;
b) vấn đề thực thi tính hiệp hành và tính hiệp đoàn trong các trường hợp
liên quan đến các nhóm Giáo hội địa phương có chung các truyền thống thiêng
liêng, phụng vụ và kỷ luật, có sự kết nối về địa lý và sự gần gũi về văn hóa, bắt
đầu với các Hội đồng Giám mục, đòi hỏi phải canh tân suy tư về thần học và giáo
luật. Qua các cơ quan này, “sự hiệp thông giám mục đoàn (communio Episcoporum) đã tìm thấy cách thể hiện để phục vụ cho sự
hiệp thông Giáo hội (communio Ecclesiae)
được đặt nền trên sự hiệp thông của các tín hữu (communio fidelium)” (PE I,7).
c) một lý do để đối diện với thách thức này xuất hiện trong Evangelii gaudium: “Không nên để Đức
Giáo hoàng thay thế các giám mục địa phương trong việc phân định mọi vấn đề
phát sinh trong lãnh thổ của các vị. Theo nghĩa này, tôi ý thức được sự cần thiết
phải thúc đẩy một sự ‘tản quyền’ hợp lý” (số 16). Nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành
lập Thượng Hội đồng Giám mục, Đức Thánh Cha đã chỉ rõ rằng tính hiệp hành không
chỉ được thực hiện ở cấp độ các Giáo hội địa phương và cấp độ Giáo hội hoàn vũ,
mà còn ở cấp độ các nhóm Giáo hội nữa, như các Giáo Tỉnh và các Giáo khu, các
Công đồng địa phương và nhất là các Hội đồng Giám mục: “Chúng ta cần suy nghĩ về
cách nào tốt hơn để thông qua các cơ quan này, mang lại những điển hình trung
gian của tính hiệp đoàn, có lẽ bằng cách hội nhập và cập nhật một số khía cạnh
của tổ chức Giáo hội cổ thời”.[18]
Câu hỏi để
phân định
Theo kinh nghiệm
hiệp hành cho đến nay, làm thế nào để tính hiệp hành có thể tìm thấy sự diễn tả
tốt hơn trong và thông qua các thể chế liên quan đến các nhóm Giáo hội địa
phương, như các Thượng Hội đồng Giám mục và các Hội đồng Phẩm trật của các Giáo
hội Công giáo Đông phương, các Hội đồng Giám mục và các Đại hội cấp Châu lục,
sao cho các thể chế này được coi là “những chủ thể của các quy kết cụ thể, bao
gồm cả thẩm quyền giáo lý chân thực” (EG 32) trong một nhãn quan sứ mạng?
Những đề nghị
cho việc cầu nguyện và gợi ý suy tư
1) Năng động hiệp hành của việc lắng nghe Chúa Thánh Thần xuyên qua việc
lắng nghe nhau là cách thực tiễn và thuyết phục nhất để chuyển tính hiệp đoàn
giám mục thành hành động trong một Giáo hội hiệp hành trọn vẹn. Dựa trên kinh
nghiệm của tiến trình hiệp hành:
a) Bằng cách nào chúng ta có thể làm cho việc lắng nghe Dân Thiên Chúa trở
thành cách thức thông thường và quen thuộc để xúc tiến các tiến trình đưa ra
quyết định trong mọi cấp độ của đời sống Giáo hội?
b) Bằng cách nào chúng ta có thể thực hiện việc lắng nghe Dân Thiên Chúa
trong các Giáo hội địa phương? Đặc biệt, làm thế nào các cơ quan có tính tham
gia có thể được củng cố để trở thành những nơi chốn lắng nghe và phân định có
hiệu quả trong Giáo hội?
c) Bằng cách nào chúng ta có thể suy nghĩ lại về các tiến trình đưa ra
quyết định ở cấp độ các cơ quan Giám mục của các Giáo hội Công giáo Đông phương
và các Hội đồng Giám mục, dựa trên việc lắng nghe Dân Thiên Chúa trong các Giáo
hội địa phương?
d) Làm thế nào để việc tham gia ở cấp Châu lục có thể được hội nhập vào
Giáo luật?
2) Vì việc thỉnh ý các Giáo hội địa phương là một cách hữu hiệu để lắng
nghe Dân Thiên Chúa, nên việc phân định của các mục tử mang đặc tính của một
hành động hiệp đoàn có thể xác nhận một cách có thẩm quyền những gì Chúa Thánh
Thần đã nói với Giáo hội qua cảm thức đức tin của Dân Thiên Chúa:
a) Mức độ thẩm quyền tín lý nào có thể được gán cho việc phân định của
các Hội đồng Giám mục? Bằng cách nào các Giáo hội Công giáo Đông phương điều chỉnh
các cơ quan giám mục của mình?
b) Mức độ thẩm quyền giáo lý nào có thể được gán cho sự phân định của một
Đại hội cấp Châu lục? Hoặc của những cơ quan tập hợp các Hội đồng Giám mục trên
quy mô lục địa hoặc quốc tế?
c) Giám mục Rôma chu toàn vai trò nào đối với các tiến trình liên quan đến
các nhóm Giáo hội này? Ngài thực hiện vai trò này bằng những cách nào?
3) Những yếu tố nào của trật tự Giáo hội cổ thời nên được hội nhập và cập
nhật để làm cho các Cơ cấu Giáo phẩm Đông phương, các Hội đồng Giám mục và các
Đại hội cấp Châu lục trở thành những điển hình hiệu quả của tính hiệp hành và
tính hiệp đoàn?
4) Công đồng Vatican II tuyên bố rằng toàn thể Giáo hội và mọi thành phần
của Giáo hội đều được hưởng lợi ích từ việc chia sẻ cho nhau những ân ban của
mình (x. LG 13):
a) Những quyết nghị của một Công đồng chung, một Công đồng địa phương, một
Công nghị giáo phận có giá trị thế nào đối với các Giáo hội khác?
b) Giáo hội La tinh có thể rút ra những hiểu biết nào từ kinh nghiệm hiệp
hành phong phú của các Giáo hội Công giáo Đông phương?
c) Sự nhất trí tới mức nào của một số nhóm Giáo hội địa phương (các Công
đồng địa phương, các Hội đồng Giám mục, v.v.) về cùng một vấn đề có thể khiến
Giám mục Rôma nêu ra vấn đề đó ở cấp độ Giáo hội hoàn vũ?
d) Việc phục vụ cho sự hiệp nhất được ủy thác cho Giám mục Rôma phải được
thực hiện như thế nào khi các thể chế địa phương có thể áp dụng các cách thức
khác nhau? Có khoảng trống nào dành cho những cách tiếp cận khác nhau giữa các
vùng khác nhau hay không?
5) Chúng ta có thể học được gì từ kinh nghiệm của các Giáo hội và các Cộng
đoàn Giáo hội khác liên quan đến các nhóm Giáo hội địa phương để thực thi tính
hiệp đoàn và tính hiệp hành?
B 3.5. Bằng
cách nào thiết chế Thượng Hội đồng có thể được củng cố để trở thành một diễn tả
của tính hiệp đoàn giám mục trong một Giáo hội hiệp hành toàn diện?
Với Tự sắc Apostolica sollicitudo
(15 tháng 9 năm 1965), thánh Phaolô VI đã thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục
như là “một Hội đồng Giám mục thường trực cho Giáo hội hoàn vũ”. Do đó, ngài đã
chấp nhận yêu cầu của Công đồng để bảo đảm sự tham gia của các giám mục trong
việc chăm sóc toàn thể Giáo hội, xác định rõ rằng “Thượng Hội đồng này […] giống
như mọi thể chế của con người, có thể được cải thiện theo thời gian”. Với Tông
hiến Episcopalis communio (15 tháng 9
năm 2018), Đức Thánh Cha Phanxicô đã góp phần vào việc “hoàn thiện” được kỳ vọng
này, biến Thượng Hội đồng từ một sự kiện được thấy như một cuộc họp của các
Giám mục thành một tiến trình lắng nghe diễn ra trong nhiều giai đoạn (x. Điều
4), trong đó toàn thể Giáo hội và mọi người trong Giáo hội - Dân Thiên Chúa,
Giám mục đoàn, Giám mục Rôma - tham gia cách đầy đủ hơn.
a) Thượng Hội đồng 2021-2024 đang chứng minh rõ ràng rằng tiến trình Thượng
Hội đồng là bối cảnh thích hợp nhất để thi hành cách đầy đủ quyền tối thượng,
tính hiệp đoàn và tính hiệp hành như những yếu tố không thể khoan nhượng của một
Giáo hội trong đó mỗi chủ thể thực hiện chức năng riêng của mình cách tốt nhất,
và trong sự phối hợp với những chủ thể khác;
b) Giám mục Rôma có trách nhiệm triệu tập Giáo hội tham gia Thượng Hội đồng,
kêu gọi một Đại hội cho Giáo hội hoàn vũ, cũng như khởi xướng, đồng hành và đúc
kết tiến trình Thượng Hội đồng ấy. Đặc quyền này thuộc về ngài trong tư cách là
“nguyên lý và nền tảng hữu hình của sự hiệp nhất giữa các giám mục và đông đảo
các tín hữu” (LG 23);
c) Vì “mỗi giám mục là nguyên lý và nền tảng hữu hình của sự hiệp nhất
trong các Giáo hội địa phương của các ngài… trong và từ các Giáo hội địa phương
này tồn tại một Giáo hội Công giáo duy nhất” (LG 23), nên chính mỗi giám mục
giáo phận có trách nhiệm khởi xướng, đồng hành và đúc kết việc thỉnh ý Dân
Thiên Chúa trong Giáo hội của mình. Dưới ánh sáng của sự chăm sóc mà các Giám mục
dành cho Giáo hội hoàn vũ (xem LG 23), các ngài cũng có trách nhiệm cộng tác với
các cơ quan cấp trên giáo phận nhằm thực hiện tính hiệp hành và tính hiệp đoàn.
Bằng cách này, các ngài thi hành chức năng phân định dành riêng cho tác vụ giám
mục trong Giáo hội;
d) mặc dù các cơ quan này không quy tụ toàn thể Giám mục đoàn, nhưng việc
phân định mà các mục tử thực hiện thông qua các cơ quan này mang đặc tính hiệp
đoàn do chính mục đích của hành động. Thật vậy, các Đại hội Giám mục trong tiến
trình hiệp hành có nhiệm vụ xem xét kỹ lưỡng các kết quả của những cuộc thỉnh ý
diễn ra ở các Giáo hội địa phương, trong đó cảm thức đức tin của Dân Thiên Chúa
được biểu hiện. Làm sao một hành động ‘không có tính hiệp đoàn’ lại có thể phân
định được điều mà Chúa Thánh Thần đang nói với Giáo hội thông qua cuộc thỉnh ý
Dân Thiên Chúa, là những người “không thể nhầm lẫn trong niềm tin” (LG12)?;
e) Kinh nghiệm Thượng Hội đồng cho đến nay đã cho thấy rằng việc thực thi
hữu hiệu tính hiệp đoàn có thể được phát triển trong một Giáo hội hiệp hành.
Trong khi phân định là một hành động chủ yếu “thuộc về những người chủ tọa Giáo
hội” (LG 12), thì nó đã đạt được chiều sâu và sự phù hợp trong liên hệ đến các
vấn đề cần được xem xét nhờ sự đóng góp của Dân Thiên Chúa, là những người đã
tham gia vào các Đại hội cấp Châu lục.
Câu hỏi để
phân định
Dưới ánh sáng
của mối tương quan năng động và hỗ tương giữa tính hiệp hành của Giáo hội, tính
hiệp đoàn giám mục và vị thế tối thượng của đấng kế vị thánh Phêrô, cơ chế của
Thượng Hội đồng phải được hoàn thiện như thế nào để nó trở thành một không gian
an toàn và bảo đảm cho việc thực thi tính hiệp hành, nhờ đó bảo đảm sự tham gia
đầy đủ của tất cả mọi người – Dân Chúa, Giám mục đoàn và Giám mục Rôma – mà vẫn
tôn trọng các chức năng cụ thể của mỗi thành phần? Chúng ta nên đánh giá thế
nào về thử nghiệm mở rộng sự tham gia cho một nhóm những người không phải là
giám mục trong lượt Đại hội đầu tiên của Đại Hội Thường lệ lần thứ XVI của Thượng
Hội đồng Giám mục? (Tháng 10 năm 2023)
Những đề nghị
cho việc cầu nguyện và gợi ý suy tư
1) Tiến trình Thượng Hội đồng đưa vào Giáo hội “một năng động hiệp thông
có sức truyền cảm hứng cho mọi quyết định trong Giáo hội”:[19]
a) Làm thế nào năng động này có thể trở thành cách hành động tiêu chuẩn ở
mọi cấp độ của đời sống Giáo hội?
b) Nguyên lý quyền bính phù hợp với tiến trình hiệp hành như thế nào?
c) tiến trình hiệp hành ảnh hưởng thế nào đến sự nhận hiểu của chúng ta về
quyền bính trong Giáo hội ở các cấp độ khác nhau, kể cả quyền bính của Giám mục
Rôma?
2) Giai đoạn đầu tiên của tiến trình Thượng Hội đồng tiến hành một chuyển
động từ cấp địa phương đến cấp hoàn vũ, với sự thỉnh ý Dân Thiên Chúa trong các
Giáo hội địa phương và các hoạt động phân định tiếp theo, trước tiên trong các
Cơ cấu Giáo phẩm Đông phương và các Hội đồng Giám mục, và sau đó trong các Đại
hội cấp Châu lục:
a) bằng cách nào chúng ta có thể bảo đảm rằng cuộc thỉnh ý ấy thực sự nắm
bắt được sự biểu hiện của cảm thức đức tin nơi Dân Thiên Chúa trong một Giáo hội
nhất định?
b) Bằng cách nào các Cơ cấu Giáo phẩm Đông phương, các Hội đồng Giám mục
và các Đại hội cấp Châu lục có thể củng cố “mối gắn kết đầy hoa trái giữa cảm
thức đức tin của Dân Thiên Chúa và chức năng giáo huấn của các mục tử” (PD 14)?
c) Sự hiện diện của các thành viên có năng lực của Dân Thiên Chúa trong
các Đại hội của các Hội đồng Giám mục cũng như trong các Đại hội cấp Châu lục
là điều đáng mong đợi như thế nào?
d) Các cơ quan Giáo hội thường trực bao gồm không chỉ các giám mục có thể
đóng vai trò gì, chẳng hạn như Hội đồng Giáo hội mới được thành lập cho Vùng
Amazon?
3) Trong Đại hội các Giám mục được triệu tập tại Rôma, giai đoạn thứ hai
của con đường hiệp hành diễn tả việc toàn thể Giáo hội phổ quát lắng nghe những
gì Chúa Thánh Thần đã nói với Dân Thiên Chúa:
a) Đại hội này của các giám mục phù hợp thế nào với tiến trình Thượng Hội
đồng?
b) Làm thế nào Đại hội này đạt được tính liên tục với giai đoạn đầu tiên
của tiến trình hiệp hành? Sự hiện diện của các chứng nhân có năng lực ở giai đoạn
đầu của tiến trình hiệp hành có đủ để bảo đảm tính liên tục không?
c) Nếu các Đại hội của các Hội đồng Giám mục và các Đại hội cấp Châu lục
đã làm công việc phân định, thì việc phân định tiếp tục này được đặc trưng như
thế nào và nó có giá trị gì?
4) Giai đoạn thứ ba liên quan đến động thái trao lại các kết quả của Thượng
Hội đồng Giám mục cho các Giáo hội địa phương để thực hiện: Bằng cách nào chúng
ta có thể giúp thể hiện trọn vẹn “tính hỗ tương nội tại” giữa các chiều kích phổ
quát và địa phương của Giáo hội duy nhất?
[1] Do đó, để cho ngắn gọn và trừ khi được quy định khác,
các cụm từ “Đại hội” và “Đại hội Thượng Hội đồng” được dùng trong Tài liệu này
là đề cập đến phiên họp vào tháng 10 năm 2023.
[2] Đức Thánh Cha Phanxicô, Diễn từ dịp kỷ niệm 50 năm
thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục, 17.10.2015 (x. PD 15), tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/dien-tu-cua-dtc-phanxico-dip-ky-niem-50-nam-thiet-lap-thuong-hoi-dong-giam-muc-44870
[3] Cụm từ “Giáo hội địa phương – local Church” ở đây chỉ
điều mà Bộ giáo luật gọi là “Giáo hội cá biệt - particular Church”.
[4] Phần B sẽ đưa ra những lý do thay đổi thứ tự liên
quan đến phụ đề của Thượng hội đồng. Xem số 44 của tài liệu này.
[5] Đức Thánh Cha Phanxicô, Diễn từ khai mạc Thượng Hội đồng
Giám mục về con đường hiệp hành, ngày 9 tháng 10 năm 2021, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/dien-tu-khai-mac-thuong-hoi-dong-giam-muc-the-gioi-xvi-cua-duc-giao-hoang-phanxico-44212
[6] Đức Thánh Cha Phanxicô, Diễn từ dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục,
17.10.2015, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/dien-tu-cua-dtc-phanxico-dip-ky-niem-50-nam-thiet-lap-thuong-hoi-dong-giam-muc-44870
[7] Ví dụ, tại 128, Tài liệu Cuối cùng nêu rõ: “... chỉ
có các cấu trúc là không đủ, nếu các mối tương quan đích thực không được phát
triển bên trong các cấu trúc; chính chất lượng của những mối tương quan này mới
loan báo Tin mừng”.
[9] Đức Thánh Cha Phanxicô, Diễn từ khai mạc Thượng Hội đồng
Giám mục về con đường hiệp hành, ngày 9 tháng 10 năm 2021, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/dien-tu-khai-mac-thuong-hoi-dong-giam-muc-the-gioi-xvi-cua-duc-giao-hoang-phanxico-44212
[10] Đại hội Thường lệ lần thứ XV Thượng Hội đồng Giám mục.
Người trẻ, đức tin và việc phân định ơn gọi,
Tài liệu Chung kết, 27.10.2018, 25.
[11] Đức Thánh Cha Phanxicô, Diễn từ nói với Đức Mar Awa III Thượng Phụ Giáo hội Assyri Công
giáo Đông Phương, 19.11.2022
[12] Hội đồng Giáo hoàng về Thăng tiến Hiệp nhất Kitô
giáo, Giám mục và sự hiệp nhất Kitô giáo:
Một cẩm nang đại kết, 5.6.2020, 4.
[13] Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô Ii, Thông điệp Ut unum sint, 25.5.1995, 95; dẫn lại
trong EG 32 và EC 10.
[14] Đức Thánh Cha Phanxicô, Diễn từ tại buổi cầu nguyện đại kết, WCC Trung tâm Đại kết
(Geneva), 21.6.2018.
[16] Đức Thánh Cha Phanxicô, Diễn từ dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục,
17.10.2015, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/dien-tu-cua-dtc-phanxico-dip-ky-niem-50-nam-thiet-lap-thuong-hoi-dong-giam-muc-44870
[17] Đức Thánh Cha Phanxicô, Diễn từ dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục,
17.10.2015, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/dien-tu-cua-dtc-phanxico-dip-ky-niem-50-nam-thiet-lap-thuong-hoi-dong-giam-muc-44870
[19] Đức Thánh Cha Phanxicô, Diễn từ dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục,
17.10.2015, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/dien-tu-cua-dtc-phanxico-dip-ky-niem-50-nam-thiet-lap-thuong-hoi-dong-giam-muc-44870