“Hãy nới
rộng lều ngươi đang ở”
(Is 54,2)
TÀI LIỆU LÀM VIỆC
CHO GIAI ĐOẠN CHÂU LỤC
“Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu. Đức Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế” (Philipphê 2,5-7)
1. KINH NGHIỆM TIẾN TRÌNH THƯỢNG HỘI ĐỒNG 1.2
Chung một phẩm giá do bí tích Thánh tẩy mang lại Cử
hành theo cung cách hiệp hành |
DẪN NHẬP
1.
Thượng Hội đồng đang tiến triển: chúng ta có thể mạnh mẽ khẳng định điều này
sau một năm khai mạc. Trong phần đầu tiên của giai đoạn thỉnh ý, hàng triệu người
trên khắp thế giới đã tham gia vào các hoạt động của Thượng Hội đồng: có người
tham gia các cuộc gặp gỡ ở địa phương, có người cộng tác trong việc linh hoạt
và điều phối các hoạt động ở nhiều cấp độ khác nhau, và có người trợ giúp bằng
lời cầu nguyện: “Chúng tôi cũng bày tỏ lòng biết ơn các nữ tu chiêm niệm đã hiệp
ý cầu nguyện cùng dân tộc của mình và vẫn tiếp tục cầu nguyện cho thành quả của
Thượng hội đồng về tính Hiệp hành” (HĐGM Peru). Tất cả những người tham gia ấy
đều thực sự là nhân vật chính của Thượng Hội đồng!
2. Họ tham gia vì được thúc đẩy bởi
mong muốn trả lời câu hỏi cơ bản hướng dẫn toàn bộ tiến trình Thượng Hội đồng:
“Việc ‘cùng nhau bước đi’ này đang diễn ra thế nào trên các bình diện khác nhau
(từ bình diện địa phương đến bình diện hoàn vũ), cho phép Hội thánh loan báo
Tin Mừng đúng theo sứ mạng Hội thánh được ủy thác; và Chúa Thánh Linh mời gọi
chúng ta thực hiện những bước nào để thăng tiến như một Hội thánh hiệp hành?” (Tài liệu chuẩn bị,
số 2).
3. Trên tiến trình này, họ đã trải
nghiệm niềm vui gặp gỡ nhau như những anh chị em trong Chúa Kitô, chia sẻ những
gì âm vang trong tâm hồn họ từ việc lắng nghe Lời và cùng nhau suy ngẫm về
tương lai của Hội thánh dựa trên sự thúc đẩy của Tài liệu Chuẩn bị
(TLCB). Điều này đã nuôi dưỡng nơi họ mong muốn về một Hội thánh ngày càng hiệp
hành: tính hiệp hành đã không còn là một khái niệm trừu tượng đối với họ nhưng
mang diện mạo của một trải nghiệm cụ thể; họ đã nếm được hương vị của nó và muốn
tiếp tục như vậy. “Qua tiến trình này, chúng tôi đã khám phá ra rằng tính hiệp
hành là một cách để trở thành Hội thánh – trên thực tế, đó là cách trở thành Hội
thánh. Chúa Thánh Thần đòi hỏi chúng ta phải hiệp hành hơn” (HĐGM Anh và xứ
Wales).
4. Kinh nghiệm của họ đã được
chuyển thành lời, trong những đóng góp mà các cộng đoàn và các nhóm khác nhau
đã gửi đến các Giáo phận. Các giáo phận đúc kết rồi gửi cho Hội đồng Giám mục;
rồi các Hội đồng Giám mục, từ lược đồ trong TLCB, lại soạn thảo một bản Tổng hợp
và gửi đến Văn phòng Tổng Thư ký của Thượng Hội đồng.
5. Ở cấp độ toàn cầu, sự tham gia
đã vượt quá mọi mong đợi. Tổng cộng, Văn phòng Tổng Thư ký của Thượng Hội đồng
đã nhận được đúc kết của 112 trên 114 Hội đồng Giám mục và của tất cả 15 Hội
thánh Công giáo Đông Phương, cùng với những suy tư của 17 trên 23 cơ quan của
Giáo triều Rôma, cũng như của các Bề trên Dòng tu (USG/UISG), của các Hội đời sống
thánh hiến và Hiệp hội đời sống tông đồ, các hiệp hội và phong trào giáo dân.
Ngoài ra, còn hơn một ngàn đóng góp của các cá nhân và các nhóm cũng như những
ý kiến thu thập được qua mạng xã hội nhờ sáng kiến “Thượng Hội đồng kỹ thuật số”.
Những tài liệu này đã được trao
cho một nhóm chuyên gia, gồm giám mục, linh mục, nam nữ tu sĩ, giáo dân, từ khắp
các châu lục với năng lực chuyên ngành rất đa dạng. Sau khi đọc các bản Tổng hợp,
các chuyên gia này đã gặp nhau gần hai tuần cùng với nhóm soạn thảo, bao gồm vị
Tổng Tường trình viên, Tổng Thư ký Thượng Hội đồng, các phụ tá Tổng Thư ký và một
số viên chức khác của Văn phòng Tổng Thư ký, cùng với các thành viên của Ủy ban
Điều phối. Cuối cùng còn có sự tham gia của các thành viên trong Hội đồng Thường
vụ của Thượng Hội đồng. Họ cùng nhau làm việc trong bầu khí cầu nguyện và phân
định để chia sẻ thành quả từ việc đọc các bản Tổng hợp và chuẩn bị soạn thảo
“Tài liệu Làm việc cho Giai đoạn Châu Lục” này (TLCL).
6. Các trích dẫn trong TLCL cố gắng
giới thiệu ý tưởng về tính phong phú của các tài liệu nhận được, để làm vang
lên tiếng nói của Dân Chúa từ mọi nơi trên thế giới. Không được hiểu các trích
dẫn ấy là sự ủng hộ lập trường của bất kỳ khu vực cụ thể nào trên toàn cầu,
cũng không chỉ là tiêu biểu cho sự đa dạng địa lý, mặc dù nhóm soạn thảo đã cẩn
thận bảo đảm tính quân bình nhất định về các nguồn trích dẫn. Đúng hơn những
trích dẫn này được chọn là vì chúng nói lên được tâm tình có trong nhiều bản Tổng
kết, một cách đặc biệt mạnh mẽ, khéo léo hoặc chính xác. Tuy nhiên, rõ ràng là
không một tài liệu nào có thể cô đọng được chiều sâu của đức tin, sức sống của
đức cậy và sức mạnh của đức ái đầy tràn trong những đóng góp đã nhận được. Đằng
sau những đóng góp ấy, người ta thoáng thấy sức mạnh và sự phong phú của kinh
nghiệm mà các Hội thánh khác nhau có được nhờ biết lên đường và mở ra với nhiều
tiếng nói đã cất lên. Việc tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ và đối thoại này là ý
nghĩa của tiến trình Thượng Hội đồng, với mục đích cuối cùng không phải là tạo
ra các tài liệu mà là mở ra những chân trời hy vọng cho việc thi hành sứ mạng của
Hội thánh.
7. Chính trong cuộc hành trình
này, vốn còn lâu mới kết thúc, mà TLCL này có chỗ đứng và ý nghĩa. Theo quan điểm
của Giai đoạn châu Lục của tiến trình Thượng Hội đồng, Tài liệu này trình bày
những hy vọng và mối quan tâm của Dân Chúa khắp nơi trên thế giới, xoay quanh một
vài chủ điểm. Như thế, Tài liệu giúp cho các Hội thánh địa phương lắng nghe được
tiếng nói của nhau theo quan điểm của các Đại hội tại châu lục vào năm 2023.
Công việc của các Đại hội này là lập một danh sách các ưu tiên, để dựa vào đó
Phiên họp đầu tiên của Đại hội thường kỳ lần thứ XVI của Thượng Hội đồng Giám mục,
diễn ra từ ngày 4 đến ngày 29 tháng 10 năm 2023, sẽ phân định.
8. Việc làm rõ chức năng của TLCL
cũng cho phép chúng ta xác định những gì không thuộc chức năng của nó: nó không
phải là một tài liệu kết thúc, bởi vì tiến trình này còn lâu mới hoàn tất; nó
không phải là một tài liệu của Huấn quyền Hội thánh, cũng không phải là bản tường
trình một cuộc khảo sát xã hội học; nó không nhằm trình bày các chỉ dẫn, các mục
tiêu, cũng không xây dựng trọn vẹn một viễn tượng thần học, ngay cả khi nó mang
lấy kho tàng thần học chứa đựng trong kinh nghiệm của Dân Chúa khi lắng nghe tiếng
nói của Chúa Thánh Thần, khiến phát sinh sensus fidei. Tuy nhiên nó vẫn là một
tài liệu thần học theo nghĩa hướng đến việc phục vụ sứ mạng của Hội thánh: rao
giảng Đức Kitô đã chết và sống lại để cứu độ thế giới.
9. Để tránh mọi hiểu lầm khi đọc,
cần phải ghi nhớ tính chất riêng biệt của TLCL, cũng như cấu trúc của nó.
Chương mở đầu của Tài liệu không chỉ trình bày diễn tiến ‘những gì đã xảy ra’,
mà còn là câu chuyện kể dưới ánh sáng đức tin về tính hiệp hành đã được trải
nghiệm cho đến nay, với việc thỉnh ý Dân Chúa trong các Hội thánh địa phương và
sự phân định của các mục tử trong các Hội đồng Giám mục: nó mô tả kinh nghiệm
hiệp hành, trình bày những khó khăn gặp phải và những thành quả quan trọng nhất
gặt hái được, bằng cách xác định các nền tảng của những gì tạo nên một kinh
nghiệm chung đích thực về đức tin Kitô giáo. Theo cách này, nó không đưa ra một
định nghĩa về tính hiệp hành theo nghĩa hẹp – về điều này, chúng ta có thể tham
khảo TLCB hoặc các tài liệu trên trang mạng của Thượng Hội đồng Giám mục (www.synod.va)
– nhưng trình bày ý nghĩa chung của kinh nghiệm sống hiệp hành của những người
đã tham gia tiến trình Thượng Hội đồng. Điểm nổi bật là việc phục hồi sâu sắc
phẩm giá chung của tất cả những người đã được rửa tội. Đây là trụ cột đích thực
của một Hội thánh hiệp hành và là nền tảng thần học của một sự hiệp nhất có khả
năng chống lại áp lực đồng nhất hóa. Điều này cho phép chúng ta tiếp tục trân
trọng tính đa dạng của các ơn gọi và đặc sủng mà Chúa Thánh Thần với sự phong
phú khôn lường đã tuôn đổ trên các tín hữu.
10. Chương thứ hai trình bày một
biểu tượng trong Kinh thánh, đó là hình ảnh của căn lều, được dùng để mở đầu
cho chương 54 của sách Isaia. Hình ảnh và câu chuyện này là chìa khóa giải
thích nội dung của TLCL dưới ánh sáng của Lời, đặt chúng vào khuôn khổ của lời
Thiên Chúa hứa, trở thành ơn gọi cho Dân Người và Hội Thánh của Người: “Hãy nới
rộng lều ngươi đang ở!”
11. Căn lều này là một không gian
hiệp thông, một nơi để tham gia và là nền tảng cho sứ mạng. Chương thứ ba nêu
rõ những từ khóa của tiến trình Thượng Hội đồng, gắn kết với thành quả của việc
lắng nghe Dân Chúa. Việc này được thực hiện bằng cách thâu tập các câu chuyện
xoay quanh năm căng thẳng phát sinh, vốn đan xen lẫn nhau:
1. Lắng nghe
như một sự mở ra để đón nhận: điều này khởi đi từ mong muốn quy tụ triệt để -
không ai bị loại trừ - hiểu theo một quan điểm hiệp thông với anh chị em và với
Thiên Chúa, Vị Cha chung của chúng ta. Lắng nghe ở đây không phải là một hành
vi thực dụng, mà là giả định thái độ cơ bản của một Thiên Chúa lắng nghe Dân
mình, và sau đó của một Đức Chúa mà Tin Mừng không ngừng trình bày với chúng ta
nơi hành động lắng nghe những người đến với Ngài trên những con đường của miền
Thánh địa; theo nghĩa này, việc lắng nghe đã là sứ mạng và loan báo.
2. Động lực hướng
tới sứ mạng. Đây là một sứ mạng mà người Công giáo nhìn nhận là cần phải được
thực hiện cùng với anh chị em thuộc các tín phái khác và bằng cách đối thoại với
các tín đồ của các tôn giáo khác, biến hành động chăm lo con người thành những
trải nghiệm tâm linh đích thực để tuyên xưng khuôn mặt của một Thiên Chúa quan
tâm chăm sóc chúng ta đến độ trao ban sự sống của chính Người để chúng ta được
sống dồi dào.
3. Thực thi sứ
mạng đòi hỏi một cung cách dựa trên sự tham gia, điều này tương ứng với giả thiết
phải có tinh thần đồng trách nhiệm của tất cả những người đã lãnh nhận bí tích
Thánh tẩy để thi hành một sứ mạng duy nhất của Hội thánh, phát sinh từ phẩm giá
chung do bí tích Thánh tẩy mang lại.
4. Thực thi sứ
mạng đòi hỏi một cung cách dựa trên sự tham gia, điều này tương ứng với giả thiết
phải có tinh thần đồng trách nhiệm của tất cả những người đã lãnh nhận bí tích
Thánh tẩy để thi hành một sứ mạng duy nhất của Hội thánh, phát sinh từ phẩm giá
chung do bí tích Thánh tẩy mang lại.
5. phụng vụ, đặc
biệt phụng vụ Thánh Thể, là suối nguồn và đỉnh cao của đời sống Kitô giáo, đưa
cộng đoàn đến với nhau, làm cho tính hiệp thông trở nên hữu hình, giúp thực thi
tính tham gia và nuôi dưỡng động lực hướng tới sứ mạng qua Lời và các Bí tích.
12. Cuối cùng, chương thứ tư cho
chúng ta cái nhìn sơ lược về tương lai với hai ghi nhận, cả hai đều thiết yếu để
tiếp tục tiến hành Thượng Hội đồng: về mặt tâm linh, hướng chúng ta đến chân trời
hoán cải truyền giáo mang tính hiệp hành; và về mặt phương pháp luận, dõi theo
các bước kế tiếp trong Giai đoạn Châu lục.
13. TLCL chỉ dễ hiểu và hữu ích nếu
được đọc bằng đôi mắt của người môn đệ, là người nhận ra đây là chứng từ của
con đường hoán cải hướng tới một Hội thánh hiệp hành. Điều này có nghĩa là Hội
thánh học hỏi từ việc lắng nghe cách đổi mới sứ mạng loan báo Tin Mừng dưới ánh
sáng của các dấu chỉ thời đại, để tiếp tục cống hiến cho nhân loại một cách hiện
hữu và sống, trong đó tất cả mọi người đều có thể cảm thấy được thuộc về và là
những nhân vật chính. Trên con đường này, ngọn đèn soi cho chúng ta bước là Lời
Chúa, Lời chiếu soi ánh sáng để chúng ta đọc lại, giải thích và diễn tả kinh
nghiệm đã sống.
14. Chúng ta hãy cùng cầu nguyện:
Lạy Chúa, Chúa đã quy tụ toàn dân Chúa trong Thượng Hội đồng.
Chúng con tạ ơn Chúa vì niềm vui được cảm nhận của những ai quyết tâm
lên đường lắng nghe Chúa và lắng nghe anh chị em mình trong năm nay, với thái độ
niềm nở, khiêm tốn, hiếu khách và huynh đệ.
Xin giúp chúng con bước vào các trang này như bước vào “thánh địa”.
Xin Chúa Thánh Thần hãy đến: xin hướng dẫn chúng con khi chúng con cùng
nhau bước đi trong cuộc hành trình này!
1. KINH NGHIỆM TIẾN TRÌNH THƯỢNG HỘI ĐỒNG
15. Các bản Tổng hợp được các Hội
thánh trên khắp thế giới gửi đến bày tỏ niềm vui, hy vọng, đau khổ và thương
tích của các môn đệ Chúa Kitô. Trong đó, chúng ta nghe thấy vang lên những gì nằm
ở trung tâm của toàn nhân loại. Nội dung các bản Tổng hợp nói lên mong ước về một
Hội thánh bước đi với Đức Kitô dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần để hoàn
thành sứ mạng loan báo Tin Mừng. “Kinh nghiệm ‘hiệp hành’ hiện tại của chúng
tôi đã làm thức tỉnh nơi người giáo dân ý tưởng và mong muốn tham gia vào đời sống
của Hội thánh, vào sự dấn thân của Hội thánh trong thế giới ngày nay, và vào hoạt
động mục vụ của Hội thánh trên trần thế” (HĐGM Canada).
1.1 “Hoa trái, hạt giống và cỏ dại của hiệp hành”
16. Giai đoạn đầu của tiến trình
Thượng Hội đồng đã đem lại những hoa trái dồi dào, những hạt giống mới hứa hẹn
lớn mạnh, và nhất là một trải nghiệm về niềm vui trong những thời điểm thử
thách này: “Phần lớn, những gì phát xuất từ hoa trái, hạt giống và cỏ dại của sự
hiệp hành là những tiếng nói đầy yêu mến Hội thánh, những tiếng nói mơ ước về một
Hội thánh có khả năng làm chứng một cách khả tín, một Hội thánh trở nên Gia
Đình của Thiên Chúa mang tính quy tụ, cởi mở và niềm nở” (HĐGM Zimbabwe). Hội
thánh Haiti nói thay cho nhiều người: “Mặc dù các trường hợp bắt cóc và bạo lực
liên tục được ghi nhận, các bản Tổng hợp của các Giáo phận bày tỏ niềm vui vì
được tham gia tích cực vào giai đoạn đầu tiên của Thượng Hội đồng” (HĐGM
Haiti). Nhiều người muốn niềm vui này được kéo dài và chia sẻ với người khác.
Giáo phận Ebibeyín (Guinea Xích đạo) lặp lại: “Kinh nghiệm về Thượng Hội đồng
này là một trong những kinh nghiệm bổ ích nhất mà nhiều người có thể trải qua
trong đời Kitô hữu của mình. Từ giây phút khởi đầu Thượng hội đồng đến bây giờ,
Dân Chúa rất hăng hái”. Trong số những thành quả của kinh nghiệm Thượng Hội đồng,
một số bản Tổng hợp nêu bật cảm thức mạnh mẽ thuộc về Hội thánh và trên bình diện
thực tế nhận ra rằng Hội thánh không chỉ là linh mục và giám mục: “Khi chia sẻ
câu hỏi cơ bản: ‘Hiện nay việc đồng hành cùng nhau đang diễn ra thế nào tại Hội
thánh địa phương của bạn?’ người ta thấy rằng mọi người có thể nhận ra bản chất
thực sự của Hội thánh và trong ánh sáng đó, họ đã có thể thấy được tình hình của
Hội thánh cụ thể của họ” (HĐGM Bangladesh).
17. Phương pháp chia sẻ thiêng
liêng được đa số đánh giá cao, vì nó giúp nhiều người có cái nhìn trung thực về
đời sống thực tế của Hội thánh và gọi đúng tên những gì là ánh sáng và bóng tối.
Sự lượng giá trung thực này đã tức khắc mang lại kết quả có tính truyền giáo.
“Chúng tôi thấy rằng Dân Chúa được huy động mạnh mẽ, niềm vui được đến với
nhau, được đi cùng nhau và trao đổi thoải mái. Một số Kitô hữu trước đây cảm thấy
bị tổn thương và xa cách Hội thánh nay trở lại trong giai đoạn thỉnh ý này”
(HĐGM Cộng hòa Trung Phi). Nhiều người nhấn mạnh rằng đây là lần đầu tiên Hội
thánh hỏi ý kiến họ và họ muốn tiếp tục lộ trình này: “Các cuộc gặp gỡ theo
tinh thần của phương pháp hiệp hành, trong đó tất cả các thành viên của giáo xứ
hoặc cộng đoàn có thể phát biểu ý kiến cách thẳng thắn cởi mở, cũng như các cuộc
gặp gỡ các nhóm khác nhau ngoài Hội thánh, nên tiếp tục. Loại hợp tác này nên
trở thành một trong những ‘luật bất thành văn’ của văn hóa Hội thánh, thúc đẩy
các thành viên của Hội thánh và các nhóm trong xã hội gần lại với nhau, hầu
giúp cho mọi người sẵn sàng đối thoại cách sâu sắc hơn” (HĐGM Latvia).
18. Tuy nhiên, các bản Tổng hợp
cũng không giấu diếm các khó khăn. Có bản Tổng hợp nhắc đến sự trùng hợp của
giai đoạn thỉnh ý với đại dịch; những bản khác cho thấy sự khác biệt trong việc
hiểu hiệp hành là gì, việc cần thiết phải nỗ lực nhiều hơn để dịch và hội nhập
văn hoá các tài liệu, sự thất bại trong việc tổ chức các cuộc họp Thượng Hội đồng
trong một số bối cảnh địa phương hoặc việc chống đối các đề nghị cơ bản. Không
thiếu những biểu hiện từ chối rất rõ ràng: “Tôi không tin tưởng vào Thượng Hội
đồng. Tôi cho rằng Thượng Hội đồng được triệu tập để đưa ra những thay đổi giáo
huấn của Chúa Kitô làm cho Hội thánh của Ngài thêm thương tích” (ý kiến cá nhân
từ Vương Quốc Anh). Có rất nhiều lo lắng cho rằng việc nhấn mạnh tính hiệp hành
có thể dẫn đến chỗ Hội thánh thông qua các cơ chế và thủ tục tập trung vào
nguyên tắc đa số dân chủ. Trong số những khó khăn, cũng có nỗi hoài nghi về
tính hiệu quả thực sự hoặc thậm chí ý hướng của tiến trình Thượng Hội đồng: “Một
số người tỏ ra nghi ngờ về kết quả của tiến trình Thượng Hội đồng vì cho rằng Hội
thánh là một thể chế cứng nhắc không sẵn sàng thay đổi và hiện đại hóa mình, hoặc
nghi ngờ kết quả Thượng Hội đồng đã được dự định trước” (HĐGM Canada).
19. Nhiều bản Tổng hợp đề cập đến
nỗi sợ hãi và sự phản kháng của các giáo sĩ, cả sự thụ động của giáo dân, nỗi sợ
của họ khi thẳng thắn phát biểu ý kiến, và khó khăn trong việc nối kết vai trò
của các mục tử với tính năng động của Thượng Hội đồng: “Trong tiến trình này
còn có sự phản kháng, thiếu tham gia, các cộng đoàn không tham gia. Điều này một
phần là do tính mới mẻ của thách đố, vì nhiều cộng đoàn không quen với cách sống
này của Hội thánh. Đó cũng là do thực tế có những nhà lãnh đạo và mục tử đã
không đảm nhận vai trò linh hoạt và lãnh đạo của mình. Một số bản Tổng hợp của
giáo phận than phiền về sự vắng mặt hoặc sự tham gia thưa thớt của các linh mục”
(HĐGM Chilê). Trong nhiều trường hợp, tiến trình Thượng Hội đồng và các tài liệu
nhận được cho thấy rằng sự xa cách giữa các linh mục và phần còn lại của Dân
Chúa là một cảm nhận phổ biến: “Các cuộc thỉnh ý tại các giáo phận và ở cấp quốc
gia đã cho thấy rằng ở nhiều nơi mối tương quan giữa linh mục và tín hữu gặp
khó khăn. Một mặt, có những chỉ trích về khoảng cách rõ rệt giữa giáo sĩ và
giáo dân. Ở một số nơi, các linh mục thậm chí còn bị coi là trở ngại cho việc
sinh hoa kết trái của cộng đoàn. Đồng thời, những thách đố đối với các linh mục
cũng được chỉ ra: sự giảm sút số linh mục và tình nguyện viên dẫn đến tình trạng
kiệt sức; ngoài ra, các linh mục không phải lúc nào cũng cảm thấy được lắng
nghe, một số người thấy thừa tác vụ của họ bị đặt vấn đề. Điều gì làm nên một
linh mục tốt? Làm thế nào để đời sống giáo xứ trở thành một trải nghiệm phong
phú cho tất cả mọi người liên quan? Tại sao ngày càng có ít người theo đuổi ơn
gọi? Những câu hỏi này cần được bàn thảo” (HĐGM Áo).
20. Một trở ngại có liên quan đặc
biệt trên con đường cùng nhau bước đi là vụ bê bối lạm dụng của các giáo sĩ hoặc
của những người nắm giữ các chức trách trong Hội thánh: trước hết là lạm dụng trẻ
vị thành niên và những người dễ bị tổn thương, rồi đến các lạm dụng khác nữa (về
tinh thần, tình dục, kinh tế, quyền lực, lương tâm). Đây là một vết thương hở
và vẫn còn gây đau đớn cho các nạn nhân và những người sống sót, cho gia đình
và cộng đồng của họ: “Đã có những đề cập liên tục về tác động của cuộc khủng hoảng
lạm dụng tình dục của các giáo sĩ và phản ứng của Hội thánh [...]. Đối với nhiều
người, hậu quả của việc này vẫn là một vấn đề gai góc và chưa có lời giải. Người
ta cảm thấy cần hết sức cấp bách thừa nhận nỗi kinh hoàng và những tác hại, đồng
thời gia tăng nỗ lực bảo vệ những người dễ bị tổn thương, sửa chữa thiệt hại về
phía thẩm quyền luân lý của Hội thánh và xây dựng lại lòng tin. Một số Giáo phận
nói rằng những người tham dự mong muốn Giáo phận công khai thừa nhận và đền bù
những hành vi lạm dụng trong quá khứ” (HĐGM Australia). Một suy tư sâu sắc và
đau đớn về những di hại của sự lạm dụng đã khiến nhiều nhóm Thượng Hội đồng kêu
gọi thay đổi văn hóa trong Hội thánh để hướng tới sự minh bạch, trách nhiệm giải
trình và đồng trách nhiệm cao hơn.
21. Cuối cùng, tại nhiều quốc
gia, tiến trình Thượng Hội đồng đã diễn ra trong giai đoạn đẫm máu của các cuộc
chiến, “khi để cho đủ các loại cuồng tín và các cuộc đàn áp, kể cả thảm sát, được
tự do thống trị. Người ta ghi nhận có những kích động mang tính giáo phái và sắc
tộc, suy biến thành các cuộc xung đột vũ trang và chính trị, thường là đẫm máu”
(Hội thánh Maronite). Có những tình huống hết sức đau lòng khi các Kitô hữu, gồm
cả người Công giáo, phải sống ở các quốc gia có chiến tranh với nhau. Cả trong
những tình huống mong manh thế này, là tình huống khiến cho cuộc gặp gỡ với
Chúa Giêsu chịu đóng đinh và phục sinh càng thêm sâu sắc, các cộng đoàn Kitô
giáo đã biết nắm bắt lời mời gọi xây dựng kinh nghiệm về tính hiệp hành, suy ngẫm
về ý nghĩa của việc cùng đi với nhau và bày tỏ mong muốn tiếp tục làm như vậy:
“Liên quan đến thảm kịch của cuộc diệt chủng chống lại người Tutsi vốn đã chia
rẽ người dân Rwanda, chủ đề hiệp thông phải được đào sâu hơn để chữa lành ký ức
tập thể cách thực sự. Thượng Hội đồng này giúp chúng tôi hiểu rõ hơn: mục vụ hiệp
nhất và hòa giải phải tiếp tục là ưu tiên hàng đầu” (HĐGM Rwanda).
1.2 Chung một phẩm giá do bí tích Thánh tẩy mang lại
22. Việc sống tính hiệp hành đã tạo
nên “một thời điểm quan trọng và quý báu để nhận ra cách tất cả chúng ta chia sẻ
phẩm giá chung và ơn gọi tham gia vào đời sống của Hội thánh, nhờ bí tích Thánh
tẩy” (HĐGM Ethiopia). Việc quy chiếu nền tảng này đến bí tích Thánh tẩy – không
như một khái niệm trừu tượng mà là một căn tính được thực sự cảm nhận – tức khắc
làm nổi bật mối liên hệ giữa hình thức hiệp hành của Hội thánh và khả năng Hội
thánh hoàn thành sứ mạng của mình: “càng ngày người ta càng hiểu rằng điều quan
trọng đối với tất cả những ai đã lãnh nhận ân sủng của bí tích Thánh tẩy là phải
đi cùng nhau, chia sẻ và phân định sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Đấng đã
kêu gọi họ. Người ta đã nhận thức sâu sắc rằng trong Hội thánh hiệp hành, bước
đi cùng nhau là cách thức trở thành một Hội thánh truyền giáo” (HĐGM Nhật Bản).
Nhiều Hội thánh địa phương trong
bối cảnh chứng kiến sự hiện diện của nhiều giáo phái Kitô giáo đã nhấn mạnh đặc
biệt đến phẩm giá chung của tất cả các anh chị em Kitô hữu do bí tích Thánh tẩy
mang lại, và sứ mạng chung là phục vụ Phúc âm. Một tiến trình Thượng Hội đồng sẽ
không hoàn chỉnh nếu không gặp gỡ anh chị em thuộc các tín phái khác, chia sẻ
và đối thoại với họ, tham gia vào các hoạt động chung. Các bản Tổng hợp bày tỏ
mong muốn có những cuộc gặp gỡ đại kết sâu sắc hơn và nhu cầu đào tạo về mặt
này.
23. Các bàn Tổng hợp trình bày tiến
trình Thượng Hội đồng như một trải nghiệm về tính mới mẻ và nét tươi tắn: “Dân
Chúa đã nhận thấy nét độc đáo của việc được tự do phát biểu và được lắng nghe
trong các buổi họp tổ chức đặc biệt, không bị ràng buộc về chương trình nghị sự
và đặc biệt quy về sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Họ nói rằng đây là lần đầu
tiên sau nhiều chục năm đi nhà thờ, họ được mời lên tiếng” (HĐGM Pakistan). Một
hình ảnh khác nói lên kinh nghiệm được giải phóng và sống đời sống mới: vỏ trứng
vỡ ra để một cuộc sống mới dang rộng đôi cá
24. Tại những nơi khác, có những
kiểu nói gợi lên ý tưởng về sự xa cách giữa các thành viên trong gia đình và
mong ước trở về, chấm dứt tình trạng vong thân tập thể, mất căn tính Hội thánh
hiệp hành của mình. Dùng một hình ảnh trong Kinh thánh, người ta có thể nói rằng
tiến trình Thượng Hội đồng đánh dấu những bước đầu tiên của sự trở về từ kinh
nghiệm lưu đày tập thể mà hậu quả của nó ảnh hưởng đến toàn thể Dân Chúa: nếu Hội
thánh không hiệp hành, không ai có thể thực sự cảm thấy đó là nhà mìn
2. LẮNG NGHE KINH THÁNH
25. Vị ngôn sứ đã ngỏ lời với
chính dân tộc từng sống kinh nghiệm lưu đày; ngày nay những lời ấy giúp chúng
ta tập trung vào điều Chúa đang kêu gọi chúng ta qua kinh nghiệm sống hiệp
hành: “Hãy nới rộng lều ngươi đang ở, căng các tấm bạt ra, đừng hẹp lòng hẹp dạ.
Nối dây thừng dài thêm, đóng cọc lều cho chắc” (Is 54,2).
26. Lời của vị ngôn sứ nhắc nhớ
những người lưu đày về kinh nghiệm của cuộc xuất hành và băng qua sa mạc, khi họ
sống trong lều, và loan báo lời hứa hồi hương, là dấu hiệu của niềm vui và hy vọng.
Để chuẩn bị, cần phải nới rộng căn lều, tác động lên ba yếu tố cấu trúc của lều.
Trước hết là vải lều che nắng, gió và mưa, phân định không gian sống và vui vầy.
Vải lều cần được căng ra, để cũng có thể bảo vệ những ai còn ở bên ngoài và cảm
thấy được kêu gọi bước vào bên trong. Yếu tố thứ hai là các sợi dây căng vải lều.
Chúng phải có đủ độ căng để giữ cho lều không bị võng và đủ độ giãn để giảm bớt
tác động của gió. Đó là lý do tại sao nếu nới rộng căn lều, cần phải kéo dài
các sợi dây để duy trì độ căng giãn cho phù hợp. Cuối cùng, yếu tố thứ ba là cọc
lều: chúng neo chặt lều xuống đất và bảo đảm lều được vững chắc, nhưng vẫn có
khả năng chuyển dời khi cần dựng lều ở nơi khác.
27. Ngày nay khi nghe những lời
này của Isaia, chúng ta được mời gọi hình dung Hội thánh như một căn lều, hay
đúng hơn, như căn lều của gặp gỡ, căn lều đã đồng hành với dân trong cuộc hành
trình vượt qua sa mạc: vì thế lều ấy được kêu gọi nới rộng ra và dời chuyển. Ở
giữa lều là Nhà tạm, nghĩa là sự hiện diện của Chúa. Lều có được buộc chặt là
nhờ sự vững chắc của các cọc lều, nghĩa là các nền tảng của đức tin, vốn không
thay đổi nhưng có thể được chuyển dời và trồng xuống vùng đất mới, để lều có thể
đồng hành cùng dân qua cuộc hành trình theo dòng lịch sử. Cuối cùng, để không bị
võng, cấu trúc của lều phải giữ cân bằng giữa các lực đẩy và lực căng khác nhau
tác động lên nó: đó là ẩn dụ cho thấy sự cần thiết của phân định. Đây là cách mà
nhiều bản Tổng hợp hình dung về Hội thánh: một nơi ở rộng lớn nhưng không đồng
nhất, có khả năng thu nhận mọi người nhưng cởi mở để mọi người có thể ra vào
(x. Ga 10,9), và hướng tới việc ôm lấy Thiên Chúa Cha và tất cả các thành viên
khác của nhân loại.
28. Việc nới rộng lều đòi hỏi phải
đón nhận những người khác, dành chỗ cho sự đa dạng của họ. Vì thế, vì yêu
thương chính mình phải sẵn sàng chết đi, để tìm lại được mình trong và qua mối
tương quan với Chúa Kitô và người thân cận: “Thật,
Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn
trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga
12,24). Sự phong phú của Hội thánh phụ thuộc vào việc chấp nhận cái chết này,
tuy nhiên, đó không phải là sự hủy diệt, mà là kinh nghiệm của việc trở nên rỗng
không để được lấp đầy bởi Chúa Kitô nhờ Chúa Thánh Thần. Đây là một tiến trình
nhờ đó chúng ta nhận được các mối tương quan phong phú hơn, mối liên kết sâu sắc
hơn với Chúa và với nhau. Đây là kinh nghiệm về ân sủng và về sự biến hình. Vì
lý do này, tông đồ Phaolô khuyên chúng ta: “Giữa
anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu. Đức
Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị
ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân
nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.” (Pl 2,5-7). Chính
trong điều kiện này, các thành viên của Hội thánh, từng người cũng như mọi người,
mới có thể cộng tác với Chúa Thánh Thần để chu toàn sứ mạng được Chúa Giêsu
Kitô uỷ thác cho Hội thánh: đó là một hành động phụng vụ, phụng vụ Thánh Thể.
3. HƯỚNG TỚI MỘT HỘI THÁNH HIỆP HÀNH TRUYỀN GIÁO
29. Hình ảnh trong Kinh thánh về
lều liên quan đến những hình ảnh khác xuất hiện trong nhiều bản Tổng hợp: hình ảnh
gia đình và hình ảnh ngôi nhà, nơi mà mọi người muốn thuộc về và nơi mà họ muốn
trở về. “Hội thánh-Nhà không có những
cánh cửa đóng, mà là một khuôn viên luôn rộng mở” (HĐGM Ý). Tính năng động
của ngôi nhà và sự lưu đày, của sự thuộc về và sự loại trừ, được cảm nhận như một
sự căng thẳng trong các bản Tổng hợp: “Những người cảm thấy ở trong Hội thánh
như ở nhà lấy làm tiếc về những người ở nhà mà không cảm thấy như vậy” (HĐGM
Ireland). Qua những tiếng nói này, chúng ta cảm nhận giấc mơ thần thiêng về “một
Hội thánh toàn cầu và hiệp hành sống hiệp nhất trong đa dạng. Thiên Chúa đang
chuẩn bị một điều gì đó mới mẻ, và chúng ta phải cộng tác” (USG / UISG).
30. Các ý kiến đóng góp nhận được
rất đáng khích lệ vì chúng tránh được hai trong số những cám dỗ chính mà Hội
thánh phải đối mặt trong việc đáp ứng với sự đa dạng và những căng thẳng mà nó
tạo ra. Cám dỗ thứ nhất là vướng vào xung đột: các chân trời thu hẹp lại, cảm
giác toàn thể bị mất và bị phân mảnh thành các bản sắc phụ. Đó là kinh nghiệm của
Babel chứ không phải của Lễ Ngũ Tuần, có thể nhận thấy rõ ràng trong nhiều khía
cạnh của thế giới chúng ta. Cám dỗ thứ hai là tách rời về mặt thiêng liêng và
không quan tâm đến những căng thẳng liên quan, cứ đi theo con đường riêng của
mình mà không hoà mình với những người thân cùng đi với mình. Trái lại, “lời
kêu gọi là sống sự căng thẳng của chân lý và lòng thương xót một cách tốt hơn,
như Chúa Giêsu đã sống [...]. Giấc mơ là về một Hội thánh sống nghịch lý Kitô
giáo cách trọn vẹn hơn: mạnh dạn rao giảng giáo huấn đích thực của mình, đồng
thời làm chứng về tính quy tụ và đón nhận triệt để bằng việc đồng hành mục vụ dựa
trên phân định” (HĐGM Anh và xứ Wales).
31. Nhãn quan về một Hội thánh có
khả năng quy tụ triệt để, mọi người cảm thấy thuộc về và có lòng hiếu khách thực
sự theo giáo huấn của Chúa Giêsu, là trọng tâm của tiến trình Thượng Hội đồng:
“Thay vì cư xử như những người canh gác cố gắng loại trừ người khác ra khỏi
bàn, chúng ta cần phải làm nhiều hơn nữa để bảo đảm mọi người biết rằng ở đây
ai cũng có thể tìm được một chỗ ở và một mái ấm” (nhận xét của một nhóm thuộc
giáo xứ ở Hoa Kỳ). Chúng tôi được kêu gọi đi đến mọi nơi, nhất là ra khỏi những
miền đất quen thuộc hơn, “ra khỏi vị trí thoải mái của những người tiếp đón, để
cho mình được đón tiếp vào cuộc sống của những người là bạn đồng hành của chúng
tôi trên hành trình của nhân loại” (HĐGM Đức).
3.1 Lắng nghe trở nên đón tiếp
32. Trong tiến trình Thượng Hội đồng,
các Hội thánh đã nhận ra rằng con đường dẫn đến sự quy tụ lớn hơn – căn lều mở
rộng – là một con đường tiệm tiến. Con đường ấy bắt đầu bằng việc lắng nghe và
đòi hỏi hoán cải sâu rộng hơn về thái độ và cơ chế, cũng như các cách tiếp cận
mới để đồng hành mục vụ. Con đường ấy đòi hỏi chúng ta phải sẵn sàng nhận ra rằng
các vùng ngoại vi có thể là nơi vang lên lời kêu gọi hoán cải và là nơi áp dụng
Tin Mừng một cách dứt khoát hơn. Lắng nghe đòi hỏi chúng ta phải nhận ra người
khác là chủ thể của cuộc hành trình của chính họ. Khi chúng ta làm điều này, những
người khác cảm thấy được đón nhận, không bị phán xét, tự do chia sẻ hành trình
tâm linh của riêng họ. Điều này đã được trải nghiệm trong nhiều hoàn cảnh và, đối
với một số người, đó là khía cạnh biến đổi nhất của toàn bộ tiến trình: kinh
nghiệm của Thượng Hội đồng có thể được đọc như một lộ trình công nhận cho những
ai cảm thấy không được công nhận đầy đủ trong Hội thánh. Điều này đặc biệt đúng
đối với các giáo dân, các thầy phó tế, các tu sĩ nam nữ từng có cảm nhận rằng Hội
thánh cơ chế chẳng quan tâm đến kinh nghiệm đức tin hoặc ý kiến của họ.
33. Các Bản Tổng hợp cũng phản
ánh nỗi khó khăn của việc lắng nghe cách sâu sắc và chấp nhận để cho việc lắng
nghe biến đổi mình. Đồng thời các Bản Tổng hợp nhấn mạnh việc thiếu các phương
pháp giúp cộng đồng lắng nghe và phân định, và kêu gọi cần đào tạo thêm trong
lĩnh vực này. Hơn nữa, các Bản Tổng hợp còn chỉ ra rằng các trở ngại về cơ cấu
vẫn dai dẳng tồn tại, nhất là cơ cấu phẩm trật thúc đẩy xu hướng chuyên quyền;
một nền văn hóa nặng tính giáo sĩ và cá nhân làm cho các cá nhân bị cô lập, mối
tương quan giữa linh mục và giáo dân bị phân rẽ; sự chênh lệch văn hóa xã hội
và kinh tế có lợi cho người giàu và người học thức; và sự thiếu vắng các môi
trường “trung gian” tạo thuận lợi cho các thành viên của các nhóm tách biệt gặp
gỡ nhau. Bản Tổng hợp của Ba Lan nêu rõ “Không lắng nghe dẫn đến hiểu lầm, loại
trừ và gạt ra ngoài lề xã hội. Kết quả là, nó tạo ra sự khép kín, giản lược
hóa, thiếu tin tưởng và nỗi sợ hãi hủy hoại cộng đồng. Khi các linh mục không
muốn lắng nghe, tìm cớ thoái thác, chẳng hạn trong phần lớn các hoạt động, hoặc
khi các câu hỏi vẫn chưa trả lời, trong tâm hồn các tín hữu một cảm giác buồn
bã và ghẻ lạnh sẽ nảy sinh. Nếu không lắng nghe, lời giải đáp của các linh mục
cho những khó khăn của các tín hữu sẽ chẳng ăn nhập gì với bối cảnh của họ và
không giải quyết được vấn đề cốt lõi họ đang gặp phải, trở thành những lời đạo
đức trống rỗng. Người giáo dân cảm nhận rằng việc linh mục không chân thành lắng
nghe bắt nguồn từ nỗi sợ phải thi hành mục vụ. Một cảm nhận tương tự như vậy
khi các giám mục không có thời giờ để nói chuyện và lắng nghe giáo dân”.
34. Đồng thời, các bản Tổng hợp
cũng rất nhạy cảm với sự cô đơn và cô lập của nhiều giáo sĩ, họ không cảm thấy
được lắng nghe, được nâng đỡ và trân trọng: có lẽ một trong những tiếng nói ít
rõ ràng nhất trong các bàn Tổng hợp là của các linh mục và giám mục, khi nói về
chính mình và về kinh nghiệm hiệp hành của mình. Nói chung, cần có sự chú tâm lắng
nghe đặc biệt dành cho các thừa tác viên có chức thánh về nhiều khía cạnh trong
đời sống tình cảm và tình dục của họ. Điều quan trọng nữa là phải dự kiến các
hình thức đón nhận và bảo vệ các phụ nữ và con cái, nếu có, của các linh mục đã
vi phạm lời hứa độc thân, những người liên quan này có nguy cơ phải gánh chịu
những bất công và phân biệt đối xử nghiêm trọng.
Ưu tiên cho người trẻ, người khuyết tật và bảo vệ sự sống
35. Có một mối quan tâm chung là
người trẻ ít góp tiếng nói trong tiến trình Thượng Hội đồng cũng như ngày càng
ít tham gia vào đời sống của Hội thánh. Đổi mới việc lưu tâm đến người trẻ, việc
đào tạo và đồng hành với họ là một nhu cầu cấp thiết, và cũng là cách để thực
hiện các kết luận của Thượng hội đồng trước về “Người trẻ, đức tin và sự phân định
ơn gọi” (2018). Vào dịp ấy, chính những người trẻ đã nêu bật sự cần thiết về một
Hội thánh hiệp hành hơn để thông truyền đức tin ngày nay. Sáng kiến “Thượng hội
đồng kỹ thuật số” thể hiện một nỗ lực đáng kể trong việc lắng nghe những người
trẻ và đưa ra những quan điểm mới cho việc loan báo Tin Mừng. Bản Tổng hợp của
Antilles nêu rõ: “Vì những người trẻ của chúng ta trải nghiệm tình trạng bị tha
hóa cao độ, chúng ta phải ưu tiên lựa chọn giới trẻ.”
36. Nhiều bản Tổng hợp nhấn mạnh
đến việc thiếu các cơ chế và phương tiện thích hợp để đồng hành với người khuyết
tật, và kêu gọi có những cách thức mới để đón nhận những đóng góp của họ và
thúc đẩy họ tham gia: dù có giáo huấn của riêng mình, Hội thánh vẫn có nguy cơ
bắt chước cách xã hội gạt bỏ họ. "Các hình thức phân biệt đối xử được kể ra –
thiếu lắng nghe, vi phạm quyền lựa chọn ở đâu và sống với ai, từ chối ban bí
tích, buộc tội phù thủy, ngược đãi– và những hình thức khác, cho thấy văn hóa
loại bỏ người khuyết tật. Chúng không tình cờ phát sinh, nhưng có cùng một gốc
rễ: đó là quan niệm cho rằng cuộc sống của người khuyết tật kém giá hơn những
người khác” (Bản Tổng hợp của Cuộc Tham vấn Thượng Hội đồng đặc biệt về những
người khuyết tật do Bộ Giáo dân, Gia đình và Đời sống tổ chức).
37. Điều quan trọng không kém là
sự dấn thân của Dân Chúa trong việc bảo vệ sự sống mong manh và bị đe dọa ở tất
cả các giai đoạn. Chẳng hạn, đối với Hội thánh Công giáo Hy Lạp Ukraine, hiệp
hành gồm cả việc “nghiên cứu hiện tượng di cư của phụ nữ và trợ giúp các phụ nữ
thuộc nhiều nhóm tuổi khác nhau; lưu tâm đặc biệt đến những phụ nữ quyết định
phá thai do sợ nghèo đói về vật chất và bị gia đình từ bỏ ở Ukraine; xúc tiến
chương trình giáo dục dành cho các phụ nữ được kêu gọi phải lựa chọn một cách
có trách nhiệm khi họ gặp khó khăn trong cuộc sống, để giữ gìn và bảo vệ cuộc sống
của thai nhi và ngăn ngừa phá thai; chăm sóc phụ nữ mắc hội chứng sau phá
thai.”
Lắng nghe những người cảm thấy bị bỏ rơi và loại trừ.
38. Các bản Tổng hợp cho thấy rõ
ràng rằng nhiều cộng đoàn đã hiểu được tính hiệp hành là một lời mời gọi lắng
nghe những người cảm thấy bị loại bỏ khỏi Hội thánh. Các nhóm người cảm thấy bị
loại bỏ rất đa dạng, trước hết là nhiều phụ nữ và người trẻ không cảm thấy tư
chất và tài năng của họ được nhìn nhận. Trong các nhóm này, vốn rất không đồng
nhất, nhiều người cảm thấy bị gièm pha, khinh thường, hiểu lầm. Cảm nhận không
thấy Hội thánh như nhà của mình cũng là đặc điểm của những người không cảm thấy
thoải mái với những khai triển phụng vụ của Công đồng Vatican II. Tuy nhiên, đối
với nhiều người, trải nghiệm được lắng nghe nghiêm túc đã mang lại sự biến đổi
và được coi là bước đầu tiên cảm nhận mình được ở trong Hội thánh. Mặt khác, có
điều đáng buồn là một số người thấy rằng sự tham gia của họ vào tiến trình Thượng
Hội đồng không được đón nhận: cảm giác này đòi hỏi phải có hiểu biết và đối thoại.
39. Trong số những người muốn có
một cuộc đối thoại có ý nghĩa hơn và một không gian niềm nở thân thiện hơn,
chúng tôi cũng thấy có những người, vì nhiều lý do khác nhau, cảm thấy căng thẳng
giữa việc thuộc về Hội thánh và kinh nghiệm của họ về các mối quan hệ tình cảm
riêng, chẳng hạn như: người ly dị tái hôn, cha mẹ đơn thân, người đa thê, người
LGBTQ, v.v. Các bản Tổng hợp cho thấy đòi hỏi được chào đón này thách đố nhiều
Hội thánh địa phương: “Người ta yêu cầu Hội thánh phải là nơi ẩn náu cho những
người bị tổn thương và tan vỡ, chứ không phải là một tổ chức dành cho những người
hoàn hảo. Họ muốn Hội thánh gặp gỡ mọi người ở nơi họ đang sống, bước đi với họ
thay vì phán xét họ, và xây đắp các mối tương quan thực sự qua sự chăm sóc và
tính xác thực, chứ không phải với não trạng kẻ cả” (HĐGM Hoa Kỳ). Nhưng các bản
Tổng hợp cũng cho thấy sự do dự trong cách đáp ứng và diễn tả đòi hỏi phải phân
định từ phía Hội thánh hoàn vũ: “Có một hiện tượng mới trong Hội thánh và đó là
điều hoàn toàn mới ở Lesotho: mối quan hệ đồng giới. [...] Điều mới lạ này gây
lo ngại cho người Công giáo và những người coi đó là một tội. Đáng ngạc nhiên
là có một số người Công giáo ở Lesotho đã bắt đầu thực hành hành vi này và mong
đợi Hội thánh chấp nhận họ và cách hành xử của họ. [...] Đây là một thách đố
khó giải quyết đối với Hội thánh vì những người này cảm thấy mình bị loại trừ”
(HĐGM Lesotho). Cũng vậy, những người đã bỏ thừa tác vụ có chức thánh và kết
hôn cũng mong muốn một Hội thánh niềm nở thân thiện và sẵn sàng đối thoại hơn.
40. Mặc dù có những khác biệt về
văn hóa, vẫn có những điểm tương đồng đáng kể giữa các châu lục liên quan đến
những người cảm nhận mình bị loại trừ, trong xã hội cũng như trong cộng đồng
Kitô giáo. Trong nhiều trường hợp, tiến trình Thượng Hội đồng không có tiếng
nói của họ, và nếu họ có xuất hiện trong các bản Tổng hợp chỉ vì người khác nói
về họ, than phiền về việc họ bị loại trừ: “Là Hội thánh Bolivia, chúng tôi rất
buồn vì đã không thể đến được với người nghèo ở ngoại vi và ở những nơi xa xôi
nhất” (HĐGM Bolivia). Trong số các nhóm người bị loại trừ, được đề cập thường
xuyên nhất là: những người cùng khổ, người già cô đơn, người bản địa, người di
cư bơ vơ sống bấp bênh, trẻ em đường phố, người nghiện rượu và nghiện ma túy,
những người rơi vào cạm bẫy tội phạm và những người mà cơ may duy nhất sống còn
của họ là mại dâm, các nạn nhân của nạn buôn người, những người sống sót sau
khi bị lạm dụng (trong Hội thánh và ngoài Hội thánh), các tù nhân, các nhóm bị
phân biệt đối xử và bạo hành vì chủng tộc, sắc tộc, giới tính, văn hóa và
khuynh hướng tính dục của họ. Trong các bản Tổng hợp, tất cả những người này đều
xuất hiện với những khuôn mặt và tên gọi, kêu gọi liên đới, đối thoại, đồng
hành và đón nhận.
3.2 Anh chị em cùng thi hành sứ mạng
41. Hội thánh là người mang lời
tuyên ngôn về sự sống tròn đầy: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi
dào” (Ga 10,10). Các sách Phúc âm trình bày tính tròn đầy của sự sống và sự
viên mãn của Vương quốc Thiên Chúa không phải là những thực tại hoặc cảnh giới
riêng biệt, mà luôn là những năng động đan xen vào nhau. Sứ mạng của Hội Thánh
là làm cho Đức Kitô hiện diện ở giữa Dân Ngài qua việc đọc Lời Chúa, cử hành
các Bí tích và mọi hoạt động chăm sóc những người bị tổn thương và đau khổ. “Mọi
thành viên của Hội thánh cần phải bước vào một tiến trình hoán cải để đáp ứng
nhu cầu này, điều này ngụ ý xem kerygma là lời loan báo nền tảng và lắng nghe Đấng
Kitô chịu đóng đinh và sống lại vì chúng ta. [...] từ đó tầm quan trọng của việc
trở về với bản chất của đời sống Kitô giáo và của tình yêu đầu tiên của chúng
ta, và việc trở về cội nguồn của chúng ta như những cộng đoàn đầu tiên; nghĩa
là, nơi mọi sự được để làm của chung” (HĐGM Costa Rica).
42. Khi thi hành sứ mạng, chúng
ta tiến tới sự viên mãn của ơn gọi Kitô hữu của chúng ta. ‘Hãy nới rộng lều’ là
trọng tâm của hoạt động truyền giáo này. Do đó, một Hội thánh hiệp hành cung cấp
một chứng từ Phúc âm mạnh mẽ cho thế giới: “Chúa Thánh Thần thúc đẩy chúng ta đổi
mới chiến lược, sự dấn thân, sự cống hiến và động lực để cùng nhau bước đi, đến
với những người ở xa nhất: bằng cách loan báo Lời Chúa với niềm hăng say vui
tươi, sử dụng năng khiếu, ơn huệ và tài năng của mình, đón nhận những thử thách
mới và mang lại những thay đổi văn hoá dưới ánh sáng của đức tin và đời sống của
Hội thánh” (HĐGM Venezuela). Các bản Tổng hợp nói lên giấc mơ về một Hội thánh
có khả năng để cho những thách đố của thế giới tra vấn, và có khả năng đáp ứng
những thách đố này bằng những biến đổi cụ thể: “Thế giới cần một ‘Hội thánh đi
ra’, bác bỏ sự phân biệt giữa người tin và người không tin, hướng nhìn vào nhân
loại và trao cho nó kinh nghiệm về sự cứu rỗi, còn hơn cả một học thuyết hoặc một
chiến lược, đây là ‘món quà trên mọi món quà’, đáp trả tiếng kêu của nhân loại
và thiên nhiên” (HĐGM Bồ Đào Nha).
Sứ mạng của Hội thánh trong thế giới ngày nay.
43. Hiệp hành là lời Thiên Chúa
kêu gọi chúng ta bước đi cùng với cả gia đình nhân loại. Ở nhiều nơi, các Kitô
hữu sống giữa những người có tín ngưỡng khác hoặc không tin, hằng ngày trong cuộc
sống chung tham gia vào các cuộc đối thoại và trao đổi: “Một bầu không khí xã hội
đối thoại cũng được vun đắp với những người thực hành tôn giáo truyền thống
châu Phi, và với mọi người hoặc cộng đồng khác, dù họ thuộc tôn giáo nào” (HĐGM
Senegal, Mauritania, Cape Verde và Guinea Bissau). Tuy nhiên, các bản Tổng hợp
chỉ ra rằng về mặt trao đổi và hợp tác xã hội, văn hóa, tinh thần và trí tuệ,
con đường phải đi vẫn còn dài.
44. Những vết thương của Hội
thánh có mối liên hệ chặt chẽ với những vết thương của thế giới. Các bản Tổng hợp
nói về những thách đố của chủ nghĩa bộ lạc, chủ nghĩa bè phái, nạn phân biệt chủng
tộc, sự nghèo đói và bất bình đẳng giới trong đời sống của Hội thánh cũng như
thế giới. Uganda nhắc lại nhận định của nhiều quốc gia khác khi lưu ý rằng
trong các cơ chế của Hội thánh, “những người giàu và có học thức được lắng nghe
nhiều hơn những người khác”. Bản Tổng hợp của Philippines ghi nhận rằng “trong
xã hội nhiều người thuộc tầng lớp thấp kém và bị gạt ra bên lề cảm thấy rằng cả
trong Hội thánh họ cũng bị bỏ rơi”. Các bản Tổng hợp khác nhấn mạnh đến tác động
đối với đời sống của các cộng đoàn Hội thánh bắt nguồn từ sự phân biệt sắc tộc
và nền văn hóa dựa trên chủ nghĩa bộ lạc. Những thực tế này không chỉ làm nên bối
cảnh cho sứ mạng của chúng ta mà còn xác định trọng tâm và mục đích của nó: sứ
điệp Phúc âm mà Hội thánh có nhiệm vụ rao giảng cũng phải biến đổi các cơ cấu tội
lỗi giam cầm nhân loại và tạo vật.
45. Dân Chúa bày tỏ ước muốn sâu
xa được lắng nghe tiếng kêu của người nghèo và của trái đất. Đặc biệt, các bản
Tổng hợp mời gọi chúng ta nhận ra sự nối kết các thách đố về mặt xã hội và môi
trường với việc đáp ứng những thách đố này bằng cách hợp tác và liên minh với
các tín phái Kitô khác, các tín đồ các tôn giáo khác và với tất cả những người
có thiện chí. Lời kêu gọi canh tân công cuộc đại kết và dấn thân liên tôn đặc
biệt tỏ ra mạnh mẽ tại các khu vực được ghi nhận là bị tổn thương nhiều hơn do
những tác hại về môi trường-xã hội và có bất bình đẳng rõ rệt hơn. Chẳng hạn
nhiều bản Tổng hợp của Châu Phi và Thái Bình Dương kêu gọi các Hội thánh trên
khắp thế giới nhận ra rằng việc giải quyết các thách đố về môi trường xã hội
không còn là vấn đề tùy chọn nữa: “Chúng tôi muốn bảo vệ phần thiên nhiên này của
Thiên Chúa, vì theo nhiều cách, phúc lợi của các dân tộc chúng tôi phụ thuộc
vào đại dương. Ở một số quốc gia của chúng tôi, mối đe dọa chính là đại dương
vì những thay đổi về khí hậu dẫn đến những hậu quả bi thảm đối với sự sống còn
thực sự của các quốc gia này” (HĐGM Pacific).
46. Một số bản Tổng hợp cũng ghi
nhận vai trò quan trọng của Hội thánh trong lĩnh vực công, đặc biệt là liên
quan đến các tiến trình xây dựng hoà bình và hòa giải. Trong các xã hội bị chia
rẽ nặng nề, điều này thường được coi là phần cốt yếu trong sứ mạng của Hội
thánh. Các bản Tổng hợp khác yêu cầu Hội thánh góp phần tích cực hơn vào cuộc
tranh luận chung và hành động vì công lý. Có mong muốn được đào tạo nhiều hơn về
giáo huấn xã hội của Hội thánh. “Hội thánh của chúng ta không được kêu gọi để đối
đầu, nhưng để đối thoại và hợp tác ở mọi cấp độ [...]. Cuộc đối thoại của chúng
ta không thể là cuộc đối thoại hộ giáo với những lập luận vô ích, mà phải là cuộc
đối thoại về cuộc sống và tình liên đới” (Hội thánh Công giáo Armenia).
47. Một chủ đề khác phổ biến
trong nhiều bản Tổng hợp là sự yếu kém của việc dấn thân sâu xa trong lĩnh vực
đại kết và mong muốn học biết cách thổi luồng sinh khí mới vào hành trình đại kết,
bắt đầu bằng sự hợp tác cụ thể và hằng ngày liên quan đến các mối ưu tư chung về
công bằng xã hội và môi trường. Cũng có mong muốn mãnh liệt về một chứng tá hiệp
nhất hơn giữa các tín phái và các cộng đồng Kitô hữu.
Cùng bước đi với tất cả các Kitô hữu.
48. Tuy nhiên, lời kêu gọi đại kết
không chỉ nhằm vào việc cùng dấn thân vào xã hội. Nhiều bản Tổng hợp nhấn mạnh
rằng không thể có hiệp hành trọn vẹn mà không có sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu.
Điều này bắt đầu với lời kêu gọi hiệp thông chặt chẽ hơn giữa các Hội thánh thuộc
các nghi lễ khác nhau. Kể từ Công đồng Vatican II, đối thoại đại kết đã đạt được
tiến bộ: “Trong cuộc sống thực tế ở Cộng hòa Trung Phi, việc ‘sống cùng nhau’
giữa các Kitô hữu của những tín phái khác nhau là điều hiển nhiên. Các khu xóm
của chúng tôi, gia đình của chúng tôi, nơi chôn cất, nơi làm việc của chúng tôi
thực sự là những nơi đại kết” (HĐGM Cộng hòa Trung Phi). Tuy nhiên, nhiều vấn đề
đại kết liên quan đến các cơ chế Thượng Hội đồng và các thừa tác vụ trong Hội
thánh vẫn chưa được giải thích rõ ràng. Các bản Tổng hợp cũng lưu ý rằng có một
loại ‘đại kết tử đạo’, ở đó sự bách hại tiếp tục duy trì sự hiệp nhất các Kitô
hữu. Các bản Tổng hợp đòi hỏi chú ý hơn nữa đến những thực tế gây chia rẽ, chẳng
hạn như vấn đề về việc chia sẻ Bí tích Thánh Thể.
49. Các bản Tổng hợp cũng nhấn mạnh
hiện tượng tế nhị về sự gia tăng số các gia đình liên tín phái (dị tín, hỗn hợp)
và liên tôn (khác đạo), có nhu cầu cụ thể cần được đồng hành. Việc phục hồi dấn
thân cho sự hợp nhất các Kitô hữu như chứng từ trong một thế giới phân mảnh đòi
hỏi một nền đào tạo có định hướng nhằm gia tăng sự tự tin, khả năng và động lực
cho các giám mục, linh mục, nam nữ tu sĩ và giáo dân trong cuộc đối thoại đại kết
và liên tôn. “Mặc dù Hội thánh Công giáo ở Ấn Độ đã cố gắng thúc đẩy đối thoại
đại kết và liên tôn, nhưng có cảm giác rằng sự dấn thân vào sứ mạng này vẫn còn
rất ít. Những nỗ lực đối thoại chỉ thu hút một số ít người trong giới tinh hoa
và chủ yếu vẫn là những bài luyện não giới hạn trong lĩnh vực ý tưởng và khái
niệm hơn là trở thành phong trào quần chúng, và cuộc đối thoại về cuộc sống,
tình yêu và hành động ở cấp cơ sở, bằng cách khiến những người thuộc nhiều tín
ngưỡng và ý thức hệ khác nhau cùng nhau phân định, lập kế hoạch và làm việc vì
những mục đích chung” (HĐGM Ấn Độ).
Bối cảnh văn hóa
50. Nhiều bản Tổng hợp nêu rõ cần
phải thấy Hội thánh đang thực thi sứ mạng loan báo Tin Mừng trong bối cảnh văn
hóa cụ thể, và chịu những tác động từ những thay đổi sâu xa và nhanh chóng đang
diễn ra trong xã hội. Các yếu tố tác động thật đa dạng, nhưng, ở khắp nơi, đều
tạo ra những thách đố đáng kể đối với việc tham gia và định hình cho thực tại
trong sứ mạng của Hội thánh. Những di hại của đầu óc bè phái, chủ nghĩa bộ tộc,
chủ nghĩa dân tộc và sắc tộc – được biểu lộ và cảm nghiệm một cách đa dạng tại
nhiều nơi – nhưng đều có chung một mối đe dọa điển hình: hạn chế Hội thánh thể
hiện đặc điểm công giáo của mình.
51. Nhiều Hội thánh địa phương
bày tỏ lo ngại về cuộc khủng hoảng do các sự cố lạm dụng gây nên, làm giảm sút
lòng tin và sự tín nhiệm. Những Hội thánh tại các nơi khác nêu lên chủ nghĩa cá
nhân và chủ nghĩa tiêu thụ là những yếu tố chính đang tác động đến văn hóa: “Hằng
ngày chúng ta đều có thể cảm nhận, ngay tại đất nước mình, tinh thần thế tục,
chủ nghĩa cá nhân và sự thờ ơ với các hình thức định chế của tôn giáo đang đặt
ra những thách đố đối với việc loan báo Tin Mừng” (HĐGM Hungary). Bản Tổng hợp
ý kiến của Malta, giống như nhiều bản Tổng hợp khác, nhấn mạnh những liên hệ phức
tạp trong lịch sử giữa Hội thánh và thế lực chính trị tiếp tục tác động ra sao
trên bối cảnh truyền giáo. Nhiều Hội thánh cảm thấy mình cùng một lúc phải đối
mặt với tất cả những thách thức văn hóa này, nhưng vẫn ước muốn ngày càng vững
tin hơn trong việc loan báo Tin Mừng nơi “một xã hội tiêu thụ vốn không bảo đảm
sự ổn định, công bằng hoặc sự hài lòng trong cuộc sống” (HĐGM Ireland). Các Hội
thánh khác cảm thấy ngay trong nội bộ đã có nhiều quan điểm khác nhau: “Nam Phi
cũng chịu những tác động của các xu hướng thế tục hóa, chủ nghĩa cá nhân và chủ
nghĩa tương đối. Các vấn đề như giáo huấn của Hội thánh về phá thai, ngừa thai,
phong chức cho phụ nữ, phong chức cho người đã kết hôn, độc thân linh mục, ly
hôn và tái hôn, việc rước lễ, đồng tính, LGBTQIA+ đã được nêu ra tại khắp các
giáo phận, ở nông thôn cũng như thành phố. Tất nhiên, có những quan điểm khác
nhau về những vấn đề này và không thể đưa ra lập trường chung dứt khoát về bất
cứ vấn đề nào đã được đặt ra” (HĐGM Nam Phi). Nhiều bản Tổng hợp bày tỏ sự ưu
tư và lo lắng đối với những áp lực đè nặng lên các gia đình, tác động đến mối
tương quan giữa các thế hệ và việc thông truyền đức tin. Nhiều bản Tổng hợp của
châu Á đề nghị cần phải tăng cường việc đồng hành và huấn luyện cho các gia
đình hiện đang phải đương đầu với những thay đổi về văn hóa.
52. Tại nhiều nơi, có những trường
hợp việc làm chứng cho đức tin đã đưa đến tử đạo. Có những quốc gia, các Kitô hữu,
đặc biệt người trẻ, phải đối mặt với thách đố bị ép buộc một cách có hệ thống
phải cải đạo. Có nhiều bản Tổng hợp nhấn mạnh các nhóm thiểu số Kitô giáo bị
đàn áp, phải đối mặt tình trạng bạo lực, không còn được an toàn. Trong những
trường hợp như vậy, để đồng hành với những người thuộc các tín ngưỡng khác,
thay vì náu mình sau bức tường ngăn cách, đòi phải có lòng can đảm của ngôn sứ.
Văn hóa, tôn giáo và đối thoại
53. Chính yếu tố cốt lõi của Hội
thánh hiệp hành, vốn còn cần được đào sâu và hiểu rõ hơn, là lời mời gọi phải
có được một nhận thức sâu sắc về cách tiếp cận liên văn hóa. Cách tiếp cận này
bắt đầu bằng cách đồng hành với người khác, tôn trọng sự khác biệt văn hóa, hiểu
được những nét đặc thù, đó là những yếu tố giúp chúng ta phát triển: “Cuộc gặp
gỡ giữa Hội thánh Công giáo tại Campuchia với các nhà sư Phật giáo và Phật tử
Campuchia ‘tạo ra một nền văn hóa mới’. Mọi hoạt động của chúng ta đều tác động
đến nhau và ảnh hưởng lên toàn thế giới. Chúng ta có thể khác nhau về tôn giáo,
nhưng đều cùng mưu tìm lợi ích chung” (HĐGM Lào và Campuchia). Chính những Hội
thánh vốn chỉ là thiểu số trong bối cảnh họ đang sống sẽ cảm nghiệm điều này thật
sâu sắc: “Chẳng hạn, điều chúng ta gọi là ‘tình trạng xôi đỗ’ của Hội thánh, ở
đó lằn ranh phân cách với xã hội dân sự, nghịch lý thay, lại không nổi bật cho
bằng những nơi khác [...]. Làm việc ‘trong’ hay ‘ngoài’ Hội thánh không phải là
vấn đề. Theo định nghĩa, chúng ta là một Hội thánh đi ra, bởi vì chúng ta luôn ở
‘nhà của người khác’ và điều này dạy chúng ta phải lắng nghe, linh hoạt và sáng
tạo về hình thức, ngôn ngữ và thực hành” (HĐGM Vùng Bắc Phi - CERNA).
54. Tuy nhiên, ngay cả khi chúng
ta đón nhận hoặc thậm chí trân trọng người khác, cuộc hành trình vẫn chưa hoàn
tất. Cách tiếp cận liên văn hóa của Hội thánh nhắm đến chân trời Đức Kitô mời gọi
chúng ta: Nước Thiên Chúa. Đón nhận sự đa dạng phong phú, chúng ta thấy mình hiệp
nhất sâu xa hơn và có cơ hội hợp tác với ơn Chúa: “Chúng ta cũng cần phải chú ý
đến những suy nghĩ và ý tưởng về gia đình rộng mở và những người cùng đi trên
cuộc hành trình này (những người không Công giáo, các nhà chính trị và những
người chưa tin). Có những tiếng nói chung quanh chúng ta không cho phép chúng
ta bỏ qua nếu chúng ta không muốn lỡ mất những gì qua họ Chúa đang thầm thì với
chúng ta!” (HĐGM Zimbabwe). Điều này làm nên một chứng từ trong một thế giới
đang phấn đấu để nhìn thấy sự đa dạng trong hiệp nhất như là một ơn gọi đích thực:
“Cộng đoàn [...] phải lưu tâm hơn đến sự đa dạng, những niềm khao khát, các nhu
cầu và cách sống đức tin. Hội thánh hoàn vũ vẫn phải là nơi bảo đảm sự hiệp nhất,
còn các giáo phận thì có thể đưa đức tin hội nhập văn hóa tại địa phương mình:
sự phân quyền là cần thiết” (Tổng Giáo phận Luxembourg).
55. Rất nhiều bản Tổng hợp đưa ra
lời mời gọi hãy nhìn nhận, tham gia, hội nhập và đáp ứng tốt hơn nữa đối với sự
phong phú của các nền văn hóa địa phương, trong đó, nhiều nền văn hóa chứa đựng
thế giới quan và phong cách hành động mang tính hiệp hành. Mọi người bày tỏ
mong muốn quảng bá (và trong một số trường hợp, khôi phục và đào sâu) văn hóa địa
phương, hòa nhập nó với đức tin, và đưa nó vào phụng vụ. “Trong bối cảnh này,
các Kitô hữu được mời gọi hãy đóng góp phần mình, bắt đầu từ nhãn quan đức tin
để đưa đức tin hội nhập vào những bối cảnh văn hóa mới [...]. Các cách tiếp cận
đa dạng này cần được coi là việc thực hiện một mô hình liên văn hóa, trong đó
các đề xuất khác nhau sẽ bổ túc và làm phong phú cho nhau, vượt ra khỏi mô hình
đa văn hóa, vốn chỉ đơn giản là đặt các nền văn hóa bên cạnh nhau, khép kín
trong phạm vi của mình” (Góp ý của Hội đồng Tòa Thánh về Văn hóa).
56. Trong nhiều trường hợp, các bản
Tổng hợp kêu gọi đặc biệt chú ý đến tình trạng của người dân bản địa. Đời sống
tâm linh, sự khôn ngoan và nền văn hóa của họ có nhiều điều khiến chúng ta phải
học hỏi. Chúng ta cần đọc lại lịch sử cùng với những dân tộc này, để tìm những
gợi ý từ những tình cảnh Hội thánh đã hành động nhằm phục vụ sự phát triển con
người toàn diện, và xin họ tha thứ vì đã có thời, thay vì phục vụ lại đồng lõa
áp bức họ. Đồng thời, một số bản Tổng hợp nêu lên sự cần thiết phải hòa giải những
mâu thuẫn rõ ràng giữa việc thực hành văn hóa hoặc tín ngưỡng truyền thống với
giáo lý của Hội thánh. Trên bình diện tổng quát, việc thực hiện hiệp hành – hiệp
thông, tham gia và sứ mạng – cần phải hòa điệu với bối cảnh và văn hóa địa
phương, với đòi hỏi phải không ngừng phân định và sáng tạo.
3.3 Hiệp thông, tham gia và đồng trách nhiệm
57. Sứ mạng của Hội thánh được thực
hiện qua đời sống của tất cả những người đã được rửa tội. Các bản Tổng hợp bày
tỏ mong muốn sâu sắc được công nhận và tái khẳng định phẩm giá chung này như là
nền tảng cho việc canh tân đời sống và các thừa tác vụ trong Hội thánh. Chúng
khẳng định giá trị của mọi ơn gọi trong Hội thánh, và trên hết, mời gọi chúng
ta bước theo Chúa Giêsu, trở lại với phong cách và cách thức thực thi năng lực
và uy quyền của Người như một phương thế để ban ơn chữa lành, hòa giải và giải
thoát. “Điều quan trọng là xây dựng một mô hình thiết chế hiệp hành như một mô
hình của Hội thánh có tính giải trừ cấu trúc quyền lực hình tháp vốn ưu ái cho
sự quản lý mang tính độc quyền cá nhân. Quyền bính hợp pháp duy nhất trong Hội
thánh phải là quyền yêu thương và phục vụ, theo gương của Chúa” (HĐGM
Argentina).
Vượt khỏi chủ nghĩa giáo sĩ trị.
58. Âm điệu của các bản Tổng hợp
không chống lại giáo sĩ (chống lại các linh mục hoặc chức tư tế thừa tác). Nhiều
bản Tổng hợp bày tỏ sự cảm kích và yêu mến sâu sắc đối với các linh mục trung
thành và tận tụy với sứ mạng, cũng như nỗi lo lắng về nhiều đòi hỏi mà họ phải
đối mặt. Các bản Tổng hợp cũng nói lên mong muốn có những linh mục được đào tạo
tốt hơn, được đồng hành tốt hơn và ít bị cô lập hơn. Các bản Tổng hợp này cũng
lưu ý tầm quan trọng của việc phải loại bỏ khỏi Hội thánh chủ nghĩa giáo sĩ trị
để tất cả các thành viên của Hội thánh, bao gồm các linh mục và giáo dân, có thể
hoàn thành một sứ mạng chung. Chủ nghĩa giáo sĩ được coi là một hình thức bần
cùng hóa tinh thần, tước đoạt những điều tốt đẹp thực sự của thừa tác vụ chức
thánh, và là một nền văn hóa cô lập hàng giáo sĩ và gây hại cho giáo dân. Nền
văn hóa này ngăn cản chúng ta trải nghiệm sống động về Thiên Chúa và làm tổn hại
mối tương quan huynh đệ của những người đã được rửa tội, tạo ra những nguyên tắc
cứng nhắc, gắn bó với quyền lực pháp lý và hành xử quyền mang tính quyền bính
hơn là phục vụ. Chủ nghĩa giáo sĩ có thể là cơn cám dỗ đối với giáo dân như các
giáo sĩ, như bản Tổng hợp từ Cộng hòa Trung Phi nhấn mạnh: “một số cha xứ hành
xử như ‘người ra lệnh’, áp đặt ý muốn của họ mà không nghe bất cứ ai. Các Kitô
hữu giáo dân không cảm thấy mình là thành viên của Dân Chúa. Những sáng kiến
quá nặng “tính giáo sĩ” nên bị phàn nàn. Một số thành viên ban mục vụ, giáo sĩ
và giáo dân, đôi khi thích quy tụ những người cùng ý kiến với mình và tránh xa
những người có quan điểm thù địch và bất đồng”.
59. Mặc dù thẳng thắn khi chẩn
đoán vấn đề, các bản Tổng hợp vẫn không tỏ ra thất vọng. Các bản văn này bày tỏ
mong muốn sâu sắc và mạnh mẽ đối với các hình thức lãnh đạo đổi mới – giám mục,
linh mục, tu sĩ và giáo dân – có tính tương giao và hợp tác, và các hình thức
quyền bính có khả năng tạo ra sự liên đới và đồng trách nhiệm: “Các nhiệm vụ của
người thi hành quyền bính bao gồm khuyến khích, qui tụ, hướng dẫn và tạo điều
kiện để mọi người tham gia vào đời sống của Hội thánh [...] đồng thời ủy thác một
phần trách nhiệm” (HĐGM Slovakia). Giáo dân, tu sĩ và giáo sĩ mong muốn Hội
thánh sử dụng tài năng và khả năng của mình, và để được như vậy, họ đòi hỏi người
thực thi quyền lãnh đạo phải cho họ được tự do. Các bản Tổng hợp bày tỏ lòng biết
ơn đối với những nhà lãnh đạo đã thực hiện vai trò của họ theo những cách này.
Nghĩ nhiều hơn về sự tham gia của phụ nữ
60. Lời kêu gọi chuyển đổi nền
văn hóa của Hội thánh, để cứu rỗi thế giới, được liên kết cụ thể với khả năng
thiết lập một nền văn hóa mới, với những thực hành, cấu trúc và tập quán mới. Một
lĩnh vực quan trọng và cấp bách trong vấn đề này liên quan đến vai trò của phụ
nữ và ơn gọi của họ, bắt nguồn từ phẩm giá chung do bí tích Thánh tẩy mang lại,
để tham gia trọn vẹn vào đời sống của Hội thánh. Trên toàn thế giới, càng ngày
người ta càng nhận thức và nhạy cảm đối với vấn đề này.
61. Từ khắp các châu lục, vang
lên lời kêu gọi phụ nữ Công giáo phải được coi trọng, trước hết như những thành
viên Dân Chúa đã được rửa tội và bình đẳng. Hầu như mọi người đều nhất trí khẳng
định rằng phụ nữ yêu mến Hội thánh cách sâu sắc, nhưng nhiều phụ nữ cảm thấy buồn
vì trong cuộc sống họ thường không được thấu hiểu, trong khi những đóng góp và
đặc sủng của họ không phải lúc nào cũng được coi trọng. Bản Tổng hợp của Thánh
Địa ghi nhận: “Những người dấn thân nhiều nhất trong tiến trình Thượng Hội đồng
là phụ nữ, những người dường như không chỉ hiểu rằng họ sẽ nhận được nhiều hơn,
mà còn phải cống hiến nhiều hơn nữa vì vị trí ngoài lề của họ lại mang tính
ngôn sứ, từ đó họ quan sát thấy những gì xảy ra trong đời sống của Hội thánh”.
Và bản Tổng hợp viết tiếp: “Trong một Hội thánh nơi hầu hết tất cả những người
ra quyết định đều là nam giới, có rất ít không gian cho phụ nữ có thể cất lên
tiếng nói của họ. Thế mà họ lại là xương sống của các cộng đồng Hội thánh, vì họ
vừa là thành phần đa số, vừa là những thành viên tích cực nhất trong Hội
thánh”. Bản Tổng hợp của Hàn Quốc xác nhận: “Mặc dù có sự tham gia đông đảo của
phụ nữ trong các hoạt động khác nhau của Hội thánh, nhưng họ thường bị loại khỏi
các quá trình ra quyết định chính. Vì thế, Hội thánh phải nhận thức rõ hơn về
các khía cạnh cơ chế trong hoạt động của mình.” (HĐGM Hàn Quốc). Hội thánh phải
đối mặt với hai thách đố liên quan: phụ nữ vẫn chiếm đa số trong số những người
tham dự phụng vụ và tham gia các hoạt động, nam giới là thiểu số; nhưng hầu hết
các vai trò ra quyết định và quản trị đều do nam giới nắm giữ. Rõ ràng là Hội
thánh phải tìm cách thu hút để nam giới gắn bó tích cực hơn với Hội thánh và để
cho phụ nữ tham gia đầy đủ hơn vào mọi cấp độ của đời sống Hội thánh.
62. Trong mọi lĩnh vực của cuộc sống,
phụ nữ đòi hỏi Hội thánh đứng về phía họ. Điều này bao gồm việc phải giải quyết
các thực tế xã hội về sự bần cùng, bạo lực và sự sỉ nhục mà phụ nữ trên toàn cầu
phải đối mặt. Họ kêu gọi một Hội thánh ở bên cạnh họ, đồng thời thấu hiểu và trợ
giúp nhiều hơn trong việc chống lại những thế lực hủy diệt và loại trừ này. Những
người tham gia vào các tiến trình của Thượng Hội đồng mong muốn cả Hội thánh và
xã hội là nơi phụ nữ có thể phát triển, tham gia tích cực và thuộc về một cách
an toàn. Một số bản Tổng hợp ghi nhận rằng nền văn hóa tại quốc gia của họ đã đạt
được tiến bộ về việc phụ nữ hòa nhập và tham gia, tiến bộ đó có thể được coi là
hình mẫu cho Hội thánh. “Sự thiếu bình đẳng đối với phụ nữ trong Hội thánh được
coi là một trở ngại cho Hội thánh trong thế giới hiện đại” (HĐGM New Zealand).
63. Vấn đề này nảy sinh cách này
hay cách khác, trong mọi bối cảnh văn hóa, đồng thời liên quan đến việc tham
gia của giáo dân nữ và nữ tu cũng như việc thừa nhận họ. Bản Tổng hợp của các Bề
trên của các Hiệp hội Đời sống Thánh hiến ghi nhận: “Sự phân biệt giới tính
trong việc ra quyết định và trong ngôn ngữ của Hội thánh là điều rất phổ biến...
Kết quả là, phụ nữ bị loại khỏi các vai trò có ý nghĩa trong đời sống của Hội
thánh, bị phân biệt đối xử khi không nhận được mức thù lao công bằng cho các phần
việc và sự phục vụ của họ. Các nữ tu thường bị coi là lao động rẻ mạt. Một số Hội
thánh có xu hướng loại trừ phụ nữ và giao công tác của mình cho các phó tế vĩnh
viễn; thậm chí đánh giá thấp những người sống đời thánh hiến không có tu phục,
không quan tâm đến sự bình đẳng và phẩm giá cơ bản của tất cả các Kitô hữu đã
chịu Phép rửa, nam cũng như nữ” (USG / UISG).
64. Hầu hết các Bản Tổng hợp đều
nêu vấn đề về sự tham gia bình đẳng và đầy đủ của phụ nữ: “Việc ngày càng công
nhận tầm quan trọng của phụ nữ trong đời sống của Hội thánh mở ra cho họ khả năng
tham gia nhiều hơn, mặc dù còn hạn chế, vào các cơ cấu của Hội thánh và các
lĩnh vực ra quyết định” (HĐGM Braxin). Tuy nhiên, các bản Tổng hợp không nhất
trí với một lời giải đáp duy nhất hoặc toàn diện cho câu hỏi về ơn gọi, về sự
hòa nhập và việc nâng cao giá trị của phụ nữ trong Hội thánh và xã hội. Sau khi
chú ý lắng nghe, nhiều bản Tổng hợp yêu cầu Hội thánh tiếp tục phân định về một
loạt các vấn đề cụ thể: vai trò tích cực của phụ nữ trong các cơ quan điều hành
của Hội thánh, việc đào tạo thích đáng để phụ nữ có khả năng rao giảng trong
môi trường giáo xứ, và vấn đề nữ phó tế. Nhiều ý kiến đa dạng hơn đã được nêu
lên về vấn đề truyền chức linh mục cho phụ nữ, đây là điều mà một số bản Tổng hợp
tỏ ý ước mong, trong khi những bản Tổng hợp khác coi là vấn đề đã được khép lại.
65. Một trong những yếu tố căn bản
của quá trình này đó là việc công nhận những cách thức mà phụ nữ, đặc biệt là
các nữ tu, trở thành người tiên phong thực thi hiệp hành trong một số tình huống
xã hội thách thức nhất mà Hội thánh phải đối mặt: “Có những hạt giống của tính
hiệp hành, nơi tạo ra nền tảng mới của tình liên đới: bảo đảm một tương lai
công bằng về chủng tộc và sắc tộc cũng như hòa bình cho anh chị em da đen, da
nâu, châu Á và châu Mỹ bản địa (Hoa Kỳ); kết nối bền chặt với các anh chị em thổ
dân và bản địa (Châu Mỹ); mở ra cho các nữ tu những cách thức hiện diện mới
trong các phong trào khác nhau; liên minh với các nhóm cùng chí hướng để giải
quyết các vấn đề xã hội nổi cộm (như biến đổi khí hậu, người tị nạn và người xin
tị nạn, người vô gia cư) hoặc các vấn đề của các quốc gia cụ thể.” (Liên hiệp
các Bề trên Tổng quyền và Liên hiệp Quốc tế các Bề trên Tổng quyền, USG/UISG)
Trong bối cảnh này, các phụ nữ tìm người cộng tác và có thể trở thành thầy dạy
về tính hiệp hành trong các tiến trình rộng lớn hơn của Hội thánh.
Các đặc sủng, ơn gọi và thừa tác vụ
66. Trách nhiệm xây dựng lối sống
hiệp hành của Hội thánh không thể được uỷ thác, mà phải được tất cả mọi người
chia sẻ để đáp lại những ân huệ Chúa Thánh Thần đã ban cho các tín hữu. “Một
nhóm tín hữu ở Giáo phận Lae nói về tính hiệp hành trong giáo xứ của họ: ‘Trong
cuộc họp của hội đồng mục vụ giáo xứ, chúng tôi bảo đảm xem xét ý kiến của tất
cả mọi người hiện diện, gồm cả phụ nữ, trước khi đưa ra quyết định, vì quyết định
này sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của mọi người trong giáo xứ’. Một giáo xứ khác
cho biết: ‘Mỗi khi chúng tôi muốn làm điều gì đó trong giáo xứ, chúng tôi gặp
nhau, lắng nghe ý kiến của mọi người trong cộng đoàn, cùng nhau quyết định và
cùng nhau thực hiện các quyết định đó” (HĐGM Papua New Guinea và Quần đảo
Solomon). Tuy nhiên, không thiếu những đề cập liên quan đến các khó khăn trong
việc thực thi tinh thần đồng trách nhiệm: “Với tư cách giám mục, chúng tôi nhận
thấy rằng ‘thần học về bí tích Rửa tội’ do Công đồng Vatican II quảng bá, là nền
tảng của tính đồng trách nhiệm trong sứ mạng, đã không được khai triển đầy đủ,
và do đó, phần lớn những người được rửa tội không cảm thấy hoàn toàn đồng nhất
với Hội thánh và càng không có tinh thần đồng trách nhiệm trong việc truyền
giáo. Hơn nữa, đường hướng của các cơ cấu mục vụ hiện nay, cũng như não trạng của
nhiều linh mục, không thúc đẩy tinh thần đồng trách nhiệm này. Tương tự như vậy,
các tu sĩ nam nữ cũng như các phong trào tông đồ giáo dân, thường chỉ ẩn hiện
bên lề các hoạt động tích cực của giáo phận. Do đó, rốt cuộc những người được gọi
là ‘giáo dân dấn thân’ trong các giáo xứ (lại là thiểu số) phải gánh những
trách nhiệm bên trong Hội thánh vượt quá sức, khiến họ làm không kịp thở” (HĐGM
Mexico).
67. Mong muốn đồng trách nhiệm
này trước hết trở thành nền tảng cho quan điểm phục vụ sứ mạng chung, nghĩa là,
theo cách diễn tả về tính thừa tác vụ: “Kinh nghiệm có được [...] đã giúp khám
phá lại tinh thần đồng trách nhiệm vốn xuất phát từ phẩm giá do bí tích Thánh tẩy
mang lại và nêu bật khả năng vượt khỏi quan điểm về Hội thánh được xây dựng
chung quanh thừa tác vụ có chức thánh để tiến tới một Hội thánh ‘thừa tác phổ
quát’, vốn là sự hiệp thông của các đặc sủng và thừa tác vụ khác nhau” (HĐGM
Ý). Việc thỉnh ý Dân Chúa đã nêu bật chủ đề thừa tác vụ, được xem là trọng tâm
của đời sống Hội thánh và nhu cầu cần dung hoà sự hiệp nhất giữa sứ mạng với
tính đa dạng của các thừa tác vụ. Việc nhận ra và thúc đẩy nhu cầu này “không
phải là mục đích tự thân, mà là sự đề cao giá trị việc phục vụ của sứ mạng: các
tác nhân nam nữ khác nhau, bình đẳng về phẩm giá, bổ sung cho nhau để trở thành
dấu chỉ, để làm cho Hội thánh, là bí tích của Nước Trời, trở nên khả tín” (HĐGM
Bỉ ).
68. Nhiều bản Tổng hợp đề cập đến
các thực hành nhằm công nhận và khuyến khích các thừa tác vụ, cho phép cộng đồng
ủy thác một cách hiệu quả: “Việc khuyến khích các thừa tác vụ giáo dân và đảm
nhận các trách vụ diễn ra qua việc bầu chọn hoặc bổ nhiệm các tín hữu được coi
là có đủ các điều kiện cần thiết.” (HĐGM Mozambique). Với cách này, mỗi thừa
tác vụ trở thành một yếu tố trong cơ chế và giúp xây dựng cơ chế của đời sống cộng
đồng: “Việc đảm nhận trách nhiệm được bảo đảm bởi chức trách đã nhận và nguyên
tắc phụ đới. Thừa tác vụ giáo lý viên được thiết lập và có một địa vị đặc biệt
trong Gia đình Hội Thánh Chúa. [...] Một số giáo lý viên được đặt làm người
lãnh đạo cộng đoàn, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, nơi hiếm có sự hiện diện
của các linh mục.” (HĐGM Congo). Không thiếu những câu hỏi về những lĩnh vực có
thể thi hành thừa tác vụ giáo dân: “Nhiều nhóm mong muốn giáo dân được tham gia
nhiều hơn, nhưng giới hạn cho việc điều động không rõ ràng: họ có thể thực hiện
những nhiệm vụ cụ thể nào? Trách nhiệm của người tín hữu được xác định như thế
nào trong tương quan với trách nhiệm của cha xứ?” (HĐGM Bỉ).
69. Trong một số bối cảnh, cần phải
xem xét sự đa dạng của các đặc sủng và thừa tác vụ xuất hiện dưới hình thức có
tổ chức trong các hiệp hội, phong trào giáo dân và các cộng đoàn tu sĩ mới. Cần
chú ý đến những đặc điểm cụ thể của các tổ chức này, nhưng cũng cần bảo vệ sự
hòa hợp trong mỗi Hội thánh địa phương. Khi đi vào đời sống cụ thể của Hội
thánh, vấn đề về thừa tác vụ chắc chắn sẽ vấp phải vấn đề về việc thể chế hóa
thừa tác vụ và vì vậy, về những cơ cấu mà nhờ đó đời sống của cộng đồng Kitô hữu
sẽ được triển nở.
70. Trong Hội thánh Công giáo,
các đặc sủng do Chúa Thánh Thần tự do ban tặng, vốn giúp Hội thánh được ‘tươi
trẻ’, không thể tách rời các ơn phẩm trật, vốn gắn liền với bí tích Truyền chức
ở các cấp độ khác nhau. Trong thời kỳ đầu của Hội thánh, đã xuất hiện một thách
đố lớn về tính hiệp hành, đó là thánh đố về tính hài hòa giữa các ân ban này dưới
sự hướng dẫn của các mục tử, không để chúng đối chọi nhau, và do đó chiều kích
đặc sủng không đối nghịch lại với chiều kích thể chế của Hội thánh.
3.4 Hiệp hành đang thành hình
71. Tiến trình Thượng Hội đồng đã
làm nổi bật một số căng thẳng, như đã được làm sáng tỏ trong các đoạn trước. Đối
với những căng thẳng này, chúng ta không nên sợ hãi, nhưng cần phải nhận thức
rõ ràng qua tiến trình liên tục cùng nhau phân định, để khai thác chúng như
khai thác một nguồn năng lượng mà không để chúng thành sức mạnh hủy diệt: chỉ
như thế, chúng ta mới có thể tiếp tục cùng nhau bước đi, thay vì đường ai nấy
đi. Đây là lý do tại sao Hội thánh cũng cần phải đề xuất một hình thức và
phương cách thực hiện hiệp hành cho các tổ chức và cơ chế của chính mình, đặc
biệt là với các tổ chức liên quan đến quản trị. Đồng hành với tiến trình đổi mới
cơ cấu này là nhiệm vụ của giáo luật, với những thay đổi cần thiết các điều khoản
hiện hành.
72. Tuy nhiên, để thực sự hoạt động
theo phương thức hiệp hành, các cơ cấu cần những người được đào tạo bài bản, có
tầm nhìn và năng lực: “Toàn bộ tiến trình hiệp hành đã là việc thực hành tham
gia tích cực ở các cấp độ. Để tiến trình này tiếp tục, cần phải thay đổi tư duy
và đổi mới cơ cấu hiện có” (HĐGM Ấn Độ). Quan điểm mới mẻ này sẽ cần được hậu
thuẫn bởi một nền linh đạo làm nền tảng cho việc thực thi tính hiệp hành, tránh
biến tiến trình này thành vấn đề kỹ thuật và tổ chức. Chúng ta chỉ có thể sống
theo quan điểm này, được xem như một sứ mạng chung, khi gặp gỡ Chúa và lắng
nghe Thánh Thần. Để có hiệp hành, phải có Thánh Thần, và không có Thánh Thần nếu
không có cầu nguyện.
Các cơ chế và tổ chức
73. Liên quan đến sự căng thẳng địa
phương-toàn cầu – mà theo ngôn ngữ Hội thánh, ám chỉ mối quan hệ giữa các Hội
thánh địa phương với nhau và với Hội thánh hoàn vũ – chính sự năng động của tiến
trình Thượng Hội đồng đặt chúng ta trước một điều mới lạ, làm nên Giai đoạn
châu lục mà chúng ta đang trải qua. Ngoài một số khu vực được đặc trưng bởi
tính năng động lịch sử cụ thể, cho đến nay Hội thánh vẫn chưa thiết lập được
các thực hành hiệp hành ở cấp độ châu lục. Việc đưa ra một Giai đoạn cụ thể
trong tiến trình Thượng Hội đồng không đơn thuần là cách biến báo về phương diện
tổ chức, nhưng tương ứng với sự năng động nhập thể của Phúc âm, bắt rễ từ những
khu vực được đặc trưng bởi sự gắn kết và đồng nhất văn hóa nhất định, tạo ra
các cộng đồng Hội thánh có diện mạo riêng biệt, gắn với những nét đặc trưng của
từng nền văn hóa. Trong bối cảnh của một thế giới vừa toàn cầu hóa vừa bị phân
mảnh, mỗi châu lục, do nguồn gốc lịch sử chung, do khuynh hướng tương đồng về
văn hóa xã hội và do có cùng những thách đố đối với sứ mạng loan báo Tin Mừng,
sẽ tạo nên một lãnh vực ưu tiên để khơi dậy tính năng động hiệp hành nhằm củng
cố mối liên kết giữa các Hội thánh, khuyến khích việc chia sẻ kinh nghiệm và
trao đổi các ân huệ, cũng như giúp hình dung các lựa chọn mục vụ mới.
74. Hơn nữa, sự năng động của
tính hiệp hành còn chất vấn chính Giáo triều Rôma: “Cần nhắc lại sự cộng tác với
các Bộ khác của Giáo triều Rôma, mà chúng tôi thường xuyên tham khảo ý kiến
[…]. Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng trong lĩnh vực này cần có nhiều phương tiện
hơn giúp Giáo triều Rôma thực thi tinh thần hiệp hành và thực hành hiệp hành,
như mong muốn của Đức Thánh Cha được biểu lộ qua Tông hiến Praedicate
Evangelium” (Đóng góp của Phủ Quốc vụ khanh Toà Thánh – Phân bộ Quan hệ với các
Quốc gia và các Tổ chức Quốc tế).
75. Các Hội đồng Giám mục cũng tự
vấn về ý nghĩa của tính hiệp hành đối với họ: “Các giám mục cũng đã cầu nguyện
và bàn luận về câu hỏi: ‘Làm thế nào để một Hội đồng Giám mục trở nên hiệp hành
hơn và sống một cách hiệp hành hơn?” (HĐGM Paraguay). Ví dụ, “Trong khi duy trì
tính hiệp đoàn và quyền tự do ra quyết định của mình mà không chịu bất kỳ áp lực
nào, Hội đồng Giám mục nên bao gồm các đại diện của hàng giáo sĩ và giáo dân của
các giáo phận khác nhau trong các cuộc thảo luận và hội họp của mình, nhân danh
tính hiệp hành.” (Đóng góp của Phủ Quốc vụ khanh Toà Thánh – Phân bộ phụ trách
Nhân viên Ngoại giao của Tòa Thánh).
76. Trong Giai đoạn Châu lục, các
Hội đồng Giám mục sẽ có thể trải nghiệm một vai trò mới, không chỉ liên quan đến
việc thúc đẩy sự hiệp thông trong chính họ, mà còn liên quan đến việc đối thoại
giữa các Hội thánh được liên kết bởi sự gần gũi về địa lý và văn hóa. Ngoài ra,
qua việc tổ chức các đại hội của Hội thánh và hội nghị giám mục, Giai đoạn Châu
lục sẽ mang lại cơ hội cảm nhận cụ thể cách thức khai triển tính hiệp hành của
Hội thánh và tính hiệp đoàn giám mục. Giai đoạn này cũng sẽ là dịp để suy tư về
cách cải thiện sự hài hòa giữa lề lối thông thường trong việc thi hành thừa tác
vụ giám mục và việc mang lấy cung cách hiệp hành hoàn hảo, theo một số bản Tổng
hợp, đây là một điểm hết sức khó khăn. Đọc lại kinh nghiệm có được trong Giai
đoạn Châu lục sẽ giúp phân định cách thức tiến hành tiếp theo sao cho suôn sẻ
hơn.
77. So với Hội thánh Latinh, các
Hội thánh Đông Phương cống hiến nhiều cơ chế hiệp hành hơn; và ngày nay các cơ
chế này được kêu gọi đổi mới: “Các cơ chế hiệp hành cổ xưa và các tiến trình Hội
thánh đang tồn tại trong Hội thánh Syro-Malabar (Prathinidhiyogam, Palliyogam
và Desayogam) thể hiện bản chất hiệp hành của Hội thánh ở bình diện địa phương,
khu vực và phổ quát. Các cơ chế và tiến trình này đều tỏ ra hữu ích cho việc huấn
luyện tính hiệp hành cho chúng tôi. Chúng phục vụ các giáo xứ và các cộng đoàn,
bằng cách giúp những nơi này khám phá ra cách thức hợp tác trong việc thi hành
các thừa tác vụ mục vụ để thăng tiến nhờ lắng nghe Thánh Thần. Hơn nữa, có một
số sáng kiến và nỗ lực mới nhằm củng cố các cơ chế hiệp hành của Hội thánh” (Hội
thánh Công giáo Syro-Malabar).
78. Sự năng động của tính đồng
trách nhiệm, hướng tới và phục vụ cho sứ mạng chung chứ không phải như một
phương cách tổ chức để phân bổ vai trò và quyền hạn, thì bao trùm mọi cấp độ
trong đời sống Hội thánh. Ở cấp địa phương, nó xét lại các cơ quan tham gia đã
được dự kiến cho các cấp khác nhau và có các đặc điểm phù hợp với các nghi lễ
khác nhau, cũng như những cơ quan xem ra nên thiết lập để mang lại một sự năng
động hiệp hành mạnh mẽ: “chúng tôi đã bàn thảo về việc cần thiết phải có những
cơ chế và tổ chức phản ánh tinh thần hiệp hành một cách chân thực” (HĐGM Hàn Quốc).
Đây trước hết là các hội đồng mục vụ, được mời gọi ngày càng trở thành những cơ
chế mang tính qui tụ, đối thoại, minh bạch, phân định, lượng giá và đồng trách
nhiệm. Trong thời đại ngày nay, những hội đồng này là tối cần thiết. Rồi cũng
phải có các hội đồng kinh tế, giáo phận và giáo xứ. Cũng phải lưu ý đến các uỷ
ban giám mục và hội đồng linh mục bên cạnh giám mục. Nhiều bản Tổng hợp cho thấy
cần có các cơ quan này không phải chỉ để tham vấn, nhưng còn để đưa ra những
quyết định dựa trên tiến trình cùng phân định, hơn là dựa trên nguyên tắc đa số
như vẫn được các cơ chế dân chủ áp dụng.
79. Ở những nơi khác nhau trên thế
giới, tính minh bạch được coi là một thực hành thiết yếu để Hội thánh ngày càng
tăng triển, thành một Hội thánh hiệp hành đích thực: “Hội thánh Công giáo cần
phải trở nên cởi mở và minh bạch hơn: [vì] mọi thứ đều [đã] được thực hiện
trong bí mật. Các chương trình và biên bản của Hội đồng Giáo xứ không bao giờ
được công bố, các quyết định của ủy ban tài chính không bao giờ được bàn luận
hoặc các bảng cân đối kế toán không bao giờ được chia sẻ” (một góp ý cá nhân ở
Anh quốc). Tính minh bạch sẽ thúc đẩy trách nhiệm giải trình thực sự về mọi lộ
trình ra quyết định, bao gồm cả các tiêu chí được sử dụng để phân định. Một
phong cách lãnh đạo theo sát những thực hành mang tính hiệp hành sẽ tạo ra sự
tin tưởng và tính khả tín: “Về một số vấn đề, việc thực thi quyền hành thực sự
mang tính tập thể, thông qua việc tham khảo ý kiến các cơ quan thuộc các cơ chế
điều hành, quản lý, và linh hoạt mục vụ khác nhau [...]. Nhưng đôi khi thật
đáng buồn mà ghi nhận rằng: trong Hội thánh Công giáo chúng ta có những giám mục,
linh mục, giáo lý viên, người lãnh đạo cộng đoàn... rất độc đoán. [...] Thay vì
phục vụ cộng đoàn, một số lại phục vụ bản thân bằng những quyết định đơn
phương, và điều này cản trở hành trình hiệp hành của chúng ta.” (HĐGM Chad).
Ngoài ra, nhiều bản Tổng hợp ghi nhận nhu cầu phải có sự tham gia của những người
có năng lực chuyên môn thích đáng trong việc quản lý kinh tế và quản trị.
80. Với tư cách là các cơ quan
tham gia, mọi tổ chức của Hội thánh đều được kêu gọi chất vấn cách thức đưa lời
kêu gọi hiệp hành vào cung cách thi hành chức năng và sứ mạng của mình, bằng
cách đổi mới cơ cấu và thủ tục. Một trường hợp đặc biệt, tiêu biểu là các trường
đại học và các học viện, những tổ chức này có thể dành nỗ lực nghiên cứu các vấn
đề về tính hiệp hành, giúp đổi mới các chương trình giáo dục và đào tạo. Đặc biệt,
các khoa thần học sẽ có thể đào sâu những hiểu biết về Hội thánh học, Kitô học
và Thánh Linh học mà các kinh nghiệm và thực hành hiệp hành mang lại.
81. Việc đón nhận một phong cách
thực sự hiệp hành cũng thách thức đời sống thánh hiến, khởi đi từ chính những
thực hành vốn đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tham gia vào đời sống cộng
đoàn của tất cả các thành viên thuộc về: “Trong đời sống thánh hiến, tính hiệp
hành liên quan đến tiến trình phân định và đưa ra quyết định. Mặc dù trong các
học viện, chúng tôi đã thực hành việc cùng nhau phân định, nhưng vẫn có những điều
cần được cải thiện. Đã là thành viên của một cộng đoàn thì hẳn là phải tham
gia. [...] Cả trong đời sống Hội thánh và đời sống thánh hiến, phong cách quản
trị luân chuyển (có đặc tính tham gia), ít đặc tính phẩm trật theo hình tháp,
là điều được mọi người ước muốn” (USG / UISG).
Công việc đào tạo
82. Phần lớn các bản Tổng hợp cho
thấy cần phải đào tạo tính hiệp hành. Chỉ các cấu trúc thôi là chưa đủ: cần có
công tác đào tạo liên tục, hỗ trợ nền văn hóa hiệp hành rộng rãi. Việc đào tạo
này phải thích ứng với đặc điểm cụ thể của bối cảnh địa phương, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc hoán cải theo tinh thần hiệp hành trong cách thức tham gia,
sử dụng quyền bính và lãnh đạo nhằm hoàn thành sứ mạng chung một cách hiệu quả
hơn. Đó không chỉ đơn giản là vấn đề cung cấp các kỹ năng cụ thể về mặt kỹ thuật
hoặc phương pháp luận. Việc đào tạo tính hiệp hành liên quan đến mọi chiều kích
của đời sống Kitô hữu và chỉ có thể là “một sự đào tạo toàn vẹn bao gồm các chiều
kích cá nhân, thiêng liêng, thần học, xã hội và thực hành. Vì vậy, nhất thiết
phải có một cộng đồng để quy chiếu, bởi vì một trong những nguyên tắc ‘đi cùng
nhau’ là việc đào tạo tâm hồn, vượt trên những tri thức cụ thể và bao trùm toàn
bộ cuộc sống. Trong cuộc sống, người Kitô hữu cần phải được đào tạo liên tục và
lâu dài để thực hành tính hiệp hành, để trưởng thành và lớn lên trong đức tin,
để tham gia vào đời sống cộng đoàn, để gia tăng lòng yêu mến và sự thông dự của
các tín hữu đối với Bí tích Thánh Thể, để đảm nhận các thừa tác vụ ổn định, để
thực sự đồng trách nhiệm trong việc điều hành Hội thánh, để đối thoại với xã hội
và với các Hội thánh khác nhằm đưa những người ở xa lại gần trong tinh thần
huynh đệ” (HĐGM Tây Ban Nha). Việc đào tạo này phải hướng đến mọi thành phần
Dân Chúa: “Để thực hiện các yếu tố này của tính hiệp hành, điều cấp bách trước
mắt là phải có các chương trình giáo dục và đào tạo dành cho hàng giáo sĩ và
giáo dân nhằm gia tăng sự hiểu biết chung về tính hiệp hành, vốn là điều rất
quan trọng cho việc “cùng nhau bước đi” tại các Hội thánh địa phương.” (HĐGM
Myanmar). Theo cách này, viễn cảnh về tính hiệp hành sẽ đồng quy với việc dạy
giáo lý và chăm sóc mục vụ, giúp cho các hoạt động ấy được gắn liền với viễn tượng
của sứ mạng loan báo Tin Mừng.
83. Tuy nhiên, cả nhu cầu đào tạo
cách cụ thể hơn về việc lắng nghe và đối thoại cũng được nhấn mạnh, ví dụ như
qua việc thiết lập các tác nhân và các nhóm hiệp hành. Đặc biệt, nhiều bản Tổng
hợp nhấn mạnh đến nhu cầu thiết yếu là phải bảo đảm có được chương trình đào tạo
về hiệp hành cho những người sẽ được kêu gọi đảm nhận vai trò lãnh đạo, đặc biệt
là các linh mục: “Việc đào tạo ở chủng viện nhằm chuẩn bị cho hàng giáo sĩ sống
đời linh mục, dù có lâu dài, nhưng lại không đào tạo cho họ biết phối hợp mục vụ.
Việc đào tạo lý thuyết cũng như thực hành về cách làm việc chung, lắng nghe
nhau và cùng nhau tham gia sứ mạng là điều cần thiết trong chương trình đào tạo
linh mục” (HĐGM Sri Lanka).
Linh đạo
84. Nền văn hóa hiệp hành, vốn là
điều cần thiết để linh hoạt các cơ chế và tổ chức, đòi hỏi phải được đào tạo
thích đáng, nhưng trên hết, cần được nuôi dưỡng bằng việc sống mật thiết với
Chúa và khả năng lắng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần: “Cần phải phân định
thiêng liêng khi hoạch định chiến lược và ra quyết định, nhờ đó mọi dự án đều
được Chúa Thánh Thần đón nhận và đồng hành” (Hội thánh Công giáo Melkite Hy Lạp).
Đó là lý do tại sao chúng ta cần phải triển nở trong nền linh đạo hiệp hành. Nền
linh đạo ấy chỉ có thể đặt nền tảng trên sự quan tâm đến nội tâm và ý thức.
“Trong đời sống tâm linh cá nhân và trong sứ điệp của Hội thánh, niềm vui Chúa
Kitô phục sinh phải chiếm ưu thế chứ không phải nỗi sợ bị Thiên Chúa trừng phạt”
(HĐGM Cộng hòa Séc).
85. Như đã được nhấn mạnh nhiều lần,
trước hết, Hội thánh hiệp hành phải giải quyết nhiều căng thẳng nảy sinh do cuộc
gặp gỡ giữa những khác biệt. Do đó, nền linh đạo hiệp hành chỉ có thể là nền
linh đạo đón nhận những khác biệt và thúc đẩy sự hòa hợp, đồng thời có thể kín
múc năng lượng từ những căng thẳng để tiếp tục tiến bước. Để đạt được điều này,
phải chuyển từ việc nhấn mạnh chiều kích cá nhân sang chiều kích tập thể; đó là
nền linh đạo của “cái chúng ta”, biết coi trọng những đóng góp của mỗi người.
86. Năm đầu tiên của tiến trình
Thượng Hội đồng đã cho chúng ta những kinh nghiệm được thúc đẩy theo hướng này,
qua việc đề nghị phương pháp chia sẻ tâm linh. Phương pháp này giúp Dân Chúa hưởng
nếm hương vị của cuộc gặp gỡ giữa các cá nhân xung quanh Lời Chúa và những cộng
hưởng đa dạng mà nó khơi dậy trong lòng mỗi người. Ngoài việc làm cho phương
pháp này trở thành một thực hành bình thường trong đời sống của Hội thánh, như
nhiều người yêu cầu, cần phải phát triển phương pháp này theo hướng phân định cộng
đoàn, đặc biệt là trong các tổ chức có vai trò tham gia. Điều này đòi hỏi nhiều
nỗ lực để đưa chiều kích thiêng liêng vào hoạt động của các tổ chức và các cơ
quan quản trị, bằng cách kết hợp giữa sự phân định với tiến trình đưa ra quyết
định. Cầu nguyện và thinh lặng không thể ở ngoài tiến trình này, như thể đó chỉ
là phần mở đầu hoặc phần phụ thêm.
87. Linh đạo Kitô giáo được bày tỏ
ra theo nhiều cách thức, hoặc gắn với sự đa dạng của các truyền thống giữa Đông
và Tây, hoặc gắn với sự đa dạng của các đặc sủng trong đời sống thánh hiến và
các phong trào trong Hội thánh. Hội thánh hiệp hành được xây dựng trên sự đa dạng,
và cuộc gặp gỡ giữa các truyền thống linh đạo khác nhau có thể được xem là một
“phòng tập luyện” để đào tạo tính hiệp hành vì nó có khả năng thúc đẩy sự hiệp
thông và hòa hợp, góp phần khắc phục những phân cực mà nhiều Hội thánh trải
qua.
3.5 Đời sống hiệp hành và phụng vụ
88. Theo nhiều cách, các bản Tổng
hợp nhấn mạnh mối liên hệ sâu xa giữa tính hiệp hành và phụng vụ: “Trong hành
trình ‘cùng nhau bước đi’, những việc: cầu nguyện, tôn kính Đức Maria như người
môn đệ truyền giáo lắng nghe Lời Chúa, lectio divina và cử hành phụng vụ, khơi
dậy cảm thức thuộc về” (HĐGM Colombia).
Gốc rễ sâu xa
89. Bí tích Thánh Thể, tự bản chất,
đã là ‘nguồn mạch và đỉnh cao’ của tính năng động hiệp hành trong Hội thánh.
“Việc cử hành phụng vụ và cầu nguyện được kinh nghiệm như một động lực hợp nhất
và huy động năng lực của con người cũng như năng lực thiêng liêng. Có ý kiến phổ
biến cho rằng cầu nguyện nuôi dưỡng niềm vui sống và tình cảm cộng đoàn, bởi vì
nó được xem như một điểm qui chiếu, một nơi bổ sức và một ốc đảo an bình. [...]
những ý kiến đóng góp nhấn mạnh hai phương thức cần phát triển đối với tiến
trình hiệp hành: sự hiệp nhất Kitô giáo và niềm vui sống. Hành trình này sẽ trải
qua những tập hợp phụng vụ lớn (những cuộc hành hương…), để nuôi dưỡng lòng đạo
đức bình dân, canh tân đức tin, dưỡng nuôi cảm thức thuộc về, và do đó đồng
hành tốt hơn với các Kitô hữu để họ làm chứng cho Tin Mừng về lòng bác ái khi đối
mặt với chủ nghĩa cộng đồng (communitarianism) và ‘sự thoái hóa về căn tính’
(identity withdrawal) ngày càng lộ rõ và hung hãn hơn.” (HĐGM Burkina Faso và
Niger).
90. Tại các quốc gia thuộc nhiều
khu vực khác nhau trên thế giới “mối dây liên kết với Hội thánh của nhiều người
đã được rửa tội trước hết là kinh qua lòng đạo bình dân. [...] Nhiều người coi
đó là dấu hiệu thuộc về Hội thánh; vì thế, chúng ta phải quảng bá và Phúc âm
hoá lòng đạo ấy, với mục tiêu hướng tới sự tham gia mạnh mẽ hơn và gia nhập có
ý thức vào đời sống Kitô hữu.” (HĐGM Panama).
Xử lý căng thẳng: đổi mới và hòa giải
91. Nhiều bản Tổng hợp mạnh mẽ
khuyến khích cử hành phụng vụ theo cung cách hiệp hành, cho phép tất cả các tín
hữu tham gia tích cực bằng việc đón nhận mọi khác biệt, trân trọng mọi thừa tác
vụ và thừa nhận mọi đặc sủng. Việc lắng nghe theo cung cách hiệp hành của các Hội
thánh ghi nhận nhiều vấn đề cần được giải quyết theo hướng này: từ việc xem xét
lại một phụng vụ quá tập trung vào vị chủ tế, đến các phương thức tham gia tích
cực của giáo dân, và việc phụ nữ đảm nhận các vai trò thừa tác viên. “Trong khi
vẫn trung thành với truyền thống, với căn nguyên, tính cổ xưa và đồng nhất của
phụng vụ, chúng ta hãy cố gắng làm cho việc cử hành phụng vụ trở nên sống động
hơn và có sự tham gia của tất cả cộng đoàn tín hữu; các linh mục, giáo dân, người
trẻ và thiếu nhi, vốn đọc các dấu chỉ thời đại với sự phân định vững vàng. Qua
việc ca hát, người trẻ đang cố gắng tìm ra chỗ đứng của mình trong phụng vụ và
đây là điều tích cực” (HĐGM Ethiopia).
92. Về vấn đề này, kinh nghiệm hiện
nay của các Hội thánh cũng ghi lại những đỉnh điểm xung đột khác cần được giải
quyết theo cách thức hiệp hành, như trường hợp phải phân định về các nghi thức
tiền Công đồng: “Những chia rẽ về việc cử hành phụng vụ đã được phản ánh trong
các cuộc thỉnh ý hiệp hành. ‘Đáng buồn thay, việc cử hành Bí tích Thánh Thể
cũng được cảm nhận là một lý do gây chia rẽ trong Hội thánh. Trong lĩnh vực phụng
vụ, vấn đề thường gặp nhất là việc cử hành Thánh lễ tiền Công đồng’. Nhiều người
lấy làm tiếc về việc hạn chế sử dụng Sách Lễ năm 1962; nhiều người cảm thấy rằng
sự khác biệt về cách cử hành phụng vụ ‘đôi khi đạt đến mức thù nghịch. Người của
cả hai phía đều nói rằng họ cảm thấy bị chỉ trích bởi những người có quan điểm
khác với họ’” (HĐGM Hoa Kỳ). Bí tích Thánh Thể, bí tích hiệp nhất trong tình
yêu Chúa Kitô, không thể trở thành lý do cho sự đối đầu, ý thức hệ, rạn nứt hay
chia rẽ. Hơn nữa, có những yếu tố gây căng thẳng. đặc biệt là trong lãnh vực đại
kết, đã tác động trực tiếp đến đời sống của nhiều Hội thánh, như sự hiệp thông
Thánh Thể. Cuối cùng, có những vấn đề liên quan đến phương thức hội nhập văn
hóa đức tin và phương cách đối thoại giữa các tôn giáo, cũng ảnh hưởng đến các
hình thức cử hành và cầu nguyện.
93. Các bản Tổng hợp cũng không
quên chỉ ra những hạn chế chính trong thực tế cử hành, làm lu mờ hiệu quả hiệp
hành của cử hành phụng vụ. Đặc biệt, những điều sau đây được nhấn mạnh: vai trò
lấn át của linh mục trong phụng vụ và tính thụ động của cộng đoàn phụng vụ; khoảng
cách giữa nội dung bài giảng với vẻ đẹp của đức tin và thực tế của đời sống; sự
tách biệt giữa đời sống phụng vụ của cộng đoàn với mối tương quan gia đình của
cộng đoàn. Gần như các bản Tổng hợp đều thống nhất đặt vấn đề phẩm chất của các
bài giảng, với yêu cầu “các bài giảng cần sâu sắc hơn, tập trung vào Phúc âm và
các bài đọc trong ngày chứ không phải vào chính trị, dùng ngôn ngữ dễ hiểu và hấp
dẫn, liên quan đến đời sống các tín hữu” (Hội thánh Maronite).
94. Một nguồn cơn đặc biệt gây
đau khổ là những tình trạng không thể hay không được rước lễ và lãnh nhận các
Bí tích khác vì nhiều nguyên nhân. Ví dụ, có thể kể ra: các cộng đồng tại các
khu vực rất hẻo lánh, hoặc việc quy định biểu phí cho việc cử hành các nghi lễ,
điều này khiến những người nghèo bị phân biệt đối xử. Nhiều bản Tổng hợp cũng
nói đến nỗi đau khổ mà người ly dị tái hôn hoặc đa thê phải chịu vì không được
lãnh nhận bí tích. Không có sự thống nhất ý kiến về cách xử trí các trường hợp
này: “Những người ly dị tái hôn bị từ chối cho rước lễ. Họ cảm thấy tổn thương
vì bị loại trừ. Một số người nghĩ rằng Hội thánh cần linh hoạt hơn, trong khi
những người khác lại cho rằng nên duy trì thực hành này” (HĐGM Malaysia).
Cử hành theo cung cách hiệp hành
95. Đồng thời, tiến trình Thượng
Hội đồng cũng được coi là cơ hội để có trải nghiệm mới mẻ về tính đa dạng của
các hình thức cầu nguyện và cử hành, do đó gia tăng mong muốn làm cho các hình
thức này được dễ tiếp cận hơn trong cuộc sống bình thường của các cộng đoàn. Bản
Tổng hợp của Pháp nêu lên ba nguyện vọng: “thứ nhất [...] liên quan đến việc đa
dạng hóa phụng vụ để mang lại lợi ích cho việc cử hành Lời Chúa, nghĩa là những
khoảng thời gian cầu nguyện dành vị trí trung tâm cho việc suy niệm Kinh thánh.
Thứ hai, ít thường xuyên hơn, nhắc lại tầm quan trọng của các cuộc hành hương
và lòng đạo đức bình dân. Thứ ba là canh tân việc đào tạo phụng vụ, để giải quyết
vấn đề mà nhiều bản Tổng hợp nêu lên là ngôn ngữ khó hiểu đang được Hội thánh sử
dụng” (HĐGM Pháp). Một vài miền đã đặt vấn đề cải tổ phụng vụ, ngay cả các Hội
thánh Đông Phương Đông là những nơi gắn kết sâu xa với căn tính của Hội thánh:
“Cần xét đến một cuộc cải tổ phụng vụ trong Hội thánh của chúng ta, để đọc lại
dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần hành động và sự tham gia của Dân Chúa thời
nay vào công trình của Thiên Chúa” (Hội thánh Hy Lạp-Melkite).
96. Nhiều Hội thánh cũng nhấn mạnh
đến tầm quan trọng của việc thường xuyên liên kết việc cử hành phụng vụ với các
hình thức chia sẻ đối thoại và bữa ăn huynh đệ. “Các bữa ăn và tình huynh đệ
luôn là một phần kinh nghiệm [của các cuộc họp hiệp hành]. Trong mọi cuộc họp,
từ cuộc họp đầu tiên cho đến cuộc thỉnh ý tiếp theo trong các giáo xứ và cơ cấu
mục vụ, đều có salu-salo (chia sẻ của ăn thức uống). Nhiều người đã chỉ ra rằng
các cuộc họp [hiệp hành] đã ảnh hưởng tích cực đến việc cử hành các phụng vụ
như thế nào” (HĐGM Philippines)
97. Sự đa dạng của các truyền thống
nghi lễ trong kinh nguyện phụng vụ, cũng như của các hình thức biểu tượng được
các nền văn hóa khác nhau thể hiện, đều được mọi người coi là một thứ tài sản.
Tình yêu mới mẻ dành cho tâm linh và sự cam kết gìn giữ vẻ đẹp và phong cách hiệp
hành của việc cử hành, tất cả đều góp phần tạo nên vẻ rạng ngời của một Hội
thánh truyền giáo: “Tất cả những ý kiến đóng góp nhận được đều nói về việc cử
hành như những không gian có thể mang lại nguồn cảm hứng và sự trợ giúp cho việc
sống đức tin trong đời sống cá nhân, gia đình, nghề nghiệp, trong khu phố và
trong chính cộng đồng” (HĐGM Uruguay).
4. CÁC BƯỚC TIẾP THEO
98. Nhìn về tương lai của tiến
trình thượng hội đồng, chúng ta cần xem xét hai viễn tượng thời gian rất khác
nhau. Trước hết là viễn tượng lâu dài, trong đó hiệp hành mang hình thức là một
lời kêu gọi hoán cải cá nhân và cải tổ Hội thánh lâu dài. Viễn tượng thứ hai,
rõ ràng là để phục vụ viễn tượng thứ nhất, đó là tập trung sự chú ý của chúng
ta vào các sự kiện của Giai đoạn Châu lục mà chúng ta đang trải qua.
4.1 Hành trình hoán cải và cải tổ
99. Trong các báo cáo, Dân Chúa
bày tỏ mong muốn không còn là một Hội thánh duy trì và bảo tồn nữa mà trở thành
một Hội thánh ra đi truyền giáo. Một mối liên hệ xuất hiện giữa một mặt là sự
hiệp thông sâu sắc hơn nhờ tính hiệp hành và mặt khác là củng cố sứ mạng: hiệp
hành dẫn đến đổi mới sứ mạng. Như báo cáo của Tây Ban Nha nói: "chúng tôi
tin rằng sự hiệp thông phải đưa chúng tôi đến một trạng thái truyền giáo vĩnh
viễn: gặp gỡ và lắng nghe lẫn nhau, đối thoại, suy tư, phân định cùng nhau là tất
cả những hành động có tác động tích cực trong chính chúng, nhưng chúng không thể
hiểu được nếu chúng không nhằm thúc đẩy chúng ta vượt ra ngoài bản thân và các
cộng đồng tham chiếu của chúng ta để thực hiện sứ mạng được giao phó cho chúng
ta với tư cách là Hội thánh.”
100. Dân Thiên Chúa đã tìm thấy
niềm vui khi đi cùng nhau và bày tỏ mong muốn tiếp tục làm điều đó. Làm thế nào
để thực hiện điều này với tư cách là một cộng đồng Công giáo toàn cầu thực sự
là điều vẫn cần được khám phá đầy đủ hơn: "Bước đi theo cách hiệp hành, bằng
cách lắng nghe lẫn nhau, tham gia vào sứ mạng và dấn thân vào đối thoại; việc
đó mang chiều kích "đã và chưa", tức là hiệp hành đã có đó rồi, nhưng
vẫn cần phải làm nhiều hơn. Giáo dân có khả năng, tài năng và sẵn sàng đóng góp
ngày càng nhiều hơn, miễn là họ có cơ hội. Các cuộc khảo sát và nghiên cứu sâu
hơn ở cấp giáo xứ có thể mở ra nhiều con đường hơn, nơi mà sự đóng góp của giáo
dân có thể rất lớn và kết quả sẽ là Hội thánh sôi động và hưng thịnh hơn, đó là
mục tiêu của hiệp hành” (HĐGM Namibia). Chúng ta là một Hội thánh thụ huấn, và
để hiện thực điều đó, chúng ta cần liên tục phân định, cùng nhau đọc hiểu Lời
Chúa và các dấu chỉ của thời đại, để tiến về phía trước theo hướng mà Thánh
Linh đang chỉ cho chúng ta.
101. Đồng thời, việc đồng hành với
nhau với tư cách là Dân Thiên Chúa, đòi hỏi chúng ta phải nhận ra nhu cầu hoán
cải liên tục, cá nhân và cộng đồng. Trên bình diện thể chế và mục vụ, hoán cải
chính là cải tổ liên tục các cấu trúc và phong cách của Hội thánh. Đây chính là
điều được nói đến trong khái niệm 'aggiornamento', di sản quý báu của Công đồng
Vatican II mà chúng ta được kêu gọi nhìn lại, khi chúng ta kỷ niệm 60 năm Công
Đồng.
102. Trong hành trình hoán cải và
cải cách, chúng ta được nâng đỡ bởi những ân ban mà chúng ta đã nhận được trong
năm đầu tiên của con đường hiệp hành, bắt đầu với những gì Chúa Giêsu cho chúng
ta thấy trong các sách Tin Mừng. Việc quan tâm chú ý đến người khác cách tự do
và vô vị lợi, vốn là nền tảng của việc lắng nghe, không phải là nguồn lực hạn
chế cần được bảo vệ một cách ích kỷ, mà là một nguồn dồi dào không cạn kiệt,
chúng ta càng kín múc thì nó càng tràn đầy hơn. Lắng nghe và đối thoại là cách
để tiếp cận những ân ban mà Thần Khí ban cho chúng ta qua sự đa dạng của Hội
thánh: đặc sủng, ơn gọi, tài năng, kỹ năng, ngôn ngữ và văn hóa, truyền thống
thiêng liêng và thần học, những hình thức cử hành và tạ ơn khác nhau. Các báo
cáo không đòi phải có sự đồng nhất, nhưng yêu cầu chúng ta học cách lớn lên
trong sự hòa hợp chân thành, giúp những người đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội hoàn
thành sứ mạng của họ trong thế giới bằng cách tạo ra những mối dây cần thiết để
cùng nhau vui vẻ bước đi.
103. Thông điệp về đường lối hiệp
hành của chúng ta rất đơn giản: chúng ta đang học cách bước đi cùng nhau, và ngồi
cùng nhau để bẻ một chiếc bánh, theo cách mà mỗi người có thể tìm thấy vị trí của
mình. Mọi người đều được mời gọi tham gia vào cuộc hành trình này, không ai bị
loại trừ. Chúng ta cảm thấy được mời gọi hướng về sứ điệp này, để chúng ta có
thể công bố Phúc Âm của Chúa Giêsu một cách đáng tin cậy cho tất cả mọi người.
Đây là con đường mà chúng ta tìm cách tiếp tục dấn bước trong Giai đoạn Châu lục
tiếp theo.
4.2 Phương pháp luận cho Giai đoạn Châu lục
104. Tài liệu cho Giai đoạn Châu
lục (TLCL) này mời gọi chúng ta tiến thêm một bước nữa trong hành trình thiêng
liêng này "vì một Hội thánh hiệp hành: hiệp thông, tham gia và truyền
giáo". Tài liệu này cũng là điểm tham chiếu của hành trình: "Cũng như
kinh nghiệm của các môn đồ tại Emmaus chỉ là bước khởi đầu cho sứ mạng mới của
họ, tiến trình thượng hội đồng của chúng tôi chỉ là bước đầu tiên” (HĐGM Liên
bang Nga). Cuộc phân định cấp độ Châu lục tạo ra một cơ hội để sống hiệp hành,
điều mà chúng ta vẫn đang học cách nắm bắt và đang được mời gọi thực hành cụ thể.
105. TLCL tập hợp các điều mà Dân
Chúa từ khắp nơi trên thế giới đã nói trong năm đầu tiên của Thượng Hội đồng và
gởi các điều đó lại cho các Hội thánh địa phương. Tài liệu này nhằm hướng dẫn
và giúp chúng ta đào sâu cuộc phân định của mình, trong khi chúng ta để ý đến
câu hỏi căn bản của toàn bộ tiến trình: “Làm thế nào để 'cuộc hành trình cùng
nhau', diễn ra ngày nay ở các cấp độ khác nhau (từ cấp địa phương đến phổ
quát), cho phép Hội thánh loan báo Tin Mừng, vốn là sứ mạng được trao phó cho Hội
thánh; và Chúa Thánh Thần mời gọi chúng ta thực hiện những bước nào để lớn lên
như một Hội thánh hiệp hành?” (PD, số 2).
106. Do đó, TLCL là công cụ thuận
lợi trong Giai đoạn Châu lục, giúp các Hội thánh địa phương đối thoại với nhau
và với Hội thánh hoàn vũ. Để theo đuổi quá trình lắng nghe, đối thoại và phân định
này, chúng ta được mời gọi suy tư phản tỉnh về ba câu hỏi:
- “Sau khi đọc
và cầu nguyện với TLCL, trực giác nào cộng hưởng mạnh mẽ nhất với những kinh
nghiệm sống và thực tại của Hội thánh ở Châu lục của bạn? Những trải nghiệm nào
là mới mẻ hoặc soi sáng cho bạn?”
- “Sau khi đọc
và cầu nguyện với TLCL, căng thẳng hoặc sự khác biệt đáng kể nào nổi lên đặc biệt
quan trọng, nhìn từ quan điểm của Châu lục của bạn? Do đó, những câu hỏi hoặc vấn
đề nào cần được giải quyết và xem xét trong các bước tiếp theo của tiến trình
Thượng hội đồng?”
- “Nhìn vào những
gì nổi lên từ hai câu hỏi trước, đâu là ưu tiên, chủ đề lặp lại và lời kêu gọi
hành động có thể được chia sẻ với các Hội thánh địa phương khác trên thế giới
và được thảo luận trong Phiên họp đầu tiên của Thượng hội đồng vào tháng 10 năm
2023?”
Các giai đoạn chính trong tiến trình cấp Châu lục
107. Mỗi Hội Đồng Châu Lục được mời
gọi thực hiện tiến trình phân định, dựa trên TLCL, tuỳ theo bối cảnh địa
phương, và soạn thảo Tài Liệu Chung Kết để trình bày kết quả của cuộc phân định
đó. Các Tài Liệu Chung Kết của bảy Hội Đồng Châu Lục sẽ được sử dụng làm cơ sở
để soạn thảo Tài Liệu Làm Việc, sẽ được hoàn thành vào tháng 6 năm 2023.
108. Đại đa số các Hội đồng Giám
mục trả lời cuộc thỉnh ý của Văn Phòng Tổng Thư ký Thượng Hội đồng đều muốn đại
diện của Toàn thể Dân Chúa tham gia vào Giai đoạn Châu lục. Do đó, tất cả các
cuộc họp Hội đồng phải mang tính Hội thánh chứ không chỉ gồm các giám mục, bảo
đảm rằng các thành phần tham dự đại diện đầy đủ cho sự đa dạng của Dân Chúa:
giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ nam nữ và giáo dân nam nữ. Đối với những đại
biểu tham gia Hội đồng Châu lục, điều quan trọng là phải đặc biệt chú ý đến sự
hiện diện của phụ nữ và người trẻ (giáo dân nam và nữ, tu sĩ nam nữ đang được
đào tạo, chủng sinh); những người sống trong điều kiện nghèo đói hoặc bị gạt ra
ngoài lề xã hội và những người có liên hệ trực tiếp với những nhóm và người
này; đại biểu huynh đệ từ các giáo phái Kitô giáo khác; đại diện của các tôn
giáo và truyền thống tín ngưỡng khác; và một số người không theo tôn giáo nào.
Hơn nữa, các giám mục được mời gọi gặp nhau vào cuối Hội nghị Châu lục, để cùng
nhau đọc lại trải nghiệm hiệp hành, từ lăng kính riêng vốn thuộc về đặc sủng và
vai trò đặc thù của họ. Đặc biệt, họ được yêu cầu xác định những cách thức
thích hợp để thực hiện nhiệm vụ xác nhận và phê duyệt Văn kiện cuối cùng, đảm bảo
rằng nó là thành quả của một hành trình hiệp hành đích thực, tôn trọng tiến
trình đã diễn ra và trung thành với những tiếng nói đa dạng của Dân Chúa ở mỗi
Châu lục.
109. Tiến trình kể từ khi xuất bản
TLCL này đến khi soạn thảo Tài Liệu Làm Việc sẽ được đánh dấu bằng các bước
sau:
1) TLCL sẽ được
gửi đến tất cả các Giám mục giáo phận; mỗi vị Giám mục cùng với Ban Hiệp Hành của
giáo phận, vốn đã điều phối giai đoạn đầu tiên, sẽ sắp xếp một tiến trình phân
định, dựa trên TLCL, bắt đầu với ba câu hỏi được nêu ra ở số 106 trên đây. Nhờ
đó, mỗi Hội thánh địa phương sẽ có cơ hội lắng nghe tiếng nói của các Hội thánh
khác, được tập hợp trong TLCL, và phản hồi lại tiếng nói đó từ kinh nghiệm của
chính mình.
2) Với sự tham
gia của Ban Hiệp Hành, mỗi Hội đồng Giám mục có nhiệm vụ thu thập và tổng hợp,
dưới hình thức thích hợp nhất với bối cảnh riêng của mình, những suy tư về ba
câu hỏi được gửi về từ các Giáo phận.
3) Sau đó, các
suy tư và phân định của mỗi Hội đồng Giám mục sẽ được chia sẻ trong Hội đồng
Châu lục, theo các phương thức được Nhóm Công tác Châu lục xác định.
4) Khi lập kế
hoạch tiến hành từng Hội đồng Châu lục, có thể hữu ích khi suy ngẫm về việc làm
sao sử dụng phương pháp “trò chuyện thiêng liêng”, vốn rất phổ biến và được
đánh giá cao (xem Vademecum,
Phụ lục B, số 8); phương pháp này có thể tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả mọi
người tham gia vào việc phân định. Đặc biệt, ba giai đoạn cần được nhấn mạnh: mỗi
tham dự viên đều nói, sau đó mọi người phản hồi tâm tình từ việc lắng nghe người
khác, cuối cùng là cả nhóm phân định hoa trái từ cuộc "trò chuyện".
Như đã được nêu rõ trong Hướng dẫn Phương pháp, điều quan trọng là phải bảo đảm
rằng trong các Hội đồng Châu lục có sự tham gia của các giám mục, linh mục, phó
tế, giáo dân nam và nữ, tu sĩ nam nữ, cũng như những người có khả năng nói lên
quan điểm của những người bên lề xã hội.
5) Mỗi Hội đồng
Châu lục sẽ soạn thảo Tài liệu Tổng kết của riêng mình, dài tối đa khoảng 20
trang, đáp ứng ba câu hỏi từ bối cảnh cụ thể của chính mình. Các Tài liệu Tổng
kết sẽ được mỗi Nhóm Công tác Châu lục đệ trình lên Ban Thư ký Thượng hội đồng
trước ngày 31 tháng 3 năm 2023. Dựa trên các Tài liệu Tổng kết của các Hội đồng
Châu lục, Tài liệu Làm việc sẽ được soạn thảo vào tháng 6 năm 2023.
TIẾN TRÌNH THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC 2021 - 2024
TIẾN TRÌNH LẮNG NGHE, GẶP GỠ, ĐỐI
THOẠI, PHÂN ĐỊNH
Được xuất bản bởi Văn phòng
Tổng Thư ký của Thượng hội đồng
Via della Conciliazione, 34 - Thành phố Vatican
Tháng Mười 2022
www.synod.va