LINH MỤC VÀ CHỦ NGHĨA GIÁO SĨ TRỊ
Linh mục Phêrô Huỳnh Thế Vinh
WHĐ (07.4.2022) - Trước Công
đồng Vatican II, người ta thường coi linh mục thuộc một tầng lớp đặc biệt, nếu
không muốn nói là một giai cấp nổi bật, với những hình ảnh và những trách vụ
chuyên biệt được xác định rõ trong Giáo hội. Nhưng sau khi giáo lý của Công đồng
Vatican II về giáo dân trở nên phổ biến, dân chúng bắt đầu tái khám phá chân lý
truyền thống: hết thảy mọi thành phần của Giáo hội đều chia sẻ tư cách linh mục
vương giả của Đức Kitô, mỗi phần tử có một đặc sủng riêng biệt, nhờ đó họ phải
góp phần vào việc xây dựng Giáo hội. Và từ đây, trong hàng ngũ linh mục xuất hiện
hai hình thức thái quá. Hình thức thứ nhất thuộc về những người không nhận biết
hoặc không đón nhận tinh thần của Công đồng, họ hành xử cách chuyên chế theo chủ
nghĩa giáo sĩ trị. Hình thức thứ hai thuộc về những người do hiểu sai những đòi
hỏi của Công đồng, họ bỏ mặc nguyên lý về một người chịu trách nhiệm và cho
phép các cộng tác viên trong giáo xứ đi theo đường lối riêng rẽ, mà chẳng cung
cấp cho họ những chỉ dẫn và phương hướng nào.[1]
Cả hai hình thức này đã và
đang tàn phá Giáo hội. Nhưng có lẽ mức độ tàn phá của chủ nghĩa giáo sĩ trị thì
trầm trọng và phổ quát hơn. Đức Giáo hoàng Phanxicô nói: “Thái độ giáo sĩ trị không chỉ huỷ đi đặc tính của người Kitô hữu,
mà còn dẫn đến việc giảm thiểu và hạ thấp ơn bí tích Rửa Tội mà Chúa Thánh
Thần đã đặt vào con tim của người tín hữu. Giáo sĩ trị dẫn đến việc áp đặt chuẩn
mực cho giáo dân, bằng cách đối xử với họ như những "kẻ thừa hành".
Giáo sĩ trị hạn chế những cố gắng và sáng kiến phong phú để mang Tin Mừng vào
những lãnh vực khác nhau của hoạt động xã hội. Giáo sĩ trị còn lâu mới tạo ra
xung lực cho những đóng góp và sáng kiến khác nhau, đồng thời nó dập tắt dần ngọn
lửa tiên tri mà toàn thể Giáo hội được mời gọi làm chứng trong tim người tín hữu.
Giáo sĩ trị quên rằng tính hữu hình và tính bí tích của Giáo hội thuộc về toàn
thể dân Chúa (x. Lumen Gentium, 9-14), chứ không chỉ thuộc về những người
được tuyển chọn và những người thông thái”[2].
Vào năm 2018, giữa lúc Giáo hội
bị bao phủ bởi các vụ lạm dụng tình dục và bê bối tài chính, Đức Giáo hoàng
Phanxicô đã viết Thư gửi dân Chúa và
chỉ rõ một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng này chính là giáo sĩ trị: "Giáo sĩ trị, dù được dung dưỡng bởi
chính các linh mục hay bởi những người giáo dân, đều gây ra sự chia tách trong
thân thể Giáo hội; sự chia tách này vừa tạo điều kiện vừa dung dưỡng nhiều sự
ác mà ngày nay chúng ta đang tố giác. Nói ‘không’ với những lạm dụng là dứt
khoát nói ‘không’ với mọi hình thái giáo sĩ trị"[3].
Cho nên, để canh tân Giáo hội
và để Giáo hội tiến bước trong sứ mạng loan báo Tin Mừng thì người linh mục cần
phải “giải gỡ gánh nặng của nền văn hóa
thấm nhiễm chủ nghĩa giáo sĩ trị do lịch sử để lại, cũng như giải gỡ những thói
tục thi hành quyền bính mà từ đó mọi thứ lạm dụng khác như quyền lực, tiền bạc,
lương tâm, và tình dục… có cơ hội bám vào”[4].
I. ĐỊNH NGHĨA VÀ BIỂU HIỆN
Đức Giáo hoàng Phanxicô định
nghĩa: “Chủ nghĩa giáo sĩ trị phát xuất từ
cái nhìn đặc quyền và ưu tuyển về ơn gọi, theo đó chức vụ được nhận lãnh bị xem
như là một quyền lực để hành xử, hơn là một ân sủng nhưng không và quảng đại để
phục vụ và trao ban. Chủ nghĩa giáo sĩ trị khiến chúng ta tin rằng chúng ta thuộc
về một tầng lớp cao cấp, có tất cả các câu trả lời cho mọi vấn đề và không còn
cần phải lắng nghe hoặc học hỏi bất cứ điều gì. Chủ nghĩa giáo sĩ là một sự sa
đọa của hàng giáo sĩ”[5].
Chủ nghĩa giáo sĩ trị biểu hiện
rõ nơi hai chủ thuyết nguy hiểm được nhắc đến trong Tông huấn Vui Mừng Hân Hoan
(Gaudete et exsultate), đó là: Thuyết Tân Ngộ Đạo và Thuyết Tân Pêlagiô:
- Thuyết Tân Ngộ Đạo đề cao
tri thức và kinh nghiệm cá nhân đến mức cho rằng chỉ có tri thức và kinh nghiệm
của mình là đúng với thực tại. Những người theo chủ thuyết này tin rằng nhờ kiến
thức có được, họ sẽ làm cho mọi sự được sáng tỏ và rõ ràng. Nói cách khác, họ
muốn "làm chủ" kể cả các mầu nhiệm về Thiên Chúa, về ân sủng và về
các bí ẩn của con người[6].
-
Còn thuyết Tân Pêlagiô thì đề cao kinh nghiệm thực tế và cơ cấu tổ chức. Nó khiến
cho con người chỉ biết tin vào sức mạnh của mình, tin vào thành công nhờ tài
năng cá nhân, và luôn khẳng định con người có thể đạt tới mọi sự nhờ ý chí và nỗ
lực cá nhân, còn ơn Chúa chỉ là tùy phụ[7].
Đôi khi nó làm cho người ta tự nhận mình trên người khác, tốt hơn người khác vì
đã nghiêm túc tuân giữ luật lệ hoặc vẫn trung thành với một kiểu sống đạo đặc
thù nào đó[8].
Rõ
ràng, trong cả hai trường hợp, người ta không thực sự quan tâm đến Thiên Chúa
hay tha nhân, mà chỉ quan tâm tới chính mình và tin tưởng vào lý trí, ý chí và
sức mạnh của bản thân[9].
Sau đây là một số điều xem ra
tiêu cực nhưng có lẽ hữu ích và thực tế để giúp mỗi người suy nghĩ và phân định
trước mặt Chúa, xem mình có đang bị rơi vào chủ nghĩa giáo sĩ trị với những biểu
hiện nơi hai chủ thuyết trên hay không?[10]
1- Linh mục chỉ quan tâm đến
sự hiểu biết, thường muốn nắm bắt nhiều thông tin kể cả thông tin riêng tư của
người giáo dân, chỉ để điều khiển họ, nhưng lại dửng dưng trước nỗi đau khổ của
họ, tức là “không có khả năng chạm đến
xác thịt đau khổ của Đức Kitô nơi tha nhân”[11].
2- Linh mục đề cao sự hiểu biết
và kinh nghiệm của bản thân, có khi coi thường giáo dân vì họ không được học,
được huấn luyện như mình, rồi cho rằng mình ở giai tầng cao hơn vì “được gọi,
chọn và sai đi” tức là thuộc về tầng lớp ưu tuyển. Cụ thể, bản thân cho rằng bởi
vì mình biết một điều gì đó, hoặc có thể giải thích nó một cách rõ ràng hơn,
nên mình đã hoàn hảo và tốt hơn đa số người thiếu hiểu biết. Thánh Gioan Phaolô
II đã cảnh báo về cám dỗ của những người có học thức cao trong Giáo hội: “Họ rất dễ cảm thấy một cách nào đó mình ở
trên các thành phần tín hữu khác”[12].
3- Linh mục nghĩ rằng bản
thân luôn có thể đưa ra những giải pháp hoàn hảo cho mọi vấn đề ở mọi khía cạnh,
kể cả các mầu nhiệm về Thiên Chúa, đời sống thiêng liêng, hay về bí mật lương
tâm của người khác. Để giải quyết một vấn đề thì giải pháp được linh mục ưu
tiên tìm kiếm và áp dụng luôn là giải pháp cậy dựa vào trí năng, kinh nghiệm,
cơ cấu tổ chức, chứ không là các giải pháp cậy dựa vào ơn Chúa, mang tính
thiêng liêng, đạo đức và bác ái Kitô giáo.
4- Linh mục áp dụng Lời Chúa
hay sự hiểu biết của mình về chân lý mạc khải một cách máy móc, lạnh lùng và khắt
khe nhằm để răn đe và hăm dọa, để chế ngự và điều khiển giáo dân theo ý mình hoặc
muốn giám sát chặt chẽ cuộc sống của họ. Đối với hàng giáo sĩ “khi thiếu chiều kích hiến tế trong tình
yêu, người ta rất dễ rơi vào cám dỗ muốn thống trị giáo dân, điều này luôn gây
ra sự đối kháng giữa người có chức thánh với dân chúng”[13].
5- Linh mục nhìn nhận và đánh
giá về một người hay về một thực tại nào đó chỉ hoàn toàn dựa trên dư luận,
kinh nghiệm hay sự hiểu biết cá nhân mà thôi.
6- Linh mục bị ám ảnh về lề
luật, giữ luật chi li, quá coi trọng luật lệ đến mức nô lệ cho luật, xem xét và
áp dụng luật một cách khắc khe, cứng nhắc đối với giáo dân.
7- Linh mục quá bận tâm đến
những ưu thế trong tương quan về mặt chính trị và xã hội; chẳng hạn ưu tiên tìm
kiếm những sự ưu đãi hay hậu thuẫn từ chính quyền, từ các tổ chức xã hội, hoặc
săn lùng và sẵn sàng nhận những trợ giúp cho dù những trợ giúp đó luôn kèm theo
các điều kiện không phù hợp với tinh thần công bằng và bác ái của người Kitô hữu.
8- Linh mục bận tâm quá mức về
những chương trình tự lực, cậy dựa vào những chương trình đã được lên chi tiết,
rồi áp dụng chúng một cách máy móc, thiếu tính uyển chuyển và thiếu niềm tin
vào hoạt động của Chúa Thánh Thần.
9- Linh mục tự hào về năng lực
xử lý những vấn đề thực tiễn của mình. Nhưng một khi quá tin tưởng vào khả năng
của mình, thì người linh mục không còn thấy nhu cầu cần cầu nguyện, nói rộng
hơn là không còn thấy sự hiện diện của Thiên Chúa nơi cuộc đời mình, nơi tha nhân…
Trong thực tế, đời sống của linh mục không đi đôi với lời linh mục giảng về tầm
quan trọng của ân sủng, và khi gặp những khó khăn cụ thể thì linh mục không đặt
niềm tin vào ân sủng của Chúa[14].
10- Linh mục chú ý quá nhiều
đến các thành tựu cá nhân, tìm kiếm những thành công mục vụ theo kiểu cá nhân.
Nhưng, sự thật thì “bất cứ điều gì được
thực hiện từ sự lo âu, tự hào hoặc nhu cầu gây ấn tượng với những người khác sẽ
không dẫn đến sự thánh thiện”[15]…
II. NGUYÊN NHÂN
1. Về mặt Triết học
Chủ nghĩa giáo sĩ trị có thể
được coi là con đẻ của chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tương đối đang rất thịnh
hành trong lối suy nghĩ của con người ngày nay.
Chủ nghĩa cá nhân một mặt
giúp người ta ý thức hơn về vị trí ưu việt của con người; nhưng mặt khác, nó
khiến con người dễ bị đóng kín với những tư lợi, suy tôn cá nhân lên mức tuyệt
đối và làm suy yếu những mối dây liên hệ giữa người với người[16].
Đức Giáo hoàng Phanxicô đã chỉ ra ba gương mặt độc hại luôn song hành với chủ
nghĩa cá nhân, đó là chủ nghĩa tiêu thụ, tinh thần thế tục và chủ nghĩa duy vật
chất. Ba gương mặt này khiến người linh mục thèm khát sở hữu, hưởng thụ và quên
đi các lời khuyên Phúc Âm[17].
Chủ nghĩa tương đối cho rằng “những chân lý về mặt đạo đức tùy thuộc vào
các cá nhân và các nhóm tuân giữ”[18].
Nói cách khác, triết thuyết này chủ trương không có chân lý phổ quát, chỉ có những
chân lý khác nhau, có bao nhiêu dân tộc, xã hội, văn hóa, thì có bấy nhiêu
‘chân lý’[19].
Trong trật tự giá trị của thế giới, cũng như trong nhận thức về thế giới thì
tính cá nhân của mỗi người như cảm giác, ý tưởng, thái độ, cảm xúc, và niềm tin
luôn chiếm vị thế ưu tiên. Họ tự đặt ra cho mình chân lý đạo đức và chuẩn mực
riêng, rồi có khi họ buộc người khác phải theo, như kiểu: “Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà sao các anh không nhảy múa; tụi tôi
hát bài đưa đám, mà sao các anh không đấm ngực khóc than.” (Mt 11,17). Theo Đức Bênêđictô XVI, vì triết thuyết này không nhìn nhận điều
gì là phổ quát và bền vững, nên cuối cùng tiêu chuẩn tối thượng duy nhất chính
là cái tôi và những ước muốn của nó. Và ẩn dưới dáng vẻ của tự do, nó lại biến
thành ngục thất cho mỗi người vì nó ngăn cách con người với nhau, khóa chặt mỗi
người trong cái tôi ích kỷ của mình[20].
Suy tôn cá nhân quá mức, xem
mình là chân lý và không chấp nhận chân lý phổ quát thì chắc chắn sẽ sinh ra
thái độ giáo sĩ trị.
2. Về mặt Thần học
Chủ nghĩa giáo sĩ trị có thể
xuất phát từ sự hiểu lầm trong cái nhìn về căn tính linh mục. Trong giáo huấn
truyền thống, linh mục thường được định nghĩa với hai cụm từ “tôi tớ của Chúa
Kitô – doulos Jesou Christou” và “Chúa Kitô khác – alter Christus”. Hai định
nghĩa này cần được bổ sung cho nhau, nếu bị tách biệt sẽ đưa đến sự thiếu sót
và hiểu lầm.
Linh mục là tôi tớ của Chúa
Kitô, một định nghĩa mà ngày nay ít được quan tâm. Trong khi thi hành sứ vụ,
linh mục không mang trong mình tâm thế thống trị, nhưng là tâm thế của một người
tôi tớ phục vụ. Chúa Kitô dạy bảo các tông đồ: “Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi
là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi"
(Lc 17,10). Đồng thời, linh mục cũng nhìn ơn gọi của mình theo cách của thánh
Phaolô và các tông đồ: “Chúng tôi không
rao giảng chính mình, nhưng rao giảng Đức Giêsu Kitô là Chúa, và chính chúng
tôi là nô lệ của anh chị em vì Đức Giêsu.” (2 Cr 4:5). Vậy, chức linh mục
là sự phục vụ lưỡng diện. Linh mục phục vụ Chúa Kitô bằng cách rao giảng Chúa
Kitô, hơn là chính mình, và phục vụ dân chúng vì Chúa Kitô.[21]
Điều này đúng, nhưng chưa đủ.
Bởi vì nó không cho thấy sự nối kết nội tại mang tính bí tích giữa người linh mục
và Chúa Kitô; không cho thấy sức mạnh của ân sủng và của chính Chúa Kitô hành động
qua con người linh mục. Linh mục còn là alter Christus. Linh mục hành động
trong cương vị của Chúa Kitô là đầu (In persona Christi capitis). Đức thánh
Giáo hoàng Gioan Phaolô II giải thích: cụm từ “in persona Christi” không chỉ có nghĩa là việc hành động ‘trong
cương vị’ của Chúa Kitô, mà còn có nghĩa là sự đồng nhất hóa biệt loại có tính
bí tích giữa người linh mục với Chúa Kitô. Qua con người linh mục, Chúa Kitô thật
sự là tác giả và chủ thể chính của hy tế Thánh Thể, một hy tế trong đó không ai
có thể lấy chỗ của Người[22].
Nếu linh mục chỉ là một tôi tớ
được Chúa Kitô ủy quyền, thì Chúa Kitô có thể không phải là “chủ thể chính” của
hành vi bí tích mà linh mục cử hành, bởi lẽ chỉ có một mình linh mục hiện diện
mà thôi. Đang khi đó “sự đồng nhất hóa biệt loại của bí tích” có nghĩa rằng
linh mục không chỉ hành động như một đại diện của Chúa Kitô, mà linh mục còn tự
do để cho Chúa Kitô chiếm hữu những hành vi bí tích của mình theo một cách thức
đến nỗi chính Chúa Kitô hành động qua linh mục. Linh mục trở thành một alter
Christus.
Nhưng
ngày nay, từ alter Christus đã bị hiểu lầm cách nguy hiểm. Linh mục thường lầm
tưởng mình là Chúa Kitô. Không! điều này không đúng, linh mục không nhân bội
Chúa Kitô; linh mục chỉ là những ‘khí cụ’ sống động và tự do của một Chúa Kitô
duy nhất, đấng hiện diện như “chủ thể chính của những hành động của linh mục.”
Linh mục là alter Christus không có nghĩa linh mục là Chúa Kitô, nhưng có nghĩa
linh mục là khí cụ để Chúa Kitô hành động và thực hiện công trình cứu độ của
Người qua linh mục.[23]
Là alter Christus, linh mục
phải ý thức nỗ lực để Chúa Kitô sống và chiếu sáng qua con người và đời sống hằng
ngày của mình; đồng thời, linh mục phải chống lại cám dỗ liên lỉ là lẫn lộn
chính mình với Chúa Kitô. Cám dỗ nghĩ mình là Chúa Kitô lớn mạnh lên cùng với
những sự thành công trong việc rao giảng, mục vụ, và kể cả việc “làm phép lạ”
hay “trừ quỷ”… Cám dỗ nghĩ mình là Chúa Kitô, nghĩ rằng quyền lực, sức mạnh và
thành công có được là do mình sẽ khiến linh mục đi đến thái độ độc tài, giáo sĩ
trị. Họ dễ dàng bất tuân Đấng bản quyền, rồi rời khỏi Giáo hội, và lập ra những
nhóm hay giáo phái mà chúng ta thường thấy ngày nay.
Thánh Bênađô thuật lại câu
chuyện về con ngựa chở vị hoàng tử. Con ngựa nghĩ rằng tất cả danh dự và vinh
quang dân chúng đang tung hô đều được nhắm đến mình. Và thánh nhân giải thích:
linh mục nào nghĩ rằng sự hoan hô và kính trọng được nhắm đến cá nhân mình, hơn
là đến Chúa Kitô thì cũng chính là con ngựa khờ dại đó vậy. Ngoài ra, Thánh
Bênađô còn so sánh: ơn gọi của linh mục cũng tương tự như ơn gọi của Gioan Tẩy
giả. Linh mục chuẩn bị và dẫn các linh hồn đến với Chúa Kitô, và hân hoan vì
Chúa Kitô và các tâm hồn gặp gỡ nhau, chớ không để mình trở thành chướng ngại vật
cho mối tương quan này.[24]
III. LINH MỤC HIỆP HÀNH: HIỆP THÔNG, THAM GIA VÀ SỨ VỤ
Để cải tạo một mảnh vườn hay
canh tân đời sống linh mục, chúng ta không chỉ ra sức nhổ cỏ dại là những thói
xấu nơi chủ nghĩa giáo sĩ trị, mà còn cố gắng vun trồng những cây hoa xinh đẹp
là những chiều kích của tinh thần hiệp hành. Hiệp thông, tham gia và sứ vụ là
ba chiều kích để tạo nên một linh mục hiệp hành.
1. Hiệp thông
Giáo sĩ trị là hình thức tự
tách mình ra khỏi mối hiệp thông với Thiên Chúa và tự suy tôn mình làm Chúa.
Cho nên, để chống lại chủ nghĩa giáo sĩ trị, Bộ giáo sĩ và Ban thư ký Thượng Hội
đồng đã viết thư gửi các linh mục và khuyên các linh mục “hãy làm mọi thứ có thể để cuộc đời mình luôn dựa trên việc lắng
nghe và thi hành Lời Chúa”[25].
Nếu đời sống linh mục không có nền tảng của Lời Chúa, thì linh mục có nguy cơ
bước đi trong tối tăm và những suy tư của linh mục có thể trở thành một ý thức
hệ[26].
2. Tham gia
Công đồng Vatican II đã đề
cao vai trò của người giáo dân trong việc tham gia xây dựng Giáo hội. Sự tham
gia tích cực và đa dạng của giáo dân trong giáo xứ không khiến cho vai trò lãnh
đạo của linh mục suy giảm, nhưng còn làm cho vai trò và trách nhiệm đó trở nên
quan trọng và nặng nề hơn. Linh mục vừa phải tranh thủ sự cộng tác tích cực của
giáo dân, vừa điều phối những hoạt động của họ; cũng như góp ý, phê bình và
khuyến khích họ. Thách đố lãnh đạo của linh mục ngày nay lớn hơn nhiều so với
thời xưa[27].
Để thi hành sứ vụ của mình trong chiều kích tham gia này, Bộ giáo sĩ và Thượng
hội đồng mời gọi các linh mục hãy đào luyện cho mình khả năng lắng nghe[28].
Trong thực tế, các cá nhân và
các nhóm trong giáo xứ rất thường xuyên có nguy cơ rơi vào chủ nghĩa cá nhân và
tự quy chiếu về mình. Với khả năng lắng nghe, linh mục có thể làm rất nhiều điều
tốt lành để hàn gắn các mối tương giao và chữa lành những vết thương trong giáo
xứ[29].
Thế nhưng, trong mục vụ, linh mục thường có xu hướng nóng vội, muốn đưa ra lời
khuyên ngay lập tức để giải quyết vấn đề. Việc này cũng giống như trường hợp
bác sĩ “kê toa” trước khi “khám bệnh”. Chắc chắn toa thuốc sẽ không chính xác
và đặc biệt người bệnh sẽ mất lòng tin nơi vị bác sĩ. Họ sẽ chẳng dám uống thuốc
của bác sĩ và cũng không bao giờ đến với vị bác sĩ đó nữa. Linh mục không biết
lắng nghe thì không chỉ làm mất lòng tin nơi giáo dân mà còn đẩy họ ra xa mình.
3. Sứ vụ
Đa số chúng ta đều quen thuộc
với câu nói của Đức Phanxicô, theo đó ngày nay Giáo hội phải là “bệnh viện dã
chiến”.[30]
Thế giới hiện nay được xem như là một chiến trường, nơi đó diễn ra các cuộc chiến
đấu, tranh giành của các cá nhân, phe nhóm, đảng phái, … và các cuộc chiến đó
luôn để lại vô số những nạn nhân.[31]
Trong bối cảnh này, Giáo hội không thể nhát đảm đóng cửa, rút lui khỏi cuộc chiến.
Giáo hội cần mở tung cửa, can đảm đi ra khỏi vùng an toàn của mình, dấn thân đến
tuyến đầu của trận chiến, nhưng không phải tham gia vào trận chiến để gây thêm
đau khổ và chết chóc, mà là để gặp gỡ, cứu giúp những nạn nhân đau khổ của cuộc
chiến. Mỗi nhóm, mỗi cộng đoàn và mỗi giáo xứ sẽ là một “bệnh viện dã chiến”, một
“quán trọ”[32]
để cứu chữa những anh chị em bị tổn thương đang nằm bên lề xã hội.
Giáo hội là bệnh viện dã chiến
không phải là một ý tưởng mới, nhưng là một hình ảnh rõ nét ngay từ thời Giáo hội
sơ khai. Giáo hội lúc đó được miêu tả là nơi đón nhận những người yếu đuối nhất:
người bệnh, người đau khổ, người nghèo… (x. Cv 5, 15-16). Nỗi đau đớn của họ đã
thu hút sự chú ý của các Tông đồ, những người không có vàng bạc (Cv 3,6) nhưng
họ trở nên mạnh mẽ nhờ danh Chúa Giêsu. Đối với các Tông đồ, các bệnh nhân, những
người đau khổ luôn là đối tượng ưu tiên của Tin Mừng Nước Trời, là những anh chị
em mà Chúa Giêsu hiện diện trong họ cách đặc biệt (xem Mt 25,36.40). Và chắc chắn
đó cũng phải là đối tượng ưu tiên trong sứ vụ của linh mục ngày nay.[33]
IV. TẠM KẾT
Cám dỗ thi hành sứ mạng cứu độ
bằng con đường quyền lực, vinh quang và vật chất là cám dỗ Chúa Giêsu đã phải đối
diện khi công khai rao giảng Nước Trời[34]
(x. Mt 4,1-11). Và đó cũng là cám dỗ nguy hiểm và thường xuyên của các tông đồ
và những người bước theo Chúa (x. Lc 9, 54; Mc 10,35-45; …). Tất cả những gì thế
gian khao khát sẽ chẳng thể tìm thấy được nơi hình ảnh Chúa Giêsu chịu đóng
đinh. Vì quyền lực gì đối với một người mà đôi tay bị đóng vào thập giá; và
vinh quang, giàu sang gì đối với một người bị chết treo trần truồng, không một
mảnh vải che thân… Thập giá dường như là một sự thất bại, một sự điên rồ (x.
1Cr 1,22-24). Nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh, con người chỉ có thể nhìn thấy được
một sự chiến thắng, đó là chiến thắng của tình yêu. Bị ghét bỏ, nhưng Chúa
Giêsu không ghét bỏ ai; bị căm giận và bị giết, nhưng Ngài không căm giận lại.
Ngài đã chịu trọn cơn giận dữ giết người, ghen ghét, xúc phạm... và Ngài chịu đựng
chúng đủ lâu để có thể chuyển hóa chúng thành yêu thương, tha thứ, và trắc ẩn.
Và chính trong tình yêu đó mà con người được chữa lành.[35]
Các Giáo Phụ đã áp dụng hình ảnh Kinh Thánh nước đắng ở Mara cho Chúa Giêsu
trên thập giá. Nước đắng trở nên ngọt nhờ cây gỗ mà ông Môsê thả xuống nước đó
(x. Xh 15,23-25). Trên cây gỗ thập giá, chính Chúa Giêsu đã uống nước đắng của mọi
tội lỗi và biến nó thành nước “ngọt” của Thần Khí Ngài, được biểu thị bằng nước
từ cạnh sườn Ngài chảy ra…[36]
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dùng con đường tình yêu để cứu độ chúng con, xin
cho anh em linh mục chúng con cũng dùng con đường ấy mà đem ơn cứu độ đến cho
muôn người. Và xin cho chúng con không tìm chiến thắng nào khác hơn, ngoài chiến
thắng của tình yêu. Amen.
V. VẤN TÂM
1. Hiệp thông
Nhà Thần học Henri Nouwen nhận
xét: Ngày nay, khi phẩm giá con người bị định giá bằng các thành tựu, người ta
không còn coi trọng đời sống cầu nguyện, đời sống nội tâm, họ thường làm việc
và mong chờ tiếng vỗ tay cùng với lời hoan hô của mọi người. Khi đó, họ trở
thành những diễn viên xiếc trong sân khấu cuộc đời[37].
Chúa Giêsu bảo: “Những người như thế đã
được trả công rồi” (x. Mt 6). Nuôi dưỡng chủ nghĩa giáo sĩ trị, người linh
mục sẽ tự tách mình ra khỏi sự hiệp thông với Chúa và tất nhiên là với giáo
dân, khi đó, đời sống của linh mục sẽ trở nên khô héo như cành nho tách lìa khỏi
cây nho (x. Ga 15,6).
Cộng đoàn giáo xứ chỉ có thể “cùng nhau cất bước hành trình” khi cộng
đoàn lắng nghe Lời Chúa và cử hành Thánh Thể. Vậy, việc
cầu nguyện và việc cử hành phụng vụ của chúng ta đang diễn ra như thế nào?
Chúng có thúc đẩy và hướng dẫn đời sống và sứ vụ của chúng ta không? Các tín hữu
được khích lệ ra sao khi tham dự phụng vụ do chúng ta cử hành? Việc cầu nguyện
và tìm hiểu ý Chúa có trở thành nguồn chính để giúp chúng ta đưa ra các quyết định
quan trọng trong sứ vụ của mình?[38]
2. Lắng nghe
“Chủ nghĩa giáo sĩ trị khiến chúng ta tin rằng chúng ta thuộc về một tầng
lớp cao cấp, có tất cả các câu trả lời cho mọi vấn đề và không còn cần phải lắng
nghe hoặc học hỏi bất cứ điều gì”[39].
Trong tiến trình hiệp hành, lắng
nghe là bước đầu tiên, đòi hỏi một khối óc và con tim rộng mở, không thành kiến.
Vậy Thiên Chúa ngỏ lời với chúng ta qua những tiếng nói mà đôi khi chúng ta
không nhận ra như thế nào? Giáo dân, đặc biệt là phụ nữ và giới trẻ, được chúng
ta lắng nghe ra sao? Điều gì làm chúng ta dễ lắng nghe hoặc ngăn cản chúng ta lắng
nghe? Chúng ta lắng nghe những người ở vùng ngoại biên như thế nào? Những đóng
góp của những người sống đời thánh hiến được chúng ta đón nhận ra sao? Khả năng
lắng nghe của chúng ta có những hạn chế nào, đặc biệt là lắng nghe những người
có quan điểm khác với chúng ta?[40]
3. Sứ vụ
Hội thánh hiệp hành là Hội thánh tham gia và đồng trách nhiệm. Mọi thành viên trong Hội thánh đều được mời
gọi tham gia vào sứ vụ của Hội thánh.
Cách hành xử uy quyền hay cai
quản trong giáo xứ của chúng ta thế nào? Việc thực hiện cách làm việc theo nhóm
và tinh thần đồng trách nhiệm thì ra sao? Các thừa tác vụ và trách nhiệm của
giáo dân được quan tâm khích lệ thế nào? Những lĩnh vực mục vụ và truyền giáo
nào trong giáo xứ mà chúng ta còn đang bỏ mặc? Điều gì cản trở người giáo dân
tham gia tích cực sứ vụ của giáo xứ?[41]
(Trích: Suy niệm tĩnh tâm linh mục Giáo phận Phú Cường, tháng 4/2022)
[1] x. Roch Kereszty,
O.Cist., Linh mục và việc Tân Phúc âm hóa,
Linh mục Giuse Nguyễn Văn Am, S.D.B. chuyển ngữ, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/linh-muc-va-viec-tan-phuc-am-hoa-40159
[2] Đức Giáo hoàng Phanxicô, Thư gởi Đức Hồng y Marc Armand Ouellet, chủ
tịch Ủy ban Giáo hoàng về Châu Mỹ La Tinh, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/hinh-thai-giao-si-tri-40956
[3] Đức Giáo hoàng Phanxicô, Thư của Đức Thánh Cha Phanxicô gửi Dân Chúa,
tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/thu-cua-duc-thanh-cha-phanxico-gui-dan-chua-34181
[5] Đức Giáo hoàng Phanxicô, Diễn từ khai mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục về
Giới trẻ, 03.10.2018, tại https://www.vatican.va/content/francesco/en/speeches/2018/october/documents/papa-francesco_20181003_apertura-sinodo.html
[10] x. Linh mục Giuse Huỳnh Văn Sỹ, Hai kẻ thù tinh vi của sự thánh thiện (Tông
huấn Gaudete et Exsultate), tại https://gpquinhon.org/q/thuong-huan/hai-ke-thu-tinh-vi-cua-su-thanh-thien-tong-huan-gaudete-et-exsultate-1351.html
[18] Từ điển Merriam-Webster, mục từ
relativism – chủ nghĩa tương đối, tại https://www.merriam-webster.com/dictionary/relativism
[19] x. Thiên Triệu, Tác động của chủ nghĩa tương đối trên giới
trẻ, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tac-dong-cua-chu-nghia-tuong-doi-tren-gioi-tre-40391
[21] x. Roch Kereszty, O.Cist., Linh
mục và việc Tân Phúc âm hóa, Linh mục Giuse Nguyễn Văn Am, S.D.B. chuyển ngữ,
tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/linh-muc-va-viec-tan-phuc-am-hoa-40159
[22] x. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II,
Tông thư về Mầu nhiệm và sự Thờ phượng
Thánh Thể (Dominicae Cenae; 24 February 1980), số 8, được trích dẫn trong
Thông điệp về Thánh Thể và mối liên hệ của Thánh Thể với Giáo hội (Ecclesia de
Eucharistia; 17 April 2003) 29.
[23] x. D. Ferrara, “In Persona Christi: Sự biểu thị của Đức
Kitô hay Tôi tớ của sự hiện diện của Đức Kitô,” CTSA Proceedings 50 (1995)
138–145. Được dịch từ linh mục Giuse Nguyễn Văn Am, S.D.B., tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/linh-muc-va-viec-tan-phuc-am-hoa-40159
[24] x. Roch Kereszty, O.Cist., Linh
mục và việc Tân Phúc âm hóa, Linh mục Giuse Nguyễn Văn Am, S.D.B. chuyển ngữ,
tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/linh-muc-va-viec-tan-phuc-am-hoa-40159
[25] TGM Lazzaro You Heung Sik và Hồng
y Mario Grech, Bộ Giáo Sĩ và Thượng Hội
Đồng: Thư gửi các linh mục về tiến trình hiệp hành, ngày 19.3.2022, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/bo-giao-si-va-thuong-hoi-dong-thu-gui-cac-linh-muc-ve-tien-trinh-hiep-hanh-44715
[27] x. Roch Kereszty, O.Cist., Linh mục và việc Tân Phúc âm hóa, Linh
mục Giuse Nguyễn Văn Am, S.D.B. chuyển ngữ, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/linh-muc-va-viec-tan-phuc-am-hoa-40159
[28] x. TGM Lazzaro You Heung Sik và
Hồng y Mario Grech, Bộ Giáo Sĩ và Thượng
Hội Đồng: Thư gửi các linh mục về tiến trình hiệp hành, ngày 19.3.2022, tại
https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/bo-giao-si-va-thuong-hoi-dong-thu-gui-cac-linh-muc-ve-tien-trinh-hiep-hanh-44715
[30] x. Đức Giáo hoàng Phanxicô, “Giáo hội là bệnh viện chiến trường”, ưu
tiên chăm sóc các bệnh nhân và người yếu đuối nhất, ngày 28.8.2019, Hồng
Thủy chuyển ngữ, tại https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2019-08/tiep-kien-chung-giao-hoi-benh-vien-chien-truong-cong-vu-tong-do.html
[31] x. Ron Rolheiser, Giáo hội là
bệnh viện dã chiến, tại http://ronrolheiser.com/giao-hoi-la-benh-vien-da-chien/#.YXbGvZ7P2Ul
[32] Đức Bênêđictô XVI ví quán trọ
trong dụ ngôn người Samari nhân hậu chính là Giáo hội – nơi có dầu để bệnh nhân
được chữa lành, và Chúa Giêsu cũng đã trả trước món nợ cho bệnh nhân
[33] x. Đức Giáo hoàng Phanxicô, “Giáo hội là bệnh viện chiến trường”, ưu
tiên chăm sóc các bệnh nhân và người yếu đuối nhất, ngày 28.8.2019, Hồng
Thủy chuyển ngữ, tại https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2019-08/tiep-kien-chung-giao-hoi-benh-vien-chien-truong-cong-vu-tong-do.html
[35] x. Ron Rolheiser, Khát Khao Nên Thánh, Đi tìm một Linh đạo
Kitô (The Holy Longing: The Search for a Christian Spirituality), Chương 10:
Trụ vững chính mình trong Đời sống Thiêng liêng.
[36] x. Raniero Cantalamessa, Chúng tôi rao giảng một Đức Kitô bị đóng
đinh, 2020, Lm. Micae Trần Đình Quảng chuyển ngữ.
[37] x. Nguyễn Hữu Thy (2010), Hiểu và Sống Mười Điều Răn Thiên Chúa,
Trung Tâm Mục Vụ Giáo phận Trier, CHLB Đức 2010. Và Charler Ringma (1991), Dare
to Journey with Henri Nouwen, Brisbane, Australia xuất bản
[38] x. Thượng Hội Đồng Giám Mục về
tính hiệp hành trong Giáo hội, Cẩm nang
Thượng Hội Đồng, Phần 5.3: Câu hỏi chính để thỉnh ý
[39] Đức Giáo hoàng Phanxicô, Diễn từ khai mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục về
Giới trẻ, 03.10.2018, tại https://www.vatican.va/content/francesco/en/speeches/2018/october/documents/papa-francesco_20181003_apertura-sinodo.html
[40] x. Thượng Hội Đồng Giám Mục về
tính hiệp hành trong Giáo hội, Cẩm nang
Thượng Hội Đồng, Phần 5.3: Câu hỏi chính để thỉnh ý
[41] x.