LINH MỤC VÀ VIỆC TÂN PHÚC ÂM HÓA
Roch Kereszty,
O.Cist.
Lm. Giuse Nguyễn
Văn Am, S.D.B. chuyển ngữ
WHĐ (18-06-2020)
– Nhân cách của Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II minh họa rõ ràng người linh mục
lý tưởng của thiên niên kỷ mới phải ra sao. Người bạn thân và đấng kế vị ngài,
Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI, bổ sung lý tưởng này.
Ngoài những diễn từ của Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II và Bênêđictô
XVI, cho đến giờ có ít suy tư xem tân Phúc âm hóa có nghĩa là gì. Thực thế, Hội
đồng Giáo hoàng mới được thành lập về việc tân Phúc âm hóa liệt kê trách vụ số
một là “khảo sát sâu xa ý nghĩa thần học và mục vụ của việc tân Phúc âm hóa.”
Ngoài ra, Thượng Hội đồng Giám mục vừa qua cũng thảo luận đề tài này. Điều tôi
hy vọng làm ở đây là áp dụng việc tân Phúc âm hóa vào đời linh mục thánh thiện,
với những suy tư cá nhân dựa trên những giáo huấn của Thánh kinh và của hai vị
giáo hoàng trên đây, cũng như trên những gương sáng của những vị thánh đương thời
và những người lành thánh khác. Việc luận bàn thích đáng về đề tài này đòi phải
xem xét toàn bộ tiến trình đào luyện linh mục, cũng như trách vụ suốt đời liên
lỷ học hỏi, đào sâu và lượng giá lại ơn gọi chúng ta, sau khi được thụ phong
cho đến cuối đời.[1]
1. CUỘC KHỦNG HOẢNG CĂN TÍNH LINH MỤC
Trước Công đồng
Vatican II, người ta thường coi các linh mục thuộc một tầng lớp đặc biệt, nếu
không nói là một giai cấp, nổi bật, với hình ảnh và những trách vụ của người
linh mục được xác định rõ ràng trong Giáo Hội. Mọi Kitô hữu biết rằng tước hiệu
“cha” có những sức mạnh tinh thần lớn lao. Bởi lẽ linh mục biến đổi bánh rượu
thành Mình và Máu Đức Kitô; ngài mở và đóng cửa thiên đàng bằng cách ban hay
không ban ơn xá giải; ngài làm cho người hấp hối dễ dàng đi vào thiên đàng bằng
cách ban cho họ những nghi thức sau cùng. Ngài nắm quyền bính trên những công
việc giáo xứ, cả Giáo Hội lẫn trường học; nếu có bất kỳ vấn đề lương tâm nào, bạn
đến với người cha đó.
Nhưng sau khi
giáo lý của Công đồng Vatican II về giáo dân trở nên phổ biến, dân chúng bắt đầu
tái khám phá chân lý truyền thống của Công giáo rằng hết thảy mọi thành phần của
Giáo Hội đều chia sẻ tư cách linh mục vương giả của Đức Kitô, rằng mỗi phần tử
có một đặc sủng riêng biệt, nhờ đó họ phải góp phần vào việc xây dựng Giáo Hội.
Sánh bên với điều ta gọi là “chức linh mục thừa tác”, một phạm vi rộng lớn của
những tác vụ khác nảy sinh, từ thừa tác viên giới trẻ đến vị tư vấn hôn nhân,
qua người điều hành lo việc dạy giáo lý, tất cả rộng mở cho giáo dân nam nữ
trong giáo xứ. Và người ta đặt ra câu hỏi: vậy linh mục thừa tác còn cần vào việc
gì nữa đây? Nay xem ra giáo dân có thể đảm nhận mọi sự, trừ ra một vài nghi thức
bí tích. Những thần học gia nổi tiếng nói về ơn gọi hướng tới tác vụ bí tích
như một trong nhiều tác vụ sẵn đấy, thay vì [nói tới] ơn gọi linh mục.
Nếu chức linh mục
chỉ là một trong nhiều tác vụ, thật khó mà thấy đó là một ơn gọi thường hằng.
Nó dễ dàng bị tráo đổi với một công việc khác trong Giáo Hội. Một linh mục chán
nản và kiệt lực có thể nói: “Tôi cảm thấy có lẽ giúp ích cho đời hơn nếu tôi trở
thành nhà tư vấn, làm việc xã hội, tâm lý gia, hay DRE (giám đốc lo việc dạy
giáo lý) trong một giáo xứ. Dĩ nhiên, sẽ chẳng có vấn đề lập gia đình, và tôi
có thể gia nhập ‘thế giới thực sự’”.
Như luôn xảy ra
trong lịch sử, cực đoan này đòi hỏi một cực đoan khác. Đối lại với “lối tiếp cận
‘hãy đơn giản gọi tên tôi là đủ rồi’ cũng như cố gắng hết sức tỏ ra là một người
‘bình thường’, thì giữa những chủng sinh và linh mục trẻ nảy sinh một chiều hướng
đối nghịch. Chiều hướng này nhấn mạnh sự nổi bật đặc biệt của người linh mục –
họ có vị trí cao và độc đáo trong Giáo Hội – mang y phục giáo sĩ nổi bật, xác
quyết quyền bính cao cả của mình, và thường trừng trị dân chúng không xót
thương từ tòa giảng.
Dĩ nhiên, tôi vừa
vẽ ra những bức ký họa một chiều để giãi ánh sáng nào đó trên hai loại linh mục
hiểu về chính mình; nó cho thấy rằng linh mục tự do, hay linh mục ý thức thuộc
về giai cấp đều không sống theo lý tưởng linh mục mà Vatican II, cũng như các Đức
giáo hoàng Gioan Phaolô II và Bênêđictô XVI đã vẽ lên. Hai giáo hoàng trên đã
không bỏ cơ hội nào để chỉ ra tầm quan trọng cốt yếu của người linh mục trong
Giáo Hội, đang khi tháp nhập và đào sâu những phẩm tính tích cực nhất của hai
loại căn tính linh mục này.
2. MỘT LINH MỤC DUY NHẤT SONG CÓ NHIỀU VỊ LINH MỤC
Trong thánh lễ đầu
tiên của một linh mục, Raymond Brown bắt đầu bài giảng của mình bằng cách chỉ
ra rằng chúng ta không tìm thấy những linh mục trong Tân ước, và bằng chứng đầu
tiên về tác vụ linh mục chỉ xuất hiện trong lá thư của Clement thành Roma. Dĩ
nhiên, Brown nhấn mạnh đến tầm quan trọng của chức linh mục; nhưng trong những
bài viết khác, ông thúc đẩy Giáo Hội trở về và trân trọng Thánh kinh hơn nữa. Rồi,
ta không mấy ngạc nhiên khi những người nghe ông và những nhà chú giải khác có
não trạng tương tự, không nhiệt tâm ôm ấp ơn gọi linh mục. May thay (hay đúng
hơn, do Chúa quan phòng), các Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II và Bênêđictô XVI,
cùng với những thần học gia và chú giải nổi bật – như Congar, Feuillet và
Vanhoye – đã có thể dựa vào những nền tảng trong Thánh kinh chiếu ánh sáng về
chức linh mục trong sứ mệnh của các tông đồ[2]. Như chính
sứ mệnh của ngài cho thế giới xác định cuộc sống của Đức Giêsu – các tông đồ và
những người kế vị, giám mục đoàn và những cộng sự viên của họ, các linh mục – tất
cả đều thông phần vào sứ mệnh linh mục của Đức Giêsu Kitô, theo những mức độ
khác nhau.
Không như bất kỳ
tôn giáo nào khác, trong Tân ước chỉ có một linh mục và một hy tế: Đức Giêsu
Kitô và việc Người dâng hiến chính mình. Giám mục và linh mục không phải là những
linh mục theo quyền bính riêng của họ; họ thông phần vào sứ mệnh của Đức Giêsu
bằng cách làm cho hy tế vĩnh cửu của Đức Giêsu Kitô hiện diện. Do vậy, việc Đức
Kitô sai họ đi, xác định toàn bộ đời sống họ, cả hữu thể họ, hầu trải rộng sứ mệnh
giảng dạy, mục tử và thánh hóa qua các thế hệ, và tới mút cùng thế giới. Vì vậy,
như tư cách linh mục của Đức Giêsu Kitô, ấn tín linh mục là thường hằng và
không thể xóa nhòa; ấn tín đó nắn hình không chỉ “chức năng” của người linh mục
mà cả nhân cách, những tương giao, những hoạt động giải trí và đời sống công cộng
và cá nhân của họ.
3. CHỨC LINH MỤC VÀ NHỮNG ĐẶC SỦNG KHÁC TRONG GIÁO HỘI
Lý tưởng cho việc
tân Phúc âm hóa bao gồm sự hủy bỏ vĩnh viễn một giai cấp linh mục mà xét về mặt
xã hội, cô lập chính mình khỏi giáo dân và thấy mình cao hơn giáo dân. Nó cũng
đòi phải liên tục khơi dậy những đặc sủng và sự phục vụ của giáo dân trong đời sống
giáo xứ, địa phận và ngay cả Giáo Hội phổ quát. Đối diện với quá nhiều trách vụ,
người linh mục biết mình không thể làm việc một mình. Họ phải tìm kiếm tất cả
những giáo dân có uy tín mà họ có thể tìm được – không chỉ những chuyên viên
tài chính hay kiến trúc sư, nhưng cả những người có những ân điển thiêng liêng,
thông thường hay lạ thường. Ngày nay, trong một giáo xứ, nhiều tác vụ giáo dân
khác nhau nở rộ. Họ chuyên biệt hóa việc chăm sóc người nghèo, bệnh nhân, phụng
vụ và dạy giáo lý. Họ tư vấn những cặp đính hôn và vợ chồng; họ giúp những người
ly dị. Con số của những tác vụ này vẫn gia tăng. Những hoạt động muôn mặt và
khác nhau buộc người linh mục phải có một tư cách lãnh đạo đòi hỏi hơn, thành
thạo hơn. Vừa tranh thủ sự cộng tác tích cực của người khác, vừa điều phối những
hoạt động của họ, góp ý, phê bình và khuyến khích họ, đấy mới là một thách đố lớn
lao hơn nhiều so với thời xưa. Một đàng, chúng ta vẫn thấy quá nhiều trường hợp
các mục tử hành xử cách chuyên chế. Đàng khác, một số linh mục và giám mục lại
hiểu sai những đòi hỏi của thời kỳ hậu Công đồng; họ bỏ mặc nguyên lý về một
người chịu trách nhiệm, và cho phép nhân viên giáo xứ đi theo đường lối của họ
mà chẳng cung cấp cho họ hướng dẫn và phương hướng nào. Nếu một mục tử hay giám
mục chuyển trách nhiệm cho những người khác về điều đang xảy ra trong giáo xứ
hay địa phận của mình, thì sai lầm cũng thật nghiêm trọng như thể ông cố gắng tự
mình làm mọi sự. Xét cho cùng, chính vị mục tử sẽ phải trả lẽ trước Thiên Chúa
về từng con chiên của mình.
4. CHỨC LINH MỤC THỪA TÁC NHƯ SỰ PHỤC VỤ LƯỠNG DIỆN
Vị linh mục lo đến
việc tân Phúc âm hóa nhìn ơn gọi của mình cùng một cách như Phaolô, và tất cả
các giám mục, linh mục và giáo hoàng thánh thiện đã làm: “Chúng tôi không rao
giảng chính mình, nhưng Đức Giêsu Kitô là Chúa, và chính chúng tôi là nô lệ của
anh chị em vì Đức Giêsu.” (2 Cr 4:5). Vậy, chức linh mục là sự phục vụ lưỡng diện.
Linh mục phục vụ Đức Kitô bằng cách rao giảng Đức Kitô, hơn là chính mình, và
phục vụ dân chúng vì Đức Kitô. Linh mục vẫn coi cử hành các bí tích, và, nhất
là, cử hành Thánh Thể, là tâm điểm trong tác vụ của mình. Nhưng ngày nay hơn cả
trước kia, linh mục hiểu rằng các bí tích biến đổi đời sống các tín hữu chỉ với
điều kiện chúng được tiếp nhận với đức tin sống động. Như vậy, người giáo sĩ
dành nhiều thời giờ và năng lực hơn cho việc rao giảng và dạy dỗ Lời Chúa để thắp
lửa và đào sâu đức tin của dân Người. Ta có thể nhìn thấy trách vụ này cách tốt
nhất trong cử hành Thánh Thể. Bằng cách rao giảng Lời Chúa, linh mục chuẩn bị cộng
đoàn lãnh nhận Lời đã làm người trong Thánh Thể. Như tôi tớ của Đức Kitô, riêng
một mình linh mục được có khả năng khiến cho Đức Kitô hiện diện trong hy tế của
Người, dưới những dấu chỉ bánh và rượu. Tuy nhiên, hoạt động tư tế của linh mục
nhằm hiện thực hóa chức linh mục của toàn cộng đoàn: Nhờ Đức Kitô, tất cả các
tín hữu được gọi để cùng với linh mục hiệp dâng lên Chúa Cha chính Đức Kitô, và
chính mình.
5. TÔI TỚ HAY NGƯỜI ĐẠI DIỆN MANG TÍNH BÍ TÍCH CỦA ĐỨC KITÔ?
Một mâu thuẫn (antinomy) sai lạc đương thời khác làm cho cuộc thảo luận về mối liên hệ của linh mục với Đức Kitô thành rối ren. Linh mục là doulos Iesou Christou (tôi tớ của Đức Kitô), như Phaolô thích qui chiếu tới chính mình; hay là sự biểu thị bí tích của Đức Kitô, một alter Christus? Trong Tân ước, và trong truyền thống Giáo Hội, gồm cả những văn kiện huấn quyền gần đây nhất, cả hai hạn từ không loại bỏ nhưng đúng hơn, minh tỏ lẫn nhau. Một số thần học gia, như Dennis Ferrara, thì đúng khi chủ trương rằng vai trò của linh mục, đúng như vai trò của vị tông đồ, phải là và phải hành động như một tôi tớ, một nô lệ của Đức Kitô. Tuy nhiên, điều những nhà thần học như ông không thấy là sự nối kết nội khởi giữa tư cách tôi tớ triệt để và sự biểu thị bí tích. Nếu chúng ta chấp nhận sự minh tỏ sau đây của Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, thì những vai trò bổ sung của hai định nghĩa trên được nên sáng sủa: ... nhóm chữ “in persona Christi” có nghĩa hơn là việc hiến dâng ‘nhân danh’ hay ‘trong cương vị’ của Đức Kitô. In persona có nghĩa là trong sự đồng nhất hóa biệt loại có tính bí tích với vị Linh mục tối cao đời đời; thật sự, Người là tác giả và chủ thể chính của hy tế này, một hy tế trong đó không ai có thể lấy chỗ của Người.[3]
Sự phục vụ này
hàm ẩn một sự lụy phục Đức Kitô cách triệt để nhất và được chấp nhận trong tự
do. Nếu linh mục chỉ là một tôi tớ được Đức Kitô ủy quyền, thì Đức Kitô có thể
không là “chủ thể chính” của hành vi bí tích, bởi lẽ chỉ mình ủy viên của Người
hiện diện mà thôi. Đang khi đó “sự đồng nhất hóa biệt loại của bí tích” có nghĩa
rằng linh mục không chỉ hành động như một sứ giả của Đức Kitô vắng diện, nhưng
linh mục tự do để cho Đức Kitô chiếm hữu những hành vi bí tích của mình theo một
cách thức đến nỗi chính Đức Kitô hành động qua linh mục. Một sự lệ thuộc như thế
vào Đức Kitô theo hữu thể học liệu không phải là thứ nô lệ triệt để nhất được tự
do chấp nhận sao? Nay chúng ta thấy nguy hiểm của sự hiểu lầm diễn ngữ, alter Christus. Linh mục không nhân bội
Đức Kitô; họ là những ‘khí cụ’ sống động và tự do của một Đức Kitô duy nhất, đấng
hiện diện như “chủ thể chính của những hành động của họ.” Vậy sự chấp nhận hiện
sinh này sẽ dẫn tới một nỗ lực có ý thức về phía linh mục để Đức Kitô sống và
chiếu sáng qua con người và đời sống hằng ngày của linh mục; đàng khác, linh mục
phải chống lại cám dỗ liên lỷ là lẫn lộn chính mình với con người Đức Kitô.[4]
Thánh Bênađô thuật lại câu chuyện về con ngựa chở vị hoàng tử. Con ngựa nghĩ rằng
tất cả danh dự và tung hô được nhắm đến mình. Bênađô viết, vị giám mục hay linh
mục nào nghĩ rằng sự kinh ngạc và kính trọng được nhắm đến cá nhân mình hơn là
đến Đức Kitô, Đấng mà họ biểu thị (đại diện) đúng là một kẻ ngu ngốc như thế
đó. Thực vậy, một kinh nghiệm buồn thảm là thấy một linh mục buộc mình phải
đóng vai mà đòi họ phải trở thành một kẻ giả hình. Nói cách khác, họ cảm thấy họ
có bổn phận phải tỏ ra thánh thiện, và thực thế [phải tỏ ra] thánh thiện hơn họ
thực sự là thế.
Một vị linh hướng
khôn ngoan thích lặp lại cho các chủng sinh của mình: “Mỗi ngày, con hãy quỳ gối
trước chức linh mục của con.” Khi hôn kính dây Stola, con hãy nghĩ đến lời
khuyên này. Chúng ta phải học để sống sự nghịch lý này: sự thông phần của chúng
ta vào tư cách linh mục của Đức Kitô phải biến đổi và xác định toàn bộ cuộc sống
cá nhân chúng ta, đồng thời, nuôi dưỡng nơi chúng ta ý thức rằng chức linh mục
của chúng ta mãi mãi vẫn là một tặng phẩm không cân xứng mà chúng ta nhận được
để phục vụ kẻ khác. Bênađô so sánh vai trò của linh mục với vai trò của Gioan Tẩy
giả. Gioan Tẩy giả đi trước Đức Kitô để chuẩn bị đường cho Người, và thời khắc
vĩ đại nhất trong đời ông là hướng tới Đức Kitô: “Đây Chiên Thiên Chúa, đấng
xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1:29). Gioan là người mai mối Chúa sai tới. Niềm vui
của Gioan hoàn thành khi ông nghe chàng rể, Đấng đã tìm thấy hiền thê tinh tuyền
của mình, vui vẻ lên tiếng. Ông phải nhỏ đi, nhưng Đức Kitô phải lớn lên. Theo
Bênađô, ơn gọi của linh mục cũng tương tự. Linh mục dẫn các linh hồn đến với Đức
Kitô, và hân hoan vì Đức Kitô và các tâm hồn mật thiết gặp gỡ nhau, hơn là đặt
mình vào giữa họ.
Vậy, chức linh mục
thừa tác phục vụ cho chức linh mục của các tín hữu. Chúng ta làm cho dân chúng
có thể nhận biết và khích động chức linh mục của họ bằng cách thanh tẩy họ,
nuôi dưỡng đức tin của họ, và làm cho hy tế vĩnh cửu của Đức Kitô hiện diện cho
họ, hầu nhờ Người, với Người và trong Người, các linh mục thừa tác chúng ta và
dân tư tế của Thiên Chúa có thể dâng lên Chúa Cha chính Đức Kitô cũng như chính
chúng ta. Thánh Phaolô cũng diễn tả ơn gọi tư tế của mình bằng những hạn từ
này: “Thật thế, vì anh em, tôi ghen cái ghen của Thiên Chúa, bởi tôi đã đính
hôn anh em với một người độc nhất là Đức Kitô, để tiến dâng anh em cho Người
như một trinh nữ thanh khiết.” (2 Cr 11, 2).
6. NGƯỜI CHA VÀ NGƯỜI MẸ CỦA CÁC TÍN HỮU
Hai trong những lời
cuối cùng của Chúa chịu đóng đinh được ngỏ cho mẹ Người, và cho môn đệ được
thương mến: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” và cho người môn đệ, “Đây là mẹ của
anh.” Và thánh sử ghi nhận, “Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình.”
(Ga 19, 26–27). Ratzinger cho thấy rằng Tin Mừng Gioan trình bày những lời của
Đức Giêsu theo một cách thức đến nỗi khuyến khích chúng ta đào sâu ý nghĩa của
nó hơn nữa. Ngài ý thức về câu nói của thánh Augustinô: “Mọi lời của Ngôi Lời đầy
mầu nhiệm.” Ở đây người môn đệ biểu thị tất cả tín hữu, nhưng cũng biểu thị các
tông đồ, và tất cả những người giữ những chức vụ trong Giáo Hội sau này. Và
Gioan không nói từng chữ rằng môn đệ ấy nhận bà vào trong nhà mình, nhưng vào
trong chính mình: eis ta idia. Nói
cách khác, thánh sử muốn nói: vào trong chính đời sống cá nhân của mình, vào
trong những công việc và cố gắng, vào trong cõi lòng mình. Theo Ratzinger, những
lời này khích lệ tất cả các giám mục và linh mục đưa Mẹ Thiên Chúa, Nữ trinh
Maria vào trong đời sống và hoạt động của mình. Những kết quả của việc Đức
Maria hiện diện trong đời sống Gioan rõ ràng được phản ánh trong Tin Mừng của
ông. Gioan diễn tả những mầu nhiệm của Đức Giêsu – đời sống bên trong của Người,
mối liên hệ của Người với Cha, và tình yêu Người dành cho chúng ta – tuyệt hơn
bất kỳ Tin Mừng nào. Đây là một lời mời cho tất cả các Kitô hữu, nhưng cách
riêng cho giám mục và linh mục, để nhận mẹ Thiên Chúa vào trong đời sống và tác
vụ của chính mình.[5]
Chúng ta phải là những người cha đối với dân như Phaolô: “Thật thế, cho dầu anh
em có ngàn vạn giám thị trong Đức Kitô, anh em cũng không có nhiều cha đâu, bởi
vì trong Đức Kitô Giêsu, nhờ Tin Mừng, chính tôi đã sinh ra anh em” (1 Cr 4,
15). Nhưng chúng ta cũng là những người mẹ, nếu chúng ta thông phần vào trái
tim của Mẹ Thiên Chúa và của Giáo Hội. Chúng ta phải biết rằng thánh Phaolô,
luôn thật hiền phụ, nhưng ngài cũng hiểu mình là người mẹ của các tín hữu: “Hỡi
anh em, những người con bé nhỏ của tôi, mà tôi phải quặn đau sinh ra một lần nữa
cho đến khi Đức Kitô được thành hình nơi anh em,” (Gl 4, 19). Nếu chúng ta mời
Đức Maria vào lòng chúng ta, mẹ sẽ mang chúng ta đến gần Con ngài hơn; mẹ sẽ dẫn
chúng ta vào trong lòng của ngài; và như vậy, chúng ta sẽ biết lúc nào dùng đến
tâm hồn hiền hậu với những người được trao phó cho chúng ta coi sóc. Nhưng
chúng ta cũng biết khi nào – bắt chước Phaolô – dùng uy quyền, exousia của Đức Kitô, mà đối với Phaolô
bao gồm việc khiển trách và tuyệt thông khỏi Giáo Hội.
7. KINH NGUYỆN CỦA LINH MỤC
Như đời sống của
các giáo hoàng này – từ chân phước Piô IX đến Bênêđictô XVI – cho thấy, cầu
nguyện là phương thế đệ nhất và hiệu quả nhất trong sự phục vụ của linh mục.[6] Mặc
dù gánh nặng công việc bề bộn, những giáo hoàng này trung thành cầu nguyện thần
vụ và lần hạt; họ cũng tìm nhiều giờ để cầu nguyện cá nhân. Nếu họ có thể tìm
giờ cho cầu nguyện và học hỏi cá nhân, làm thế nào chúng ta có thể đáng tin khi
nói: “Xin lỗi, tôi yêu thích cầu nguyện, nhưng tôi không có giờ cầu nguyện”? Nếu
cầu nguyện cá nhân – trong hình thức nguyện ngắm, sách thiêng liêng và thờ lạy
Bí tích cực trọng – mất khỏi một đời sống linh mục, thì việc cử hành thánh lễ,
các bí tích, và đọc thần vụ trở thành chỉ là những bổn phận trong một thói quen
không sức sống, thường dẫn đến một khủng hoảng thực sự trong ơn gọi chúng ta.
Linh mục bắt đầu chạy khỏi chính mình, chìm ngập trong hoạt động sôi nổi. Trong
nhiều trường hợp, hoạt động này có thể là công việc mục vụ hữu ích, nhưng rốt cục
linh mục sẽ bị kiệt lực, hay có thể rơi vào nghiện ngập, hay một hình thức nào
đó của sự vô luân tính dục.
Trong các thư của
mình, thánh Phaolô nói cho các độc giả rằng ngài liên lỷ cầu nguyện cho họ,
luôn xuất hiện trước Thiên Chúa, bị chất chồng bởi “nỗi ray rứt hằng ngày của
tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh!” (2 Cr 11, 28) Chúng ta linh mục
phải ra trước nhan Thiên Chúa, mang theo chúng ta tất cả những người được trao
cho chúng ta coi sóc. Chúng ta hãy dâng tất cả những kinh nguyện, hoạt động và
đau khổ cho dân. Ngay cả khi chúng ta nói với Thiên Chúa về những ước ao mật
thiết nhất hay những vấn đề, các tín hữu phải hiện diện ở sau tâm trí chúng ta.
Tôi có thể là “người sống vì người khác” chỉ theo mức độ tôi là “người của
Thiên Chúa.”
Khi chủng sinh
chuẩn bị cho chức linh mục, họ sẽ chịu nhiều cám dỗ; họ phải chấp nhận nhiều cuộc
đấu tranh, những cuộc đấu tranh với vâng phục, và để thủ đắc được những thói
quen học tập, sự trong sạch và khiêm nhường. Vào những lúc như thế, họ hãy ý thức
rằng họ chiến đấu và chịu khổ, không chỉ vì chính mình, nhưng cả vì tất cả những
người được trao phó cho họ chăm sóc mục vụ. Nếu họ vượt thắng các cám dỗ, họ có
thể làm chứng cách khả tín rằng ơn Thiên Chúa thì mạnh mẽ trong sự yếu đuối của
chúng ta. Nếu họ thua, họ sẽ mất đi sự khả tín. Chúng ta có thể khuyến khích giới
trẻ xây dựng một tính cách Kitô hữu cách hiệu quả nếu, trước khi lắng nghe những
lời của chúng ta, họ thấy tính cách ấy trong đời sống chúng ta. Chúng ta phải
có thể nói cho các thanh thiếu niên tuổi ‘teen’ rằng quyền năng của Đức Kitô
thì mạnh mẽ hơn những con thú hoang của đam mê, giận dữ trong cõi lòng chúng. Họ
có thể xiềng xích những con thú đó, và sau này, thậm chí thuần thục chúng, tới
độ họ có thể dùng những năng lực được thăng hoa cho những mục đích của Thiên
Chúa.
8. THÀNH CÔNG VÀ THẤT BẠI TRONG ĐỜI SỐNG LINH MỤC
Những gương lành
của Đức Kitô, và của các thánh, có thể dạy chúng ta cách hiệu quả về sự thành
công và thất bại trong đời sống linh mục chúng ta. Đức Giêsu được sai vào cuộc
sống trần gian chỉ dành cho Israel, nhưng Người thất bại để hoán cải chính dân
Người. Đúng hơn, Người khuấy động lên sự giận dữ của giới cai trị. Họ đã giết
Người cách ô nhục nhất – một hình phạt dành cho nô lệ. Thậm chí sau phục sinh
và được đổ Thần khí, các tông đồ đã không mấy thành công trong sứ mệnh của họ đối
với phần lớn của Israel. Khi Phêrô và Phaolô bị hành quyết ở Roma, dường như rất
có thể rằng Kitô giáo sẽ bị hoàng đế Nêrô bứng rễ, và bị các lạc giáo đang lan
rộng làm hư thối. Tuy nhiên, trong hai thế kỷ, Kitô giáo trở thành một lực lượng
thống trị trong đế quốc Rôma. Giáo Hội luôn thắng bằng cách bị mất; giống như Đức
Giêsu đi vào trong vinh quang qua sự thất bại của thập giá. Ngay cả Đức giáo
hoàng Gioan Phaolô II lực sĩ và cường tráng kết thúc như một người bệnh tật
không có hiệu năng. Hãy nghĩ đến bức tranh cuối cùng được thiên hạ biết đến rộng
rãi, trong đó đức Gioan Phaolô II đứng ở cửa sổ của khu giáo hoàng vào Chúa Nhật
Phục sinh 2005 không thể thốt ra một lời ban phép lành. Tuy nhiên, trong đau khổ
của mình, Đức Gioan Phaolô lại hiệu quả hơn cả trong những lúc khỏe mạnh. Quyền
năng của Thiên Chúa được tỏ lộ khi kẻ yếu được làm nên mạnh mẽ; khi kẻ chết được
phục sinh. Vì thế, tại sao chúng ta phải kỳ vọng hậu quả khác cho chính mình?
Có lẽ chúng ta là những gương sáng về khiêm nhường và bác ái khi chúng ta ốm
đau và yếu đuối, tốt hơn ngay cả khi chúng ta giảng những bài giảng hay nhất.
Công việc của
chúng ta là từng bước thực thi kế hoạch của Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta.
Chúng ta phải cố gắng bao nhiêu có thể để là những tôi tớ trung thành nhất của
Đức Kitô. Nhưng chúng ta đừng bao giờ cố gắng đo lường sự thành công của tác vụ
chúng ta. Chúng ta phải đặt kết quả trong tay Thiên Chúa.
9. LỜI KÊU GỌI TÂN PHÚC ÂM HÓA TRONG THẾ GIỚI MỚI CHÚNG TA ĐANG ĐỐI DIỆN
Chúng ta được gọi
để tân Phúc âm hóa, bởi vì thế giới đương thời, vốn đang sinh ra trước mắt
chúng ta, đòi hỏi một sự lượng giá mới về tình trạng mới. Chúng ta phải đọc “những
dấu chỉ thời đại”, dùng những năng lực mới, những vị thánh mới, những trực giác
mới và những lời mới – tối hậu một lễ Ngũ Tuần mới – để công bố Đức Giêsu Kitô
theo một cách thức chạm tới tâm hồn các tín hữu, cũng như những người không
tin.
Chúng ta đọc bất
cứ tin tức nào, một trong những chữ thường xuyên nhất chúng ta gặp là “toàn cầu
hóa”: viễn cảnh toàn cầu, khủng hoảng kinh tế toàn cầu, cảnh báo toàn cầu, thị
trường toàn cầu, mạng toàn cầu, các phương tiện toàn cầu, v.v. Càng trở nên
toàn cầu, chúng ta càng đối diện với nguy hiểm toàn cầu là một cuộc thảm sát
nguyên tử. Nhưng, ngay cả bây giờ, chúng ta thấy những cuộc chiến tranh và nổi
dậy địa phương, những hoạt động khủng bố vốn gởi đi những làn sóng di dân toàn
cầu, tìm kiếm sự an toàn và lương thực, và trên hết, một căn nhà trong một quốc
gia mới, ở đó họ có thể tìm được sự bình an tương đối.
Tuy nhiên, vẫn
thiếu mất yếu tố quan trọng nhất để thế giới được hiệp nhất; một sự duy nhất
tinh thần (thiêng liêng), có thể kiến tạo sự hài hòa và bình an trong sự đa dạng
gây hoang mang của tôn giáo, văn hóa, quốc gia và những nhóm dân tộc. Đức giáo
hoàng Bênêđictô XVI chấp nhận, và ngay cả trân trọng, sự kiện rằng các Kitô hữu,
những Kitô hữu thực hành, là một thiểu số trong thế giới. Ngài thích chỉ ra rằng
những nhóm thiểu số sáng tạo luôn luôn thay đổi thế giới. Hãy xét đến thí dụ của
Hy lạp thượng cổ. Trong thế giới thượng cổ, Hy lạp là một quốc gia nhỏ. Tuy
nhiên, văn hóa của họ chiến thắng Âu châu, và hầu như cả thế giới. Hãy nghĩ đến
Kitô giáo ở bốn thế kỷ đầu tiên. Họ là một thiểu số trong đế quốc Roma, nhưng họ
biến đổi thành một khối cộng đồng Kitô hữu, gồm có, không chỉ văn hóa Hy lạp
Roma đương thời, mà cả những bộ lạc mọi rợ đang xâm chiếm.
Mục đích trực tiếp
của các giám mục và linh mục không thể là sự biến đổi của xã hội quốc tế thành
một sự duy nhất bình an, hài hòa trong sự đa dạng. Đó là vai trò của giáo dân.
Những tác viên của Giáo Hội phải nhắm đến việc xây dựng cộng đoàn Kitô hữu,
thân mình Đức Kitô. Thánh Phaolô nói về ơn gọi của mình như một tông đồ bằng những
lời này: “làm người phục vụ Đức Giêsu Kitô giữa các dân ngoại, lo việc tế tự là
rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, để các dân ngoại được Thánh Thần thánh hoá
mà trở nên một lễ phẩm đẹp lòng Thiên Chúa.” (Rm 15, 16).
Vậy đây là ơn gọi
của linh mục: rao giảng, dạy dỗ và cử hành các bí tích, làm cho các tín hữu của
cộng đoàn mình có thể dâng chính mình như một hy tế thiêng liêng cho Thiên Chúa
– trong, và qua, và với việc tự hiến của Đức Giêsu Kitô. Ơn gọi của từng cá
nhân Kitô hữu tiên vàn là dâng hiến chính thân xác mình; ơn gọi của linh mục là
giúp toàn cộng đoàn được trao phó cho ngài coi sóc, để được nắn hình và khuôn rập
theo sự thờ phượng thiêng liêng này. Theo Tertulianô, dân ngoại trong thế kỷ thứ
hai nói về các Kitô hữu: “kìa xem họ yêu thương nhau biết bao.” Như vậy, nhiều
người trong họ tự nguyện gia nhập Giáo Hội. Đàng khác, nếu linh mục nhắm đến hoạt
động chính trị, và xem mục tiêu đầu tiên của họ là những công nhân xã hội trong
môi trường của họ, họ sẽ nên đồng hình với xã hội, và bị nuốt trôi vào những bất
đồng và chống đối. Đây là nghịch lý của ơn gọi linh mục: chỉ với điều kiện linh
mục tập trung vào việc làm cho dân chúng có thể trước hết tìm kiếm Nước Thiên
Chúa, thì dân này sẽ hành động như men trong xã hội lớn rộng hơn.
Ta cũng thấy rằng
đối nghịch giữa hai điều được gọi là “những lý tưởng linh mục” thật hời hợt biết
bao và thậm chí sai lầm nữa: linh mục cử hành bí tích và linh mục cử hành đời sống.
Nếu cử hành bí tích, nhất là Thánh Thể, không tạo động lực và không làm cho dân
chúng mạnh mẽ yêu mến và phục vụ như Đức Giêsu Kitô, thì chúng phung phí ân sủng
của các bí tích cho chính mình, Ơn sủng được ban cho chúng ta trong Thánh Thể,
nhưng tiếp nhận ơn sủng ấy thì không tự động. Nếu linh mục rao giảng, dạy dỗ và
cử hành các bí tích cách đúng đắn, và dân ngài đáp lại cách chân thành, thì cả
linh mục và cộng đoàn tìm thấy chính mình, và cũng cùng nhau, trong cái mà một
số người gọi là “đời sống thật sự” – theo sau và phục vụ những người đang tìm
chân lý, đang đau khổ và đói lương thực vật chất và thiêng liêng. Nhưng nếu
linh mục chỉ cử hành cái gọi là “đời sống thực tế” và lãng quên tác vụ bí tích
của mình, tình yêu và sự phục vụ của linh mục sẽ không khác với của một công
nhân xã hội tốt. Hãy cho tôi thêm điều này, giới hạn ơn gọi của linh mục vào
“tác vụ bí tích” thì rất nguy hiểm; điều ấy rất dễ đưa đến giới hạn vai trò của
linh mục vào phòng áo và bàn thờ, cung cấp cho ngài một lời biện hộ dễ dãi để
rút khỏi việc sinh động và là ví dụ điển hình cho sự phục vụ mà ngài phải kỳ vọng
từ dân ngài.
Đức Gioan Phaolô
II nói ngày 9 tháng 6 năm 1979 tại Mogila, Ba Lan, lần đầu tiên về “Tân Phúc âm
hóa” trong cuộc thăm viếng quê hương sau khi trở thành Giáo hoàng. Ngài ngỏ lời
cho đám đông, đứng trước nơi mà một Thánh giá mới và nhà thờ mới đã được dựng
lên do dân chúng tại đền thánh của Thánh giá (tại Nowa Huta), bất chấp nhiều
chướng vật mà chế độ cộng sản đã dựng lên để ngăn cản nó. Thực thế, chính vị hồng
y Wojtyla kỳ đó đã dẫn cuộc chiến vốn đưa đến Thánh giá mới và nhà thờ mới. Hãy
cho tôi trích dẫn từ bài giảng của ngài:
Không xa mấy từ
chỗ này, Thánh giá mới bằng gỗ được dựng lên vào chính lúc chúng ta đang cử
hành Niên kỷ (của Ba Lan). Với Thánh giá ấy, chúng ta được ban một dấu chỉ rằng,
trước ngưỡng cửa của thiên niên kỷ mới, trong những thời đại mới này, những điều
kiện mới của cuộc sống, Tin Mừng lại được công bố. Việc ‘tân Phúc âm hóa’ bắt đầu,
như thể nó là một sự công bố mới, mặc dù trong thực tế nó là như nhau mãi mãi.
Thập giá đứng cao trên thế giới đang xoay chuyển.
Khung cảnh thật
biểu tượng. Đức Gioan Phaolô công bố phải tân Phúc âm hóa giữa một hệ thống
chính quyền vô thần thù nghịch, muốn nhắm loại bỏ Kitô giáo. Ngài cho dân Ba
lan thấy sự nối kết nhất thiết giữa Tin Mừng và nhân tính của con người, tương
lai của Ba lan, và tương lai của thế giới. Hãy loại bỏ thập giá, và bạn sẽ loại
đi sự xứng đáng và phẩm giá của con người và bạn lấy đi khỏi Ba lan cái hồn của
Ba lan. Sự nối kết bất khả tránh né này giữa đức tin và thuyết nhân bản chân thật,
sẽ là chính trung tâm của việc rao giảng và viết lách của ngài suốt 24 năm trên
ngai tòa Phêrô, trước tiên là ngài đối kháng chủ thuyết cộng sản, và sau khi sự
sụp đổ của nó, đối kháng chủ thuyết tư bản tự do xả láng. Không có Thiên Chúa,
nhân tính của con người bị che khuất, và con người bị co rút vào người hữu ích
hay vô ích giữ một nhiệm vụ bình thường của những mãnh lực duy lợi.
Tuy nhiên, ngay cả
hơn những lời của ngài, nhân cách của Đức Gioan Phaolô II nhập thể lý tưởng của
tân Phúc âm hóa. Nhân cách giầu có và trưởng thành của ngài tạo nên một ấn tượng
sâu xa và mãi mãi trên dân chúng. Nhiều người có thể không hiểu những câu văn
trừu tượng và dài dòng của ngài, nhưng họ vẫn nhiệt thành về điều họ thấy và
nghe. Đôi khi, ngài lớn tiếng và khiển trách; lúc khác, ngài ôm ấp những người
đau khổ dịu dàng như một người mẹ, đang khi luôn luôn tỏa chiếu một tình yêu và
sức mạnh nội tâm. Điều này làm những nhà lãnh đạo Ba lan co rúm lại trước ngài,
cuối cùng trở nên mềm yếu và hết tác hại, ngay cả một kẻ thù lâu đời chống Giáo
Hội, Fidel Castro. Nhân cách của ngài đồng thời phổ quát – ôm ấp tất cả những
chủng tộc khác nhau. Ngài cũng duyên dáng và đầy tình cha đến nỗi giới trẻ
Toronto, Canada, khi thấy ngài đã hô to: “ngài là cha và ông ngoại chúng con.”
Ngay cả trong tuổi già, khi bệnh Parkinson đã héo hắt khuôn mặt ngài thành một
mặt nạ nghiêm khắc, vẫn tỏa chiếu một sức mạnh trẻ trung từ con mắt của ngài vốn
rung động những trái tim của giới trẻ, qua chính lúc cuối cuộc đời. Đó không
đơn giản là một lời nói dối đạo đức, khi chúng hát vào ngày giới trẻ thế giới rằng:
“Đức giáo hoàng trẻ trung.” Khi ngài chết, khoảng 3 triệu người tuôn đến Roma,
Công giáo và không công giáo. Ngay nhiều người không công giáo cảm thấy rằng
trong cuộc hấp hối của ngài, họ đã mất đi người cha hay ông ngoại của mình.
Tôi cần phải vẽ bản
phác họa ngắn này về nhân cách của Karol Wojtyla/Giáo hoàng Gioan Phaolô II vì
điều đó minh họa rõ ràng linh mục lý tưởng của thiên niên kỷ mới phải là thế
nào, mutatis mutandis (với những thay
đổi cần thiết). Người bạn thân, nhưng rất khác biệt, của ngài và đấng kế vị
ngài, Giuse Ratzinger/giáo hoàng Bênêđictô XVI, bổ sung lý tưởng này. Ngài thiếu
những phẩm tính của một ngôi sao nhạc Rock của giáo hoàng Gioan Phaolô II, ảnh
hưởng không cưỡng được của sự hiện diện cá nhân của ngài. Nhưng, sự nồng ấm
chân thật, sự khiêm nhường và hiền dịu của Đức Bênêđictô đã chiến thắng ngay cả
một số những kẻ thù trước kia của ngài. Tuy nhiên, rất ít người biết sự biến đổi
này đã đòi hỏi ngài nhiều như thế nào – sự thay đổi từ một giáo sư đại học nhút
nhát đến một nhà truyền giáo thường xuyên di chuyển, mà nụ cười nhân hậu của
ngài muốn ôm ấp mọi người trên hành tinh chúng ta. Ngài muốn xây dựng trên gia
sản của Đức Gioan Phaolô. Ngài tiếp tục nói cần phải tân Phúc âm hóa, và mới
đây mặc dù ngài nổi tiếng chống đối bất kỳ sự gia tăng nào trong hành chánh rườm
rà của Vatican, ngài đã thiết lập “Hội đồng giáo hoàng cổ võ việc tân Phúc âm
hóa”, chọn đề tài “tân Phúc âm hóa” cho Thượng Hội đồng Giám mục tại Roma.
Giáo hoàng
Bênêđictô XVI cũng muốn nói cho hết thảy mọi người Tây phương vốn là Kitô hữu
theo lịch sử, nhắc nhớ những quốc gia này về cội rễ công giáo của họ. Tuy
nhiên, tiêu điểm của ngài dường như nhỏ hẹp hơn, hay thực tế hơn, của Gioan
Phaolô II. Ngài hy vọng xây dựng những thiểu số Kitô hữu mạnh mẽ và sáng tạo,
vì ngài thâm tín rằng những thiểu số sáng tạo luôn nắn hình văn hóa. Vào cuộc
triều yếu đầu tiên, các phóng viên đã kinh ngạc. Như một người trong họ nói:
“Thực sự chúng tôi hiểu điều ngài nói”, điều đó không là trường hợp thông thường
với Gioan Phaolô II. Nhưng, hơn thế nữa, là điều mà Bênêđictô XVI đã đạt được.
Ngài nói về những mầu nhiệm cơ bản của Kitô giáo theo một cách mới mẻ đến nỗi
những thính giả Kitô hữu uyên bác ngạc nhiên thú nhận: “cho tới nay chúng tôi
đã chưa bao giờ ý thức rằng đây là điều mà mầu nhiệm này muốn nói.”
Trong thế giới mới
của chúng ta, trong đó con số những sinh viên đại học tốt nghiệp gia tăng nhiều,
một thách đố mới hầu như không được tri nhận đang đối diện với linh mục Công
giáo hôm nay. Ngày càng nhiều hơn, người Công giáo chúng ta thiếu những vị có
tư cách lãnh đạo tri thức mà sẽ giúp họ giữ vững đức tin giữa một văn hóa ngày
một trần tục hơn. Giống như một người Tin lành có học cao có thể coi khinh những
cội rễ có tính chủ nghĩa cơ bản (fundamentalist), thì nhiều người công giáo có
học không thấy mình thoải mái trong nhiều giáo xứ. Nhiều linh mục không thể
giúp họ nối kết giữa đức tin và nền giáo dục của họ – giữa mạc khải của Thiên
Chúa và thế giới của triết học, khoa học, văn chương và nghệ thuật. Chúng ta
quên, tới một mức độ lớn, rằng Giáo Hội Công giáo, chính bởi vì là Công giáo (có sứ mệnh biến đổi mọi người và toàn đời sống của con người) đã khởi hứng và nắn hình văn hóa suốt
lịch sử của mình. Ai có thể minh chứng một cách thuyết phục các giáo dân chúng
ta rằng Giáo Hội là người cổ võ và khởi hứng học hỏi, nếu không phải là linh mục
Công giáo? Trong chính đời sống mình, một số linh mục phải tỏ ra rằng lý trí và
đức tin, sự uyên bác và căn tính Công giáo, đó là những đồng minh tự nhiên, hơn
là những kẻ thù bất cộng đái thiên. Những linh mục như thế sẽ không phải là những
thầy giáo và học giả thêm vào cho tư
cách linh mục của họ, nhưng là những linh mục thực hành và sống tư cách linh mục
của mình qua giảng dạy và công việc học
thuật. Họ không ngắt quãng một lớp toán học với những lời khuyến thiện tôn
giáo, hay dành chỗ thứ nhất trong một khóa học văn chương cho các tác giả Kitô
hữu. Đúng hơn họ có một sự kính trọng chân lý ở bất kỳ nơi đâu người ta tìm kiếm
chân lý. Bằng cách cổ xúy tri thức về chân lý, họ sẽ dẫn các sinh viên tới gần
Thiên Chúa, nguồn mạch mọi chân lý. Chỉ một sự cam kết cho tất cả chân lý và
cho chân lý vì chính chân lý, mới là
công giáo.
Lối tiếp cận phe
phái hay cục bộ hoàn toàn đối nghịch với chức linh mục. Dù công giáo hay không
công giáo, người cục bộ chỉ quan tâm đến chân lý theo mức độ nó đẩy mạnh phong
trào của mình. Quan tâm đến tôn giáo và luân lý, được hiểu theo nghĩa hẹp, linh
mục xem ra dửng dưng, hay ngay cả thù nghịch, đối với những giá trị ‘chỉ’ nhân
bản ‘suông’, như khoa học, văn chương và nghệ thuật. Nếu am hiểu, linh mục dùng
kiến thức như một vũ khí “đánh bại kẻ thù” – hoặc là vô thần, Tin lành, hay mới
đây hơn, “những nhà tư bản bóc lột.”
Vậy, đây là một
trong những thách đố lớn cho mà linh mục Công giáo chúng ta đối diện ngày nay:
cung cấp sự lãnh đạo tri thức cho việc đào luyện một giới trí thức công giáo.
Ngài phải giúp tín hữu hiểu và diễn đạt gọn ghẽ đức tin công giáo theo một cách
thức đến nỗi đức tin có ý nghĩa trong thế giới hôm nay. Ngài phải khởi hứng họ
để đánh giá, phê phán, và đào sâu đời sống tri thức của quốc gia.
Tôi viết rộng rãi
hơn về nhu cầu đối với tư cách lãnh đạo tri thức, không phải bởi vì đây là
thách đố duy nhất mà hàng giáo sĩ Công giáo đối diện ngày nay, nhưng bởi vì đây
là cái ít được tri nhận nhất, và bị lãng quên nhất. Có nhiều trách vụ khẩn cấp
khác mà tôi phải nêu lên. Hãy cho phép tôi nhắc đến một ít điều. Biết bao người
dân Việt chưa biết Đức Kitô. Chúng ta cần nghĩ ra những cách để vươn tới họ, giải
thích cho họ Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô. Chúng ta cũng phải giáo dục giới giầu
có và trung lưu Công giáo về bổn phận luân lý để giúp những người nghèo. Các
người công giáo nam nữ phải cộng tác với những người Việt nam khác trong việc
tìm ra những cách thức loại trừ nghèo khổ trong quốc gia chúng ta, giúp quê
hương đất nước chúng ta vươn lên khỏi vùng cát lún của sự nghèo khổ ngày một tồi
tệ mãi.
Một cách nghịch
lý, giáo sĩ sẽ thành công trong việc cung cấp tư cách lãnh đạo tri thức và ảnh
hưởng ý thức xã hội của dân chúng, chỉ với điều kiện họ không coi những điều
này như những trách vụ then chốt. Trung tâm của Tin Mừng là tiếng gọi của Thiên
Chúa tới sự hiệp thông vĩnh cửu của đời sống với Ngài, và với nhau, bằng cách đồng
hình với đời sống, cái chết và sự phục sinh của Con Ngài. Sự biến đổi của chúng
ta thành Đức Kitô trải rộng tới toàn thể con người. Vì thế, phải nắn hình văn
hóa và xã hội. Chúng ta thông phần vào tình yêu Đức Kitô chỉ chân thực với điều
kiện chúng ta yêu mến, không chỉ bằng lời mà cả bằng việc làm. Vì vậy, bổn phận
của chúng ta là giúp đỡ người nghèo khổ và bị áp bức. Nhưng Tin Mừng không được
bẻ cong thành một quan tâm văn hóa hay xã hội suông mà thôi. Tin Mừng có thể biến đổi thế giới chỉ bởi vì Tin Mừng gọi chúng ta vượt
quá thế giới này. Ở đây chúng ta chỉ có thể tiên hưởng và chuẩn bị cho tiệc
cưới trên trời.
10. NHỮNG GHI NHẬN KẾT LUẬN VỀ LINH ĐẠO LINH MỤC
Ở đây tôi tóm kết,
và rút ra một kết luận, mà được nói ở trên liên quan đến linh đạo linh mục. Nó
phải được dựa trên điều linh mục là gì. Ngài “được dành riêng để loan báo Tin Mừng
của Thiên Chúa.” (Rm 1, 1) hầu ngài có thể hành động theo đặc sủng ngài nhận được
trong việc thụ phong. “Bởi chúng tôi không rao giảng chính mình, mà chỉ rao giảng
Đức Kitô Giêsu là Chúa ; còn chúng tôi, chúng tôi chỉ là tôi tớ của anh em, vì
Đức Giêsu.” (2 Cr 4:5). Linh mục biểu thị cả Đức Kitô và Giáo Hội bằng cách là
tôi tớ của cả Đức Kitô lẫn Giáo Hội.
Linh mục cầu nguyện
lên Chúa Cha nhân danh Giáo Hội, trong sự kết hiệp với Đức Kitô (Thánh Thể, bí
tích giao hòa, phụng vụ giờ kinh); nhưng linh mục cũng hành động theo ngôi vị của
Đức Kitô (sự đồng nhất bí tích) loan báo những lời thánh hiến và tha thứ (xóa tội).
Trong con người của linh mục, hoạt động của Đức Kitô và của Giáo Hội, gặp gỡ và
nối kết cùng nhau.
Ngài phải sống sự
biểu thị lưỡng diện này bằng cách tự do để cho mình được Đức Kitô và Giáo Hội
chiếm đoạt, ghi nhớ rằng mình không phải là Đức Kitô, nhưng biểu thị Đức Kitô.
Như Gioan Tẩy giả linh mục phải nhỏ đi hầu Đức Kitô tăng trưởng nơi mình. Như vị
linh hướng khôn ngoan nọ đã nói: “Mỗi ngày hãy quỳ gối trước chức linh mục của
cha!”
Nếu cho phép Đức
Kitô sống và hoạt động trong mình, linh mục có thể “trương rộng” cõi lòng và ôm
ấp với chính tình yêu (từng chữ, ‘với khúc ruột’) của Đức Kitô (Pl 1: 7–8), tất
cả mọi người, cả thế giới, và tất cả cá nhân đến với linh mục để xin giúp đỡ(2
Cr 6: 11–13; 7:2–4). Như Phaolô, linh mục phải cố gắng trở thành tất cả cho mọi
người, hầu có thể cứu được một số người (1 Cr 9:22–23).
Cá nhân linh mục
phải đi vào trong những hành động bí tích mà linh mục thực hiện bằng cách làm
cho lời cầu nguyện của Giáo Hội và Đức Kitô, thành chính lời cầu nguyện của
mình. Phaolô nói cho các tín hữu ở đầu các lá thư của mình rằng ngài liên lỷ cầu
nguyện cho họ, và tạ ơn Thiên Chúa vì họ. Vì thế, linh mục phải trở thành người
của cầu nguyện vốn mang những nhu cầu của dân đến Thiên Chúa.
Như thánh Phaolô,
linh mục phải hành động như một người cha và một người mẹ đối với dân mình (1
Cr 4: 15; Gl 4:19). Nhưng khi cần thiết, linh mục phải mạnh mẽ và không thỏa hiệp,
dùng quyền năng nhận được từ Đức Kitô (2 Cr 12:19– 21; 13:10).
Linh mục sẽ kinh
nghiệm mình không thích hợp, giống như Phaolô vậy; nhưng, ngài phải tin tưởng rằng
sức mạnh của Thiên Chúa sẽ được hoàn thiện trong sự yếu đuối (2 Cr 12:7–10).
Linh mục phải cố gắng để sao cho hiệu quả, nhưng không bao giờ liều lĩnh để quyết
định tác vụ của mình hiệu quả như thế nào. Như tông đồ Phaolô, linh mục phải chấp
nhận rằng cuộc đời của mình sẽ được dâng hiến mà không có thành công hữu hình.
Khi bị tù đầy và đối diện với án tử có thể xảy ra, ngài vẫn hân hoan: “Nhưng nếu
tôi phải đổ máu ra hợp làm một với hy lễ mà anh em lấy đức tin dâng lên Chúa,
thì tôi vui mừng và cùng chia sẻ niềm vui với tất cả anh em” (Pl 2:17). Trong
thế kỷ 20, hàng ngàn linh mục bị tra tấn và giết do những chế độ Đức Quốc Xã và
cộng sản, những linh mục mà không thể nhìn thấy bất kỳ hoa quả hữu hình nào của
sự hy sinh của mình. Tuy nhiên, nhiều người trong họ cảm thấy điều mà một linh
mục ốm yếu trong nhà thương của ngục tù nói cho người khách bí mật của mình:
“hãy nói cho các anh em tôi rằng tôi hạnh phúc.” Vì vậy, cộng đoàn tôn giáo của
ngài vẫn sống, và thậm chí ban tặng sự sống cho một cơ sở mới. Năng lực và vinh
quang của Giáo Hội luôn trổ bông lại từ thập giá của Đức Kitô.
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 77 (tháng 7
& 8 năm 2013)
[1] Diễn từ này được nói đầu
tiên cho cộng đoàn chủng viện Kenrick– Glennon tại Rigali Center in Saint
Louis, Missouri, như Kenrick Lecture hàng năm vào tháng Mười, 2011.
[2] Yves Congar, Gospel Priesthood (New York: Herder
& Herder, 1967); André Feuillet, The Priesthood
of Christ and His Ministers (Garden City: Doubleday, 1975); Albert Vanhoye,
Old Testament Priests and the New Priest (Petersham,
MS: St. Bede’s Publications, 1986).
[3] Pope John Paul II, Tông thư
về Mầu nhiệm và sự Thờ phượng Thánh Thể (Dominicae
Cenae; 24 February 1980) 8, được trích dẫn trong Thông điệp về Thánh Thể và
mối liên hệ của Thánh Thể với Giáo Hội (Ecclesia
de Eucharistia; 17 April 2003) 29. Ở đây Đức giáo hoàng minh định ý nghĩa
thường bị hiểu sai về sự đồng nhất hóa phổ biến của linh mục thừa tác với vị
Thượng tế Giêsu Kitô (“Người đang cử hành bằng một cách riêng biệt và bí tích
hoàn toàn là như nhau với “vị Linh mục cao cả và vĩnh cửu”) của lá thư Sacerdotium ministeriale của Bộ Giáo lý
Đức tin (6 August 1983) 4, trong AAS 75 (1983), 1001–1009, at 1006. Nhóm chữ
“hoàn toàn như nhau” phải được hiểu theo nghĩa của “sự đồng nhất hóa biệt loại
của bí tích.” Cũng x. Bộ giáo lý đức tin, tuyên ngôn về sự chấp nhận phụ nữ vào
tư cách linh mục thừa tác (Inter
insigniores; 15 October 1976), trong AAS 69 (1977) 98–116, ở 112–113. Hãy
xem lời phê bình những tài liệu này do Robert Daly, người dựa trên sự nghiên cứu
của Edward Kilmartin: R. J. Daly, “Robert Bellarmine and Post–Tridentine
Eucharistic Theology,” Theological Studies
61 (2000) 239–260, at 240; and E. J. Kilmartin, The Eucharist in the West: History and Theology, ed. R.J. Daly
(Collegeville: Liturgical Press, 1998) 384. Mặc dù lời phê bình của mình,
Kilmartin (pp. 375–376) cũng chấp nhận rằng theo một nghĩa nào đó, linh mục cử
hành biểu thị Đức Kitô.
[4] Cf. D. Ferrara, “In Persona Christi: Sự biểu thị của Đức
Kitô hay Tôi tớ của sự hiện diện của Đức Kitô,” CTSA Proceedings 50 (1995) 138–145.
[5] Hans Urs von Balthasar and
Joseph Ratzinger, Mary, the Church at the
Source (San Francisco: Ignatius, 2005), 56–59.
[6] X., Roch Kereszty, “Prayer
in the Life of the Priest,” Communio 26
(2009) 607–622.