Tác động của chủ nghĩa tương đối trên giới trẻ
TÁC ĐỘNG CỦA CHỦ NGHĨA TƯƠNG ĐỐI TRÊN GIỚI
TRẺ
Thiên Triệu
WHĐ (2.8.2020) -
“Sự độc tài của chủ nghĩa tương đối” là cụm từ gắn liền với Đức Bênêđictô XVI,
vị giáo hoàng kêu gọi Giáo Hội phải cảnh giác và chống lại chủ nghĩa tương đối
vì những tác động tai hại của nó trên mọi lãnh vực của đời sống con người và xã
hội. Cùng một nhận định, trong tông huấn Evangelii
Gaudium, Đức giáo hoàng Phanxicô viết: “Tiến trình tục hóa đã đẩy đức tin
và Giáo Hội vào lãnh vực cá nhân riêng tư và thầm kín. Hơn nữa, với việc phủ nhận
tất cả chiều kích siêu việt, nó tạo ra những sai lệch về mặt đạo đức, làm suy yếu
ý nghĩa về tội cá nhân và xã hội, âm thầm đẩy mạnh chủ nghĩa tương đối, đưa đến
việc mất định hướng nói chung, đặc biệt là trong giai đoạn vị thành niên và tuổi
trẻ, là nhóm người rất dễ bị chao đảo trước những thay đổi như thế” (số 64).
Vậy, chủ nghĩa
tương đối là gì? Tại sao nó gây tác hại cho đời sống con người, cách riêng là
giới trẻ? Giáo Hội có thể làm gì trước những tác hại này? Đây là những câu hỏi
mà bài viết này quan tâm nghiên cứu và gợi ý suy nghĩ.
1. TỪ NGỮ VÀ LỊCH SỬ
Theo Từ điển
Webster, “chủ nghĩa tương đối” có hai nghĩa.
Một là “lý thuyết
cho rằng nhận thức có tính tương đối do bản chất giới hạn của tâm trí và do những
điều kiện nhận thức”. Hai là quan điểm cho rằng “những chân lý về mặt đạo đức
tùy thuộc vào các cá nhân và các nhóm tuân giữ”. Nói cách khác, không có chân
lý phổ quát, chỉ có những chân lý khác nhau. Thế nên Simon Blackburn, giáo sư
Triết học tại đại học Cambridge, giải thích chủ nghĩa tương đối là “những ý kiến
khác nhau, không có quyền bính độc nhất, có bao nhiêu dân tộc, xã hội, văn hóa,
thì có bấy nhiêu ‘chân lý’.
Chủ nghĩa tương đối
không phải là điều tự nhiên từ trời rơi xuống, nhưng có thể tìm về gốc gác
trong triết học Hi Lạp từ thế kỷ V trước Công nguyên. Protagoras (490–420 B.C.)
được coi như tiếng nói chính thức đầu tiên về chủ nghĩa tương đối khi ông tuyên
bố, “Con người là thước đo mọi sự”. Trước Protagoras còn có Heraclites với chủ
trương “mọi sự đều thay đổi”, không ai tắm hai lần trên cùng một dòng sông, do
đó chẳng có gì là tuyệt đối.
Đến thời Trung Cổ,
William Ockham (thế kỷ 14) đặt nền móng cho chủ thuyết Duy danh (Nomenalism),
không nhìn nhận các phổ hữu, chỉ nhìn nhận sự hiện hữu của cái đặc thù, những
cá thể sự vật. Sự tương tự giữa các sự vật không còn được coi như đặc tính
chung về bản tính, do đó những ý niệm, luật lệ, ý tưởng trừu tượng và phổ quát
chỉ là “tên gọi” hoặc những hình ảnh trong tâm trí.
Trong thời đại
ngày nay, có thể thấy phản ánh của chủ thuyết duy danh nơi lý thuyết được gọi
là Đạo đức hoàn cảnh (Situation
Ethics). Người ta cho rằng tình yêu là nguyên lý chính yếu trong mọi quyết định
luân lý. Có thể xem đây là một nỗ lực giữ thế trung dung giữa một bên là nền
luân lý xây dựng trên những mệnh lệnh tuyệt đối (và bị coi là duy lề luật), còn
một bên là lối sống phóng túng, chẳng có lề luật hay nguyên tắc nào hướng dẫn cả.
Thế nhưng vấn đề ở đây là “nguyên lý tình yêu” cũng dễ trở thành nguyên lý thực
dụng, nghĩa là nhằm đem lại những điều tốt nhất cho nhiều người nhất. Nghe thì
rất hay, nhưng liệu có nguy cơ “lấy mục đích để biện minh cho phương tiện”
không? Đề cao tình yêu mà không có nội dung đạo đức cụ thể sẽ dẫn đến những chọn
lựa luân lý tùy theo sở thích mỗi cá nhân.
2. NHỮNG LOẠI HÌNH CỦA CHỦ NGHĨA TƯƠNG ĐỐI
Chủ nghĩa tương đối
xuất hiện dưới nhiều hình thức:
a) Tương đối về
thẩm mỹ: Quan điểm triết học cho rằng phán đoán về cái đẹp tùy thuộc vào các cá
nhân, nền văn hóa, thời đại, bối cảnh, do đó không có những tiêu chuẩn phổ quát
cho cái đẹp. Một tác phẩm nghệ thuật hoặc điêu khắc có thể được người này cho
là đẹp nhưng người khác thì không.
b) Tương đối về
nhận thức: Mọi chân lý đều là tương đối. Không có hệ thống chân lý nào vững chắc
hơn hệ thống kia, cũng chẳng có những chuẩn mực khách quan về chân lý. Hệ quả
là chẳng có Thiên Chúa của chân lý tuyệt đối, cũng không chấp nhận niềm tin cho
rằng lý trí có thể khám phá chân lý tuyệt đối.
c) Tương đối và
duy chủ thể (Subjectivism): Mỗi cá nhân hoặc chủ thể (cùng với cảm giác, ý tưởng,
thái độ, cảm xúc, niềm tin của họ) chiếm vị thế ưu tiên trong trật tự thế giới
cũng như trong nhận thức về thế giới.
Các học giả ngày
nay thường nói đến bốn trường phái tư tưởng liên quan đến chủ nghĩa tương đối:
tương đối văn hóa, tương đối nhận thức, tương đối về cấu trúc xã hội, và tương
đối hậu hiện đại.
- Tương đối văn
hóa: Các nhóm ngôn ngữ và văn hóa khác nhau có thể có những quan điểm nền tảng
khác nhau, dẫn đến vũ trụ quan khác nhau. Không có nền văn hóa nào cao hơn, mọi
nền văn hóa đều bình đẳng.
- Tương đối nhận
thức: Quan điểm về hữu thể luận tùy thuộc vào những khung nhận thức và những phạm
trù khác nhau.
- Tương đối về cấu
trúc xã hội: Những lực khác nhau trong cấu trúc xã hội dẫn đến việc hình thành
những từ ngữ và quan điểm khác nhau.
- Tương đối hậu
hiện đại: Không chấp nhận khách thể tính, khước từ những ý niệm phổ quát cũng
như chân lý phổ quát. Có lẽ đây là lãnh vực mà Giáo Hội phải quan tâm nhiều nhất.
3. ĐẶT VẤN ĐỀ VỚI CHỦ NGHĨA TƯƠNG ĐỐI
Ngay từ đầu, bài
viết này đã nhắc tới cụm từ “sự độc tài của chủ nghĩa tương đối”. Để diễn tả đầy
đủ hơn, cần đọc lại nguyên văn bài giảng của Hồng y Joseph Ratzinger trong
Thánh Lễ khai mạc Mật nghị bầu giáo hoàng: “Ngày nay, việc có một đức tin rõ
ràng dựa trên Kinh Tin Kính của Hội Thánh lại thường bị dán nhãn hiệu là bảo thủ.
Đang khi đó, chủ nghĩa tương đối, nghĩa là để mình “bị sóng đánh trôi dạt theo
mọi chiều gió đạo lý” (x. Ep 4,14) xem ra lại được coi là thái độ phù hợp nhất
với thời đại. Người ta đang xây dựng thứ độc tài của chủ nghĩa tương đối vốn
không nhìn nhận bất cứ điều gì là vững vàng, và mục đích tối hậu của nó chỉ là
cái tôi và ước muốn ích kỷ của bản thân”.
Trong một dịp
khác, khi bàn đến “Nền tảng nhân học của gia đình”, Đức Bênêđictô XVI nói rõ
hơn: “Ngày nay, có một lực cản đặc biệt đáng ngại trong việc giáo dục, đó là sự
hiện diện rộng khắp của chủ nghĩa tương đối trong xã hội và văn hóa. Chủ nghĩa
này không nhìn nhận điều gì là vững vàng, cuối cùng tiêu chuẩn tối thượng duy
nhất là cái tôi và những ước muốn của nó. Và ẩn dưới dáng vẻ của tự do, nó lại
biến thành ngục thất cho mỗi người vì nó ngăn cách con người với nhau, khóa chặt
mỗi người trong cái tôi ích kỷ của mình”.
Như thế, chủ
nghĩa tương đối không chỉ là vấn nạn riêng cho Giáo Hội Công giáo nhưng còn là
vấn nạn chung cho cả xã hội và văn hóa. Bản chất độc tài của chủ nghĩa tương đối
là ở chỗ nó chỉ chấp nhận quan điểm cho rằng mọi chọn lựa chủ quan của mỗi người
đều có giá trị như nhau; do đó kẻ nào chủ trương có những chân lý và thiện hảo
khách quan... thì bị coi là thiếu khoan dung!
Quan điểm này chắc
chắn sẽ gây tác hại khôn lường về mặt đạo đức. Một người chủ trương tương đối về
mặt luân lý sẽ định nghĩa luân lý là cái gì mang tính cá nhân, chủ quan, có thể
thay đổi. Luân lý mang tính chủ quan và phải tôn trọng tự do của mỗi cá nhân.
Do đó, cái được gọi là những chuẩn mực khách quan trong đời sống luân lý sẽ bị
coi là sự áp đặt từ trên xuống mỗi cá nhân, gây ra mặc cảm tội lỗi cho người
ta... và như thế, đương nhiên là sai và không thể chấp nhận.
Thế nhưng, khẳng
định “Mọi chân lý đều là tương đối” có hợp lý không? Nếu khẳng định mọi chân lý
đều tương đối, thì ngay cả khẳng định đó “Mọi chân lý đều tương đối” cũng không
thể là tuyệt đối, nhưng chỉ có tính tương đối! Nếu cho rằng chúng ta chỉ có thể
thấy những khía cạnh khác nhau của cùng một thực tại (chứ không phải chính thực
tại), vậy giả như những cái nhìn đó mâu thuẫn nhau thì liệu chúng ta có thể tin
vào nhận thức của mình không? Hai tác giả Francis J. Beckwith và Gregory Koukl,
trong cuốn Relativism: Feet Firmly
Planted in Mid–Air (1998) đưa ra bảy sai lầm lớn của chủ nghĩa tương đối:
a) ”Người chủ
trương tương đối không thể kết tội người khác làm sai”. Vì không có điều được
nhìn nhận là chân lý khách quan, nên bạn không thể kết luận người khác làm sai,
bởi lẽ không có chuyện làm sai, mỗi người đều làm đúng theo chuẩn mực cá nhân của
họ. Phải có một chuẩn mực luân lý chung thì mới có thể nói người này làm sai,
người kia làm đúng. Còn nếu chỉ là chân lý chủ quan thì chúng ta không thể nói
người khác là sai.
b) ”Người chủ
trương tương đối không thể than phiền về vấn đề sự dữ”. Vì không có chân lý
khách quan nên sự dữ cũng không hiện hữu. Tại sao? Trong một thế giới theo chủ
nghĩa tương đối, ý niệm về “sai, trái” không hiện hữu, do đó cũng không thể coi
sự dữ là “sai, trái”. Người chủ trương tương đối đơn giản là phải chấp nhận sự
dữ như là chân lý chủ quan của người khác, chứ không phải là cái gì sai trái.
c) ”Người chủ
trương tương đối không thể nguyền rủa, cũng không thể ca tụng ai”. Vì không có
chuẩn mực khách quan cho cái đúng và cái sai, nên cũng không có chuẩn mực để
đánh giá tốt hay xấu, ca tụng hay nguyền rủa.
d) ”Người chủ
trương tương đối không thể nói đến bất công hay bất toàn”. Vì không có chuẩn mực
cho cái đúng hay sai, nên cũng không có chuyện bất công hay bất toàn. Trong một
nền văn hóa chủ trương mọi sự là tương đối, cái gọi là “bất công” đơn giản chỉ
là người khác hành động theo chân lý chủ quan của họ. Hành động đó có thể gây
ra “bất công” cho người khác, nhưng lại là điều đúng và tốt theo chân lý chủ
quan của họ.
e) ”Người chủ
trương tương đối không thể tiến triển về mặt đạo đức”. Vì không có chuẩn mực
cho cái đúng và cái sai, tốt và xấu, nên làm sao có sự tiến triển từ cái sai đến
cái đúng, từ cái xấu đến cái tốt? Phải có chuẩn mực khách quan để đánh giá thì
mới có thăng tiến.
f) ”Người chủ
trương tương đối không thể bàn chuyện luân lý cách nghiêm túc”. Vì cho rằng
luân lý tính là chủ quan, tùy vào mỗi cá nhân, nên không thể nào bàn đến chuyện
đạo đức vì mỗi người chủ trương khác nhau. Điều được cho là đúng với người này
không hẳn đã là đúng với người kia.
g) ”Người chủ
trương tương đối cũng không thể nói đến sự khoan dung”. Không có chuẩn mực cho
cái đúng, sai, nên không ai đúng và cũng chẳng ai sai. Như thế, làm gì có cái
gọi là khoan dung.
4. TÁC ĐỘNG CỦA CHỦ NGHĨA TƯƠNG ĐỐI TRÊN GIỚI TRẺ
Thật khó để đo lường
tác động của chủ nghĩa tương đối trên giới trẻ. Không có thống kê hoặc dữ liệu
để có thể khẳng định những tác động tiêu cực hoặc tích cực của chủ nghĩa tương
đối trên giới trẻ. Chỉ có thể dựa vào những tiếp cận thường ngày và kinh nghiệm
mục vụ để nói rằng tác động này rất tinh tế và điều đáng quan tâm hơn cả là tác
động của chủ trương tương đối về đạo đức. Một số người nghĩ rằng chủ trương
tương đối về mặt đạo đức đem lại ích lợi là giúp phát triển sự đa dạng văn hóa
và thực hành đạo đức, đồng thời làm cho người ta thích nghi tốt hơn khi nhận thức
và kỹ thuật thay đổi trong xã hội. Dù có một vài mặt tích cực thì trong thực tế,
nền văn hóa với chủ trương tương đối đang đặt ra cho Giáo Hội nhiều thách đố
đáng quan ngại. Ở đây xin nói đến năm lãnh vực liên quan đến tác động của chủ
trương tương đối về mặt đạo đức.
a) Kiếm tìm sự độc
lập
Chủ trương tương
đối tác động trên cách nghĩ và cách sống của người trẻ rất tinh tế khiến chính
họ cũng không ý thức. Cách tổng quát, có những nghiên cứu cho thấy nền văn hóa
trong thời đại chúng ta cho rằng chân lý chỉ có tính tương đối. Ai cũng có lập
trường của mình và điều buồn cười là ai cũng cho rằng chỉ có mình là đúng. Đối
với người trẻ, tìm kiếm sự độc lập là thành phần trong tiến trình tăng trưởng.
Từ tuổi thiếu niên phải sống lệ thuộc bước sang tuổi teen muốn sống độc lập,
người trẻ luôn đi tìm căn tính của mình. Sự tìm kiếm này song hành với nhu cầu
khẳng định bản thân trong xã hội. Do đó, sự khẳng định tính độc lập này dẫn người
trẻ đến chủ trương tương đối. Chẳng hạn một bạn trẻ có thể cảm thấy cách để khẳng
định bản thân là nhấn mạnh lập trường của mình. Cho dù lập trường của bạn đó có
phần hợp lý, nhưng thái độ này có thể dẫn người trẻ đến chỗ không dễ dàng đón
nhận chân lý khách quan.
b) Sự khoan dung
Một vài tác giả
cho rằng “khoan dung” cũng có thể là một trong những nguyên cớ góp phần củng cố
chủ nghĩa tương đối. Đôi khi sự khoan dung có thể ảnh hưởng đến tính khách quan
của chân lý. Chúng ta dạy người trẻ phải tôn trọng, đón nhận, không đối đầu...là
đúng, nhưng điều này cũng có thể làm giảm nhẹ tính khách quan và những đòi hỏi
của chân lý. Những người chủ trương tương đối thường bảo vệ lập trường của họ bằng
cách khẳng định rằng họ khoan dung hơn những người khác, bởi lẽ đối với họ, mọi
sự là tương đối và không có niềm tin nào là duy nhất tốt lành và đúng đắn.
Trong bối cảnh thời đại đa văn hóa, đa chủng tộc, dĩ nhiên khoan dung là một đức
tính cần trân trọng, tuy nhiên nó cũng có thể mang lại hậu quả tiêu cực do ảnh
hưởng của chủ nghĩa tương đối.
c) Tục hóa
Không thể phủ nhận
rằng làn sóng tục hóa đang lan rộng khắp thế giới, len lỏi vào mọi lãnh vực của
đời sống. Giữa tục hóa và chủ nghĩa tương đối có mối liên hệ mật thiết đến nỗi
có người cho rằng tục hóa là một trong những hệ quả của chủ nghĩa tương đối.
Người chủ trương tương đối không chấp nhận chân lý tuyệt đối, do đó một trong
những điều phải vứt bỏ ngay là các tôn giáo với hệ thống tín điều và cơ cấu tổ
chức. Đây chính là dấu hiệu cụ thể của tục hóa như Charles Taylor nói, “Tục hóa
hệ tại ở việc rời bỏ niềm tin và thực hành tôn giáo, và việc người ta xa rời
Thiên Chúa, không đến nhà thờ nữa”.
Sự khước từ tôn
giáo dẫn đến một xã hội tục hóa, ở đó mỗi cá nhân tự quyền quyết định tốt, xấu.
Không ai có quyền đưa ra lề luật hoặc quy tắc ứng xử vì mỗi người đều cho mình
là đúng nhất. Hơn ai hết, người trẻ ngày nay chịu ảnh hưởng bởi lối suy nghĩ
này. Không có lề luật luân lý khách quan nào cả, mỗi người thoải mái làm những
gì mình cho là đúng. Thực tế của châu Á cho thấy đang gia tăng số người trẻ rời
bỏ Giáo Hội, cụ thể là tại Hàn quốc, nơi vẫn được đánh giá cao về đời sống đức
tin và nhiệt tình truyền giáo.
d) Toàn cầu hóa
Người trẻ thường
chịu ảnh hưởng của các nhóm bạn. Trong thời đại toàn cầu hóa, nhóm bạn không chỉ
là những người mà họ gặp gỡ trực tiếp nhưng còn là số đông họ gặp trong thế giới
ảo (mà tác động lại rất thật): Facebook, Twitter, những mạng xã hội khác. Khi
chủ nghĩa tương đối thấm vào văn hóa hiện đại thì qua những phương tiện truyền
thông này, nó tác động rất nhanh trên người trẻ. Hãy thử đọc những comments của
người trẻ về nhiều vấn đề cuộc sống, hãy thử theo dõi những chương trình truyền
hình thực tế, sẽ thấy ảnh hưởng của chủ nghĩa tương đối lớn ra sao. Câu nói
quen thuộc của người trẻ ngày nay là: Nếu người khác làm được, tại sao tôi lại
không được? Và cứ thế, những giá trị đạo đức khách quan dần dần bị xói mòn.
Thêm vào đó, lượng
thông tin khổng lồ qua các phương tiện truyền thông làm cho con người nói
chung, người trẻ nói riêng, bị chìm ngập, không còn giờ để suy nghĩ về ý nghĩa
và mục đích sâu xa hơn của đời sống, chỉ mong tìm những gì thỏa mãn thị hiếu và
khao khát nhất thời.
e) Mất căn tính
văn hóa
So với những thế
hệ trước, người trẻ ngày nay có quá nhiều phương tiện để tiếp cận thông tin và
các nền văn hóa trên thế giới: internet, du lịch, di dân... Sự tiếp cận này dẫn
đến những so sánh và loại trừ những giá trị đạo đức truyền thống vì bị coi là cổ
hủ. Chẳng hạn tại châu Á, hôn nhân thử và quan hệ tình dục trước hôn nhân đang
trở thành một trào lưu được cho là tự nhiên và hợp lý. Với nhiều người trẻ, đức
khiết tịnh chỉ còn là món đồ xa xỉ. Mỗi người có quyền chọn và sống theo những
gì mình cho là đúng, có như thế cuộc sống mới đúng nghĩa tự do và hạnh phúc. Rõ
ràng là chủ nghĩa tương đối đã thấm vào cách nghĩ và cách sống của họ.
Có thể tóm lại bằng
nhận định của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ: “Giáo Hội nhấn mạnh các nguyên tắc luân
lý khách quan, có giá trị đối với tất cả mọi người, nhưng có nhiều người lại
cho rằng các giáo huấn này thật bất công, nghịch với những quyền căn bản của
con người. Các lý luận này cách chung phát xuất từ một hình thức của chủ nghĩa
tương đối về luân lý, nối kết với sự tin tưởng vào quyền tuyệt đối của mỗi cá
nhân. Dựa theo đó, người ta cho rằng Giáo Hội xem ra đã có thiên kiến và can
thiệp vào sự tự do của các cá nhân...Do đó phải có sự giáo dục giúp suy nghĩ
chín chắn và đưa ra một đường hướng trưởng thành về các giá trị” (Persons with a Homosexual Inclination: Guidelines
for Pastoral Care).
5. ĐỒNG HÀNH MỤC VỤ
Dưới tác động của
chủ nghĩa tương đối về luân lý, xem ra chúng ta đang tuột dốc rất nhanh và
không biết phải làm gì để thắng lại. Đức Bênêđictô XVI mô tả chủ nghĩa tương đối
như mối đe dọa lớn nhất cho đức tin Kitô giáo ngày nay. Đây không chỉ là một vấn
đề đòi hỏi phải có suy tư ở chiều sâu, nhưng còn là vấn đề mục vụ, nghĩa là làm
sao để tìm ra cách thế đồng hành với các tín hữu, để họ đứng vững trước sự đe dọa
của chủ nghĩa tương đối và không đánh mất cảm thức về Thiên Chúa là chính Chân
Lý.
Đòi hỏi này càng
khẩn thiết hơn với mục vụ giới trẻ. Một đàng, Giáo Hội đánh giá cao về giới trẻ:
“Nhiều vấn đề phức tạp mà giới trẻ phải đối diện ngày nay trong thế giới đang
thay đổi tại châu Á thúc đẩy Giáo Hội nhắc nhớ người trẻ về trách nhiệm của họ
với xã hội và Giáo Hội, đồng thời nâng đỡ, khuyến khích họ sẵn sàng đảm nhận
trách nhiệm này” (Ecclesia in Asia, số
47). Đàng khác, chúng ta lại đối diện với thực tế phũ phàng là nhiều người trẻ
đang rời bỏ Giáo Hội như linh mục người Hàn quốc John JunYang Park nhận định:
“Gần đây tại châu Á, chúng ta chứng kiến hiện tượng nhiều người trẻ rời bỏ Giáo
Hội, và điều này được coi như tín hiệu thật sự nguy hiểm trong một vài quốc
gia, đặc biệt những nước Đông Á như Hàn quốc”. Thực tế đó đặt ra cho Giáo Hội
những câu hỏi cụ thể phải suy tư: Tại sao người trẻ rời bỏ Giáo Hội? Đâu là những
nguyên nhân chính? Có thể làm gì trước tình hình này?
Trong Gioan
18,38, Philatô hỏi Chúa Giêsu: “Sự thật là chi?” Đây cũng là câu hỏi then chốt
mà chủ nghĩa tương đối đặt ra. Theo thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II trong
thông điệp Veritatis Spendor, “Sự thật
soi sáng trí khôn và định hình tự do của con người, dẫn họ đến chỗ nhận biết và
yêu mến Chúa”. Sự thật là đối tượng chính yếu nhất của lý trí, cũng là mục đích
tối hậu của hiện hữu nhân sinh, xét như là những hữu thể có lý tính. Sự thật được
thể hiện trọn vẹn, sống động và cụ thể nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng là Đường, Sự Thật,
Sự Sống. Vấn đề là làm sao giúp người trẻ chạm đến Sự Thật đó và để họ thấy tầm
quan trọng của sự thật trong cuộc đời họ. Đây chính là thách đố mục vụ rất lớn
mà mỗi thừa tác viên trong Giáo Hội, trong bối cảnh xã hội cụ thể mình đang sống,
phải suy nghĩ và tìm ra phương thế thích hợp.
Cách tổng quát, mục
vụ giới trẻ và việc dạy giáo lý cần phải “đem đức tin vào đời sống và đem đời sống
vào đức tin”.
a) Đem đức tin
vào đời sống
Tại châu Á nói
chung và Việt Nam nói riêng, số người trẻ Công giáo đi lễ Chúa nhật vẫn còn khá
đông, mặc dù đã giảm sút. Sau Thánh Lễ, họ kéo nhau đi uống café hay đi chơi,
nói với nhau nhiều chuyện nhưng hầu chắc là không nói gì đến tôn giáo! Liệu đức
tin có ý nghĩa gì trong đời sống và những chọn lựa của các bạn trẻ không? Có lẽ
các bạn vẫn tin vào Chúa và những điều Giáo Hội dạy nhưng không cảm thấy Chúa
có liên hệ gì đến đời sống thường ngày của mình. Về mặt thần học, tác giả
Clarence Devadass cho rằng “Chủ nghĩa tương đối cũng thách đố Giáo Hội nhìn lại
chính mình, nhìn lại những ý niệm và thực hành đã giữ từ nhiều thế kỷ. Lời than
phiền thường xuyên nghe từ giới trẻ ngày nay là giáo huấn của Giáo Hội đã lỗi
thời rồi. Tại nhiều nơi ở châu Á, người dân, cách riêng giới trẻ, không thấy được
sự liên hệ của đức tin với đời sống thường ngày của họ. Sự tách ly giữa đức tin
cử hành với kinh nghiệm sống cụ thể xem ra ngày càng gia tăng”. Trong tình hình
đó, mục vụ giới trẻ nên quan tâm đến những sinh hoạt ngoài Thánh Lễ, ví dụ những
nhóm nhỏ cùng cầu nguyện và chia sẻ Lời Chúa, ở đó các bạn biết nhau cách thân
tình hơn và cùng nhau tạo nên gạch nối giữa đức tin và những vấn đề thực tiễn
mà họ đang đối diện trong cuộc sống. Chắc chắn những sinh hoạt này không mang
tính đại chúng như việc dự lễ, nhưng chỉ với những nhóm nhỏ. Tuy nhiên chính những
nhóm nhỏ này, nếu được thấm nhuần Lời Chúa và kinh nghiệm sống đức tin, lại là
hạt mầm và nòng cốt cho sứ vụ Phúc–Âm–hóa. Chính người trẻ là tông đồ cho người
trẻ.
b) Đem cuộc sống vào đức tin
Ở đây trách nhiệm của các linh mục được quan tâm đặc biệt, nhất là
trong việc giảng Lời Chúa, dạy giáo lý và đồng hành thiêng liêng. Hơn ai hết, Đức
giáo hoàng Phanxicô thấy rõ điều này nên trong tông huấn Evangelii Gaudium, ngài đưa ra những chỉ dẫn cụ thể cho các linh mục:
– Lắng nghe: “Vị
giảng thuyết phải chú tâm lắng nghe dân chúng để khám phá điều gì họ cần được
nghe. Vị giảng thuyết vừa là người chiêm niệm Lời Chúa, vừa chăm chú vào giáo
dân”. Nhờ đó, vị giảng thuyết mới có thể “nối kết sứ điệp của bản văn Kinh
Thánh với hoàn cảnh cụ thể của con người, với những gì họ sống, với kinh nghiệm
họ cần đến ánh sáng của Lời Chúa” (số 154).
– Đơn sơ và rõ
ràng: Đức Phanxicô nhận xét, “Điều thường xảy ra là các vị giảng thuyết dùng những
ngôn từ trong thời học hành và ở những môi trường học thuật, nhưng lại không phải
là ngôn từ thông dụng của người nghe. Đó là những thuật ngữ đặc thù thần học
hay giáo lý, nhưng phần đông tín hữu không hiểu được”. Vì thế, ngài khuyên các
linh mục phải sử dụng thứ ngôn ngữ đơn sơ và rõ ràng, đơn sơ trong ngôn từ và
rõ ràng trong cách trình bày (số 159).
– Tích cực: “Đừng
nói nhiều về những điều không nên làm, nhưng hãy đề nghị điều người ta có thể
làm tốt hơn”. Như thế, bài giảng định hướng tương lai hơn là than trách và lên
án quá khứ, bài giảng mang đến hy vọng hơn là gieo rắc sợ hãi: “Thật đáng mừng
nếu người ta không nhìn chúng ta như những nhà chuyên môn dự báo thảm họa hay
những thẩm phán đen tối, nhưng như các sứ giả hân hoan đề nghị những giải pháp
cao cả, những người trân trọng điều thiện hảo và vẻ đẹp chiếu tỏa trong một cuộc
sống trung tín với Tin Mừng” (số 168).
Tổng hợp từ các
bài viết trong FABC Papers no. 135:
– Fr. Clarence
Devadass, STD., Relativism: A Deeper
Understanding and Its Impact on the Youth in Asia.
– Dominic
Veliath, SDB., Fundamentalism and
Relativism.
– Fr. John
JunYang Park, Fundamentalism and
Relativism: Why Young People Are Leaving the Church?
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, số 84 (tháng 9 & 10 năm 2014)
- Làm gì cũng được, miễn là làm cùng nhau ( 20/09/2023)
- Giải đáp thắc mắc cho người trẻ: Bài 100 - Bình an nội tâm ( 19/09/2023)
- Giải đáp thắc mắc cho người trẻ: Bài 98 - Công việc người trẻ trong đường hướng của Thiên Chúa ( 23/08/2023)
- Giải đáp thắc mắc cho người trẻ: Bài 97 - Giáo dân xây dựng Nhiệm thể Chúa Kitô ( 14/08/2023)
- Đại hội Giới trẻ Thế giới 2023: Hiệp hành trong hành động ( 12/08/2023)
- Tổng Giáo phận Hà Nội: Talkshow - Âm vang Đại hội Giới trẻ Thế giới 2023 ( 11/08/2023)
- Tiếp Kiến Chung (09.08.2023) – Đại hội Giới trẻ Thế giới là ví dụ về một thế giới huynh đệ, không hận thù ( 10/08/2023)
- Giải đáp thắc mắc cho người trẻ: Bài 96 - Giáo hội và vấn đề trợ tử ( 08/08/2023)
- Bài giảng của Đức Thánh Cha trong buổi canh thức với giới trẻ tại “Công viên Tejo” ( 08/08/2023)
- Bài giảng Thánh Lễ bế mạc Đại hội Giới trẻ Thế giới Lisbon 2023 ( 07/08/2023)