TỪ TÔNG HUẤN PASTORES DABO VOBIS ĐẾN BA YẾU TỐ THEN CHỐT CỦA LINH ĐẠO TỬ ĐẠO CHO ĐỜI SỐNG LINH MỤC HÔM NAY

Lm. Tôma Aquinô Nguyễn Đức Khôi

WHĐ (8.11.2020) – Nếu cá nhân được đề nghị chọn một mẫu gương cho đời sống linh mục của thế kỷ XXI thì tôi sẽ chọn thánh Gioan Maria Vianney (1786 – 1859)[1], cha sở họ Ars. Có ba lý do cho việc chọn lựa này: Thứ nhất, ngài là mục tử nên giống Chúa Kitô Mục Tử nhân lành[2]; Thứ hai, ngài đã hòa hợp cuộc sống thừa tác viên của chính mình với sự thánh thiện của thừa tác vụ mà ngài đã lãnh nhận[3]; Thứ ba, con đường nên thánh của ngài là thi hành mục vụ tại họ Ars với tấm lòng tận tụy hy sinh của người mục tử[4]. Nói theo Đức Thánh Cha (ĐTC) Bênêđictô XVI trong Thư tuyên bố cử hành Năm linh mục thì việc chọn thánh Gioan Maria Vianney là gương mẫu cho hàng linh mục là dịp: “[…] Để mọi linh mục dấn thân canh tân chiều sâu nội tâm để trở thành chứng từ mạnh mẽ và sắc bén hơn cho Tin Mừng trong lòng thế giới hôm nay...”[5]

Thật vậy, tuy thời gian gần đây một số linh mục để lại nhiều vụ tai tiếng[6] làm cho Hội Thánh phải chịu đau khổ và thế giới lên án[7], nhưng đó không phải là dấu hiệu của sự phân rã mà là lời kêu gọi canh tân và trở về với những gốc rễ đích thực của sứ vụ linh mục[8]. Vì thế, để có được những suy tư liên quan đến lời mời gọi canh tân và trở về của hàng linh mục, thiết nghĩ chúng ta cùng tái khám phá một trong những ý nghĩa của đời sống linh mục đó là sự hy sinh và sự chết đi (Linh đạo Tử Đạo) qua gợi ý của Tông huấn Pastores Dabo Vobis[9]. Trong phạm vi bài viết, chúng ta sẽ tìm hiểu từ PDV đến ba yếu tố then chốt của linh đạo tử đạo cho đời sống linh mục hôm nay: (I) Nền tảng Thánh Kinh; (II) Con đường mục vụ dẫn đến sự hy sinh và chết đi; (III) Sự hoà hợp từ sứ vụ của Chúa Kitô đến sứ vụ của linh mục: một đề nghị thiết thực cho cuộc tử đạo mỗi ngày của người linh mục.

Con đường nên thánh của linh mục gắn liền với những tác vụ mà linh mục đã lãnh nhận, nghĩa là khi người linh mục được thánh hiến cho Thiên Chúa nhờ việc lãnh nhận Bí tích Truyền Chức Thánh thì linh mục không chỉ được mời gọi hướng đến sự hoàn thiện[10] mà còn trở nên khí cụ của Chúa Kitô trong việc phục vụ toàn thể Dân Chúa[11]. Do đó, nếu đời sống thiêng liêng của linh mục được xét như là nguồn mạch và cùng đích của việc thực thi các tác vụ thì việc canh tân đời sống của linh mục cũng gắn liền với canh tân chính những tác vụ mà linh mục đã lãnh nhận. Hơn nữa, việc canh tân này chỉ thiết thực khi chúng ta xác định lại yếu tố nền tảng cho đời sống linh mục dựa trên Thánh Kinh. Vậy PDV đã trình bày thế nào về nền tảng Thánh Kinh cho đời sống linh mục?

I. Nền tảng Thánh Kinh

Tựa đề của văn kiện PDV được rút từ sách ngôn sứ Giêrêmia: “Ta sẽ cho các ngươi những mục tử đẹp lòng Ta”[12]. Qua lời tựa này, PDV đã xác định thuật ngữ “mục tử” là sợi chỉ xuyên suốt dùng để nói về các linh mục. Vì thế, hình ảnh người mục tử là bắt nguồn từ Lời Thiên Chúa hứa ban để coi sóc Dân Chúa.

Hơn nữa, về điểm này được PDV[13] làm sáng tỏ qua hai bản văn của Tân Ước: với Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu nói về chính Ngài là “Mục Tử nhân lành”[14]; với thư Hípri nói về Đức Giêsu là “Mục Tử cao cả của đoàn chiên”[15]. Như vậy, từ nền tảng Thánh Kinh PDV muốn trình bày cho việc đào tạo linh mục và đời sống linh mục nhận biết rằng sứ vụ mà linh mục lãnh nhận là sẽ trở nên mục tử chăm lo mục vụ cho “đoàn chiên” của Chúa như lòng Chúa mong ước. Đồng thời, đời sống linh mục được mời gọi trở nên giống Chúa Kitô Mục Tử nhân lành[16]. Vì Chúa Kitô là cội nguồn duy nhất và bất khả thay thế[17], nhờ đó chúng ta mới thấu hiểu thực tại đời sống linh mục trong ý nghĩa sự hy sinh và chết đi mỗi ngày.

II. Con đường mục vụ dẫn đến sự hy sinh và chết đi

Trong nguyên ngữ Hy Lạp từ “martyr” có nghĩa là người làm chứng. Các Kitô hữu khi đối diện những cuộc bách hại đức tin thì với cái chết của họ, chúng ta có thể thấy đó không phải là cái chết làm chứng cho sự anh hùng cá nhân hay cho một lý thuyết nào đó, nhưng họ làm chứng vì niềm tin vào Chúa Kitô. Có thể nói, họ dùng cái chết để diễn tả tương quan mật thiết với Chúa Kitô, một cuộc tử đạo quy hướng về Chúa Kitô và để nên giống Người[18].

Đối với đời sống linh mục hôm nay cũng vậy, tài liệu PDV nhấn mạnh qua Bí tích Truyền Chức Thánh thì người linh mục trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô là Đầu và là Mục Tử[19]. Khi dùng thuật ngữ “đầu” và “mục tử” dường như PDV muốn gắn kết ý nghĩa của hai từ này với nhau, nghĩa là PDV vừa làm nổi bật vai trò thủ lãnh Dân Chúa của Chúa Kitô Đầu – Mục Tử, vừa nói về linh mục là hình ảnh của Chúa Kitô[20]. Ngoài ra, PDV còn dùng thuật ngữ “hôn phu” đi kèm với từ “đầu” hoặc với “mục tử” hoặc cả ba thuật ngữ đi với nhau[21]. Tuy có chung ý nghĩa, nhưng từ “hôn phu” còn diễn tả sự trao hiến chính mình, yêu thương, nuôi dưỡng, chăm sóc Hội Thánh, cụ thể PDV trình bày như sau:

“Sự trao hiến mà Đức Kitô tự mình dành cho Giáo Hội, hoa trái của tình yêu Ngài, mang ý nghĩa độc đáo của sự trao hiến giữa vợ và chồng… Đức Giêsu là Phu Quân đích thực trao tặng rượu cứu độ cho Giáo Hội (x. Ga 2,11)…”[22]

Như thế, người linh mục trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô là Đầu và là Mục Tử, nghĩa là linh mục hành động nhân danh và trong ngôi vị của Chúa Giêsu Kitô[23] qua con đường mục vụ mà linh mục đã lãnh nhận. Vậy đâu là ý nghĩa của sự hy sinh và sự chết đi của con đường mục vụ này? Thiết nghĩ đó là sự thống nhất nội tại của chính hữu thể con người linh mục và hoạt động mục vụ nơi người linh mục.

Thật vậy, PDV đưa ra gợi ý thiết thực cho đời sống của linh mục là cắm rễ sâu đời mình vào Chúa Kitô, nghĩa là giữa Chúa Giêsu Kitô và linh mục là mối liên kết hữu thể[24] qua việc linh mục được thánh hiến mang tính bí tích bởi Chúa Thánh Thần, để nhờ đó linh mục nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô[25]. Trong đó, linh mục mang tâm tư và hành động như Chúa Kitô, Đấng là Mục Tử đã hiến mạng sống mình cho đoàn chiên[26]. Vì thế, linh mục được mời gọi mặc lấy đức ái mục tử của Chúa Kitô bằng việc trao hiến hoàn toàn chính mình cho Hội Thánh, nó biểu lộ tình yêu của Chúa Kitô dành cho chiên của Người[27].

III. Sự hòa hợp từ sứ vụ của Đức Kitô đến sứ vụ của linh mục: một đề nghị thiết thực cho cuộc tử đạo mỗi ngày của người linh mục

Trong truyền thống Hội Thánh[28], khi nói về Chúa Kitô Thượng tế duy nhất thì vẫn dùng cách nói về sứ vụ của Người bao gồm ba chức năng: tư tế, ngôn sứ, vương đế. Đây là hình ảnh bắt nguồn từ giới lãnh đạo trong Cựu Ước, họ được Thiên Chúa chọn để dẫn dắt Israel qua việc phụng tự (tư tế), qua Lời Thiên Chúa (ngôn sứ), qua việc cai quản (vua). Vì thế, Hội Thánh cũng sớm dùng những hình ảnh này để nói về sứ vụ của Chúa Kitô Mục Tử nhân lành và sứ vụ chức thánh của mình.

Cũng vậy, PDV đã sử dụng mẫu thức truyền thống này để nói về sứ vụ của linh mục. Theo đó, PDV trình bày sứ vụ mục tử bao gồm[29]: (i) Thừa tác vụ Lời Chúa; (ii) Thừa tác vụ Bí tích; (iii) Lãnh đạo cộng đoàn. Vậy các sứ vụ này đã hoà hợp với sứ vụ của Chúa Kitô như thế nào?

(i) Thừa tác vụ Lời Chúa:

PDV số 26 trình bày sứ vụ thứ nhất của linh mục như sau:

“Trước hết linh mục là thừa tác viên Lời Chúa. Linh mục được hiến thánh và sai đi để loan báo Tin Mừng Nước Trời cho mọi người.”

Với tác vụ Lời Chúa, linh mục được mời gọi thống nhất trong sứ vụ này: một đàng là người mang sứ điệp đến cho người khác, đàng khác chính linh mục cũng phải đón nhận sứ điệp ấy. Bởi PDV nhắc linh mục nhớ rằng, bản thân linh mục không phải là “chủ nhân” của Lời nhưng là “thừa tác viên”. Do đó, linh mục khi thi hành tác vụ Lời Chúa thì không rao giảng Lời của mình nhưng là tôi tớ nói Lời của Chúa Kitô và của Hội Thánh[30]. Nói cách khác, để là người phục vụ Lời thì đời sống linh mục phải trở nên thân thuộc với Lời[31], trở nên môn đệ đích thực của Chúa Kitô qua việc “đến” và “ở lại” trong Lời Chúa[32].

(ii) Thừa tác vụ Bí tích:

Khi linh mục thi hành thừa tác vụ Bí tích là lúc linh mục nên giống Chúa Giêsu Kitô, đặc biệt là cử hành Bí tích Thánh Thể. Bởi PDV xác định một khi linh mục tiến dâng hy lễ cứu độ duy nhất nơi bàn tiệc vượt qua thì linh mục được thúc đẩy dấn thân phục vụ Dân Chúa để nuôi dưỡng họ bằng Lời và các Bí tích, đồng thời sẽ là chứng nhân đích thực cho đức tin và đức ái, sẵn sàng hiến dâng mạng sống như Chúa Kitô đã hiến mạng sống cho đoàn chiên và cho Thiên Chúa[33]. Trong PDV số 23 đã khẳng định:

“Chính từ Bí tích Thánh Thể mà linh mục nhận được ơn và trách nhiệm mặc cho toàn thể cuộc sống mình một ý nghĩa ‘hy tế’.”

Như thế, thừa tác vụ Bí tích một mặt được Hội Thánh đồng hóa với chức năng tư tế của Chúa Kitô, mặt khác đó cũng là phương thế để linh mục mỗi khi cử hành Bí tích thì nên giống Chúa Kitô nhập thể[34], dấn thân phục vụ và hy sinh tính mạng để cứu độ đoàn chiên[35].

(iii) Lãnh đạo cộng đoàn:

PDV trình bày sứ vụ thứ ba của linh mục liên quan đến vai trò lãnh đạo cộng đoàn. Tuy tài liệu dùng thuật ngữ truyền thống “munus regendi” (quyền cai quản)[36], nhưng vai trò này được PDV định hướng và mô tả là “đức ái mục tử”[37]. Vậy sứ vụ này được linh mục thi hành thế nào trong cộng đoàn?

Trước hết, qua Bí tích Truyền Chức Thánh, linh mục được nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô là Đầu và là Mục Tử, nhờ đó linh mục được thông dự vào “quyền năng thiêng liêng” mà Chúa Kitô dùng để dẫn dắt Hội Thánh[38]. Vì thế, linh mục là mục tử trong tư cách thủ lãnh không phải để thống trị nhưng là tôi tớ cúi mình phục vụ đoàn chiên, là dám trao hiến trọn vẹn đời mình cho đoàn chiên, kể cả mạng sống của chính mình để đoàn chiên được sống[39]. Ngoài ra, linh mục còn là mục tử có trái tim và lòng dạ của người mẹ[40]. Bởi vì, linh mục không chỉ ở trong và thuộc về cộng đoàn mà linh mục còn phải đối diện với cộng đoàn[41], nhờ thế linh mục sẽ có khả năng yêu thương, khả năng chịu đựng những “đau đớn do việc sinh con” cho đến khi “Đức Kitô được thành hình” trong các tín hữu[42].

Tiếp đến, PDV số 26 đưa ra gợi ý để linh mục sống đức ái mục tử:

“Đây là một thừa tác vụ đòi linh mục phải có một đời sống thiêng liêng sâu đậm, giàu những phẩm cách và nhân đức dành riêng cho người ‘chủ tọa’ và ‘chỉ đạo’ một cộng đoàn… Đó là lòng trung thành, tính nhất quán, sự khôn ngoan, khả năng tiếp nhận mọi người, thái độ hoà nhã… lòng vô vị lợi tự bản thân, tính kiên nhẫn…”

Do đó, linh mục nên giống Chúa Kitô trong sứ vụ lãnh đạo cộng đoàn là phải mang tâm tư và trái tim mục tử như Chúa Kitô[43], một thái độ đượm đức ái mục tử[44].

KẾT LUẬN

Có thể nói, văn kiện PDV là một khảo luận về mầu nhiệm căn tính linh mục, đồng thời PDV vẫn tiếp tục soi sáng cho đời sống linh mục hôm nay trong việc canh tân và trở về với cội nguồn đích thực của người linh mục là trở nên giống Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành[45]. Nói cho cùng, linh mục được chọn và gọi là để bước đi theo Chúa Kitô, vì Người là dung nhan lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Đó chính là mầu nhiệm đức tin Kitô giáo mà chúng ta được mời gọi mỗi ngày phải tuyên xưng[46].

Thật vậy, hình ảnh Chúa Kitô Mục Tử Nhân Lành và giàu lòng thương xót có thể được tóm gọn và trở nên khuôn đúc cho cuộc đời người linh mục hôm nay như sau: Chúa Giêsu Kitô là Con Một Thiên Chúa, Người đã nhập thể trong thân phận phàm nhân, Người sống như chúng ta, Người còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập giá vì chúng ta[47]. Cả cuộc đời của Người là bài ca tình yêu của Mục Tử đã hiến mạng sống vì đoàn chiên[48]. Hơn nữa, Người đã yêu mến tất cả đoàn chiên bằng một trái tim nhân loại đến nỗi trái tim cực thánh của Người đã bị đâm thâu vì tội lỗi và để cứu độ đoàn chiên[49]. Nói như CĐ Vaticanô II: “Khi nhập thể, Con Thiên Chúa một cách nào đó đã nên một với mọi người”[50], để rồi Người làm mọi sự là cho chúng ta, Người không sống cho bản thân nhưng là cho chúng ta[51].

Như vậy, người linh mục hôm nay được mời gọi đi vào sự hiệp thông các mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô[52], đó là một dấu chỉ tình yêu ở mãi nơi cuộc đời linh mục và cũng là để uốn lòng người linh mục nên giống trái tim mục tử của Chúa Kitô[53]. Có thế, người linh mục sẽ được nâng đỡ trên đường lữ hành của hôm nay và ngày mai[54], đồng thời linh mục được tình yêu Chúa Kitô thúc bách mang yêu thương và sống chứng nhân giữa đời[55]. Thiết nghĩ, đó chính là ý nghĩa của linh đạo tử đạo mỗi ngày trong đời sống linh mục.

Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 109 (Tháng 11 & 12 năm 2018)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I/ THÁNH KINH

Kinh Thánh (Ấn bản 2011), Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ (CGKPV), nxb. Tôn Giáo, 2011.

II/ HUẤN QUYỀN

CĐ VATICANÔ II, Bản dịch của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, nxb. Tôn Giáo, 2012.

Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes (07.12.1965).

Sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục Presbyterorum Ordinis (07.12.1965).

BÊNÊĐICTÔ XVI, Thư tuyên bố cử hành Năm linh mục (16.06.2009), Lm. Luy Nguyễn Anh Tuấn chuyển dịch, https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/thu-cua-duc-thanh-cha-benedicto-xvi-tuyen-bo-cu-hanh-nam-danh-cho-cac-linh-muc-17934  

FRANCIS, Bull Of Indiction Of The Extraordinary Jubilee Of Mercy “Misericordiae Vultus” (11.04.2015).

GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Pastores Dabo Vobis (25.03.1992), Bản dịch của Lm. Phaolô Đậu Văn Hồng, nxb. Hồng Đức, 2015.

Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo (11.10.1992), Bản dịch của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, nxb. Tôn Giáo, 2010.

III/ CÁC TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU

Kinh Sách các bài đọc, Tập 4, Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ, nxb. Tp.HCM, 1999.

NGUYỄN NGỌC VINH, SDB, Người chạnh lòng thương, nxb. Tôn Giáo, 2016.

NGUYỄN TRỌNG SƠN, Lịch sử linh đạo, Đại Chủng Viện Thánh Giuse Sài Gòn, 2009.

NGUYỄN TRỌNG SƠN, Linh mục giáo phận nên giống Chúa Giêsu Kitô mục tử, ĐCV Thánh Giuse Sài Gòn, 2013.

RONALD D. WITHERUP, PSS, Gold Tested in Fire – A New Pentecost for the Catholic Priesthood (Vàng được thử lửa – Một lễ Hiện Xuống mới cho hàng Linh mục Công giáo), Lm. Giuse Lê Công Đức, PSS và Nhóm Anh Việt 2014 Đại Chủng Viện Huế dịch, nxb. Tôn Giáo, 2015.



[1] Xem (x). NGUYỄN NGỌC VINH, SDB, Người chạnh lòng thương, nxb. Tôn Giáo, 2016, tr.191-199.

[2] x. BÊNÊĐICTÔ XVI, Thư tuyên bố cử hành Năm linh mục (16.06.2009), Lm. Luy Nguyễn Anh Tuấn chuyển dịch, https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/thu-cua-duc-thanh-cha-benedicto-xvi-tuyen-bo-cu-hanh-nam-danh-cho-cac-linh-muc-17934

[3] ĐTC Bênêđictô XVI đã có sáng kiến công bố Năm linh mục 2009 – 2010 nhân dịp kỷ niệm 150 năm qua đời của thánh Gioan Maria Vianney, ngài không chỉ là bổn mạng các cha sở mà còn là bổn mạng của các linh mục. x. Như vẫn trích (nvt.).

[4] x. Kinh Sách các bài đọc, Tập 4, Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ, phần Lời nguyện ngày lễ thánh Gioan Maria Vianney, nxb. Tp.HCM, 1999, tr.514.

[5] x. BÊNÊĐICTÔ XVI, Thư tuyên bố cử hành Năm linh mục

[6] x. RONALD D. WITHERUP, PSS, Gold Tested in Fire – A New Pentecost for the Catholic Priesthood (Vàng được thử lửa – Một lễ Hiện Xuống mới cho hàng Linh mục Công giáo), Lm. Giuse Lê Công Đức, PSS và Nhóm Anh Việt 2014 Đại Chủng Viện Huế dịch, nxb. Tôn Giáo, 2015, tr.5.

[7] x. BÊNÊĐICTÔ XVI, Thư tuyên bố cử hành Năm linh mục

[8] x. RONALD D. WITHERUP, PSS, Gold Tested in Fire…, sách đã dẫn (sđd.), tr.7.

[9] GIOAN PHAOLÔ II, Tông huấn Pastores Dabo Vobis (25.03.1992), Bản dịch của Lm. Phaolô Đậu Văn Hồng, nxb. Hồng Đức, 2015. Viết tắt: PDV.

[10] Đức Giêsu mời gọi các môn đệ: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.” (Mt 5,48 CGKPV). Để thuận tiện việc theo dõi, các trích đoạn Kinh Thánh (bản dịch tiếng Việt) trong bài viết được người viết trích từ: Kinh Thánh (Ấn bản 2011), Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ (CGKPV), nxb. Tôn Giáo, 2011.

[11] x. Công Đồng (CĐ) VATICANÔ II, Sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục Presbyterorum Ordinis (07.12.1965), Bản dịch của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, nxb. Tôn Giáo, 2012, số 12. Viết tắt: PO.

[12] Gr 3,15 GKPV.

[13] x. PDV 1.

[14] Ga 10,11 GKPV.

[15] Hr 13,20 GKPV.

[16] Dung mạo đích thực của Linh mục được PDV khẳng định: “Chắc hẳn luôn luôn có ‘một diện mạo cốt yếu, không thay đổi, của người linh mục: thực vậy, không kém gì linh mục hôm nay, linh mục ngày mai sẽ phải nên giống Chúa Kitô’” (PDV 5).

[17] x. PDV 12.

[18] x. NGUYỄN TRỌNG SƠN, Lịch sử linh đạo, Đại Chủng Viện Thánh Giuse Sài Gòn, 2009, tr.56-59.

[19] x. PDV 15 – 18.20 – 23.

[20] x. NGUYỄN TRỌNG SƠN, Linh mục giáo phận nên giống Chúa Giêsu Kitô mục tử, Đại Chủng Viện Thánh Giuse Sài Gòn, 2013, tr.36.

[21] x. PDV 3.16.22 – 23.25.29.

[22] PDV 22.

[23] x. NGUYỄN TRỌNG SƠN, Linh mục giáo phận…, sđd., tr.38.

[24] x. PDV 11.13.16.

[25] x. PDV 15.16.

[26] x. PDV 21.

[27] x. PDV 23.

[28] x. RONALD D. WITHERUP, PSS, Gold Tested in Fire…, sđd., tr.27.

[29] x. PDV 26.

[30] x. PDV 26.

[31] x. NGUYỄN TRỌNG SƠN, Linh mục giáo phận…, sđd., tr.72.

[32] x. Ga 1,39.

[33] x. PDV 15.

[34] x. Dt 10,4 – 7 (x. NGUYỄN TRỌNG SƠN, Linh mục giáo phận…, sđd., tr.73.)

[35] x. PDV 26.

[36] x. PDV 26.

[37] x. PDV 21 – 23.

[38] x. PDV 21.

[39] x. PDV 21 – 23. Riêng ở số 23, PDV nhấn mạnh: “Cốt lõi của đức ái mục tử là trao hiến chính mình, trao hiến hoàn toàn cho Giáo Hội, theo hình ảnh sự trao hiến của Đức Kitô và thông phần với Ngài.”

[40] x. PDV 22.

[41] x. PDV 16.22.

[42] x. Gl 4,19 (x. PDV 22).

[43] x. Pl 2,5.

[44] x. PDV 21 – 23.26.

[45] x. RONALD D. WITHERUP, PSS, Gold Tested in Fire…, sđd., tr.41.

[46] x. FRANCIS, Bull Of Indiction Of The Extraordinary Jubilee Of Mercy “Misericordiae Vultus” (11.04.2015). “Jesus Christ is the face of the Father’s mercy. These words might well sum up the mystery of the Christian faith.” (no. 1).

[47] x. Ga 1,14; Pl 2,5-8; 1Tm 3,16.

[48] x. Gl 2,20.

[49] x. Sách Giáo lý của Hội Thánh Công Giáo (11.10.1992), Bản dịch của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, nxb. Tôn Giáo, 2010, số 478. Viết tắt: GLCG.

[50] CĐ VATICANÔ II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes (07.12.1965), Bản dịch của Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, nxb. Tôn Giáo, 2012, số 22.

[51] x. GLCG, 519.

[52] x. GLCG, 521.

[53] x. PO 12; PDV 21.23.27.

[54] x. GLCG, 1418-1419.

[55] x. 2Cr 5,14.