TÍNH HIỆP HÀNH VÀ QUYỀN TỐI THƯỢNG
TRONG THIÊN NIÊN KỶ THỨ II VÀ NGÀY NAY
Ủy ban hỗn hợp quốc tế về Đối thoại
Thần học
giữa Giáo hội Công giáo Rôma và Giáo hội Chính thống
Alexandria, ngày 7/06/2023
WHĐ (04.01.2024) - Khi kết thúc công trình nghiên cứu cẩn thận
về tính hiệp hành và quyền tối thượng trong
thiên niên kỷ thứ I, tài liệu Chieti
đã tuyên bố: ‘Từ những thời kỳ đầu tiên,
một Giáo hội duy nhất đã hiện hữu như nhiều giáo hội địa phương. Sự hiệp thông
(koinonia) của Chúa Thánh Thần (x. 2 Cr 13,13) được trải nghiệm cả trong mỗi giáo hội địa phương và trong các mối
tương quan giữa các Giáo hội ấy như một sự hiệp nhất trong đa dạng. Dưới sự hướng
dẫn của Chúa Thánh Thần (x. Ga 16,13), Giáo
hội đã phát triển những khuôn mẫu về trật tự và nhiều thực hành khác nhau phù hợp
với bản chất của mình như là ‘một dân
được hiệp nhất từ sự hiệp nhất của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần’”
(Chieti, 2; trích dẫn Thánh Cyprianô,
De orat. dom. 23; PL 4, 536).
Mối dây hiệp nhất được thể hiện rõ trong ‘những cuộc quy tụ nhiều giám mục trong các
công đồng hoặc thượng hội đồng để thảo luận về những vấn đề chung về tín lý
(dogma, didaskalia) và thực hành’ (Chieti,
11). Ở cấp độ hoàn vũ, sự hiệp thông được duy trì nhờ sự hợp tác giữa 5 tòa Thượng
phụ, được sắp xếp theo thứ tự (x. Chieti,
15). Bất chấp nhiều cuộc khủng hoảng, sự hiệp nhất trong đức tin và tình yêu vẫn
được duy trì nhờ việc thực hành tính hiệp hành và tính tối thượng (x. Chieti, 20).
Tài liệu này xem xét lịch sử đầy xáo trộn của thiên niên kỷ
thứ II trong 4 giai đoạn. Tài liệu cố gắng đưa ra một cách hiểu chung về lịch sử
đó càng nhiều càng tốt, và mang lại cho các tín hữu Chính thống giáo và Công
giáo Rôma cơ hội thích hợp để giải thích cho nhau về những điểm khác nhau trên
đường đi, để thêm hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau, vốn là những điều kiện tiên
quyết thiết yếu đối với sự hòa giải vào đầu thiên niên kỷ thứ III. Tài liệu kết
thúc bằng việc rút ra những bài học từ lịch sử đã được khảo sát.
2. Từ Cuộc Cải Cách đến Thế Kỷ XVIII 3. Những diễn biến ở thế kỷ XIX 4. Thế kỷ XX và thế kỷ XXI: Trở về nguồn và Tái lập
tương quan |
1. Từ năm 1054 đến Công đồng Florence (1438-1439)
Vào đầu thiên niên kỷ thứ II, những khó khăn và bất đồng giữa
Đông và Tây càng trở nên trầm trọng hơn do các yếu tố văn hóa và chính trị.
Hành động ra vạ tuyệt thông năm 1054 đã làm cho sự xa cách giữa Đông và Tây trở
nên trầm trọng hơn. Các Giáo hội Đông phương và Tây phương đã nỗ lực tái lập sự
hiệp nhất của mình. Tuy nhiên, do hậu quả của các cuộc thập tự chinh, và nhất
là cuộc chinh phục Constantinople trong cuộc thập tự chinh thứ IV (1204), sự rạn
nứt của năm 1054 trở nên sâu đậm hơn một cách đáng tiếc.
Điều gọi là Cải cách Gregorianô, được đặt theo tên của Đức
giáo hoàng Grêgôriô VII (1073-1085), đã thành công trong việc chấm dứt việc các
thế lực thế tục bổ nhiệm các giám mục và viện phụ một cách có hệ thống. Các cuộc
bầu cử theo giáo luật đã được tái lập, để các kinh sĩ đoàn bầu chọn các giám mục
giáo phận và các đan viện sẽ bầu chọn viện phụ của họ. Đồng thời, cuộc cải cách
cũng nhằm chống lại những lạm dụng luân lý trong Giáo hội và trong xã hội
phương Tây. Tiến trình cải cách này do giáo hoàng lãnh đạo thông qua các công đồng
địa phương truyền thống Rôma. Trong khi đó, quyền lực của giáo hoàng ngày càng
mở rộng ra phạm vi thế tục, khi Đức Grêgôriô thậm chí còn thành công trong việc
phế truất Hoàng đế Henry IV. Trách nhiệm của Tòa Rôma trong việc bảo vệ Giáo hội
phương Tây khỏi sự can thiệp từ bên ngoài và sự lạm dụng nội bộ ngày càng được
nâng cao.
Do đó, một Giáo hội học nặng tính pháp lý hơn đã được khai
triển. ‘Những Sắc lệnh giả mạo’ (Thế
kỷ IX) và Sắc lệnh giả mạo “Tặng phẩm của
Constantinô” (khoảng thế kỷ VIII), vốn bị nhầm tưởng là xác thực, đã nhấn mạnh
đến nhân vật trung tâm là giáo hoàng trong Giáo hội Latinh. Các dòng khất sĩ mới
vào thế kỷ XIII, chẳng hạn như Dòng Phanxicô và Dòng Đa Minh, được miễn trừ khỏi
tuân phục thẩm quyền giám mục, đã thúc đẩy một quan niệm về ngôi vị giáo hoàng
như là người được giao phó việc chăm sóc mục vụ đối với toàn thể Giáo hội.
Sau Cuộc tranh luận về việc bổ nhiệm Giám mục và Viện phụ
vào cuối thế kỷ XI và đầu thế kỷ XII, Giáo hội lại bước vào một cuộc đấu tranh
lớn khác với các quyền lực thế tục để định hướng thế giới Kitô giáo phương Tây.
Đức giáo hoàng Innôcentê III (1198-1216) đã củng cố quan điểm coi giáo hoàng là
người đứng đầu điều hành toàn thể Giáo hội. Với tư cách là người kế vị thánh
Phêrô, giáo hoàng có toàn quyền (plenitudo
potestatis) và chăm lo cho tất cả các giáo hội (sollicitudo omnium ecclesiarum). Cá nhân các Giám mục được kêu gọi
chia sẻ mối quan tâm của Giáo hoàng (in
partem sollicitunis), bằng việc chăm sóc cho giáo phận của mình.
Vào thời điểm đó, mặc dù tín lý về quyền tối thượng Rôma đã
phát triển, nhưng tính hiệp hành vẫn còn hiển nhiên. Các Giáo hoàng tiếp tục quản
trị Giáo hội Latinh với Thượng hội đồng Rôma, gồm các giám mục thuộc lãnh địa
Rôma và những vị hiện diện tại Rôma. Thượng hội đồng thường họp mỗi năm 2 lần.
Các vấn đề được trình bày và các tham dự viên tự do thảo luận. Với tư cách là
người đứng đầu, Giáo hoàng đưa ra quyết định cuối cùng. Không có bằng chứng nào
cho thấy Giáo hoàng bị ràng buộc bởi một cuộc bỏ phiếu, nhưng cũng không có bằng
chứng nào cho thấy Giáo hoàng đã đưa ra bất kỳ quyết định cuối cùng nào trái với
khuyến nghị của Thượng hội đồng của ngài.
Trong thế kỷ XII, vai trò của Thượng hội đồng Rôma dần dần
được thay thế bằng mật nghị, tức là cuộc họp của các Hồng y. Các Hồng y là
thành viên của hàng giáo sĩ Rôma, 7 vị trong số các Hồng y là giám mục của các
giáo phận ngoại ô của khu vực Rôma. Giáo hoàng thường xuyên tham khảo ý kiến mật
nghị. Với các sắc lệnh năm 1059 và 1179, Hồng y đoàn đã giành được độc quyền
trong việc bầu chọn giáo hoàng. Việc các Hồng y là giám mục vùng ngoại ô hoặc
được ban cho tước hiệu đẳng linh mục hay đẳng phó tế của Rôma nhấn mạnh thực tế
rằng Giáo hội Rôma chứ không phải bất kỳ cơ quan nào khác có quyền bầu chọn
Giám mục của mình.
Ở phương Tây, có các Công nghị cấp Tỉnh, nhưng các Giáo
hoàng cũng triệu tập các Công đồng chung, như 4 Công đồng Lateranô (1123, 1139,
1179, 1215) tiếp tục việc cải cách Giáo hội ở phương Tây. Hiến chế 5 của Công đồng
Lateranô IV (1215) tuyên bố rằng ‘Giáo hội
Rôma... qua sự định đoạt của Chúa có quyền tối thượng đối với tất cả các giáo hội
khác vì Giáo hội Rôma là mẹ và thầy dạy [mater et magistra] của tất cả các tín
hữu của Đức Kitô’. Cũng chính Công đồng này đã kêu gọi người Hy Lạp ‘quy phục như những người con ngoan ngoãn đối
với Giáo hội Rôma thánh thiện, mẹ của họ, để chỉ có một đoàn chiên và một mục tử’
(Const. 4). Lời kêu gọi này không được chấp nhận.
Thời kỳ thống trị này của Giáo hoàng trùng hợp với các cuộc
Thập tự chinh, thoạt đầu được thúc đẩy bởi lời kêu gọi của hoàng đế Byzantine
trong cuộc xung đột của ông với triều đại Seljuk của Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng sau đó
đã phát triển thành sự đối kháng bạo lực giữa người Latinh và người Hy Lạp. Kết
quả của cuộc Thập tự chinh đầu tiên (1095-1099), một thượng phụ Latinh và hàng
giáo phẩm Latinh được thành lập ở Antiôkia (1098) và ở Giêrusalem (1099), thay
thế hoặc tương đương với các thượng phụ Hy Lạp. Cuộc Thập tự chinh thứ III
(1189-1192) đã thiết lập một phẩm trật Latinh ở Cyprus (1191), và trái với các
điều giáo luật, đã bãi bỏ sự tự trị của Giáo hội Cyprus. Các giám mục Hy Lạp, bị
giảm số lượng từ 15 xuống chỉ còn 4, buộc phải tuân theo Giáo hội Rôma và tuyên
thệ trước các giám mục Latinh tương ứng.
Cuộc Thập tự chinh thứ IV (1204) dẫn đến việc Constantinople
bị cướp bóc và thiết lập các phẩm trật Latinh tương đương tại các tòa cổ xưa
còn sót lại của Giáo hội Hy Lạp. Mặc dù ngăn cản người Venice chinh phục
Constantinople, Giáo hoàng Innocent III sau đó đã bổ nhiệm một thượng phụ
Latinh ở Constantinople và ở Alexandria. Các quyết định của Công đồng Lateranô
IV (1215) được áp đặt đặc biệt đối với các Giáo hội ở Giêrusalem và Cyprus.
Nguyên tắc theo đó người ‘Hy Lạp’ có thể giữ các nghi lễ Phụng vụ của họ nhưng
phải chấp nhận giám mục Rôma như là vị đứng đầu và cầu nguyện cho ngài trong
Thánh lễ, đã được thực hành một cách cụ thể tại Cyprus (x. Các Thượng Hội
đồng Latinh Limassol, 1220, và Famagusta, 1222, và Bulla Cypria của Đức giáo
hoàng Alexander IV, 1260). Trong nhiều trường hợp, các giáo sĩ Hy Lạp, từ nay
được coi là thuộc Giáo hội Latinh, buộc phải tham gia các nghi lễ phụng vụ
Latinh. Bầu khí trở nên tồi tệ hơn với thái độ luận chiến của các nhà thần học
tố cáo các tập tục của phương Đông là ‘lỗi
của người Hy Lạp’, hoặc thậm chí là ‘lỗi
của người Hy Lạp ly giáo’.
Bất chấp những thử thách này, vẫn có những người ở Đông
phương vun đắp những mối tương quan giáo hội tốt đẹp và hoạt động để khôi phục
sự hiệp nhất. Các thượng phụ vĩ đại với sự uyên thâm về thần học, chẳng hạn như
Philotheos Kokkinos (c.1300-1379), một môn đệ của Thánh Grêgôriô Palamas, đã
xem xét khả năng triệu tập một công đồng đại kết để đưa ra giải pháp cho các
chia rẽ.
Trong thiên niên kỷ thứ II ở Đông phương, thể chế công đồng
hoạt động theo các nguyên tắc giáo luật của Luật Tông truyền số 34, trong đó
Thượng phụ Constantinople với tư cách là người đứng đầu (protos) và các giám mục hiện diện ở Constantinople tham dự các
phiên họp của Thượng hội đồng Endemousa. Thông qua Thượng hội đồng Endemousa,
Giáo hội đã thể hiện một hình thức công nghị thường trực, gồm các thượng phụ của
Đông phương, hiện diện tại Constantinople, hoặc đại diện của các ngài, và các
giám mục khác được Thượng phụ Constantinople triệu tập để đưa ra các quyết định
của Thượng hội đồng.
Sau sự phục hồi của đế chế Byzantine ở Constantinople năm
1261, việc tái lập các mối tương quan hỗ tương trở thành khả thi. Trên thực tế,
Công đồng Lyon II (1274) đã công bố một hành động hiệp nhất bao gồm việc tuyên
xưng đức tin do Đức giáo hoàng Clêmentê IV (1267) yêu cầu trước đó và được
Hoàng đế Michael VIII Palaiologos ký (vào tháng 2.1274), chấp nhận các chủ
trương của Latinh về sự nhiệm xuất của Chúa Thánh Thần, quyền tối thượng của
giáo hoàng và các điểm gây tranh cãi khác (ví dụ: luyện ngục, bánh không men).
Khẳng định rằng Giáo hội Rôma có ‘summum
plenumque principatum’ [quyền tối thượng
cao nhất và trọn vẹn] đối với toàn thể Giáo hội và người kế vị của Phêrô đã
nhận được ‘plenam potestatem’ [đầy đủ quyền lực] để quản trị Giáo hội,
các giám mục khác được kêu gọi chia sẻ mối quan tâm của ngài. Lời tuyên xưng
này đã bị Giáo hội Constantinople bác bỏ vào năm 1285.
Trong thế kỷ XIV, cuộc tranh cãi về Tĩnh tọa (Hesychast) do Barlaam, một đan sĩ ở
Calabria, kích động, đã nảy sinh ở Đông phương. Các đan sĩ của Núi Athos đã ủy
quyền cho Thánh Grêgôriô Palamas trả lời các thách thức của Barlaam. Trong thế
kỷ XIV, 4 Thượng hội đồng ở Constantinople (1341, 1347, 1351 và 1368) đã bảo vệ
sự phân biệt giữa yếu tính và các công trình của Thiên Chúa, do thánh Gregory
Palamas khai triển trên cơ sở của các Giáo phụ như thánh Basiliô Caesarea và
Thánh Maximus Hiển tu. Những sự kiện này cho thấy việc tiếp tục thực hành tính
hiệp hành ở Đông phương.
Thế kỷ XIV và XV chứng kiến một sự thay đổi triệt để trong
lãnh vực chính trị, kết thúc sự thống trị thế tục của giáo hoàng. Nỗ lực của Đức
giáo hoàng Bonifaxiô VIII (1294-1303) nhằm tái khẳng định quyền tối thượng của
giáo hoàng trong trật tự thế tục trong sắc lệnh Unam Sanctam (1302) đã bị vua nước Pháp phản đối kịch liệt, do đó
đã chấm dứt tham vọng thống trị thế giới về mặt chính trị của giáo hoàng. Giai
đoạn này được nối tiếp vài năm sau đó với việc giáo hoàng bị lưu đày tại thành
Avignon nước Pháp, nơi các Giáo hoàng đã sống 70 năm dưới sự kiểm soát của chế
độ quân chủ Pháp.
Sự hỗn loạn bắt nguồn từ việc bầu chọn 2 và rồi 3 Giáo hoàng
đã gây ra một tổn thương sâu sắc trong Giáo hội phương Tây. Để giải quyết cuộc
khủng hoảng, một Công đồng chung đã được triệu tập ở Constance (1414-1418).
Công đồng này, không chỉ có sự tham dự của các giám mục và viện phụ mà còn có đại
diện của các tổ chức chính trị, đã được khai triển trong sắc lệnh Haec sancta của Công đồng (1415), luận đề
cho rằng thẩm quyền cao nhất trong Giáo hội thuộc về một Công đồng chung, được
hiểu là một hội nghị của các Giám mục và các quyền lực thế tục, khác biệt với
quyền bính của Giáo hoàng. Luận đề này được gọi là ‘thuyết Công đồng (conciliarism). Thuyết Công đồng đã lật đổ
vai trò mang tính giáo luật của Giáo chủ trong Thượng hội đồng và gây nguy hiểm
cho quyền tự do của Giáo hội. Thuyết Công đồng nhấn mạnh ý tưởng mới rằng một
Công đồng cần ‘đại diện’ cho tất cả
các phạm trù của xã hội Kitô giáo, và một Công đồng như vậy, họp 10 năm một lần,
với việc Giáo hoàng sẽ quản trị Giáo hội bằng cách thi hành các quyết định của
Công đồng. Do đó, việc thực hành tính hiệp hành của Giáo hội đã bị thách thức bởi
khái niệm thế tục về tính đại diện tập thể, một khái niệm được rút ra từ luật
Rôma thế tục trao tư cách pháp nhân cho tập thể.
Việc suy yếu thẩm quyền của Giáo hoàng đã tạo cơ hội cho các
quốc gia tăng cường kiểm soát đối với Giáo hội ở phương Tây. Tòa Rôma buộc phải
ký kết các hiệp ước công nhận quyền của các thế lực chính trị được tham gia vào
việc bổ nhiệm giám mục. Một thỏa thuận như vậy được minh họa trong Chế tài thực dụng Bourges (Pragmatic Sanction of Bourges, 1438),
tán thành thuyết Công đồng và chuẩn bị nền tảng cho Chủ nghĩa Pháp giáo (Gallicanism) (x. phần 2.3). Thuyết Công
đồng đã bị Công đồng Lateranô V (15121517) lên án và bị giáo huấn của Công đồng
Vatican I (1869-1870) loại bỏ cách dứt khoát.
Công đồng Ferrara-Florence (1438-1439) nhóm họp trong khi Hội
nghị của những người theo thuyết Công đồng ở Basel (1431-1449), dù bị Giáo
hoàng Eugenius IV (1431-1447) bác bỏ, vẫn đang diễn ra. Cả hai bên phương Tây đều
mời Hoàng đế và Thượng phụ của Constantinople, nhưng theo chính thể Ngũ đầu chế
(pentarchy - quan niệm Giáo hội được
điều hành bởi 5 Tòa Thượng phụ), Hoàng đế và Thượng phụ quyết định không đến
Basel mà đến Ferrara và sau đó đến Florence, nơi có sự hiện diện của Giáo
hoàng. Sự thật là, dưới áp lực của Ottoman và cần sự hỗ trợ quân sự của phương
Tây, Hoàng đế và Thượng phụ đã nhận ra rằng Giáo hoàng ở vị thế có thể tạo ra sự
trợ giúp của phương Tây có lợi cho Constantinople. Công đồng đã đề cập đến các
điểm bất đồng nảy sinh giữa hai Giáo hội, chủ yếu là: Và bởi Chúa Con
(Filioque), việc sử dụng bánh không men cho Thánh Thể, luyện ngục, thị kiến
vinh phúc sau khi chết và quyền tối thượng của Giáo hoàng. Sắc chỉ của sự hiệp
nhất, Laetentur coeli (1439), với phần
dẫn nhập mạnh mẽ dựa trên Kinh thánh, đã ca ngợi Đức Kitô là đầu và là viên đá
góc của Giáo hội hiệp nhất.
Mục tiêu chính của những tuyên bố mạnh mẽ của Florence về
quyền tối thượng của Giáo hoàng là nhằm bác bỏ luận đề thuyết Công đồng ở
Basel. Công đồng tiến hành với 3 lời khẳng định: “Thánh Tông tòa [Rôma] và giáo hoàng Rôma có quyền tối thượng trên toàn
thế giới”; ‘cũng chính vị giáo hoàng Rôma này là người kế vị thánh Phêrô, …là
thủ lãnh của toàn thể Giáo hội, là cha và là thầy của mọi Kitô hữu’; ‘Chúa
Giêsu Kitô của chúng ta, qua con người của Thánh Phêrô, trao ban cho ngài toàn quyền [plenam potestatem] để nuôi dưỡng, cai trị
và cai quản [pascendi, regendi ac gubernandi] toàn thể Giáo hội’. Những khẳng
định này đã được người Hy Lạp chấp nhận với 3 điều kiện, được bao gồm trong sắc
lệnh: a) bổ sung câu, ‘như cũng được bao hàm trong các pháp lệnh của các công đồng
đại kết và trong các điều giáo luật thánh thiêng’; b) đề cập đến các tòa thượng
phụ khác của chính thể Ngũ đầu chế; và c) duy trì các đặc quyền và quyền lợi của
các Thượng phụ (Denzinger-Schönmetzer,
Enchiridion symbolorum, definitionum et declarationum de rebus fidei et morum,
DS, 1307-1308).
Liên quan đến tất cả các vấn đề tranh cãi, Công đồng tuyên bố
rằng những khác biệt trong cách trình bày tín lý hoặc thực hành giáo luật không
ảnh hưởng đến sự hiệp nhất của đức tin. Việc hiệp nhất được người Hy Lạp ký kết
dưới áp lực của hoàn cảnh, và sau đó không được Giáo hội Hy Lạp chấp nhận. Sắc
lệnh đã chính thức bị Công đồng Constantinople bác bỏ vào năm 1484, với sự tham
gia của 4 thượng phụ Đông phương: ‘thông
qua văn kiện này của Công nghị, chúng tôi bác bỏ Công đồng được triệu tập ở
Florence, cùng với minh định của Công đồng này [Sắc lệnh về hiệp nhất] và các đề
xuất bao hàm trong đó, và chúng tôi tuyên bố bằng văn kiện này rằng Công đồng
Florence là vô hiệu› (Melloni-Paschalidis, Conciliorum Oecumenicorum Generaliumque Decreta, IV/1, 227).
2. Từ Cuộc Cải Cách đến Thế Kỷ XVIII
Hai bước phát triển quan trọng mới đã ảnh hưởng đến mối
tương quan giữa tính hiệp hành và quyền tối thượng trong các thế kỷ XVI-XVIII:
Cuộc Cải cách Tin lành, và các cuộc hiệp nhất được thiết lập giữa Rôma và các
Giáo hội đông phương khác nhau. Sự trỗi dậy của đạo Tin lành đã dẫn đến những mối
liên hệ với Đông phương và thậm chí niềm hy vọng về sự hiệp nhất, ít nhất là
trong giai đoạn đầu của cuộc gặp gỡ, mặc dù điều đó lại càng làm chia rẽ phương
Tây hơn. Tính hiệp hành vẫn được thực hiện ở Đông phương trong thời kỳ khó khăn
này, và các quyết định của một số Thượng hội đồng được tổ chức vào thời điểm đó
cho thấy đâu là vấn đề thần học ngăn cách Công giáo Rôma, Chính thống giáo và
Tin lành. Hiện tượng của các cuộc hiệp nhất bị Chính thống giáo coi là một vết
thương và một mối đe dọa, gây ra sự chia rẽ sâu hơn nữa ở Đông phương, và như một
hình thức của thuyết chiêu mộ tín đồ.
Những phản bác của người Cải cách đã được Công đồng Trentô
(1545-1563) tiếp nhận, nhưng Công đồng không đưa ra định nghĩa về quyền tối thượng.
Không thể đạt được sự nhất trí về ý nghĩa của tính tối thượng và các quyền của
Giáo chủ; khuynh hướng chống đối của các Giám mục tỏ ra quá mạnh mẽ, nhất là ở
Pháp. Trong khi ở một số nơi của Giáo hội Latinh, Kinh sĩ đoàn tiếp tục thực hiện
việc bầu chọn Giám mục, thì có quy định rằng phải thiết lập các Hội đồng giáo tỉnh
và gửi danh sách 3 ứng viên đến Rôma, để Giáo hoàng có thể chọn và bổ nhiệm
giám mục (session XXIV; Decretum de
Reformatione, can.1). Sau Công đồng Trentô, Giáo hoàng đã đi đầu trong các
cuộc cải cách theo tinh thần của Công đồng này và Giáo hội Công giáo Rôma ngày
càng tập trung vào tín lý, phụng vụ và hoạt động truyền giáo. Chức vị Giáo
hoàng là tiêu điểm quan trọng trong cuộc tranh luận với Tin lành về đức tin
chân chính, và về lâu dài, quyền bính của Giáo hoàng đã được củng cố trong thời
kỳ hậu Trentô. Ngôi vị Giáo hoàng và việc gắn kết với Giáo hoàng đã trở thành một
dấu hiệu của căn tính Công giáo Rôma chống lại Tin lành. Những nỗ lực của cả
các Dòng tu cũ và mới (ví dụ: Dòng Tên) đối với cuộc cải cách của Công đồng
Trentô và trong việc chống cải cách trong giáo dục và sứ mạng nhân văn đã làm
tăng thêm quyền bính của Giáo hoàng.
Các Thượng hội đồng cấp tỉnh, nhằm thực hiện các cải cách
theo tinh thần Trentô, đã diễn ra ở Ý (ví dụ: Milan, 1566), ở Đế quốc Đức (ví dụ: Salzburg, 1569), ở Pháp (từ 1581) và ở Khối thịnh vượng chung Ba
Lan-Litva (Piotrków, 1589). Dưới áp lực
chính trị, các Giám mục Công giáo Rôma của nhiều vương quốc đã tìm kiếm quyền tự
trị lớn hơn liên quan đến quyền tối thượng của Giáo hoàng. Những khuynh hướng
theo Chủ thuyết Thượng quyền Giám mục này (ví dụ: chủ nghĩa Pháp giáo ở Pháp,
thuyết Febronius ở Đức) tiếp tục ủng hộ thuyết Công đồng. Cuộc cách mạng Pháp
cuối cùng đã dẫn đến sự sụp đổ của Chế độ Cũ và sự suy tàn của Giáo hội quốc
gia, điều mà chung cục đã củng cố mối tương quan giữa Giáo hội ở Pháp và Rôma,
vì sau khi trật tự cũ sụp đổ, chỉ có Giáo hoàng mới có thẩm quyền cải tổ Giáo hội
(x. The Concordat with France in 1801 và The Congress of Vienna in 1814-1815).
Hệ thống luật pháp Millet đã xếp tất cả những tín hữu Chính
thống giáo sống trong Đế quốc Ottoman, không phân biệt sắc tộc, vào Rum-Millet,
thuộc Tòa Thượng phụ Constantinople trong các vấn đề Giáo hội và dân sự. Điều
này nhấn mạnh vị trí trung tâm của Tòa Thượng phụ Constantinople trong Giáo hội
Chính thống, vốn đã được đề cập đến trong giáo luật, và nâng cao tầm quan trọng
của nó so với các Tòa Thượng phụ cổ xưa khác. Bất chấp tình hình mới này, tinh
thần hiệp hành vẫn được duy trì. Các công đồng do Thượng phụ Constantinople triệu
tập để giải quyết các vấn đề theo hướng hiệp hành, chẳng hạn như Công đồng
Constantinople (1593), để xác nhận tước hiệu Thượng phụ đã được cấp trước đó
cho Tổng Giám mục Tòa Moscow; Công đồng Iasi (1642), để phán quyết về Bản Tuyên
xưng Đức tin của Tổng Giám mục Kyiv, Peter Mohyla; và hai Công đồng lớn của
Constantinople (1638, 1642). Các Thượng hội đồng khác đã được triệu tập ở
Constantinople (1672, 1691), và bởi Thượng phụ Dositheus ở Jerusalem (1672), đã
lên án Bản Tuyên xưng Đức tin được cho là của Thượng phụ Constantinople, Cyril
Loukaris.
Bắt đầu từ cuối thế kỷ XVI, đã xuất hiện các tác phẩm luận
chiến của cả các tác giả Đông và Tây phương, đặc biệt về chủ đề quyền tối thượng
của Giáo hoàng. Theo đó, vấn nạn về quyền tối thượng của Giáo hoàng đã được đề
cập đến hoặc để luận chiến hoặc để biện hộ trong các quyết định của công đồng
Đông phương, các bàn tuyên xưng đức tin, và các giải thích giáo luật.
Nhiều cuộc hiệp nhất khác nhau giữa các Giáo hội Đông phương
và Rôma đã được thiết lập giữa thế kỷ XVI và XVIII. Động cơ đối với các cuộc hiệp
nhất này luôn luôn bị tranh cãi. Không thể loại trừ mong muốn thực sự về sự hiệp
nhất của Giáo hội. Các yếu tố tôn giáo và chính trị thường đan xen với nhau.
Các cuộc hiệp nhất thường xuất hiện như những nỗ lực trốn tránh những tình huống
rủi ro ở địa phương. Một số người Ruthênô vào thời điểm Khối thịnh vượng chung
Ba Lan-Litva đã gia nhập Rôma tại Thượng hội đồng Brest (1596). Các cuộc hiệp
nhất khác đã xảy ra ở Croatia (1611), Uzhorod (1646), Transylvania (1700-1701)
và Serbia (1777). Vào cuối thế kỷ XV, Chính thống giáo nói tiếng Albani đã chạy
trốn đến miền nam nước Ý sau cuộc xâm chiếm của Thổ Nhĩ Kỳ, sau đó đã hiệp
thông với Rôma. Năm 1724, vào thời điểm trống tòa thượng phụ Antioch, cộng đồng
ở Đamát đã bầu ra một thượng phụ thân Công giáo, lấy tên là Cyril VI và được
giáo hoàng công nhận vào năm 1729, do đó thành lập Giáo hội Công giáo Melkite.
Các cuộc hiệp nhất cũng được thực hiện với các Giáo hội khác.
Vào đầu thế kỷ XVIII, Nga hoàng Peter I (1689-1725) đã đưa
ra những cải cách ở toàn nước Nga và trong Giáo hội. Tòa thượng phụ bị bãi bỏ
(cho đến năm 1917), và một Thượng hội đồng dưới sự lãnh đạo của một quan chức
nhà nước, gọi là Oberprokuror, điều hành Giáo hội. Trong việc tái cấu trúc việc
quản trị Giáo hội, Nga hoàng Peter đã theo các mô hình Tin lành. Các cấu trúc đồng
nghị chiếm ưu thế, nhưng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nhà nước.
3. Những diễn biến ở thế kỷ XIX
Sau cuộc Cách mạng Pháp và các cuộc chiến tranh của
Napoléon, tình hình của Giáo hội Công giáo Rôma ở Châu Âu rất bấp bênh. Các chế
độ chính trị mới, ngay cả các chế độ quân chủ được khôi phục, là các quốc gia
thế tục tuyên bố duy trì quyền kiểm soát đối với Giáo hội, giống như các chế độ
trước đây đã làm. Một ví dụ là công ước của Pháp năm 1801. Sau đó, để tránh sự
can thiệp của nhà nước vào các công việc của Giáo hội, giáo hoàng đã chấp nhận
học thuyết về Giáo hội như một ‘xã hội hoàn chỉnh’, nghĩa là Giáo hội là một xã
hội độc lập, tự trị và có chủ quyền trong lĩnh vực thẩm quyền của riêng mình,
giống như nhà nước có chủ quyền trong các vấn đề trần thế. Giáo hội tuyên bố có
quyền hạn với một hệ thống pháp luật riêng, tức là không bắt nguồn từ hoặc được
nhà nước ban tặng.
Thông điệp In Suprema
Petri Apostoli Sede (1848) của Đức giáo hoàng Piô IX nhấn mạnh rằng ‘quyền tối thượng của các Giám mục Rôma’
luôn được công nhận ở Đông phương và kêu gọi Chính thống giáo trở lại hiệp
thông với Tòa Phêrô. Các thượng phụ Chính thống giáo của Constantinople,
Alexandria, Antiôkia và Giêrusalem đã phản ứng và ban hành thông điệp của các
Tòa thượng phụ trên năm 1848, trong đó, cùng với các vấn đề khác, họ lập luận
chống lại quyền tối thượng của giáo hoàng.
Năm 1868, Đức giáo hoàng Piô IX gửi một lá thư mời tất cả
các Giám mục Chính thống giáo tham dự Công đồng Vatican I, lời mời này đã bị từ
chối. Đức Thượng phụ Constantinople Grêgôriô VI nói với phái đoàn của Giáo
hoàng đến đưa thư rằng sự tham dự của các Giám mục Chính thống giáo tại Công đồng
‘có nghĩa là một sự phục hồi các cuộc
tranh luận thần học cũ vốn sẽ gia tăng sự bất đồng và khơi lại những vết
thương cũ’. Đối với Thượng phụ Grêgôriô, nguyên nhân chính của sự bất đồng
chính là bản chất quyền bính của Giáo hoàng.
Vào thế kỷ XIX, Giáo hội Chính thống phải đối diện với sự
gia tăng của chủ nghĩa dân tộc, và thậm chí với ý định đưa chủ nghĩa này vào cơ
cấu tổ chức của Giáo hội. Đại Công đồng được tổ chức tại Constantinople năm
1872 đã lên án chủ trương bắt tay giữa Giáo hội và nhà nước, nhân xảy ra cuộc
ly giáo ở Bulgaria. Khi Đế chế Ottoman tan rã, các phong trào giải phóng dân tộc
đã dẫn đến sự hình thành các quốc gia ở vùng Balkan. Để bày tỏ và thúc đẩy sự
hiệp nhất Thánh Thể của Giáo hội trong tình thế mới này, Tòa Thượng phụ
Constantinople đã ban hành sắc lệnh về sự tự trị cho các Giáo hội Hy Lạp
(1850), Serbia (1879), và Rômania (1885), theo truyền thống giáo luật, và những
Giáo hội này đã được ghi danh vào danh sách các Giáo hội Chính thống.
Công đồng Vatican I được tổ chức vào năm 1869-1870 và đưa ra
hai văn kiện: Pastor Aeternus (1870)
về Giáo hội, xác định quyền tối thượng và tính bất khả ngộ của Giáo hoàng, và Dei Filius (1870) về đức tin Công giáo.
Nhiều căng thẳng đã nảy sinh giữa Công giáo Rôma và Chính thống giáo liên quan
đến giáo huấn của Công đồng về chức vụ giáo hoàng. Cần lưu ý hai điểm: thứ nhất,
Vatican I đã gọi Pastor Aeternus là
Hiến chế tín lý ‘đầu tiên’ của mình về Giáo hội của Đức Kitô, bởi vì Hiến chế
này được dự định sẽ được tiếp nối bởi Hiến chế khác, Tametsi Deus, bàn đầy đủ hơn về các Giám mục và toàn Giáo hội. Tuy
nhiên, Công đồng đã bị hoãn lại vì chiến tranh Pháp-Phổ bùng nổ và bản thảo của
văn kiện thứ hai đó không bao giờ được thảo luận. Do đó, Công đồng đã để Giáo hội
học của mình ở thế mất cân bằng; giáo huấn tín lý của Công đồng về chức vụ Giáo
hoàng không được bổ sung bằng giáo huấn về chức vụ Giám mục cũng như không được
đặt vào bối cảnh bằng giáo huấn rộng hơn về Giáo hội. Thứ hai, giáo huấn của Pastor Aeternus bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi
hoàn cảnh của Giáo hội ở Tây Âu thế kỷ XVIII và XIX, nơi đã có sự hồi sinh của
thuyết Công đồng dưới hình thức của Chủ nghĩa Pháp giáo và Thuyết Febronius (x.
phần 2.3 ở trên), vốn thúc đẩy quyền tự trị của các Giáo hội quốc gia, và xu hướng
kèm theo của các quốc gia là đặt Giáo hội dưới quyền của họ. Giáo huấn của Công
đồng về quyền tối thượng và quyền quản trị phổ quát của giáo hoàng là một lời
đáp trả trước mối đe dọa đối với sự hiệp nhất và độc lập của Giáo hội.
Mặc dù Pastor Aeternus
dạy rằng Giáo hoàng có thẩm quyền tài phán Giám mục thông thường và trực tiếp đối
với toàn thể Giáo hội, tuy nhiên, Pastor
Aeternus nhấn mạnh rằng năng quyền của mỗi Giám mục được Giáo hoàng ‘khẳng định, xác nhận và chứng thực’, đồng
thời khẳng định rằng ‘mối dây hiệp nhất’
của Giáo hội là mối dây ‘hiệp thông và
tuyên xưng cùng một đức tin’ (DS 30603061). Hơn nữa, tuyên bố sau đó của
các Giám mục Đức vào năm 1875, được Đức giáo hoàng Piô IX long trọng phê chuẩn,
nhấn mạnh rằng chức giáo hoàng và chức giám mục đều thuộc ‘định chế thần linh’, chống lại một số cách giải thích về giáo huấn
của Công đồng (DS 3115).
Liên quan đến tính bất khả ngộ, Công đồng đã định nghĩa
không phải tính bất khả ngộ của cá nhân Giáo hoàng, mà là khả năng của ngài
trong những điều kiện nhất định để công bố đức tin của Giáo hội một cách không
thể sai lầm (DS 3074), và khi nói rằng các định tín ex cathedra (từ ngai tòa) như vậy là ‘không thể thay đổi do chính nó, chứ không do sự đồng thuận của Giáo hội
[ex sese, non autem ex consensu ecclesiae]’,
điều này không tách Giáo hoàng ra khỏi sự hiệp thông và đức tin của Giáo hội
nhưng tuyên bố rằng những định tín như vậy không cần phải chuẩn y nữa. Đó là một
phản ứng cụ thể đối với điều khoản thứ 4 của 4 điều khoản của Pháp quốc, công bố
năm 1682, trong đó tuyên bố rằng phán quyết của Giáo hoàng ‘không phải là không thể thay đổi, ít là
trong khi chờ sự đồng thuận của Giáo hội’.
Công đồng Vatican I đã củng cố xu hướng phổ biến trong Giáo
hội học phương Tây sau Công đồng Lateranô IV, vốn cho rằng Giáo hội hoàn vũ đứng
trên các Giáo hội địa phương và có toàn quyền trên các Giáo hội địa phương.
Giáo hoàng không chỉ đơn thuần là Giám mục của Giáo hội địa phương ở Rôma, mà
còn là mục tử của toàn thể Giáo hội. Giáo hoàng có thẩm quyền đối với toàn thể
Giáo hội, trong khi các Giám mục có thẩm quyền đối với đoàn chiên cụ thể của họ.
Giáo huấn của Công đồng Vatican I về quyền tối thượng và
tính bất khả ngộ của Giáo hoàng đã bị một số tín hữu Công giáo Rôma bác bỏ, và
sau đó họ lập ra Giáo hội Công giáo Cổ. Giáo huấn cũng gây ra một số phản ứng từ
các Giáo hội Công giáo Đông phương, mặc dù cuối cùng họ đã chấp nhận giáo huấn
này.
Giáo huấn của Công đồng Vatican I về quyền tối thượng của
Giáo hoàng đối với toàn thể Giáo hội và tính tính bất khả ngộ của Giáo hoàng đã
bị Giáo hội Chính thống coi là không thể chấp nhận được. Đối với Chính thống
giáo, một Giáo hội học như vậy là một sự xa rời nghiêm trọng so với truyền thống
giáo luật của các Giáo phụ và các Công đồng đại kết, bởi vì nó làm cho tính
công giáo của mỗi Giáo hội địa phương bị lu mờ. Sau Công đồng Vatican I, Chính
thống giáo triển khai nhiều lập luận, trong đó có lập luận cho rằng Thủ lãnh
toàn thể Giáo hội không phải là một con người tội lỗi, hay chết, mà là Đức Kitô
Thần-nhân vô tội và bất tử; rằng bản thân Thánh Phêrô không phải là một quốc
vương cũng không phải là người quyền năng, nhưng là người thứ nhất trong số các
tông đồ; rằng thẩm quyền của mỗi Thượng phụ được xác định về mặt địa lý bởi các
quy tắc thiêng liêng và không ai có thẩm quyền trên toàn thể Giáo hội. Về vấn đề
cụ thể của tính bất khả ngộ, Giáo hội Chính thống cũng cho rằng tính bất khả ngộ
thuộc về Giáo hội với tư cách là một toàn thể, như được biểu lộ qua các Công đồng
được toàn thể dân Chúa tiếp nhận. Phải thừa nhận rằng những lập luận này thường
được viện dẫn theo cách luận chiến chứ không phải theo cách phê bình lịch sử.
Tông thư Orientalium
Dignitas (1894) của Đức giáo hoàng Lêô XIII đã công nhận các quyền riêng biệt
của tất cả các Giáo hội Công giáo Đông phương và cho thấy một cách tiếp cận tôn
trọng các truyền thống Đông phương. Thông điệp Praeclara Gratulationis (1895) của Đức Lêô XIII đã mời tất cả những
người Chính thống giáo hiệp nhất với Giáo hội Rôma với điều kiện họ phải nhìn
nhận quyền tối thượng của Giáo hoàng. Thượng phụ Constantinople Anthimus VII
cùng với Công nghị đã viết một lá thư nhân danh Thượng phụ và Thượng hội đồng
vào năm 1895 để bày tỏ quan điểm mạnh mẽ phủ nhận Thuyết Quy hiệp (uniatism) như một phương pháp chiêu mộ
các Kitô hữu Chính thống. Họ cũng từ chối lời mời của Đức giáo hoàng Lêô.
4. Thế kỷ XX và thế kỷ XXI: Trở về nguồn và Tái lập
tương quan
Trong thế kỷ XX, các phong trào học hỏi Kinh Thánh, Giáo phụ
và Phụng vụ dẫn đến việc lưu ý hơn đến giáo huấn của Kinh Thánh, của các Giáo
Phụ, cũng như Phụng vụ. Các mối tương quan giữa Công giáo Rôma và Chính thống
giáo đã được hưởng lợi từ sự trở về nguồn này (ressourcement).
Khái niệm sobornost’
được phát triển ở Nga vào thế kỷ XIX bởi một nhóm các nhà tư tưởng Chính thống
giáo được gọi là những người yêu văn hóa
Slave (slavophiles) như một phản ứng
đối với Thượng hội đồng do nhà nước kiểm soát được Nga hoàng Peter I thành lập
năm 1721 (xem phần 2.7 ở trên). Thuật ngữ này bắt nguồn từ chữ sobor, trong tiếng Slav dùng trong Giáo
hội có nghĩa là một ‘cuộc hội họp’ hoặc
‘hội nghị’ hoặc ‘Thượng hội đồng’ của Giáo hội. Trong tín biểu đức tin, hạn từ
trong tiếng Hy Lạp katholikèn được dịch
sang tiếng Slav dùng trong Giáo hội là sobornuyu.
Những người yêu văn hóa Slave dùng từ
sobornost’ nhắm tới một phẩm chất nội
tại của toàn thể Giáo hội: tính công giáo và sự tham gia của tất cả những người
đã chịu phép Rửa vào đời sống của Giáo hội. Ý tưởng về sobornost’ thể hiện rõ ràng trong tiến trình chuẩn bị, thành phần
tham dự, và ra quyết định của Công đồng Moscow (1917-1918), vốn liên quan đến tất
cả các thành phần của Giáo hội. Mặc dù bị chỉ trích, nhất là vì bị ảnh hưởng
quá nhiều bởi lý tưởng tập thể hóa và không thừa nhận thích đáng phẩm trật của
Giáo hội, sobornost’ đã có một ảnh hưởng
quan trọng đối với giáo hội học, cả Chính thống giáo lẫn Công giáo Rôma, vì
cách hiểu của họ về Giáo hội như sự hiệp thông mang tính công đồng hơn (x.
Ravenna, 5).
Vào thế kỷ XIX ở phương Tây, trường phái Tübingen đã cổ vũ
khái niệm Giáo hội như là sự hiệp thông (communio)
thông qua việc phục hồi truyền thống Giáo phụ. Ý tưởng này diễn tả niềm xác tín
rằng đời sống của Giáo hội phát xuất từ trên cao, và Giáo hội là biểu tượng của
Chúa Ba Ngôi (ecclesia de Trinitate),
nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần. Đây chính là cơ sở cho việc đổi mới suy tư
Giáo hội học, nhất là trong thế kỷ XX. Theo cách hiểu như vậy về Giáo hội, có cả
sự duy nhất và sự đa dạng, như trong Chúa Ba Ngôi, và điều này áp dụng cho Giáo
hội theo nhiều cách khác nhau. Toàn thể Giáo hội là nhiệm thể Đức Kitô, trong
đó mỗi chi thể đều được Thánh Thần ban ơn vì ích lợi của thân thể và tất cả được
liên kết với nhau bằng mối dây yêu thương (x. 1 Cr 12-13). Sự hiệp thông của
Các Thánh (sancti) xảy ra nhờ sự hiệp
thông trong các sự thánh (sancta) (x.
1 Cr 10, 16-17). Cũng vậy, Giáo hội duy nhất mang hình thức hiệp thông của các
Giáo hội địa phương, trong mỗi Giáo hội địa phương này đểu có Giáo hội hoàn vũ
duy nhất, đến nỗi có sự cư ngụ hỗ tương giữa Giáo hội địa phương và Giáo hội
hoàn vũ và giữa chính các Giáo hội địa phương với nhau.
Một trong những kết quả quan trọng nhất của việc trở về nguồn
trong thế kỷ XX là ‘Giáo hội học Thánh thể’,
một Giáo hội học coi việc Giáo hội địa phương quy tụ xung quanh giám mục của
mình để cử hành Thánh Thể như một biểu thị của toàn thể Giáo hội (x. Ignatius, Smyrn. 8), và như là điểm khởi
đầu và trọng tâm của suy tư Giáo hội học. Công đồng Vatican II (1962-1965) đã dạy
rằng một cuộc quy tụ như thế là ‘biểu hiện
chính của Giáo hội’ (Sacrosanctum
Concilium, 41), và hy tế Thánh Thể là ‘nguồn
mạch và chóp đỉnh của toàn bộ đời sống Kitô hữu” (Lumen Gentium, 11; x. Sacrosanctum
Concilium, 10). Công đồng nhấn mạnh thêm tầm quan trọng của Giáo hội địa
phương khi nói rằng ‘Giám mục, bởi nhận
lãnh bí tích Truyền chức thánh cách viên mãn, là “người quản lý ân sủng của chức
linh mục tối cao”, nhất là trong phép Thánh Thể do chính ngài dâng hoặc lo liệu
để có người dâng, nhờ đó Giáo hội luôn sống động và tăng triển’ (Lumen Gentium, 26). Đại Thánh Công đồng
của Giáo hội Chính thống ở Crete (2016) tuyên bố rằng ‘truyền thống của các Tông đồ và Giáo phụ’ luôn nhấn mạnh ‘mối liên kết
bất khả phân ly giữa toàn bộ mầu nhiệm của Nhiệm cục thần linh trong Đức Kitô và mầu nhiệm của Giáo hội, và cũng
như giữa mầu nhiệm Giáo hội và mầu nhiệm Thánh Thể, vốn không ngừng được củng
cố trong đời sống bí tích của Giáo hội nhờ tác động của Chúa Thánh Thần’
(Encyclical I, 2). Tương tự như vậy, Thánh Công đồng cũng nói rõ “mỗi Giáo hội địa phương khi dâng tiến Thánh
Thể là sự hiện diện và biểu hiện tại địa phương của Giáo hội Công giáo, Thánh
thiện, Duy nhất và Tông truyền” (Message,
1). Hai Đại Công đồng này cần được nghiên cứu kỹ lưỡng.
Vào đầu thế kỷ XX, Giáo hội Chính thống phải đối diện với
nhiều thách đố – chẳng hạn, liên quan đến mối tương quan với các Kitô hữu khác,
việc chiêu mộ tín đồ, thế tục hóa, và chủ trương bắt tay giữa Giáo hội và nhà
nước – khiến Tòa Thượng phụ Constantinople phải tìm kiếm sự hợp tác chặt chẽ
hơn giữa các Giáo hội Chính thống tự trị. Vào năm 1902, Thượng phụ Joachim III
đã gửi một Thông điệp tới các Giáo hội Chính thống tự trị để tham khảo ý kiến về
nhiều chủ đề khác nhau, nhằm tìm cách thúc đẩy sự hiệp nhất Toàn Chính thống.
Các Giáo hội đã hưởng ứng một cách tích cực. Vào năm 1920, Thánh Công đồng của
Tòa Thượng phụ Constantinople đã ban hành một Thông điệp có tựa đề “Gửi các Giáo hội của Chúa Kitô ở mọi nơi”,
kêu gọi sự liên lạc và cộng tác chặt chẽ hơn giữa các Kitô hữu. Tòa Thượng phụ
Constantinople cũng triệu tập một Hội nghị Toàn Chính thống ở Constantinople
vào năm 1923, và sau đó đã tổ chức một cuộc họp Toàn Chính thống tại đan viện
Vatopedi trên Núi Athos (1930), cuộc họp này đã liệt kê các chủ đề sẽ được đưa
vào chương trình nghị sự của Đại Thánh Công đồng. Những nỗ lực này đã bị gián
đoạn chủ yếu do Chiến tranh thế giới thứ II.
Thượng phụ Athenagoras đã triệu tập các hội nghị Toàn Chính
thống (Rhodes 1961, 1963 và 1964; Chambésy, Geneva 1968) thiết lập chương trình
nghị sự của Đại Thánh Công đồng. Một loạt các Hội nghị Tiền-công đồng được tổ
chức tại Chambésy để chuẩn bị các tài liệu liên quan. Trong bối cảnh này, 4 hội
nghị phụng vụ của các Giáo chủ các Giáo hội Chính thống tự trị (Constantinople
2008 và 2014, Chambésy 2016, và Crete 2016) đã dẫn đến việc Thượng phụ
Constantinople Bartholomew triệu tập Đại Thánh Công đồng tại Crete với sự đồng
tâm nhất trí của các Giáo chủ của các Giáo hội Chính thống từ ngày
19–27/6/2016. Việc triệu tập Đại Thánh Công đồng cho thấy rằng ‘Giáo hội Chính thống thể hiện tính hiệp nhất
và công giáo của mình “trong Công đồng”. Công đồng tính [tức tính hiệp hành] thấm
nhập tổ chức của Giáo hội, cách thức đưa ra các quyết định và xác định đường lối
của Giáo hội’’ (Message, 1).
Trong số các vấn đề giáo hội học khác, Công đồng Vatican II
đã đề cập đến vấn đề về cách hiểu chức vụ giám mục và chức vụ này có liên quan
với thừa tác vụ của Giáo hoàng như thế nào, vốn vẫn còn bỏ ngỏ trong Công đồng
Vatican I. Công đồng Vatican II đã tích hợp và bổ sung giáo huấn của Công đồng
Vatican I khi nói rằng Giáo hoàng có thẩm quyền tối cao và trọn vẹn đối với
Giáo hội và trong một số trường hợp nhất định, ngài có thể công bố giáo thuyết
về đức tin của Giáo hội một cách bất khả ngộ bằng cách nói rằng toàn thể các
giám mục (giám mục đoàn) hiệp nhất với vị đứng đầu là Giáo hoàng, cũng thi hành
cả hai đặc quyền này (Lumen Gentium,
22, 25). Do đó, giữa các Giám mục và Giáo hoàng đã có sự cân bằng hơn. Công đồng
tái khẳng định trách nhiệm của các Giám mục không chỉ đối với Giáo hội địa
phương của mình mà còn đối với toàn thể Giáo hội (Lumen Gentium, 23), và Công đồng đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng
của một Công đồng Đại kết, khi các Giám mục cùng hành động với Đức giáo hoàng
như ‘những thầy dạy và thẩm phán về đức
tin và phong hóa đối với Giáo hội phổ quát’ (Lumen Gentium, 25). Năm 1965, Đức giáo hoàng Phaolô VI thiết lập
Thượng Hội đồng Giám mục như là một Hội đồng
Giám mục Thường trực cho Giáo hội hoàn vũ”, đại diện cho ‘toàn thể hàng giám mục Công giáo’, nhằm
trợ giúp Đức giáo hoàng trong khả năng cố vấn và tham vấn (Tông thư Apostolica Sollicitudo).
Vào tháng Giêng năm 1964, Đức giáo hoàng Phaolô VI và Đức
Thượng phụ Athenagoras đã gặp nhau trên Núi Ôliu ở Giêrusalem. Vào ngày mồng
7/12/1965, ngày áp chót của Công đồng Vatican II, các ngài đã xoá bỏ vạ tuyệt
thông lẫn nhau năm 1054 trong một nghi thức đồng thời tại Vatican và Phanar.
Trong các cuộc trao đổi của các ngài vào thập niên 1960, Thượng phụ Athenagoras
và Đức giáo hoàng Phaolô VI bắt đầu sử dụng thuật ngữ “các Giáo hội chị em” đối với Giáo hội Rôma và Giáo hội
Constantinople. Công đồng Vatican II nhìn nhận rằng các Giáo hội Đông phương ‘sở hữu các Bí tích đích thực, đặc biệt là
bí tích Truyền chức linh mục và bí tích Thánh Thể do sự kế vị tông truyền’
(Unitatis Redintegratio, 15), và thúc
đẩy đối thoại với các Giáo hội này, lưu tâm đến các mối tương quan tồn tại giữa
các Giáo hội Đông phương và Tòa Rôma ‘trước
khi chia rẽ’ (Unitatis Redintegratio,
14).
Vào năm 1995, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: ‘Nếu những người muốn đứng đầu được mời gọi
trở thành người phục vụ mọi người, thì quyền tối thượng của tình yêu sẽ được phát triển từ lòng can
đảm của đức ái này. Tôi nguyện xin Chúa khơi dậy, trước hết nơi bản thân tôi,
và nơi các giám mục của Giáo hội Công giáo, những hành động cụ thể để làm chứng
cho sự xác tín nội tâm này’ (Orientale
Lumen, 19). Ngài cũng bày tỏ sự sẵn sàng ‘tìm cách thực hiện quyền tối thượng, trong khi không từ bỏ những gì
thiết yếu đối với sứ mạng của mình, nhưng vẫn mở ra cho một tình huống mới’,
và ngài đề nghị một cuộc thảo luận, một cách cụ thể là giữa các giám mục và các
nhà thần học Công giáo Rôma và Chính thống giáo về việc thực thi quyền tối thượng
‘để chúng ta có thể tìm kiếm, tất nhiên
là cùng nhau, những hình thức mà thừa tác vụ này có thể hoàn thành việc phục vụ
tình yêu được tất cả những người có liên quan công nhận’ (Ut Unum Sint, 95). Đức giáo hoàng
Bênêđictô XVI và Đức giáo hoàng Phanxicô đã thường xuyên lặp lại lời mời gọi
này, và cả hai vị thường viện dẫn sự diễn tả của Thánh Ignatius thành Antiochia
về Giáo hội Rôma như là ‘chủ sự trong
tình yêu [agape]’ (Ad Romanos,
Proemium).
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh rằng tính hiệp hành là ‘một yếu tố cấu thành Giáo hội’. Ước muốn
của ngài về ‘một Giáo hội hoàn toàn mang
tính hiệp hành’ (Diễn văn Kỷ niệm 50 năm Thành lập Thượng Hội đồng Giám mục,
ngày 17/10/2015) khuyến khích mạnh mẽ việc tìm kiếm một tính hiệp hành hữu hiệu
hơn trong Giáo hội Công giáo Rôma. Ngài đã nói rằng, ‘trong cuộc đối thoại với các anh chị em Chính thống giáo, tín hữu Công
Giáo chúng ta có cơ hội học hỏi thêm về ý nghĩa của tính hiệp đoàn giám mục và
kinh nghiệm của họ về tính hiệp hành’ (Tông huấn Evangelii Gaudium, 2013, 246).
Kết luận
Các vấn đề lớn làm phức tạp thêm việc hiểu cho đúng về tính
hiệp hành và quyền tối thượng trong Giáo hội. Giáo hội không được hiểu hoàn
toàn như một kim tự tháp, với quyền tối thượng quản trị từ trên xuống, nhưng
cũng không được hiểu một cách tương tự như một liên đoàn các Giáo hội độc lập.
Nghiên cứu lịch sử của chúng ta về tính hiệp hành và quyền tối thượng trong
thiên niên kỷ thứ II đã cho thấy sự bất cập của cả hai quan điểm này. Cũng thế,
rõ ràng là đối với Công giáo Rôma, tính hiệp hành không chỉ đơn thuần là tư vấn,
và đối với Chính thống giáo, quyền tối thượng không chỉ đơn thuần là danh dự.
Năm 1979, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II và Thượng phụ Constantinople Dimitrios
đã nói: “Cuộc đối thoại trong đức ái… đã
mở ra con đường để hiểu rõ hơn về các quan điểm thần học tương ứng của chúng ta
và từ đó dẫn đến những cách tiếp cận mới đối với công tác thần học, và một
thái độ mới đối với quá khứ chung của các Giáo hội của chúng ta. Việc thanh tẩy ký ức chung của các Giáo hội
chúng ta là kết quả quan trọng của cuộc đối thoại bác ái và là điều kiện không
thể thiếu cho sự tiến triển trong tương lai’ (Tuyên ngôn Chung,
30/11/1979). Tín hữu Công giáo Rôma và Chính thống giáo cần tiếp tục đi theo lộ
trình đó để nắm bắt một sự hiểu biết đích thực về tính hiệp hành và quyền tối
thượng dưới ánh sáng ‘các nguyên tắc thần
học, các điều khoản giáo luật, và các thực hành phụng vụ’ (Chieti, 21) của Giáo hội chưa bị phân rẽ
trong Thiên niên kỷ thứ I.
Công đồng Vatican II đã mở ra những viễn cảnh mới bằng việc
giải thích một cách nền tảng mầu nhiệm Giáo hội như là một mầu nhiệm của sự hiệp
thông. Hiện nay, ngày càng có nhiều nỗ lực nhằm thúc đẩy tính hiệp hành ở mọi cấp
độ trong Giáo hội Công giáo Rôma. Cũng có sự sẵn sàng để phân biệt điều có thể
được gọi là thừa tác vụ gia trưởng của Giáo hoàng trong Giáo hội Tây phương hoặc
Latinh do chức vụ ban đầu của ngài liên quan đến sự hiệp thông của tất cả các
Giáo hội, mang lại những cơ hội mới cho tương lai. Trong Giáo hội Chính thống,
tính hiệp hành và quyền tối thượng được thực hiện ở cấp độ Toàn Chính thống,
theo truyền thống giáo luật, bằng việc tổ chức các Đại thánh Công đồng.
Tính hiệp hành và quyền tối thượng cần phải được coi là ‘những thực tại liên hệ với nhau, bổ sung cho
nhau, và không thể tách rời’ (Chieti, 5) theo quan điểm thần học (Chieti,
4, 17). Chỉ nguyên các cuộc thảo luận lịch sử là chưa đủ. Giáo hội cắm rễ sâu
trong mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, và một khoa Giáo hội học Thánh thể về hiệp thông
là mấu chốt để phát biểu một nền Thần học vững chắc về tính hiệp hành và quyền
tối thượng.
Tính tương thuộc giữa hiệp hành và quyền tối thượng là
nguyên tắc cơ bản trong đời sống Giáo hội. Về bản chất, sự phụ thuộc này liên
quan đến việc phục vụ sự hiệp nhất của Giáo hội ở cấp địa phương, khu vực, và
hoàn vũ. Tuy nhiên, các nguyên tắc phải được áp dụng trong bối cảnh lịch sử cụ
thể và thiên niên kỷ thứ I đưa ra hướng dẫn có giá trị cho việc áp dụng nguyên
tắc vừa được đề cập (Chieti, 21). Điều
cần thiết trong những hoàn cảnh mới là một ứng dụng mới và thích hợp của cùng một
nguyên tắc quản trị.
Chúa chúng ta đã cầu xin cho các môn đệ của Người: ‘xin cho tất cả nên một’ (Ga 17,21).
Nguyên tắc hiệp hành – quyền tối thượng trong việc phục vụ sự hiệp nhất cần được
viện dẫn để đáp ứng các nhu cầu và đòi hỏi của Giáo hội trong thời đại chúng
ta. Chính thống giáo và Công giáo Rôma cam kết tìm cách vượt thắng mối bất hòa
và chia rẽ đã xảy ra trong thiên niên kỷ thứ II.
Sau khi cùng nhau suy tư về lịch sử của thiên niên kỷ thứ
II, chúng tôi thừa nhận rằng việc đọc chung các nguồn tài liệu có thể truyền cảm
hứng cho việc thực hành tính hiệp hành và tính tối thượng trong tương lai. Tuân
theo mệnh lệnh của Chúa chúng ta là yêu thương nhau như Người đã yêu thương
chúng ta (Ga 13,34), bổn phận Kitô hữu của chúng ta là cố gắng đạt được sự hiệp
nhất trong đức tin và đời sống.
Nt. Anna Ngọc Diệp, Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: christianunity.va
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 136 (Tháng 7 & 8 năm 2023)