SỰ PHÂN ĐỊNH CỘNG ĐOÀN
(hay chiều kích cộng đoàn của sự phân định)
Lm. Giu-se Đỗ Mạnh
Thịnh
Đại chủng viện
Thánh Giu-se Xuân Lộc
Ngày 3 tháng 7 năm
2022
WHĐ (04.7.2022) - Trong truyền thống linh đạo
Ki-tô giáo, sự phân định là một trong
những thực hành quan trọng. Việc hiểu về sự phân định thường được gắn liền với
những chọn lựa cụ thể trong đời sống hàng ngày của người môn đệ Đức Ki-tô. Tuy
nhiên, cũng vì vậy mà sự phân định thường bị giới hạn trong chiều kích cá nhân,
trong khi người ta dễ dàng bỏ qua chiều kích cộng đoàn của nó. Thực sự, sự phân
định luôn được nhìn nhận trong hai chiều kích cá nhân và cộng đoàn (sự phân định cá nhân và sự phân định cộng đoàn).
Chúng ta đã có dịp chia sẻ về sự phân định cá
nhân[1].
Bài viết này nhấn mạnh đến chiều kích cộng đoàn của sự phân định – hay sự phân định cộng đoàn, gồm các yếu tố được xem là quan trọng: (1)
Cộng đoàn quy tụ trong Chúa Ki-tô, (2) Cộng đoàn lắng nghe và (3) Cộng đoàn tiến
bước như Dân Thiên Chúa.
1. Cộng
đoàn quy tụ quanh Chúa Ki-tô – hay xác tín sự hiện diện của Chúa
Yếu tố đầu tiên và vô cùng quan trọng trong sự phân định cộng đoàn, đó là cộng đoàn
luôn xác tín rằng mình được quy tụ trong Chúa Ki-tô: “Ở đâu có hai ba người họp
lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20). Đây không phải là một
lý thuyết có tính giáo điều, nhưng là một xác tín, một sự tuyên xưng và thực
hành trong Giáo hội trải dài suốt dòng lịch sử của mình. Niềm xác tín này được
nhìn nhận như là thuộc về cảm thức Đức tin của Giáo hội (sensus fidei fidelium) [2].
Để hiểu rõ hơn về niềm xác tín vào sự hiện diện
của Thiên Chúa trong cộng đoàn, thiết tưởng chúng ta cần trở về với cuộc Xuất hành
của đoàn Dân thánh trong thời Cựu ước. Ở đó, nhiều lần Mô-sê đã cố gắng thuyết
phục dân rằng chính Đức Chúa ở giữa họ, chính Người đồng hành (x. Xh 33,12-17),
lãnh đạo (x. Đnl 8,1-4) và chiến đấu giúp họ (x. Đnl 1,29-33) chứ không phải bản
thân ông (Mô-sê). Đối với đoàn Dân thánh trong cuộc Xuất hành mới, niềm xác tín
về sự hiện diện của Chúa Ki-tô như là Đầu đã được hình thành từ thời các Tông đồ,
nhất là trong những thời khắc có tính quyết định liên quan đến việc chọn người
thay thế Giu-đa (x. Cv 1,23-26), hoặc khi phải đương đầu với các vấn đề nóng bỏng
liên quan đến đức tin và luân lý (x. Cv 15).
Niềm xác tín về sự hiện diện của Chúa Ki-tô
như là Đầu của cộng đoàn không có nghĩa là ‘cào bằng’ yếu tố phẩm trật trong cộng
đoàn hoặc làm lu mờ hay phủ nhận vai trò của Phê-rô như nguyên lý hiệp nhất,
cũng không phải là xem thường những tiếng nói ‘nhỏ bé, kém cỏi’ trong cộng
đoàn. Trái lại, việc nhìn nhận Đức Ki-tô hiện diện như là Đầu của Thân mình Mầu
nhiệm sẽ đặt mỗi chi thể, trước lương tâm của mình, trên hết phải tìm về trách
nhiệm và vai trò của mình trong việc kiến tạo sự liên đới, hài hòa và quy phục
trong toàn Thân thể Mầu nhiệm (x. 1Cr 12,12-30). Như vậy, theo Đức Thánh Cha
Phan-xi-cô, sự phân định cộng đoàn không
lệ thuộc vào khả năng đặc biệt của một số người, nó cũng không phải là điều chỉ
dành riêng cho những thành phần ưu tuyển có được trí thông minh hay sở trường
chuyên môn sâu rộng. Vì chưng, Thiên Chúa sẵn sàng mặc khải chính Ngài cho những
kẻ bé mọn[3].
Từ đây nảy sinh một đòi hỏi cấp thiết khác trong sự phân định cộng đoàn, đó là khả năng lắng nghe.
2. Cộng
đoàn lắng nghe
Sách Công vụ Tông đồ minh chứng rằng sự sống của
Giáo hội được bắt đầu từ việc lắng nghe: lắng nghe tiếng nói của Chúa Thánh Thần,
lắng nghe nhau và lắng nghe từ những thực tại cụ thể. Như một hệ quả, lắng nghe
dẫn đến việc tái khám phá ra chiều kích Thánh Linh của Giáo hội. Dựa vào truyền
thống Tông đồ, Đức Thánh Cha
Phan-xi-cô nhấn mạnh: sự phân định cộng
đoàn phải xuất phát từ một thái độ sẵn sàng lắng nghe: “Lắng nghe nhau, lắng
nghe truyền thống đức tin của chúng ta và lắng nghe các dấu chỉ thời đại để nhận
biết những gì Chúa đang nói với chúng ta”[4].
Như vậy, cộng đoàn lắng nghe thực sự là một tác động kép gồm ba chiều kích có
liên hệ và gắn liền với nhau – lắng nghe nhau, lắng nghe thực tại cuộc sống và
lắng nghe Thiên Chúa. Thực sự, “chỉ khi chúng ta đã sẵn sàng lắng nghe, thì
chúng ta mới có đủ tự do để gác qua một bên những ý tưởng bất cập hay phiến diện
của mình, những thói quen thường tình của mình và những cách mình nhìn mọi sự.
Nhờ đó, chúng ta trở nên thực sự mở lòng ra để đón nhận một tiếng gọi có thể
làm xáo trộn sự an toàn của mình, nhưng dẫn mình tới một đời sống tốt hơn.”[5]
Trong thực tế, việc lắng nghe thường bị giới hạn
bởi những tư duy độc đoán, những tiên kiến chủ quan đã được hoạch định hay những
tình cảm có tính ‘phe nhóm’. Kết quả là: việc thiếu khả năng lắng nghe sẽ dẫn đến
những chia rẽ, mâu thuẫn; thậm chí người ta có thể trở nên hung hăng đối với
nhau và bịt tai lại trước tiếng nói của Thiên Chúa. Đó là điều đã xảy ra trong
cuộc tử đạo của phó tế Stê-pha-nô mà sách Công vụ Tông đồ thuật lại (x. Cv
7,57).[6]
Thực sự, việc lắng nghe không chỉ liên quan đến
khả năng thính giác của con người, nhưng nó liên quan đến toàn bộ con người.
Hay nói đúng hơn, nơi sâu thẳm của sự của lắng nghe chính là trái tim – lắng
nghe bằng trái tim. Nghĩa là để cho trái tim bị khuất phục trước ý Thiên Chúa
chứ không phải ý riêng mình (x. Lc 22,42); để trái tim rộng mở với mọi người và
thực tại trong niềm xác tín rằng Thiên Chúa thường nói qua những người và những
hoàn cảnh mà chúng ta dễ dàng loại trừ, gạt qua một bên hay không đếm xỉa đến[7].
Dù còn rất trẻ, Vua Sa-lô-môn đã chứng tỏ mình khôn ngoan vì ông đã cầu xin
Chúa ban cho ông một “trái tim biết lắng nghe” (x. 1V 3,9).
Vì thế, trong Giáo hội nói chung hay trong từng
cộng đoàn cách riêng, việc lắng nghe và lắng nghe lẫn nhau bằng ‘trái tim’ là rất
cần thiết và hệ trọng. Đó là món quà quí giá mà những môn đệ của Chúa Ki-tô có
thể trao ban cho nhau, và nhờ đó giúp nhau lắng nghe tiếng nói của Thánh Thần.
Hơn nữa, lắng nghe cũng chính là sứ vụ quan trọng của các Ki-tô hữu đã được
chính Đức Ki-tô trao cho, Người là Đấng lắng nghe vĩ đại và là Đấng đã chia sẻ
sứ vụ đó cho họ. Nói cách khác, theo Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, “Chúng ta nên lắng
nghe bằng đôi tai của Thiên Chúa để chúng ta có thể nói lời của Thiên Chúa.”[8]
3. Cộng
đoàn tiến bước như Dân Thiên Chúa
Nếu lấy các Công đồng làm biểu mẫu quy chiếu,
chúng ta dễ dàng nhận ra rằng ngay từ thời các Công đồng đầu tiên (x. Cv 15)
cho đến các Công đồng trong các thế kỷ trước (Vat. I, II), và cả trong Thượng hội
đồng đang diễn ra (THĐ. 2021-2023), sự
phân định cộng đoàn luôn là linh hồn của đời sống Giáo hội xét như một đoàn
Dân Thiên Chúa đang tiến bước. Tuy nhiên, dựa vào kinh nghiệm của đoàn Dân
thánh thời Cựu ước (x. Xuất Hành) cũng như đoàn Dân thánh mới (x. Công vụ Tông
đồ), chúng ta có thể xác quyết rằng Dân Thiên Chúa hiệp hành không phải là (một
đám đông) hành trình mà không biết mình đi đâu. Dân Thiên Chúa hành trình cùng nhau,
nhưng không chỉ là hành trình, mà bởi vì đoàn dân đó hành trình để biết mình sẽ
đi đâu – đi đến sự hoàn thành của Nước Trời và do đó, phải tự vấn mình trên đường
đi, lắng nghe những gì Thánh Thần nói với mình. Điều đó làm cho Giáo hội hiệp
hành khác biệt với các thể chế chính trị hay các tổ chức xã hội; nó cũng khác
biệt với các dạng thức nghị viện hay quốc hội trong các quốc gia.
Như vậy, sự
phân định cộng đoàn không phải là một hành động tập thể có tính cách thời vụ
hay ngẫu hứng mang tính đối phó, nhưng đó là cách sống của Giáo hội nói chung,
các cộng đoàn và từng người nói riêng, một cung cách sống “đặt nền tảng trên Đức
Ki-tô, theo sự chỉ dẫn của Chúa Thánh Thần. Sống sao cho vinh quang Chúa được rạng
rỡ hơn.” Như vậy, “Sự phân định cộng đoàn
giúp xây dựng các cộng đoàn năng động và bền bỉ thi hành sứ vụ của Hội Thánh
ngày nay.”[9]
Kết luận
Trải qua hơn 2000 năm, Giáo Hội Chúa Ki-tô vẫn
luôn hiện diện trong thế giới một cách sống động và hữu hiệu bất kể trong “lúc
thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2 Tm 4,2). Giáo hội hiện diện như
đoàn Dân thánh hiệp hành hướng đến một mục đích rõ ràng và không thay đổi: Hợp
nhất trong Chúa Ki-tô, và được Chúa Thánh Thần dẫn dắt trong cuộc hành trình đến
Vương quốc của Cha mình.[10]
Điều đó gợi đến một nhu cầu và như một đòi hỏi thường xuyên cho mỗi người, mỗi
cộng đoàn cũng như toàn Dân Thiên Chúa: “Chúng ta phải học biết và sử dụng nghệ
thuật phân định cá nhân và cộng đoàn.”[11]
[1] X. ĐỖ MẠNH THỊNH, “Tìm hiểu về hạn
từ sự phân định của Đức Thánh Cha
Phan-xi-cô” (03.01.2022), trong website https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tim-hieu-ve-han-tu-su-phan-dinh-cua-duc-thanh-cha-phan-xi-co-44334.
[2] X. ỦY BAN THẦN HỌC QUỐC TẾ, “Sensus fidei in the life of the Church”
(2014), trong website:
https://www.vatican.va/roman_curia/congregations/cfaith/cti_documents/rc_cti_20140610_sensus-fidei_en.html#Chapter_1:_The_sensus_fidei_in_Scripture_and_Tradition
[4] VP. TỔNG THƯ KÝ HĐGMVN, Cẩm nang cho Thượng hội đồng về tính Hiệp
hành (09.2021), mục 2.2. https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/cam-nang-cho-thuong-hoi-dong-giam-muc-ve-tinh-hiep-hanh-42941#_Toc86001788
[6] X. Sứ điệp ngày Thế giới Truyền
thông lần thứ 56 (24.01.2022), trong website https://www.vatican.va/content/francesco/en/messages/communications/documents/20220124-messaggio-comunicazioni-sociali.html
[8] Sứ điệp ngày Thế giới Truyền
thông lần thứ 56 (24.01.2022), trong website https://www.vatican.va/content/francesco/en/messages/communications/documents/20220124-messaggio-comunicazioni-sociali.html
[11] VP. TỔNG THƯ KÝ HĐGMVN, Cẩm nang cho Thượng hội đồng về tính Hiệp
hành (09.2021), mục 2.2.