TÌM HIỂU VỀ HẠN TỪ
SỰ PHÂN ĐỊNH
CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHAN-XI-CÔ
Lm. Giu-se Đỗ Mạnh Thịnh
Đại chủng viện thánh Giu-se Xuân
Lộc,
Ngày lễ kính Đức Ma-ri-a, Mẹ Thiên Chúa, 2022.
WHĐ (03.01.2022) - Kể từ khi được công nghị Hồng Y vào ngày
13 tháng 3 năm 2013 bầu chọn làm Giáo Hoàng của Giáo Hội Công Giáo, Đức Thánh
Cha Phan-xi-cô đã mang đến cho thời đại ngày nay, cách riêng Giáo Hội của Chúa
Ki-tô, nhiều “làn gió” đặc trưng trong mục vụ cũng như trong giáo thuyết. Người
ta nhắc đến “tinh thần Phan-xi-cô” như sự gợi hứng mới về hình ảnh sống động của
một Giáo Hội đi ra “ngoại biên”, về người mục tử “mang mùi chiên”, về thời đại
của xác tín lòng thương xót của Thiên Chúa có sức mạnh chữa lành và nâng đỡ, thời
của sự cấp bách thúc đẩy gặp gỡ, đối thoại, xây những nhịp cầu thay cho những bức
tường chia cắt... Nhưng có thể nói rằng, động lực tiềm ẩn sâu xa của những niềm
tin tưởng và thực hành mục vụ đó chính là một dòng chảy xuyên suốt và trào
tràn: sự phân định.
Trong một dịp trả lời phỏng vấn của tạp chí Thinking Faith ngay sau khi được tuyển
chọn làm người kế vị thánh Phê-rô, ĐTC Phan-xi-cô được hỏi “Việc một tu sĩ Dòng
Tên được chọn làm Giáo Hoàng có ý nghĩa gì?”, người đáp ngắn gọn: sự phân định.[1]
Kể từ đó sự phân định xuất hiện thường
xuyên trong những cuộc trao đổi, những bài huấn dụ cũng như trong những thông
điệp và tông huấn của người, đến độ người ta đã gọi người là “giáo hoàng phân định”
(“Francis: The Discerning Pope”).[2]
Từ khi tông huấn Niềm
Vui của Tình Yêu được ban hành vào ngày 19 tháng 3 năm 2016, sự phân định của ĐTC Phan-xi-cô đã trở
nên một vấn đề gây nên không ít tranh luận trong Giáo Hội. Không khó để chúng
ta thấy rằng, có nhiều người nhiệt tình ủng hộ và cổ võ sự phân định, coi sự phân định
mục vụ như là tư duy chủ đạo cho một lối tiếp cận mục vụ mới của Giáo Hội đối
với những vấn đề gai góc của thời đại, cũng như thế giới “bên ngoài”, hoặc như
là chìa khóa vạn năng để “hóa giải” những vấn đề luân lý vốn thường khơi lên những
tranh luận, như ly dị tái hôn, hôn nhân de
facto, “hôn nhân” đồng tính, phá thai…; thậm chí có khi người ta đồng hóa sự phân định với sự “khôn ngoan” thỏa hiệp
trong mục vụ của cá nhân. Tuy nhiên, cũng có người băn khoăn và hồ nghi về sự phân định: liệu sự phân định có phải là tương đối hóa chân lý, thay đổi chân lý,
hay thậm chí đồng nghĩa với việc trao quyền “quyết định chân lý” vào “sự khôn
ngoan” của vài cá nhân trong những hoàn cảnh cụ thể (một cách thể hiện của thuyết
tương đối về luân lý)?
Để hiểu thấu đáo hơn ý
nghĩa sự phân định của ĐTC
Phan-xi-cô, thiết nghĩ chúng ta phải tìm hiểu hạn từ sự phân định trong chính bối cảnh của nó, nghĩa là trong những cuộc
trao đổi, những huấn dụ cũng như trong những văn bản huấn quyền quan trọng của
người. Trong tinh thần đó, bài viết gợi lên một vài tầng ý nghĩa quan trọng của
sự phân định: (1) Sự phân định: một viễn quan mới – viễn
quan của Thiên Chúa, (2) Sự phân định:
một giác quan tâm linh, (3) sự phân định:
một ân ban của Thiên Chúa.
1. Sự phân định: một viễn
quan mới – viễn quan của Thiên Chúa
Trước tiên, sự phân định
được hiểu như là việc con người đón nhận, đọc ý nghĩa các thực tại trong viễn
quan mới – viễn quan của Thiên Chúa. Đây là thái độ đầu tiên mà một người môn đệ
Chúa Giê-su cần xác tín.
Một cách chung, con người thường suy nghĩ và hành động dựa
trên những tiêu chuẩn, những phạm trù chủ quan theo ngành nghề chuyên biệt của
mình. Những cách tiếp cận đó xem ra là bình thường và hợp lý. Tuy nhiên, nó có
thể là nơi phát sinh những thực hành, hay quyết định chủ quan mang đậm dấu ấn
cá nhân, và thậm chí nó “khác xa” với điều Thiên Chúa muốn.
Trái với điều đó, theo ĐTC
Phan-xi-cô, sự phân định là một hành
động đón nhận viễn quan mới – viễn quan của Thiên Chúa. Niềm xác tin này đã được
ĐTC ngỏ lời trong một dịp gặp các giám mục, người nói: “Tôi mời gọi anh em hãy
trau dồi thái độ lắng nghe, lớn lên trong sự tự do từ bỏ viễn quan của riêng
mình, để đón nhận viễn quan của Chúa”[3].
Có lẽ, cách hiểu về sự phân định như
vậy ít nhiều mang bóng dáng tinh thần phân định trong linh đạo của thánh
I-nha-xi-ô. Quả thực, trong một dịp khác, ĐTC đã giải thích rõ hơn về sự phân định như là một tác động kép:
ngài cho rằng sự phân định như việc
chúng ta học cách loại bỏ những định kiến và quan điểm hạn chế của mình, đồng
thời tiếp nhận một quan điểm mới, quan điểm của Thiên Chúa…, nhờ đó chúng ta được
lôi cuốn vào một “cách cảm nhận sự việc như Thiên Chúa cảm nhận từ trong chính
trái tim của Người.”[4] Hình ảnh Na-tha-na-en đã được
ĐTC trưng dẫn như một ví dụ và một lời mời gọi thực hành sự phân định: “Đứng trước mặt Ngài [Đức Giê-su] với trái tim rộng mở
và để Ngài nhìn chúng ta, chúng ta thấy được cái nhìn yêu thương mà ông
Na-tha-na-en đã nhìn thấy hôm Đức Giêsu nói với ông: ‘Tôi đã nhìn thấy anh dưới
cây vả’ (Ga 1:48).”[5]
Sự phân định như một
cách thức gạt bỏ viễn kiến cá nhân đồng thời tiếp cận thực tại và con người
trong viễn quan của Thiên Chúa sẽ chất vấn chúng ta trước mỗi quyết định:
“Thiên Chúa nhìn trường hợp này thế nào?”, “Người muốn gì nơi tôi trong hoàn cảnh
này?” ĐTC đã ngụ ý nhiều lần các nguyên tắc phân định đó của ngài, một cách đặc
biệt trong tông huấn Niềm Vui của Tình
Yêu (Amoris Laetitia). Ví dụ, khi đề cập đến trường hợp của những anh chị
em “phải” sống trong tình trạng “đối nghịch” trầm trọng với giáo huấn của Kinh
Thánh cũng như luật của Giáo Hội về hôn nhân, như những cuộc hôn nhân de facto, ĐTC đã nhắc nhở chúng ta về
“luật tiệm tiến.” Điều đó có nghĩa là, dù sống trong “lầm lỗi”, nhờ ân sủng,
con người hiểu biết, yêu thương và hoàn thành những điều tốt đẹp về mặt đạo đức
qua các giai đoạn phát triển khác nhau. Đức Giáo hoàng giải thích:
“Đây […], đúng hơn là tính tiệm
tiến trong việc thi hành một cách khôn ngoan các hành vi tự do của những người
chưa ở vị trí có thể hiểu, đánh giá hay thi hành trọn vẹn các đòi hỏi khách
quan của lề luật. Vì lề luật tự nó là một ơn phúc của Thiên Chúa dùng để chỉ đường,
một ơn ban cho mọi người không trừ ai; nó có thể được tuân giữ nhờ sự trợ giúp
của ơn thánh, cho dù mỗi con người nhân bản “tiến bước từ từ với sự hội nhập tiệm
tiến các ơn phúc Chúa ban cũng như các đòi hỏi của tình yêu dứt khoát và tuyệt
đối của Thiên Chúa trong suốt cuộc sống bản thân và xã hội của họ.”[6]
Đó chính là viễn quan mà Đức Giê-su đã sử dụng khi tiếp cận
người phụ nữ Sa-ma-ri-a (x. Ga 4,1-26), hay người phụ nữ bị bắt vì tội ngoại
tình (x. Ga 8,1-11). Chúng ta có thể tìm ra viễn quan của Thiên Chúa tương tự
như thế trong những vấn đề và hoàn cảnh khác nữa của cuộc sống hàng ngày.
2. Sự phân định: một giác quan tâm linh
Điều quan yếu hơn đó là làm thế nào để chúng ta có thể
“thoát khỏi” những viễn quan cá nhân, khi chúng ta đã được trang bị quá nhiều
“kiến thức” của các bộ môn khoa học thánh và tri thức khôn ngoan nhân loại, những
kiến thức và kinh nghiệm mục vụ cá nhân cũng như cộng đoàn. Làm sao chúng ta có
thể thực sự “đón nhận vào mình” viễn quan của Thiên Chúa khi mà chúng ta quá “đầy
ắp” với những tin tưởng của lý trí và kinh nghiệm của bản thân? Thực sự, theo
ĐTC Phan-xi-cô, việc mở ra với viễn
quan của Thiên Chúa cũng là một loại “nhận thức” nhưng nó vượt trên logic khoa học và sự nhận biết của lý
trí. Đây thực chất là lĩnh vực thuộc về “bản năng đức tin” giúp phân định “điều
thuộc về Thiên Chúa”; do đó, có được sự trực giác đức tin bằng một giác quan tâm linh là điều rất cần thiết,
ĐTC nói:
[…] Để chia sẻ tình thương nhiệm
mầu của mình, Thiên Chúa ban cho toàn thể các tín hữu một bản năng đức tin – sensus fidei – là khả năng giúp họ phân
định rõ cái gì thực sự là của Thiên Chúa. Sự hiện diện của Thần Khí ban cho người
Kitô hữu một sự đồng bản tính nào đó với các thực tại của Thiên Chúa, và một sự
khôn ngoan giúp họ nắm bắt các thực tại ấy bằng trực giác, cả khi họ không có đủ
phương tiện cần thiết để diễn tả nó một cách chính xác.[7]
Dựa vào giáo huấn trên, sự
phân định có thể được hiểu như là một thứ giác quan tâm linh để có thể “trực giác” về “cái gì thực sự là của
Thiên Chúa.” Điều này có nghĩa là
chúng ta cần phải biết sử dụng và phát triển các giác quan tâm linh, ví dụ: một “đôi tai thiêng liêng” để có thể
nghe được những âm hưởng của Thần Khí, những giai điệu siêu nhiên, cũng như những
âm thanh trong cuộc sống “không phải lời cũng không phải tiếng”; cũng vậy, sự phân định cần đến một “cái mũi”, một
“cặp mắt” và một “cảm quan” của đôi tay thiêng liêng như khả năng “trực giác” của
đức tin để nhận ra được những dấu tích, những lời thì thầm và viễn quan của
Thiên Chúa (x. Tv 19).
3. Sự phân định: một ân ban của Thiên Chúa
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhìn nhận rằng giác quan thiêng liêng đó không hẳn là
điều mà người ta chỉ chăm chú luyện tập như việc luyện tập các kỹ năng âm nhạc,
mỹ thuật hay ẩm thực. Theo ĐTC Phan-xi-cô, sự
phân định nhờ các giác quan tâm linh,
trước hết và trên hết, là một ân ban của Thiên Chúa. Xác tín này được ĐTC nhắc
đến trong dịp gặp gỡ các giám mục mới được tấn phong vào năm 2017 khi người
nói: “Chư huynh không thể sở hữu một món quà cao quý và siêu việt đó (sự biện phân tìm viễn quan của Thiên
Chúa) như thể là một ơn tất yếu kèm theo bí tích truyền chức, nhưng nó đích thực
là ân ban của Thần Khí, điều mà chúng ta cần kiên trì nài xin Chúa.” Điều này gợi
đến lời cầu xin của vua Sa-lô-môn tại Ghíp-ôn, ông đã xin Chúa cho được ơn biết
phân định để dẫn dắt đoàn dân của
Chúa (1 V 3,5-12). Như vậy, “chúng ta
phải thường xuyên trở lại Ghíp-ôn để cầu xin ân ban biết phân định, điều mà vua Sa-lô-môn đã coi là quý
giá hơn sự trường thọ và vinh hoa phú quí.”[8]
Như một đòi hỏi tất yếu, sự thinh lặng trong cầu nguyện và sự
kiên trì khẩn nài là những tác động cần thiết để rũ bỏ viễn kiến cá nhân, cũng
như mở lòng cho viễn quan của Thiên Chúa. Thật vậy, chỉ trong thinh lặng của cầu
nguyện, chúng ta mới có thể tìm ra dấu vết và lĩnh hội được chân lý của Thiên
Chúa ở một thứ ánh sáng thuộc tầm cao khác biệt.[9]
Thay lời kết
Theo ĐTC Phan-xi-cô, sự
phân định – tìm viễn quan của Thiên Chúa nhờ những giác quan tâm linh – cần
đến thái độ khiêm tốn và vâng phục (Thiên Chúa). Cũng tương tự khi chúng ta đón
nhận một món quà (ân ban) nào đó, sự phân
định phải được đón nhận với một tâm hồn rộng mở, và sự chờ đợi một thời khắc
do ý muốn của Đấng Trao Ban. Do đó, ĐTC nói: “Một điều kiện thiết yếu để tiến bộ
trong sự phân định là giáo dục chúng
ta trong sự kiên nhẫn của Thiên Chúa và thời khắc của Người, những điều không
bao giờ là của chúng ta. Thiên Chúa không ‘thiêu hủy kẻ bất trung’ (x. Lc 9,
53-54), cũng như không cho phép những người sốt sắng ‘nhổ cỏ lùng khỏi đồng
lúa’ mà họ thấy đang mọc ở đó (x. Mt 13, 27-29).”[10]
Chúng ta cần rộng mở tấm lòng mỗi ngày để đón nhận niềm hy vọng
từ Thiên Chúa, điều mà có thể gìn giữ chúng ta khỏi những gì là tối tăm, khó hiểu.
Niềm hy vọng đó giúp chúng ta khám phá ra ân ban được tiềm ẩn trong hiện tại,
mà không làm mất đi sự nhẫn nại của kế hoạch yêu thương mà Thiên Chúa dự định
cho con người, điều trổi vượt biết bao trên tâm tưởng và ý muốn của con người
(x. Is 55,8-9).
[1] X. POPE
FRANCIS – Antonio SPADARO, “A Big Heart Open To God”, Thinking Faith, 19 September 2013, http://www.thinkingfaith.org/articles/20130919_1.htm
[2] X. Nicolas AUSTIN, “Francis: The Discerning Pope”, Thinking Faith, 9 March 2018, https://www.thinkingfaith.org/articles/francis-discerning-pope
[3] POPE
FRANCIS, Address to the Bishops
Ordained over the Past Year, 14 September 2017, http://w2.vatican.va/content/francesco/en/speeches/2017/september/documents/papa-francesco_20170914_nuovi-vescovi.html
[4] Jorge
Mario BERGOGLIO, “Writings on Jesuit Spirituality II”, Studies in the Spirituality of Jesuits,
45.4 (2014), p. 17, https://ejournals.bc.edu/ojs/index.php/jesuit/issue/archive
[8] Pope
Francis, Address to the Bishops
Ordained over the Past Year, 14 September 2017, http://w2.vatican.va/content/francesco/en/speeches/2017/september/documents/papa-francesco_20170914_nuovi-vescovi.html.
[10] Ibid.