NGƯỜI LINH MỤC HÔM NAY VÀ CUỘC HOÁN CẢI
TIN MỪNG DƯỚI ÁNH SÁNG GIÁO HỘI HỌC
Lm. Giuse Nguyễn
Văn Am
WHĐ (30.9.2020) – Chúng ta đã quá quen với sứ điệp
hoán cải. Mọi người đều phải hoán cải. Thế nhưng hoán cải không chỉ là một thái
độ đối với Chúa. Theo tôi, đó là một thái độ chi phối toàn diện con người, từ lời
nói, tư tưởng đến hành động. Nếu thế, hẳn nhiên, ta cũng có thể nói đến một sự
hoán cải theo chiều kích Giáo Hội. Có lẽ hơn ai hết, người linh mục cần phải
hoán cải thật sự trong việc “sống Giáo Hội một cách mới” (A new way of being
Church), theo ngôn ngữ của FABC.
Trước bổn phận
người linh mục phải tự đào luyện chính mình dựa trên cuộc sống hằng ngày, như Đức
Gioan Phaolô II nêu lên, cũng như dưới sức thúc đẩy của năm đức tin và kỷ niệm
50 năm công đồng Vatican II, tôi xin chia sẻ một vài ý nghĩa của sự hoán cải được
hiểu trong ánh sáng của mầu nhiệm Giáo Hội, trước hiện trạng xã hội, văn hóa,
chính trị và tôn giáo của đất nước được Đại hội dân Chúa 2010 nêu lên.
Để làm điều này,
tôi muốn lắng nghe tiếng chuông cấp cứu từ một vị thánh, sau đó tôi duyệt lại
chặng đường hiểu về Giáo Hội mà cách này cách khác được nhiều người bộc lộ cũng
như lối đường mục vụ để nhận ra được tâm tư của Vatican II như thế nào
I. TIẾNG CẢNH BÁO TỪ MỘT VỊ THÁNH ĐÃ TỪNG
BỊ LIỆT VÀO SỔ ĐEN CỦA GIÁO HỘI
Antonio Rosmini
đã viết “Năm vết thương của Giáo Hội”.
Cuốn sách giống như một cơn địa chấn. Dù được Đức Piô IX ủng hộ, cuốn sách cũng
mau chóng bị liệt vào hàng sách cấm đối với giáo triều. Khi nhận được quyết định
văn thư Tòa thánh về cuốn sách, Rosmini hoàn toàn vâng phục. Ngài nói: “Tôi sẽ giữ kín chuyện các phiên họp của
thánh bộ và tôi sẽ không bao giờ kể ra những lý do kết án. Tôi hoàn toàn tuân
phục… Sit nomen Domini benedictum”. Ngài viết trong lá thư bày tỏ sự tuân
phục: “Như một người con nhiệt tâm và
vâng phục của Tông Tòa mà qua ơn sủng của Thiên Chúa con luôn ấp ủ trong tâm hồn
và công khai tuyên tín, con tuyên bố tuân phục lệnh cấm cuốn sách này cách tuyệt
đối, đơn sơ; và bao có thể, con xin quý cha thông tin lại cho Đức Thánh Cha và
thánh bộ”. Thái độ ấy còn là một sứ điệp mạnh mẽ hơn cả chính tác phẩm.
Đúng là có những điều khó hiểu và nghịch lý: người con bị các anh em của mình
bách hại và làm khổ. Thế nhưng, niềm khao khát hiệp thông với Giáo Hội đã làm
cho người con đó một lòng với người mẹ của mình trong vâng phục và kiên trì chờ
đợi lúc nào và cách nào Thiên Chúa muốn canh tân Giáo Hội. Và Thiên Chúa không
bao giờ để cho kẻ hy vọng vào Ngài phải tủi hổ. Ngài thưởng công kẻ khiêm nhường
đúng lúc. Trước Vatican II, cuốn sách đã được lấy ra khỏi hàng sách cấm và được
ca tụng là “cuốn sách có tính ngôn sứ” theo Đức Phaolô VI. Không chỉ thế.
Vatican II muốn phần nào đảm nhận suy tư thật nghiêm chỉnh về những vết thương
đó.
Rosmini nêu ra
năm vết thương của Giáo Hội; ngài nêu ra những vấn đề rất nóng bỏng phản ánh
Giáo Hội trong thời của ngài. Vết thương thứ nhất là hố ngăn cách giữa giáo dân
và giáo sĩ trong việc cử hành phụng thờ chung; vết thương thứ hai là sự đào tạo
yếu kém của hàng giáo sĩ; vết thương thứ ba là sự chia rẽ giữa các giám mục; vết
thương thứ tư là việc bổ nhiệm giám mục nằm trong tay chính quyền dân sự; vết
thương thứ năm là sự hạn chế việc sử dụng tài sản của Giáo Hội.
Vatican II cho thấy
rằng công việc chữa lành chưa kết thúc. Trước ảnh hưởng của chủ nghĩa duy tục
và vô thần, các thế lực chính trị cũng muốn thao túng Giáo Hội. Đang khi đó, không
hiếm khi người linh mục chúng ta trình bày một diện mạo linh mục xa cách hẳn với
anh chị em giáo dân hoặc đôi khi mối tương quan của chúng ta chỉ đóng khung lại
trên một vài người hay gia đình; người nghèo và giới bình dân và nhất là giới
trẻ vẫn ở xa với chúng ta lắm, như Đức Gioan Phaolô II đã từng lưu ý. Rồi bỗng
chúng ta như bị hụt hẫng khi cảm nghiệm rằng lối đặt vấn đề của người thời đại
quả khác xa với những gì chúng ta nhận được trong chủng viện. Chúng ta như thấy
mình “quá ‘đát’” rồi. Những gì chúng ta quan tâm, đại đa số nhất là giới trẻ lại
thấy dửng dưng. Cũng có khi những bài giảng của chúng ta chỉ được coi là hay và
văn chương bóng bẩy, nhưng lại không phải như một đà lực thôi thúc người nghe tới
một chân trời mới, bởi lẽ dân chúng không cảm nhận được chiều sâu của sự hiệp
thông với Thiên Chúa. Chính Đại hội dân Chúa cũng chân thành nói lên một số
linh mục thật sự thấp kém về kinh thánh, về thần học, về luân lý, về trình bày
Lời Chúa, và ngay cả về đời sống thiêng liêng và tu đức như một linh mục? Chúng
ta ưu tư khi thấy ít những suy tư sáng tạo giữa các thế hệ trẻ. Chúng ta vẫn
đang loay hoay tìm ra những cách thức giúp anh chị em chúng ta đối diện với những
thách thức mới của thời đại công nghệ cao với những biến tấu không lường được về
luân lý và đức tin. Chúng ta hẳn cũng kinh nghiệm có một quãng cách nào đó, nếu
không nói là sự chia rẽ, giữa linh mục của Giáo Hội, giữa thế hệ đàn anh và đàn
em. Chúng ta không phủ nhận tình yêu mãnh liệt, đầy hy sinh và trách nhiệm của
các vị chủ chăn của Giáo Hội tại Việt Nam dành cho Giáo Hội. Nhưng điều đó
không đủ để che giấu đi sự rạn nứt nội bộ vốn nghịch lại điều Đức Giêsu đã nói:
“Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ của Thầy là anh em thương
yêu nhau.” Theo ánh sáng đó, thật không đúng sao khi Vatican II đã tuyên bố các
Kitô hữu chúng ta chịu trách nhiệm không nhỏ về vô thần, vì lẽ chúng ta “đã xao
lãng việc giáo dục đức tin, hoặc vì trình bày sai lạc về giáo lý, hoặc do những
thiếu sót của đời sống tôn giáo, luân lý và xã hội”.[1]
Tiếng cảnh báo
này của Rosmini thôi thúc chúng ta hoán cải không chỉ về với Thiên Chúa, mà dưới
một góc cạnh, chúng ta cũng phải trở về với chính ý nghĩa sâu xa “LÀ Giáo Hội”
mà mỗi người tín hữu đã lãnh nhận qua bí tích Thánh Tẩy. Chắc chắn hoán cải
tiên vàn và tiên quyết là “khởi sự lại từ Đức Kitô”, nhưng ta cũng có thể nói
hoán cải cũng là khởi sự lại với Giáo Hội, như thực tại sống động được phát
sinh từ tình yêu khôn tả của Đức Kitô, từ sức sinh động mãnh liệt của Thần khí
lễ Ngũ Tuần.[2]
II. NỖI KHÁT KHAO MỘT MÔ HÌNH GIÁO HỘI
ĐÍCH THỰC
Vậy đâu là sự
hoán cải được chờ mong theo ánh sáng của Giáo Hội học? Trước khi mang lại câu
trả lời gãy gọn, tôi thiết nghĩ duyệt lại những phương cách tiếp cận mục vụ, và
từ đó, ta thấy nổi lên một diện mạo về Giáo Hội. Châm ngôn kinh viện “hữu thể
ra sao hành động theo đó” quả là đúng. Tuy nhiên, ta cũng có thể bổ sung bằng một
góc cạnh khác: hành động ra sao, cho thấy hữu thể như vậy. Chính Chúa Giêsu đã
chẳng từng nói “xem quả thì biết cây” hay sao? Hai nguyên lý đó bổ sung nhau thật
rõ ràng. Quả thế, nghĩ về Giáo Hội ra sao sẽ kéo theo một cách thức mục vụ
tương xứng và ngược lại. Nếu chúng ta nghĩ Giáo Hội tiên vàn là phẩm trật,
chúng ta sẽ mục vụ theo cách đó; nếu chúng ta nghĩ Giáo Hội thật sự là gia đình
của Thiên Chúa, chúng ta sẽ nỗ lực trình bày như thế trong mục vụ. Nếu chúng ta
nghĩ Giáo Hội phải xa lánh thế gian như thể sự dữ và tội lỗi, chúng ta sẽ có
thái độ mục vụ tương xứng. Nếu chúng ta nghĩ Giáo Hội như kết quả đang tăng trưởng
của Ngôi Lời Nhập Thể, chúng ta sẽ trình bày một Giáo Hội của Chúa Kitô nhập thể
giữa nhân loại trong lịch sử. Châm ngôn của Socrates vẫn còn đấy giá trị của
nó: “nghĩ đúng, làm đúng”.
Mô hình Giáo Hội ban phát
Lịch sử Giáo Hội
đã cho thấy có một Giáo Hội chu cấp mọi sự.
Giáo Hội ban phát mọi sự, thậm chí cả đến những vật chất. Chủ nghĩa giáo sĩ trị
không bộc lộ tầm nhìn này sao? Yves Congar đã không nói đến vai trò thụ động của
giáo dân như người chỉ ngồi nghe và không được lên tiếng sao? Sẽ chẳng bao giờ
có một Giáo Hội không phẩm trật. Điều đó Chúa Giêsu không bao giờ muốn. Thế
nhưng, chính Chúa Giêsu cũng chẳng muốn có một chủ nghĩa giáo sĩ. Đề cao quá
đáng vai trò của phẩm trật đã tạo nên một tầm nhìn về Giáo Hội như một cơ chế
hơn là một mầu nhiệm. Ta không thường nghe rằng linh mục như người ban phát mọi
ơn lành của Chúa trên đoàn chiên bơ vơ lạc lõng hay sao?
Có một mô hình
khác về Giáo Hội. Giáo Hội cũng đã có sự đóng góp của một số người khác mà
chúng ta gọi là hội đồng giáo xứ. Những
người được gọi là cánh tay phải tay trái của cha xứ, của linh mục đã hoạt động
giữa anh chị em của mình. Chính cha xứ giao việc cho họ để chu toàn. Giống như
thể họ nhận lãnh sứ mệnh từ cha xứ để lo cho mọi người tín hữu. Hiển nhiên,
theo đồ họa đã có thay đổi nào đó trong mô hình này so với mô hình trên. Nhưng
rốt cục vẫn là một thành phần ban phát hơn là một sự cộng tác bổ sung như trong
một thân mình.
Mô hình Giáo hội Hội đồng Giáo xứ
Lịch sử cho chúng
ta một mô hình thứ ba. Nhiều anh chị em bắt đầu tự hỏi “Giáo Hội là gì? Tôi có
vai trò nào trong Giáo Hội?” Đó là một
Giáo Hội đang thức tỉnh. Mô hình này, đối với một số người, có thể được coi
như một thái độ chống đối. Các tín hữu đặt vấn đề. Dường như họ ‘khó bảo’ hơn,
không còn thuần thục nữa. Tuy nhiên, thay vì được coi là một sự gây khó dễ cho
phẩm trật, tôi thấy đó là một dấu hiệu của lớn lên, của tăng trưởng. Khi một
thiếu niên lớn lên, dấu hiệu của em là đặt câu hỏi về chính mình. Đứa trẻ bất
thường (thiểu não) có lẽ không đặt câu hỏi ấy; nó chỉ biết ăn và ăn những đồ ăn
mà người ta mang đến cho nó. Ở đây, trên phương diện đức tin và thiêng liêng,
Thánh Thần tác động, thôi thúc các tín hữu, thức tỉnh lương tâm Kitô hữu của họ
để họ thật sự nên những người đối tác trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa, vì
chính Thiên Chúa muốn như thế. Bằng cách đó, đức tin mang tính cách cá nhân lớn
lên dần cùng với cảm thức về Giáo Hội. Cảm thức đức tin (sensus fidei), cảm thức
của người tín hữu (sensus fidelium) đi liền với cảm nhận với Giáo Hội (sentire
cum ecclesiae).
Mô hình Giáo Hội đang thức tỉnh
Chúng ta cũng bắt
gặp một khuôn mẫu mục vụ khác: nhiều nhóm
trách nhiệm trong giáo xứ. Các tín hữu hội lại với nhau, tạo nên các nhóm
hay hội đoàn sinh hoạt và giúp cho giáo xứ chạy tốt đẹp. Trong mô hình này,
chúng ta phần nào chứng kiến sức sống của đức tin cách cụ thể. Trong đoàn thể
nhỏ, các tín hữu sống Giáo Hội, cách cụ thể hơn. Tuy nhiên, rất có thể xảy ra
là các nhóm vẫn như những hòn đảo xa lạ giữa cùng một đại dương. Rất có thể xảy
ra một thứ cá nhân chủ nghĩa đột lốt dưới danh nghĩa của nhóm. Rất có thể nó được
chuyển biến thành chủ điệu “Giáo Hội là nhóm tôi”, như Đức Bênêđictô XVI đã tố
giác. Và hẳn nhiên, sự kèn cựa giữa các nhóm và tính cục bộ sẽ ngự trị.
Mô hình Giáo Hội các hội đoàn
Mô hình Giáo Hội
được đề xướng cho chúng ta ngày nay có tên là hiệp thông giữa các cộng đoàn, các nhóm. Khi Vatican II làm nổi bật
Giáo Hội như Dân Thiên Chúa, Vatican II đã muốn tìm lại một điều cốt yếu trong
Giáo Hội. LG 9 viết:
Thiên Chúa quy tụ
tất cả những ai trọn niềm tin kính tìm đến Đức Kitô là tác giả của ơn cứu rỗi
và là nguồn mạch sự hợp nhất và bình an, và thiết lập họ thành Giáo Hội để trở
thành bí tích hữu hình của sự hiệp nhất mang lại ơn cứu rỗi cho mọi người và từng
người.
Trong đoạn văn ngắn
trên, chúng ta thấy ý nghĩa hiệp nhất, hiệp thông, gắn bó chủ trị. Ơn cứu rỗi
cho con người chính là sự kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa và với nhau.[3] Đó
chính là điểm từ đó Giáo Hội xuất phát và cũng là điểm tới của Giáo Hội.
“Giáo Hội phổ
quát xuất hiện như một dân tộc được hợp nhất khởi nguồn từ sự hợp nhất của Chúa
Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.[4]
Và:
“Cùng đích của họ
[Giáo Hội] là Nước Thiên Chúa đã được chính Thiên Chúa khởi sự trên trần thế,
và phải được trải rộng hơn nữa cho tới khi được nên hoàn tất vào lúc tận cùng
thời gian... được chung hưởng tự do và vinh quang”.[5] Chỗ khác,
Vatican II viết: “Giáo Hội là nơi mà trong Đức Kitô tất cả chúng ta được mời gọi
đến [...] Giáo Hội ấy chỉ thành toàn trong vinh quang trên trời [...] và cũng
là lúc cùng với nhân loại, toàn thể vũ trụ vì được liên kết với con người mà đạt
được cùng đích của mình, sẽ được tái tạo toàn vẹn trong Đức Kitô”.[6]
Chính Thượng Hội
đồng Giám mục đặc biệt 1985 đã minh định rằng sự hiệp thông là điều then chốt của
Giáo Hội học tại Vatican II. Cả FABC luôn đề ra tầm nhìn về hiệp thông dưới ánh
sáng mục vụ như sự hiện thực hoán cải và canh tân của Giáo Hội tại Á châu. Đại
hội Dân Chúa tại Việt Nam năm 2010 đã đặt sự hiệp thông phải thành chương trình
để sống và thực hiện trong mọi cấp độ. Nếu cảm thức đức tin của tín hữu là
không sai lầm như Lumen Gentium minh định, thì rõ ràng ta có thể cảm nhận sự đảm
bảo thiêng liêng của phong trào hoán cải này nơi Giáo Hội. Thật vậy, Giáo Hội
không thể được định nghĩa bằng các công việc mình làm, nhưng nhất thiết phải
khám phá xem mình là ai. Nguyên lý “agere
sequitur esse” (hành động đi theo hữu thể) phải ưu thắng trong tất cả mọi
hoạt động của Giáo Hội. Giáo Hội không phải là một tổ chức phi chính phủ (NGO)
để phục vụ những kẻ nghèo. Giáo Hội tiên vàn cống hiến cho thế giới sự đóng góp
độc đáo của mình chính là cho thấy điều Thiên Chúa muốn nơi thế giới nhân loại
hôm nay.
Mô hình Giáo Hội hiệp thông
Theo ánh sáng
này, sự hoán cải mà Thiên Chúa đang cần nơi Giáo Hội liên quan đến “sự hiệp
thông giữa những cộng đoàn”, “cộng đoàn của các cộng đoàn”. Các cộng đoàn mang
lấy nơi mình tất cả những gì là Giáo Hội để hiện thực bản tính đó trong mọi chiều
kích cuộc sống. Các cộng đoàn thực sự bổ sung nhau bằng chia sẻ lời Chúa, sứ vụ
và đời sống. Các nhóm cảm nhận hiệp nhất trong cử hành các bí tích cũng như
cùng chung một mục tiêu tông đồ trong việc sống đức ái linh hoạt, đến nỗi người
ở Phi châu có thể thấy mình liên đới như anh chị em với một người ở Á châu. Khi
đó, Giáo Hội tỏ lộ là cộng đoàn của các cộng đoàn trong địa phương đặc thù. LG
13 viết: “Các Giáo Hội địa phương vẫn hiện diện cách chính thực trong tình hiệp
thông Giáo Hội, vẫn có thể nắm giữ những truyền thống của riêng mình... bảo
toàn các dị biệt hợp pháp, đồng thời lưu tâm giữ gìn sao cho các dị biệt ấy
không làm phương hại, trái lại, còn phục vụ cho sự hiệp nhất”. Thực vậy, Giáo Hội
đâu phải một bài toán, một vấn đề, để ta giải quyết, cho bằng trước tiên là một
mầu nhiệm bao trùm đời sống ta, theo ngôn ngữ của G. Marcel. Giáo Hội như một bầu
khí ân sủng trong đó chúng ta sống, hoạt động, hiện hữu và tăng trưởng. Chính
trong ý nghĩa này, ta hiểu được tại sao Thánh Thể chính là nguồn mạch và chóp đỉnh
của Giáo Hội trong bản chất cũng như trong sứ mệnh chính. Giáo Hội là Giáo Hội
mang đặc tính Thánh Thể (Eucharistic Church).[7] Khi
Vatican II băn khoăn, “Giáo Hội hỡi, hãy nói xem mình là ai?” Vatican II đã khuấy
động nơi các tín hữu, cá nhân cũng như tập thể, phải truy tìm sâu xa hơn đàng
sau những gì mang tính tổ chức. Và Vatican II đã tìm được thực tại sâu thẳm của
chính Giáo Hội, khuôn rập theo chính Thiên Chúa có tên là GIA ĐÌNH, CỘNG ĐOÀN:
Giáo Hội là sự hiệp thông. Như thế, ta có thể nói, xuất phát lại từ Giáo Hội,
dưới ánh sáng được chiếu tỏa ở trên, nay biến thành xuất phát lại từ sự hiệp
thông mà Thiên Chúa khơi nguồn và đặt định cho Giáo Hội.
Nếu vậy, cách thức
mới để sống và là Giáo Hội hôm nay gắn
liền với sự hiệp thông. Nói cụ thể, sự
hoán cải bắt đầu từ mỗi người tín hữu như đền thờ của Thánh Thần hẳn nhiên liên
quan đến sự hiệp thông và tham gia. Huấn thị Xuất phát lại từ Đức Kitô mang lại chiều sâu đích thực của điều này
coi đó là “một nhiệm vụ cần đến những con người thiêng liêng được Thiên Chúa nắn
đúc bên trong bằng sự hiệp thông tràn đầy tình yêu Ơn Thánh Thần luôn vì lợi
ích và sự thiện hảo chung của toàn Thân mình. Đó là nguyên lý không thể sai lầm
mà thánh Phaolô đã khẳng quyết. Hơn ai hết, linh mục chúng ta phải xác tín rằng
GH là một sự hiệp thông-gia đình hơn
là một thể chế, hay cơ cấu nặng nề. Chính vì thế, “trừ phi chúng ta đi theo con
đường thiêng liêng này, những cơ cấu bên ngoài của sự hiệp thông sẽ sinh rất ít
kết quả”.[8]
III. NỖI KHÁT KHAO ĐƯỢC TỎ LỘ TRONG MÔ
HÌNH MỤC VỤ TẠI Á CHÂU
Xuất phát lại từ
sự hiệp thông được Thiên Chúa mong đợi và hoàn thành mang đến cho Giáo Hội một
sự năng động đầy hy vọng. Điều này Huấn
thị xuất phát lại từ Đức Kitô viết như sau:
Xuất phát lại từ
Đức Kitô có nghĩa là nhìn nhận rằng tội lỗi vẫn hiện diện trong con tim và đời
sống của mọi người [...] những người thánh hiến nam nữ (các tín hữu) cũng đã
chiêm ngưỡng khuôn mặt đau khổ cả ở bên ngoài của Đức Kitô nơi người bệnh, kẻ
tù đày, người nghèo và người tội lỗi.[9]
Đoạn văn quá dễ
hiểu đến nỗi ta dễ bỏ quên những chữ “cả ở
bên ngoài nữa”. Nói yêu mến người nghèo thì dễ, nhưng không dễ chút nào khi
ta đối diện thực với cái nghèo ‘cả ở bên ngoài nữa’, nào là tính khí, nào là
khuôn mặt, nào là văn hóa, và tất cả. Thật sự không dễ cho người linh mục ngồi
xuống bên vệ đường, hiểu cả theo nghĩa vật chất lẫn tinh thần, với người lao động
và các trẻ em đường phố đâu. “Đó là những tình trạng nghèo đói mới về phương diện
vật chất, luân lý và tinh thần được sản sinh bởi xã hội đương thời”.[10] Chẳng
lạ gì Mẹ Têrêsa thành Calcutta trả lời cho một người giàu: “Dù ông trả cho tôi
cả triệu đồng, tôi cũng không làm thế đâu”. Không dễ để một vị mục tử cử hành
buổi lễ Thứ Năm Tuần Thánh giữa những thiếu niên phạm pháp đâu! Vẫn có điều gì
rất cách mạng, ngay cả trước con mắt thế gian, mà sự hiệp thông Giáo Hội mở đường
khai lối trong mục vụ.
Tuy nhiên, chúng
ta đừng ảo tưởng chết người. Khi Vatican II đề xướng một đức tin mang tính phê
phán trong xã hội ngày nay thì điều ấy không muốn nói rằng Giáo Hội ngày nay sống
đức tin phong phú hơn thời trước. Đúng hơn, điều ấy muốn giúp các tín hữu hôm
nay của Đức Kitô rũ bỏ đi một sai lầm là coi nhẹ những gì đã được xây dựng trước
của những người tiền bối, nhưng phải biết đánh giá thời buổi. Vatican II không
bảo các tín hữu hành xử như thể ‘mọi sự bắt đầu với chúng ta và sẽ kết thúc với
chúng ta’. Nếu thế, dường như đức tin của các cộng đoàn tín hữu luôn phải xây dựng
lại từ đầu. Vatican II đã bắt đầu với sự đánh giá lại thế giới, với những mảng
sáng của ơn Thánh Thần và mảng tối của tội lỗi và ma quỷ gây nên. Đức tin hợp
thời, biết phê phán là đức tin có thể khám phá lại giá trị thần thiêng và nhân
bản trong dòng đời hôm nay.[11] Bằng
không, rất có nguy cơ trình bày một Giáo Hội giống như một chiếc máy bay trực
thăng quạt tung bụi mịt mù bất kỳ nơi nào mình đến rồi lẳng lặng bỏ đi để lại mọi
sự trong hỗn độn, như một số thần học gia Á châu đã từng so sánh.
Hoán cải theo ý
nghĩa hiệp thông ở trên mới khởi hứng cho một sự hoán cải trong mục vụ dưới ánh
sáng của sự hiệp thông Giáo Hội. Với tư cách lãnh đạo và chủ chăn, có thể chúng
ta đã từng quen làm việc mà chẳng có chương trình hay kế hoạch. Hoán cải dưới
khía cạnh Giáo Hội buộc ta phải mở ra một kế hoạch mục vụ vốn được hiểu như
nâng đỡ đức tin của các tín hữu lớn lên qua các giai đoạn cho đến mức trưởng
thành. Không chỉ thế. Họ không mãi mãi chỉ là những kẻ hưởng nhận sự chăm sóc mục
vụ. Trái lại, các tín hữu dần dần cùng với các chủ chăn trở thành tác nhân tích
cực cho sự biến đổi môi trường nhân sinh. Theo ánh sáng trên, Liên hiệp các Hội
đồng Giám mục Á châu (FABC) giới thiệu cho chúng ta một phương pháp mục vụ năng
động khởi hứng từ Giáo Hội như sự hiệp thông.
Khởi từ hiện trạng
và hướng chiều của mình, các Giáo Hội Á châu chắc chắn không nổi bật với đóng
góp mang tính lý thuyết. Giáo Hội tại Á châu không có được một truyền thống thần
học dưới diện suy lý và phương pháp thần học hệ thống.[12] Nhưng các
ngài hoàn toàn đặt suy tư vào tình yêu mục tử của mình giữa những anh chị em
nghèo khổ nhưng có một tâm hồn giàu có và chân chất ngay cả giữa “những ưu tư
và phiền muộn, lo lắng và ưu sầu, hy vọng và niềm vui”. Giáo Hội tại Á châu muốn
lấy những nỗi niềm của dân chúng thành của mình, dưới sự thúc đẩy của Chúa
Giêsu. Chan hòa với dân chúng, đó không phải là hướng đi được Đại hội Dân Chúa
2010 đề ra sao? Mà, chan hòa với dân chúng chính là con đường để nhận ra những
dấu chỉ thời đại qua đó Thiên Chúa đến thăm và giáo huấn chúng ta. Nơi đây, ta
xác tín, chủ thể chính là Thánh Thần sinh động Giáo Hội đi tìm điều Thần khí muốn
nói cho Giáo Hội xuyên qua các trạng huống nhân sinh; chan hòa với dân chúng
cho phép chúng ta nhìn ra Thánh Thần luôn hoạt động trong nơi những con người
bình dân và nghèo khổ, dưới mọi hình thức.
1. CHU KỲ MỤC VỤ (1986)
Đồ họa Mô hình Phục vụ Năng động có thể nói cho
chúng ta nhiều điều:
Trong Giáo Hội,
nhiều khi mục vụ được hiểu tiên quyết là các việc làm. Nhưng khi Đức Gioan
Phaolô II trình bày về tình yêu mục tử như cốt lõi và đích tới trong việc huấn
luyện chủng sinh, điều ấy bắt đầu thay đổi tầm nhìn về việc mục vụ. Quá quen,
khi nhận được một quyết định phải đi đâu, khi đứng trước một buổi lễ hay một khởi
đầu mùa phụng vụ, chúng ta thường tự hỏi “phải làm gì đây? Phải tổ chức làm sao
đây? Phải xây nhà giáo lý hay nhà thờ làm sao đây?”, điều đó không đúng ư?
Chúng ta dễ trình bày hình ảnh vị linh mục như một người làm công việc. Điều đó
đúng; dĩ nhiên, chẳng ai chịu chức linh mục để ngồi chơi xơi nước. Nhưng tuyệt
đối không đủ. Còn một điều gì cơ bản hơn nhiều. Khoa mục vụ năng động muốn giúp
mọi người tín hữu thoát khỏi chủ nghĩa náo hoạt trong mục vụ, cũng như thoát khỏi
cơn chướng hay thay đổi. Chu kỳ mục vụ này cho phép toàn cộng đoàn Giáo Hội đem
ra thực hành thái độ hoán cải tại địa phương được mô phỏng theo khuôn mẫu Ngôi
lời nhập thể. Mô hình ấy đã chiêm ngắm lối đường của “Ngôi lời cắm lều giữa
chúng ta” qua bốn giai đoạn: (1) phơi
bày-chìm ngập, (2) phân tích xã hội, (3) chiêm niệm hoặc suy tư thần học liên tục
và (4) lập kế hoạch mục vụ với sự lượng giá ngay thẳng.[13] Chu kỳ mục
vụ này cho phép ta dần dần vào sâu trong lòng dân chúng, giống như một người
bác sĩ đến sống tại vùng có bệnh để có thể hiểu và chẩn đoán đúng căn bệnh, trước
khi lập phương án chữa trị. Sự hoán cải theo tin mừng trên bình diện Giáo Hội
hôm nay cho phép chúng ta trình bày, sống và là Giáo Hội một cách mới mẻ. Lối mục
vụ như thế cho phép ta trình bày được một Giáo Hội là dấu chỉ và người mang
tình yêu Chúa Giêsu cho gia đình nhân loại tại Á châu. Điều này được Van Beech
diễn đạt như sau: “Con người của Đức Giêsu Kitô sống động trong Thần khí là nguồn
mạch của kinh nghiệm-căn tính Kitô hữu cũng như kinh nghiệm Kitô hữu về sự rộng
mở trước thế giới”.
2. MỤC VỤ TOÀN DIỆN:
ASIPA (ASIAN INTEGRAL PASTORAL APPROACH)
Trong chu kỳ mục
vụ năng động trên, Giáo Hội tại Á châu nhận ra sự thúc bách của một khoa mục vụ
toàn diện. Nếu Giáo Hội là chia sẻ, thì Giáo Hội không thể không chia sẻ những
gì mình có được từ Thiên Chúa cho các bạn nghèo khổ của Đức Kitô tại Á châu.
Giáo Hội không thể sống một cách trưởng giả giữa “thái bình dương” nghèo khổ của
Á châu. Giáo Hội tại Á châu mong muốn tạo thành một cộng đoàn hiệp thông và
chia sẻ được làm nên bởi giáo dân, tu sĩ và giáo sĩ nhìn nhận và đón nhận nhau
như anh chị em cho cùng một sứ vụ yêu thương và phục vụ của Giáo Hội. Giáo Hội
tại Á châu không thể không quan tâm đến hạnh phúc toàn diện của con người, vì
biết rằng yếu tố trần thế là một cấu tố của chính Tin mừng Đức Kitô mang lại.
Aloysius Pieris cho thấy Thiên Chúa thiết lập “Vương quốc của Thiên Chúa dành
cho những người nghèo của Thiên Chúa”. Mục vụ ấy phải vượt thắng khuôn mẫu nhị
nguyên. “Sứ mệnh ngôn sứ loan báo lời đòi hỏi một linh đạo của “việc lắng nghe”
tiếng Thiên Chúa giữa hoạt động tông đồ, mà đó là ý nghĩa của sự “phân định” vậy”.[15]
Lối tiếp cận mục
vụ như thế không được đánh giá tùy vào công việc và sự thành công. Trên hết, nó
được đánh giá tùy theo mức độ tình yêu chăm sóc của Chúa Giêsu mục tử nhân lành
được sống nơi người môn đệ Đức Kitô dành cho những con người bé nhỏ. Hiển nhiên
điều này đòi hỏi một sự hoán cải để sống Giáo Hội theo một cách thức hoàn toàn
mới. Hoàn toàn mới đây liên hệ mật thiết với sự hiệp thông vậy.
IV. ĐỊNH HƯỚNG ĐƯỢC VATICAN II PHÊ CHUẨN
Sâu xa hơn những
phương hướng mục vụ ấy, Vatican II đưa chúng ta vào tận lõi của cuộc hoán cải.
Vatican II mở ra lối mục vụ ‘chan hòa với con người trong mọi trạng huống của họ’
khi đã chiêm ngắm, tìm tòi cái cốt lõi chi phối hành động của mình. Khi đã để
cho câu hỏi về chính mình vang lên mãi, trong suốt 3 năm trời, Vatican II trả lời
về bản thân mình bằng một tầm nhìn về hiệp thông trong chiều kích sâu thẳm nhất.
Đồ họa trên đây
không chỉ trình bày tính duy nhất nội tại của các văn kiện được Vatican II phê
chuẩn. Đúng hơn, đồ họa này cho thấy cái ý thức sâu xa của Vatican II: biết
mình là ai? Sống nhờ điều gì? Sống cho mục đích nào? Và đi đâu? Đồ họa ấy trả lời
cho yêu cầu của Đức Phaolô VI: Hỡi Giáo Hội, hãy nói xem mình là ai? Như thế,
dù các văn kiện của Vatican II đều quy về Giáo Hội, như Karl Rahner và những thần
học gia khác đã từng nhận định, các văn kiện ấy lại được nhìn từ chính ánh mắt của
Đức Giêsu. Các văn kiện ấy càng ngày càng dẫn vào tận lõi tủy của Giáo Hội. Nơi
đây, ta bắt gặp toàn bộ là hiệp thông. Giáo Hội xây trên Lời Thiên Chúa và Phụng
vụ. Mà hai điều này chỉ nhằm tới sự kết hiệp năng động với Thiên Chúa được sống
và thể hiện trong sự hiệp thông với anh chị em của mình, như các tín hữu và như
những con người-hình ảnh Thiên Chúa. Vì vậy, thật không sai khi nói sự hoán cải
theo Tin Mừng dưới chiều kích Giáo Hội như được Vatican II mong đợi là trở về lại
với sự hiệp thông mà Thiên Chúa ban tặng cho Giáo Hội từ ban đầu. Nếu người
linh mục không thể là kích thích tố cho sự hiệp thông giữa những khác biệt của
các chi thể, người linh mục không thể làm sáng lên khoa mục vụ của lòng thương
xót. Nếu Giáo Hội không hiệp thông với Thiên Chúa, Giáo Hội chỉ là thể chế xã hội
chính trị nhân danh tôn giáo, hoặc giống như một thứ NGO mà thôi. Nếu Giáo Hội
không hiệp thông giữa các tín hữu Chúa Kitô, Giáo Hội không thể là chứng nhân
và là ngôn sứ trong thế giới. Nếu các Kitô hữu không liên kết mật thiết với Đức
Kitô, họ là những Kitô hữu vô thần, theo từ ngữ của Đức giáo hoàng Phanxicô.[16] Nếu
Giáo Hội không hiệp thông với anh chị em nhân loại, Giáo Hội không thể trình
bày Thiên Chúa của Đức Giêsu được. Như vậy, đúng như các giáo phụ nói, từ bàn
tiệc của Đấng hiến mình vì Giáo Hội, Giáo Hội được xuất hiện như sự hiệp thông
để là một dấu chứng cho sự chia rẽ của thế gian.
V. TRỞ VỀ VỚI CHÍNH NGUỒN CỘI GIÁO HỘI
Điều Công đồng
Vatican II trình bày mời gọi chúng ta đi xa hơn, trở về lại chính cội rễ chúng
ta. Chúng ta hãy bắt đầu lại từ Đức Kitô. Chúng ta hãy đặt mình như một người
thông hiệp vào bàn tiệc ly của Chúa và chúng ta sẽ hiểu nhiều điều rất mới.
Chúa Giêsu quy tụ những kẻ thuộc về Ngài (x. Mt 26:17-26; Mc 14:12-26; Lc
22:8-20). Không phải tự ý các môn đệ bày bàn tiệc đó. Và bàn tiệc đó nhằm điều
rất rõ: Chúa hiến dâng chính mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét
(x. Ep 2:14-18). Ngài không chấp nhận các môn đệ suy nghĩ về quyền bính và địa
vị. Với Ngài, người làm lớn phải là người tôi tớ (x. Lc 22:24-27; Mc 10:32-45).
Chúng ta hãy để cho điều ấy chất vấn cái vô thức về quyền lực mà Alfred Adler
đã phân tích thì chúng ta sẽ hiểu ngay cuộc cách mạng thiêng liêng mà Chúa
Giêsu mang đến. Và Giáo Hội sơ khai đã hiểu rất nhiều điều này. Bản văn Cv
2:42tt và 4:42tt phần nào minh chứng điều này.
Hai bản văn này
miêu tả vắn gọn nhưng thâm sâu thực tại Giáo Hội phong phú gồm bốn chiều kích hỗ
tương và đều quan trọng: (1) Phụng vụ (leiturgia): Giáo Hội được thiết lập để
dâng lên Thiên Chúa lời ca tụng làm sính lễ. Ngày ngày và luôn luôn, Giáo Hội tạ
ơn và ca tụng Thiên Chúa, với dạ đơn thành, nhất là trong Lễ Bẻ Bánh có tên là
EUCHARISTIA - LỜI TẠ ƠN VĨ ĐẠI và DUY NHẤT; (2) chứng tá (martyria): Giáo Hội
nhận lãnh Thánh Thần để làm chứng về Thiên Chúa giàu lòng thương xót hiện hữu
và tình yêu Ngài lấp đầy tất cả khát vọng của con người. Giáo Hội làm chứng về
một TIN MỪNG VĨ ĐẠI VÀ DUY NHẤT: ĐỨC GIÊSU KITÔ PHỤC SINH LÀ CHÚA VÀ LÀ TRUNG
TÂM CỦA LỊCH SỬ NHÂN LOẠI VÀ THÂU HỌP VẠN VẬT. Giáo Hội làm chứng THÁNH THẦN là
nguồn hy vọng đích thực cho tương lai của thế giới và con người và Thiên Chúa
LUÔN LÀM VIỆC; (3) hiệp thông (koinonia): các tín hữu để mọi sự làm của chung,
không kể cái gì là của riêng. Họ hiệp thông với Thần khí, thông hiệp vào các sự
thánh thiện cũng như thông hiệp với tất cả các thánh. Sự hiệp thông ấy mãnh liệt
và mới mẻ đến nỗi như trong một thân mình và người này là chi thể của người
kia. (4) phục vụ (diakonia): Giáo Hội không thể nào chối bỏ sứ mệnh phục vụ này
đến độ Giáo Hội sơ khai đã hình thành nên ‘cơ cấu’ của Diakonia. Giáo Hội không
sống cho chính mình.
Ở đây đáng cho
chúng ta nhắc lại lời của Đức Bênêđictô XVI: Giáo Hội như gia đình của Thiên
Chúa trong trần gian, được sinh động bởi đức ái, caritas-agape, rất mãnh liệt
mà chỉ có thể an nghỉ trong sự hiệp thông các ngôi vị. Chính như thế, “Bản tính
sâu xa nhất của Hội thánh được diễn tả qua ba nhiệm vụ: loan báo lời Thiên Chúa
(kerygma-martyria), cử hành các bí tích (leitourgia) và thi hành tác vụ bác ái
(diakonia)”.[17]
Như thế, xem ra
hai bản văn Tân ước trên và trình thuật nói về Đức Giêsu quy tụ các môn đệ
trong bữa tiệc của Ngài liên kết với nhau thật sâu xa. Nếu thế, ta có thể nói
xuất phát lại từ Đức Kitô được tỏ hiện bằng cách xuất phát lại từ Giáo Hội được
hiểu như sự hiệp thông mà nguồn sức mạnh của nó lại ở chính Thánh Thể.
KẾT LUẬN
Khi Đại hội Dân
Chúa 2010 nhắc lại lịch sử của một Giáo Hội tại Việt Nam nổi bật với dòng máu của
các tử đạo, cảm thức của dân Chúa muốn đi xa hơn việc ôn lại một chuỗi ngày hào
hùng của quá khứ. Cảm thức đó nhận rõ rằng một Giáo Hội chứng tá đến mức tử đạo
sẽ phải là một Giáo Hội đầy tràn tình yêu mà chỉ an nghỉ trong sự hiệp thông mà
thôi. Cảm thức đó muốn xác minh mạnh mẽ rằng khoa mục vụ của Giáo Hội không thể
chỉ dừng lại trên những việc làm mà thôi. Nó phải xuất phát lại từ nguồn mạch
duy nhất và không bao giờ cạn là chính Thiên Chúa và phải đáp ứng những khao
khát sâu thẳm nhất của con người hôm nay. Khoa mục vụ ấy sẽ tỏ ra rất hợp thời
khi minh chứng rằng chỉ trong hiệp thông, Giáo Hội và Thần khí mới thốt lên được
“Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến”.[18] Do
vậy, một sự hoán cải mang chiều kích Giáo Hội bó buộc phải làm cho tâm trí,
tình cảm và hành động của người linh mục phải dành trọn vẹn cho sự hiệp thông
như Thiên Chúa mong đợi. Đó là tiêu chuẩn không thể thiếu được cho vị mục tử
theo như lòng Chúa mong ước.
Như thế, đằng sau
những chăm sóc mục vụ, đằng sau những giây phút suy tư trong thinh lặng và cầu
nguyện, đằng sau những sinh hoạt, tổ chức, Giáo Hội phải nói về mình không gì
khác hơn một gia đình-hiệp thông, một Dân Thiên Chúa của Thiên Chúa trên trần
gian mà yếu tố nổi bật và hữu hình trong thực hành là sự tham gia. Khi đó, Giáo
Hội là một hạt mầm tăng trưởng liên lỉ và không thể bị dập tắt của Nước Thiên
Chúa giữa trần gian.
Trong ánh sáng
này, khi mà hằng ngày người linh mục chủ sự cộng đoàn dân Chúa không chỉ trong
phụng vụ mà còn hướng dẫn cộng đoàn trong phụng vụ đời sống nữa, thì lời của thánh
Augustinô nói về Thánh Thể có thể áp dụng cho một lối sống LÀ Giáo Hội MỘT CÁCH
MỚI MẺ mà các môn đệ Chúa Kitô luôn chú tâm hiện thực hằng ngày: O Sacramentum pietatis! o signum unitatis! o
vinculum caritatis!
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 78 (Tháng 9 & 10 năm 2013)
[2] Bộ phụ trách về Đời sống
thánh hiến và hiệp hội tông đồ, Huấn thị xuất phát lại từ Đức Kitô, số 21-24.
[16] “Đời sống Kitô không thể hiểu
được nếu không có sự hiện diện của Thánh Thần: [không có Người] thì đời sống ấy
không phải là Kitô. Chỉ là một đời sống đạo vô thần, đáng buồn.”
[18] X. Sứ điệp của Đại hội Dân
Chúa.