NGƯỜI GIÁO DÂN TRONG VIỆC CỦNG CỐ SỰ HIỆP THÔNG GIÁO HỘI THEO TINH THẦN
HIỆP HÀNH
LM Antôn Hà Văn Minh
WHĐ (10.12.2022) - Để tiến tới
Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI, Đức Phanxicô đã đưa ra sáng kiến thỉnh ý
toàn thể dân Chúa trong ba giai đoạn: giai đoạn thỉnh ý Giáo hội cấp địa
phương, giai đoạn thỉnh ý Giáo hội cấp Châu lục và cuối cùng là giai đoạn Thượng
Hội đồng mang tính hoàn vũ. Trong sáng kiến này, Đức Giáo hoàng hướng tới cách
đặc biệt toàn thể các tín hữu giáo dân, những người đã lãnh nhận bí tích Rửa tội
đều là đối tượng được mời để thỉnh ý trong việc canh tân Giáo hội, để Giáo hội
thực sự trở thành dấu chỉ của thời đại, điều mà Công đồng Vatican II đã nói tới.
1. Người giáo dân trong tiến
trình hiệp hành
Quả thật, người giáo dân không thể
là đứng bên lề với thái độ đối với cuộc sống của Giáo hội, bởi:
“Nhờ được xức dầu Thánh Thần khi chịu phép Rửa,
toàn thể các tín hữu ‘không thể sai lầm trong đức tin, họ biểu lộ thuộc tính đặc
biệt này qua cảm thức siêu nhiên về đức tin của toàn thể dân Chúa, khi từ các
giám mục cho đến những người bé mọn nhất trong các tín hữu đều đồng thuận về những
điều liên quan đến đức tin và phong hóa’. Chính Chúa Thánh Thần hướng dẫn các
tín hữu ‘tới sự thật toàn vẹn’”[1].
Vì thế, Đức Thánh cha Phanxicô mời
gọi người giáo dân hãy can đảm đi ra khỏi sự e dè nhát đảm để gặp gỡ và trao
cho nhau những kinh nghiệm về đời sống Kitô hữu mà mỗi người có những cảm nghiệm
riêng:
“Kitô giáo phải luôn nhân bản, nhân bản hóa,
hòa giải các khác biệt và phân cách, biến chúng thành thân thuộc, gần gũi. Một
trong những tệ nạn của Giáo hội, thực sự là một sự đồi bại, là chủ nghĩa giáo
sĩ trị vốn tách rời linh mục, giám mục ra khỏi dân chúng. Giám mục và linh mục
tách khỏi dân chúng trở thành một quan chức không còn là mục tử nữa. Thánh
Phaolô VI rất thích trích dẫn châm ngôn của Terentius: ‘Tôi là một con người,
tôi không coi những gì thuộc về con người là xa lạ đối với tôi’... Nhân danh
Thiên Chúa, người ta không thể phân biệt đối xử. Và phân biệt đối xử là một tội
lỗi ngay cả giữa chúng ta: ‘chúng tôi là người trong sạch, chúng tôi là người
được tuyển chọn, chúng tôi thuộc phong trào biết mọi sự, chúng tôi là...’.
Không. Chúng ta là Giáo hội, tất cả cùng với nhau”[2].
Niềm vui mừng được tỏ bày trong tài liệu làm việc
cho giai đoạn Châu lục, chính là sự nhiệt thành tham gia của giáo
dân trong các buổi thỉnh ý hiệp hành tại các Giáo hội địa phương trên thế giới.
Điều đó nói lên rằng, sáng kiến của Đức Phanxicô đã mang lại cho người giáo dân
một niềm vui khôn tả, vì họ không còn cảm thấy là người xa lạ trong cung lòng
Giáo hội, không còn là những kẻ đứng bên lề trong cuộc sống của Giáo hội. Hội đồng
Giám mục Canada đã chia sẻ:
“Kinh nghiệm ‘hiệp hành’ hiện tại của chúng
tôi đã làm thức tỉnh nơi người giáo dân ý tưởng và mong muốn tham gia vào đời sống
của Hội thánh, vào sự dấn thân của Hội thánh trong thế giới ngày nay, và vào hoạt
động mục vụ của Hội thánh trên trần thế”[3].
Qua bản thỉnh ý của các Giáo hội
địa phương gửi về, Uỷ ban đúc kết đã đưa ra nhận định:
“Điểm nổi bật là việc phục hồi sâu sắc phẩm
giá chung của tất cả những người đã được rửa tội. Đây là trụ cột đích thực của
một Hội thánh hiệp hành và là nền tảng thần học của một sự hiệp nhất có khả
năng chống lại áp lực đồng nhất hóa. Điều này cho phép chúng ta tiếp tục trân
trọng tính đa dạng của các ơn gọi và đặc sủng mà Chúa Thánh Thần với sự phong
phú khôn lường đã tuôn đổ trên các tín hữu”[4].
Sáng kiến thỉnh ý người giáo dân
trong các buổi hiệp hành để mời gọi người giáo dân cùng tham gia vào việc xây dựng
Hội thánh Chúa, thực ra đã được Công đồng Vatican II minh định cách đây 60 năm
trong hiến chế Lumen Gentium:
“Các chủ chăn phải biết rõ giáo dân
đóng góp rất nhiều vào thiện ích của toàn thể Giáo hội. Các ngài
biết rằng mình được Đức Kitô thiết lập không phải để chỉ riêng các
ngài lãnh lấy tất cả sứ mệnh cứu độ của Giáo hội đối với thế
giới, nhưng để nhận lãnh trách vụ cao cả là chăn dắt các tín hữu
và nhìn nhận các phận vụ và đặc sủng của họ để mọi người theo
cách thức riêng của mình đồng lòng cộng tác vào trọng trách chung
này” (LG 30).
Nhưng suốt một quá trình hơn nửa
thế kỷ dấu ấn “giáo sĩ trị” vẫn là rào cản không cho phép tinh thần Công đồng
được triển nở. Bản tài liệu Châu lục đã nhận định:
“Các bản tổng hợp còn chỉ ra rằng các trở ngại
về cơ cấu vẫn dai dẳng tồn tại, nhất là cơ cấu phẩm trật thúc đẩy xu hướng
chuyên quyền; một nền văn hóa nặng tính giáo sĩ và cá nhân làm cho các cá nhân
bị cô lập, mối tương quan giữa linh mục và giáo dân bị phân rẽ”[5].
Bản tổng hợp của Ba Lan đã nói
rõ:
“Khi các linh mục không muốn lắng nghe, tìm
cớ thoái thác, chẳng hạn trong phần lớn các hoạt động, hoặc khi các câu hỏi vẫn
chưa trả lời, trong tâm hồn các tín hữu một cảm giác buồn bã và ghẻ lạnh sẽ nảy
sinh... Người giáo dân cảm nhận rằng việc linh mục không chân thành lắng nghe bắt
nguồn từ nỗi sợ phải thi hành mục vụ. Một cảm nhận tương tự như vậy khi các
giám mục không có thời giờ để nói chuyện và lắng nghe giáo dân”[6].
Bởi đó, hơn bao giờ hết, Đức
Phanxicô thấy cần phải làm sống lại tinh thần của Công đồng Vatican II khi quan
tâm đến vai trò của người giáo dân trong việc củng cố sự hiệp thông Giáo hội.
Quả thật, Giáo hội Chúa Kitô không đơn thuần là một cơ chế phẩm trật, nhưng còn
là nhiệm thể Chúa Kitô (x. LG 8), Giáo hội luôn được mời gọi vượt thắng cám dỗ
về việc quản trị Giáo hội theo cung cách trần thế. Khi ban hành hiến chế Lumen
Gentium, các nghị phụ Công đồng đã muốn nhấn mạnh đến điều này:
“Nhờ đặc tính công giáo, mỗi phần tử
thực thi những đóng góp của riêng mình cho các phần tử khác và cho
toàn thể Giáo hội, để tất cả và từng người được tăng triển nhờ
cùng chia sẻ mọi sự và cùng hiệp lực đạt đến tình trạng viên mãn
trong tình hợp nhất... Quả thật, mọi phần tử dân Thiên Chúa được kêu
gọi chia sẻ cho nhau những điều thiện ích, và lời nói sau đây của vị
tông đồ cũng có giá trị cho từng Giáo hội: ‘Ơn riêng Thiên Chúa đã
ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy,
anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng
của Thiên Chúa’ (1Pr 4,10)” (LG 13).
2. Kiến tạo “trung gian” để
lắng nghe nhờ đó củng số sự hiệp thông
Để giúp người giáo dân thực thi
vai trò của mình trong việc củng cố sự hiệp thông Giáo hội, cần phải canh tân về
cơ cấu: tinh thần hiệp thông, tính tập thể và đồng trách nhiệm: Theo tinh thần
của Công đồng Vatican II, Giáo hội được yêu cầu công nhận người giáo dân là thành
viên của Giáo hội với các khả năng và đặc sủng riêng biệt. Bởi đó, Giáo hội phải
nghĩ đến việc canh tân cơ cấu của Giáo hội. Canh tân không chỉ là củng cố và đa
dạng hóa các tổ chức đoàn thể trong giáo xứ và giáo phận, nhưng là kiến tạo một
bầu không khí hiệp thông, tính tập thể và đồng chịu trách nhiệm đối với các
sáng kiến phong phú và năng động qua các hoạt động của người giáo dân trong việc
cộng tác với hàng giáo sĩ.
Do đó, người giáo dân cần được huấn
luyện để biết nới “rộng căn lều” của bản thân, của gia đình và của hội đoàn và
giáo xứ, như lời ngôn sứ Isaia đã mời gọi: “Hãy
nới rộng lều ngươi đang ở, căng các tấm bạt ra, đừng hẹp lòng hẹp dạ. Nối dây
thừng dài thêm, đóng cọc lều cho chắc” (Is 54,2). Việc nới rộng này, trước
tiên đòi hỏi phải chết đi chính mình để sống yêu thương:
“vì yêu thương chính mình phải sẵn sàng chết
đi, để tìm lại được mình trong và qua mối tương quan với Chúa Kitô và người
thân cận: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không
chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều
hạt khác” (Ga 12,24). Sự phong phú của Hội thánh phụ thuộc vào việc chấp nhận
cái chết này, tuy nhiên, đó không phải là sự hủy diệt, mà là kinh nghiệm của việc
trở nên rỗng không để được lấp đầy bởi Chúa Kitô nhờ Chúa Thánh Thần. Đây là một
tiến trình nhờ đó chúng ta nhận được các mối tương quan phong phú hơn, mối liên
kết sâu sắc hơn với Chúa và với nhau. Đây là kinh nghiệm về ân sủng và về sự biến
hình”[7].
Dĩ nhiên, việc lắng nghe nhau
không là chuyện đơn giản, nhất là trong mối tương quan giữa giáo sĩ và giáo
dân. Bản tài liệu Châu lục đã phản ánh “nỗi
khó khăn của việc lắng nghe cách chân thành và khó khăn chấp nhận để cho việc lắng
nghe biến đổi mình”. Đồng thời, tài liệu Châu lục cũng nhấn mạnh việc “thiếu các phương pháp giúp cộng đồng lắng
nghe và phân định, và kêu gọi cần đào tạo thêm trong lĩnh vực này”. Khó
khăn lớn nhất chính là hình thức cơ cấu trong Giáo hội vẫn dai dẳng tồn tại đã tạo trở ngại trong việc lắng nghe “nhất là cơ cấu phẩm trật thúc đẩy xu hướng
chuyên quyền; một nền văn hóa nặng tính giáo sĩ và cá nhân làm cho các cá nhân
bị cô lập, mối tương quan giữa linh mục và giáo dân bị phân rẽ; sự chênh lệch
văn hóa xã hội và kinh tế có lợi cho người giàu và người học thức; và sự thiếu
vắng các môi trường ‘trung gian’ tạo thuận lợi cho các thành viên của các nhóm
tách biệt gặp gỡ nhau”[8].
Cho nên, cần kiến tạo một môi trường
trung gian cho để giúp cho việc lắng
nghe nhau được thuận lợi, hầu có thể mỗi người giáo dân đều nhiệt thành trong
việc nới rộng căn lều của mình, của cộng đoàn và của giáo xứ mình để cùng nhau
kiến tạo một bầu khí hiệp thông sống động. Để tạo môi trường trung gian cần phải đào tạo tính hiệp
hành. Tài liệu Châu lục nhấn mạnh:
“cần có công tác đào tạo liên tục, hỗ trợ nền
văn hóa hiệp hành rộng rãi. Việc đào tạo này phải thích ứng với đặc điểm cụ thể
của bối cảnh địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoán cải theo tinh thần
hiệp hành trong cách thức tham gia, sử dụng quyền bính và lãnh đạo nhằm hoàn
thành sứ mạng chung một cách hiệu quả hơn. Đó không chỉ đơn giản là vấn đề cung
cấp các kỹ năng cụ thể về mặt kỹ thuật hoặc phương pháp luận. Việc đào tạo tính
hiệp hành liên quan đến mọi chiều kích của đời sống Kitô hữu và chỉ có thể là một
sự đào tạo toàn vẹn bao gồm các chiều kích cá nhân, thiêng liêng, thần học, xã
hội và thực hành”[9].
“Vì vậy, nhất thiết phải có một cộng đồng để
quy chiếu, bởi vì một trong những nguyên tắc ‘đi cùng nhau’ là việc đào tạo tâm
hồn, vượt trên những tri thức cụ thể và bao trùm toàn bộ cuộc sống. Trong cuộc
sống, người Kitô hữu cần phải được đào tạo liên tục và lâu dài để thực hành
tính hiệp hành, để trưởng thành và lớn lên trong đức tin, để tham gia vào đời sống
cộng đoàn, để gia tăng lòng yêu mến và sự thông dự của các tín hữu đối với bí
tích Thánh thể, để đảm nhận các thừa tác vụ ổn định, để thực sự đồng trách nhiệm
trong việc điều hành Hội thánh, để đối thoại với xã hội và với các Hội thánh
khác nhằm đưa những người ở xa lại gần trong tinh thần huynh đệ”[10] (HĐGM Tây Ban Nha).
Trong việc đào tạo này trước tiên
cần canh tân mối tương quan giữa giáo sĩ và giáo dân. Thật vậy, không thể nào
chỉ canh tân từ một phía giáo sĩ hay giáo dân, nhưng sự canh tân phải khởi sự từ
cả hai. Giáo sĩ và giáo dân có mối tương tác với nhau cách chặt chẽ. Vì thế,
trong Giáo hội không có sự kỳ thị hay áp bức. Linh mục có bổn phận giúp người
giáo dân ý thức trách nhiệm của họ trong Giáo hội để họ cùng chia sẻ trách nhiệm
xây dựng Hội thánh Chúa với người linh mục[11].
Kế đến là huấn luyện cho người giáo dân vào hai lãnh vực này: (1) Huấn luyện
toàn bộ về kiến thức đức tin qua các lớp giáo lý; (2) Huấn luyện cách đặc biệt
về kiến thức cũng như lãnh đạo liên quan đến các hoạt động mục vụ như Hội đồng
mục vụ, các đoàn thể, các nhóm đặc sủng…[12]
Việc đào tạo này hướng tới nền
văn hoá hiệp hành, và tâm điểm của nền văn hoá hiệp hành chính là linh đạo hiệp
hành. Nền văn hóa hiệp hành,
“vốn là điều cần thiết để linh hoạt các cơ
chế và tổ chức, đòi hỏi phải được đào tạo thích đáng, nhưng trên hết, cần được
nuôi dưỡng bằng việc sống mật thiết với Chúa và khả năng lắng nghe tiếng nói của
Chúa Thánh Thần”[13].
“Trước hết, Hội thánh hiệp hành phải giải
quyết nhiều căng thẳng nảy sinh do cuộc gặp gỡ giữa những khác biệt. Do đó, nền
linh đạo hiệp hành chỉ có thể là nền linh đạo đón nhận những khác biệt và thúc
đẩy sự hòa hợp, đồng thời có thể kín múc năng lượng từ những căng thẳng để tiếp
tục tiến bước. Để đạt được điều này, phải chuyển từ việc nhấn mạnh chiều kích
cá nhân sang chiều kích tập thể; đó là nền linh đạo của “cái chúng ta”, biết
coi trọng những đóng góp của mỗi người”[14].
Và phương pháp sống linh đạo hiệp
hành chính là chia sẻ tâm linh. “Phương
pháp này giúp dân Chúa hưởng nếm hương vị của cuộc gặp gỡ giữa các cá nhân xung
quanh Lời Chúa và những cộng hưởng đa dạng mà nó khơi dậy trong lòng mỗi người”[15]. Để phương pháp này đạt hiệu
quả “cần phải phát triển phương pháp này
theo hướng phân định cộng đoàn, đặc biệt là trong các tổ chức có vai trò tham
gia. Điều này đòi hỏi nhiều nỗ lực để đưa chiều kích thiêng liêng vào hoạt động
của các tổ chức và các cơ quan quản trị, bằng cách kết hợp giữa sự phân định với
tiến trình đưa ra quyết định. Cầu nguyện và thinh lặng không thể ở ngoài tiến
trình này”[16], hãy coi đó là yếu tố cần
thiết giúp cho việc phân định được rõ ràng và quyết định được đưa ra luôn biểu
lộ được tinh thần hiệp hành.
Linh đạo hiệp hành hình thành từ
nền tảng của bí tích Rửa tội, mọi tín hữu được dự phần vào cái chết và phục
sinh của Đức Kitô, do đó, người tín hữu như là thành phần của dân Thiên Chúa,
hiệp thông với Chúa Kitô và thân thể mầu nhiệm của Người. Vì thế, linh đạo hiệp
hành cũng mang đặc tích Lời Chúa và bí tích. Có nghĩa là, đời sống của người
tín hữu phải không thể tách rời khỏi Lời Chúa và bí tích. Để có thể chu toàn sứ
vụ của mình, người tín hữu nhất thiết cần phải được chỉ dẫn trong việc quan tâm
vào việc chăm chú đọc, lắng nghe và sống
Lời Chúa, cũng như phải siêng năng lãnh nhận các bí tích.
Thư Chung hậu Đại hội Dân Chúa
2010 đã nhấn mạnh:
“Sự hiệp thông đích thực và sâu xa trong
Giáo hội cần được thể hiện nơi từng giáo phận cũng như giữa các giáo phận. Qua
sự hợp nhất yêu thương giữa mọi thành phần dân Chúa như trong một gia đình, các cộng đoàn vừa là dấu chỉ vừa là trường
dạy hiệp thông. Mối tương quan giữa giám mục, linh mục, tu sĩ và giáo dân được
đặt nền trên phẩm giá bình đẳng của mọi tín hữu, cũng như tinh thần đồng trách
nhiệm của từng tín hữu nơi Thân mình Đức Kitô trong đức tin, cậy, mến”[17].
Vì
thế, các vị chủ chăn phải hết lòng giúp đỡ người giáo dân thi hành vai trò của
mình trong Giáo hội, và giúp người giáo dân nhận thức rằng, họ yếu tố không thể
thiếu trong nỗ lực củng cố sự hiệp thông trong Giáo hội. Phải nỗ lực khích lệ
người tín hữu tích cực tham gia các khoá đào tạo về nền văn hoá hiệp hành, và sống
linh đạo hiệp hành. Có như thế, Giáo hội sẽ gặt hái được nhiều hoa trái tốt đẹp
trong việc thi hành sứ vụ của mình.
[1] Tài liệu chuẩn bị Thượng Hội đồng Giám mục lần thứ XVI
(2021-2023), số 13, nguồn: https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tai-lieu-chuan-bi-thuong-hoi-dong-giam-muc-lan-thu-xvi-42903
[3] Tài liệu làm việc cho Giai đoạn Châu lục, số 15, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tai-lieu-lam-viec-cho-giai-doan-chau-luc-cua-thuong-hoi-dong-giam-muc-ve-tinh-hiep-hanh-2021-2024-48805
[11] Sứ điệp của Liên Hội đồng Giám mục châu Á lần IV, trích trong
“For all the people of Asia”, số 4.7.1.2
[17] Thư Chung
hậu Đại hội Dân Chúa 2010, số 23.