NGHỆ THUẬT CỬ HÀNH PHỤNG VỤ
ARS CELEBRANDI
Gm. Phêrô Kiều Công
Tùng
WHĐ (12.08.2023) – Phụng vụ được ví như một
công trình nghệ thuật, Chúa Kitô là “tác giả-nghệ sĩ” chính còn toàn thể cộng
đoàn có phận vụ tham gia ars celebrandi,
góp phần vào sự hoàn tất công trình, theo nghĩa đem lại hoa trái dồi dào nhất
cho người tín hữu. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI nói ars celebrandi - nghệ thuật cử hành là “cách thức chính yếu thúc đẩy
sự tham dự của Dân Chúa vào Nghi Lễ Thánh… là điều kiện tốt nhất làm cho sự
tham dự được sống động”[1].
Ngày 29/6/2022, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã ban hành Tông thư Desiderio Desideravi về đào tạo phụng vụ cho dân Thiên Chúa với mong muốn giúp mọi người “nhận ra tầm quan trọng của nghệ thuật cử hành để phục vụ cho chân lý của mầu nhiệm Vượt Qua và sự thông phần mầu nhiệm ấy nơi tất cả những người đã được rửa tội, mỗi người tùy theo ơn gọi của mình”[2].
3. Bản chất và hiệu năng của ngôn ngữ biểu tượng 2. Thừa tác viên không có chức thánh III. THÁNH CA PHỤNG VỤ VÀ TÁC VIÊN THÁNH NHẠC |
I. NHỮNG NGUYÊN TẮC NỀN TẢNG
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã dành phần cuối của
Tông thư Desiderio Desideravi (số
48-65) để suy tư và đưa ra những hướng dẫn
liên quan đến nghệ thuật cử hành - ars
celebrandi. Những kiến thức căn bản cần có được đề cập tại số 49:
Như bất kỳ nghệ thuật
nào, ars celebrandi đòi hỏi nhiều loại
kiến thức khác nhau. Trước tiên, nghệ thuật này đòi hỏi phải hiểu biết về tính
năng động trong Phụng vụ. Cử hành phụng vụ là lúc tưởng niệm mầu nhiệm Vượt Qua
được hiện tại hóa, để các tín hữu, khi tham dự, có thể cảm nghiệm mầu nhiệm ấy
trong cuộc sống. Nếu không có sự hiểu biết này, việc cử hành có thể chỉ bận tâm
đến hình thức bên ngoài (hơn kém về mức độ tinh tế) hoặc quan tâm đến luật chữ
đỏ (hơn kém về tính cứng nhắc).
Sau đó, cần phải biết
về cách thức Chúa Thánh Thần tác động trong mỗi cử hành. Nghệ thuật cử hành phải
hòa hợp với hành động của Thánh Thần. Chỉ như vậy, nghệ thuật cử hành mới thoát
khỏi tính cách chủ quan, chiều theo thị hiếu cá nhân. Chỉ bằng cách này, nghệ
thuật cử hành mới thoát khỏi sự xâm nhập của các yếu tố văn hóa chưa được phân
định và không liên quan gì đến việc hội nhập văn hóa đúng nghĩa.
Cuối cùng, cần phải
hiểu về tính năng động, về bản chất đặc thù và những hiệu năng của ngôn ngữ biểu
tượng.
1. Tính năng động trong phụng
vụ
Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo tóm lược phần
trình bày về những người cử hành phụng vụ tại số 1144:
Toàn thể cộng đoàn
đều là “người cử hành phụng vụ”, mỗi người tùy theo phận vụ của mình, nhưng
“trong sự hợp nhất của Chúa Thánh Thần”, Đấng hoạt động trong mọi người. “Trong
các cử hành phụng vụ, thừa tác viên hay tín hữu, mỗi người theo phận vụ của
mình, chỉ làm và làm trọn vẹn những gì thuộc phận vụ của mình theo bản chất của
sự việc và các quy tắc phụng vụ” (x. Sacrosanctum
Concilium, 28).
Thật vậy, phụng vụ không phải là những hoạt động
cá nhân riêng tư, nhưng là những cử hành của Giáo Hội, là “bí tích hiệp nhất”,
thuộc về toàn Thân Thể Hội Thánh[3].
Mọi chi thể được mời gọi tham gia vào cử hành phụng vụ của Hội Thánh với chức
tư tế cộng đồng nhờ bí tích Rửa Tội. Tuy nhiên, một số chi thể đã được Thiên
Chúa kêu gọi để phục vụ cộng đoàn cách đặc biệt qua bí tích Truyền Chức Thánh,
nhờ đó, họ có khả năng hành động trong cương vị của Đức Kitô là Đầu (in persona Christi Capitis)[4].
Trong phụng vụ, đặc biệt là trong Thánh lễ,
toàn thể cộng đoàn tham dự vào mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô được hiện tại
hóa qua việc cử hành nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần. Đây là một hành vi linh
thánh, đòi buộc cả thừa tác viên lẫn cộng đoàn tín hữu trước hết phải ý thức và
có tâm tình thờ phượng xứng hợp. Thiếu điều kiện tiên quyết này, người tham gia
cử hành có nguy cơ chỉ dừng lại ở việc hoàn tất các thủ tục lễ nghi bề ngoài,
hoặc chỉ chú tâm cách cứng nhắc vào các chỉ dẫn, làm mất đi vẻ đẹp đích thực và
sinh động của cử hành Kitô giáo.
Trong nghệ thuật, cảm hứng là yếu tố quan trọng
khơi nguồn cho sự sáng tạo đích thực. Người nghệ sĩ hoàn toàn tự do sáng tạo từ
những ý tưởng ban đầu, nhưng cũng cần dựa trên những kiến thức kỹ thuật căn bản.
Cũng vậy, mọi cảm hứng hay ý tưởng trong nghệ thuật thánh nói chung hay nghệ
thuật cử hành phụng vụ nói riêng, đều xuất phát từ vẻ đẹp vô biên của Thiên
Chúa, góp phần ca tụng tôn vinh Thiên Chúa, giúp tâm trí con người thành kính
hướng về Thiên Chúa[5].
Do đó, nghệ thuật cử hành trong phụng vụ không thể tùy tiện, ngẫu hứng nhằm thỏa
mãn thị hiếu của một cá nhân hay nhóm người nào đó, mà bỏ quên mục tiêu của việc
cử hành là tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa con người. Phải làm sao để việc cử
hành “không những gợi nhớ các biến cố đã giải thoát chúng ta, mà còn làm cho
các biến cố đó hiện diện và tác động trong hiện tại”[6].
Vì thế, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắn nhủ người tham gia phụng vụ: “Phải luôn
dành trọn tâm ý cho việc cử hành, để chính việc cử hành truyền tải nghệ thuật
cho chúng ta”[7].
Toàn thể cộng đoàn phụng vụ đều cần đến nghệ
thuật cử hành, nhưng các thừa tác viên đã lãnh chức thánh càng phải quan tâm đặc
biệt hơn. “Những người đã lãnh Bí tích Truyền Chức có nhiệm vụ không thể chối từ
trong việc giữ cho nghệ thuật cử hành được đúng đắn. Các Giám mục, linh mục và
phó tế, mỗi người theo chức năng của mình, phải xem việc cử hành như bổn phận
chính của mình”[8].
Nghệ thuật cử hành phải giúp tăng cường ý thức linh thánh và đẩy mạnh việc
sử dụng các hình thức bên ngoài nhằm giáo dục ý thức ấy. Muốn mang lại lợi ích
đó cho cả cộng đoàn phụng vụ, trước tiên linh mục “phải ý thức sâu sắc về sự hiện
diện đặc biệt của Chúa Kitô Phục sinh. Chính bản thân thừa tác viên đã lãnh chức
thánh là một trong những cách thức hiện diện của Chúa, điều này làm cho cộng
đoàn Kitô hữu trở nên độc đáo, khác với bất kỳ cộng đoàn nào khác”[9].
Khi biết đặt mình ở giữa trái tim Chúa Giêsu đang bừng cháy lửa yêu thương và
trái tim của mỗi tín hữu, đối tượng của tình yêu Chúa, tất cả các cử chỉ và lời
nói của vị chủ sự trong nghi thức cử hành sẽ mang lấy chiều sâu bí tích, và
giúp cho cộng đoàn cảm nhận được điều Chúa khát mong hiện tại, như trong Bữa Tiệc
Ly năm xưa, là được ăn lễ Vượt Qua với chúng ta[10].
2. Hòa hợp với hành động của
Chúa Thánh Thần
Trong phụng vụ, Chúa Thánh Thần là nhà sư phạm
về đức tin cho Dân Thiên Chúa. “Ngài chuẩn bị cho Hội Thánh gặp gỡ Chúa của
mình; Ngài nhắc nhớ và làm tỏ hiện Đức Kitô cho đức tin của cộng đoàn; Ngài làm
cho hiện diện và hiện tại hóa mầu nhiệm của Đức Kitô bằng quyền năng biến đổi của
Ngài; sau cùng, Thánh Thần của sự hiệp thông kết hợp Hội Thánh vào đời sống và
sứ vụ của Đức Kitô”[11].
Vì thế, mọi phương thế hay công cụ trong phụng vụ phải phục vụ bản chất của Phụng
vụ và hoạt động của Chúa Thánh Thần. Nói cách khác, nghệ thuật cử hành phải hòa
hợp với hành động của Thánh Thần.
Không ý thức hay giành mất vai trò của Chúa
Thánh Thần trong Phụng vụ, chủ sự dễ có “thái độ đề cao bản thân trong phong
cách cử hành, đôi khi thể hiện cách lộ liễu thói tật muốn trở thành trung tâm của
sự chú ý”. Từ đó đưa đến nhiều biểu hiện không phù hợp trong cử hành được Đức
Giáo Hoàng Phanxicô cảnh báo: “khắc khổ cứng nhắc hoặc sáng tạo quá đáng, thần
bí hóa hoặc duy chức năng, nhanh chóng vội vàng hoặc chậm chạp quá mức, bất cẩn
cẩu thả hoặc tỉ mỉ cực đoan, thân thiện quá đáng hoặc vô cảm lạnh lùng” khiến
nhiều cộng đoàn phải khốn khổ[12].
Đức Giáo Hoàng đặc biệt lưu ý đến việc giữ
thinh lặng, một hành động được quy định rõ trong luật chữ đỏ. Nhiều người nghĩ
thinh lặng dễ đưa đến sự trống rỗng nên muốn lấp đầy bằng đủ thứ vô nghĩa và xa
lạ. Thực ra, thinh lặng thánh là “biểu tượng của sự hiện diện và hành động của
Chúa Thánh Thần, Đấng làm sinh động toàn bộ việc cử hành. Vì thế, thinh lặng là
cao điểm của một trình tự phụng vụ. Chính vì là biểu tượng của Thánh Thần, nên
thinh lặng có sức mạnh thể hiện hành động đa dạng của Thánh Thần”[13].
Các linh mục phải xác tín điều này để cùng với cộng đoàn phụng vụ “thực hiện thật
sốt sắng phút thinh lặng như một động tác mang tính biểu tượng, để qua đó chúng
ta được Chúa Thánh Thần uốn nắn”[14].
Quy chế Tổng quát Sách lễ Rôma (QCSL) nhắc nhở: “Tính chất của sự thinh lặng
tùy thuộc vào lúc phải giữ trong mỗi cử hành. Thật vậy, trong nghi thức sám hối
và sau lời mời cầu nguyện, là để mọi người hồi tâm lại; sau bài đọc hoặc bài giảng
là để mọi người suy gẫm vắn tắt về những gì đã nghe; còn sau khi rước lễ thì để
ca ngợi và cầu xin Thiên Chúa trong lòng”[15].
Bên cạnh sự thinh lặng, mỗi cử chỉ điệu bộ hay
lời nói được đặt tại những thời điểm khác nhau của cử hành phụng vụ đều mang một
ý nghĩa sâu xa và chứa đựng một tác động chính xác, qua đó Chúa Thánh Thần thực
hiện sứ vụ giúp người tín hữu “hiệp thông với Đức Kitô để làm nên Thân Thể Người”[16].
Thao thức mục vụ đôi khi gợi cho linh mục các sáng kiến chủ quan và không phù hợp
với bản chất của phụng vụ. Ý thức cử hành phụng vụ trong sự hòa hợp với tác động
của Chúa Thánh Thần sẽ giúp các linh mục tránh xa việc “tự ý thêm bớt hay thay
đổi” hoặc lạm dụng kỷ luật trong phụng vụ của Giáo hội.
Linh mục thông phần cách đặc biệt vào việc cử
hành phụng vụ nhờ ân sủng của bí tích Truyền Chức Thánh. Vai trò chủ sự không
phải là một bổn phận do cộng đoàn giao cho linh mục, nhưng là hệ quả của việc
tuôn đổ Thánh Thần trên linh mục qua nghi lễ truyền chức. Chúa Thánh Thần vẫn
tiếp tục hành động uốn nắn đào tạo linh mục trong các cử hành phụng vụ. Trong
khi thi hành thánh chức qua việc chủ sự trong cộng đoàn phụng vụ, các linh mục
phải để cho mình được Chúa Thánh Thần tác động, để Người hoàn tất việc Người đã
khởi sự nơi họ trong ngày họ được truyền chức[17].
Tông huấn Desiderio Desideravi giải
thích rõ:
Tác động của Thánh
Thần giúp cho các linh mục có thể thi hành phận vụ chủ sự cộng đoàn Thánh Thể với
tâm tình kính sợ như Phêrô, ý thức mình là người tội lỗi (Lc 5,1-11), với lòng
khiêm nhường thẳm sâu của người tôi tớ đau khổ (x. Is 42tt), và với mong muốn
“được ăn” bởi những người được giao phó cho mình khi thi hành tác vụ hằng ngày.
3. Bản chất và hiệu năng của
ngôn ngữ biểu tượng
Cử hành phụng vụ nói chung và cử hành Thánh Thể
nói riêng được kết nên nhờ các dấu chỉ và biểu tượng. Những thực tại khả giác
phong phú của thế giới vật chất và đời sống xã hội khi được Phụng vụ của Hội
Thánh đón nhận, hội nhập và thánh hóa sẽ trở thành “phương tiện diễn tả hành động
của Thiên Chúa, Đấng thánh hóa loài người, và diễn tả hành động của con người,
những kẻ phụng thờ Thiên Chúa”[18].
Ý nghĩa của các dấu chỉ và các biểu tượng gắn liền với công trình tạo dựng và
văn hóa nhân loại, được xác định qua các biến cố cứu độ, và hoàn tất tròn đầy
nơi con người và công trình của Đức Kitô[19].
Các hành động biểu tượng chính là một thứ ngôn
ngữ, nhưng cần có Lời Chúa và lời đáp lại của đức tin, tức kinh nguyện, đi kèm
thì ý nghĩa mới rõ ràng chính xác và cuộc gặp gỡ đối thoại của con cái Thiên
Chúa với Cha mình trong cử hành phụng vụ mới trở nên sống động[20].
Những hình thức ngôn ngữ khác nhau được sử dụng trong phụng vụ như lời nói và
âm nhạc, các cử chỉ và sự thinh lặng, sự di chuyển hay các tư thế, màu sắc phụng
vụ dành cho phẩm phục... đều có ý nghĩa và tác động nhất định trong khi cử hành
nên cần được lưu tâm và vận dụng cách nhịp nhàng hiệu quả. “Từng cử chỉ và lời
nói của cử hành phụng vụ, khi được thể hiện cách ‘nghệ thuật’, sẽ hình thành
nhân cách kitô hữu của mỗi cá nhân và của cả cộng đoàn”[21].
Các cử chỉ điệu bộ cần được thể hiện nhịp
nhàng với lời đọc, không thái quá cũng không chiều theo những suy diễn chủ
quan, mà cần dựa trên sự hiểu biết chính xác về bản chất phụng vụ và ý nghĩa của
hành động. Các cử chỉ chắp tay, dang tay, đấm ngực, cúi đầu, cúi mình… cần được
thực hiện với ý thức đang hiện diện trước nhan Chúa. Đức Giáo Hoàng Phanxicô
nói về hành động quỳ gối: “Hãy thực hiện động tác quỳ gối cách nghệ thuật,
nghĩa là với nhận thức đầy đủ về ý nghĩa biểu tượng và sự cần thiết của cử chỉ
này để thể hiện cách chúng ta hiện diện trước mặt Chúa”[22].
Trong vai trò chủ sự, các linh mục cần nắm chắc
nguyên tắc mà Tông huấn Bí tích Tình yêu lưu ý:
Tính đơn giản của
những cử điệu và sự trang nhã của những dấu chỉ thể hiện trong trật tự có sức
truyền đạt và tác dụng hơn bất kỳ những gì thêm vào mà không thích hợp. Lưu tâm
và trung thành với cấu trúc đặc biệt của nghi lễ vừa diễn tả một sự hiểu biết về
bản chất của Thánh Thể như một quà tặng, vừa biểu lộ ý muốn của thừa tác viên
đón nhận quà tặng vô giá đó bằng lòng biết ơn đầy vâng phục[23].
Các lời nói và kinh nguyện của linh mục là yếu
tố quan trọng của cử hành Thánh Thể nên cần có cung giọng phù hợp với nội dung
và mục đích khác nhau của chúng. Nghệ thuật thể hiện những yếu tố này được mô tả
trong Tông thư Desiderio Desideravi:
Những lời mà Phụng
vụ đặt trên môi miệng linh mục có những nội dung khác nhau, đòi hỏi những âm giọng
đặc biệt. Tầm quan trọng của những lời này đòi hỏi một nghệ thuật đọc nói chuẩn
xác. Những lời này định hình cho những cảm xúc nội tâm, lúc thì khẩn cầu Chúa
Cha nhân danh cộng đoàn, lúc thì ngỏ lời huấn dụ với cộng đoàn, lúc khác thì
chung lời tung hô với toàn thể cộng đoàn[24].
Qua nghệ thuật cử hành với những nguyên tắc và
lưu ý trên đây cùng nhiều điều khác nữa, linh mục cùng các thừa tác viên khác
và cộng đoàn tham dự sẽ được đào tạo liên tục trong chính cử hành phụng vụ, đồng
thời được thông phần tích cực vào hiến lễ của Chúa Giêsu bằng cách dâng hiến
chính mình trong thánh lễ đang được cử hành cũng như trong cả cuộc đời sứ vụ của
mỗi người.
II. PHẬN VỤ CỦA CÁC THỪA TÁC
VIÊN
1. Các thừa tác viên có chức
thánh
Nhờ bí tích Truyền Chức Thánh, các thừa tác
viên của Đức Kitô được thiết lập và trở nên người ban phát các mầu nhiệm của
Thiên Chúa. Qua việc đặt tay và lời nguyện truyền chức, Giám mục, Linh mục và
Phó tế, nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, tham dự vào cử hành phụng vụ
trong cách thế riêng của từng thánh chức. Trong lời nguyện truyền chức giám mục,
Hội Thánh cầu xin cho tiến chức biết “thi hành chức vụ thượng tế cách hoàn hảo,
biết phụng sự Cha suốt cả đêm ngày, không ngừng tỏ bày dung mạo nhân lành của
Cha, và tiến dâng lễ vật của Hội Thánh.” Còn trong nghi thức diễn nghĩa, các
tân linh mục được lưu ý “hãy ý thức việc con làm, noi theo điều con cử hành và
rập mẫu đời sống con theo mầu nhiệm Thánh giá Chúa”; và các tân phó tế được nhắc
nhở rằng “hãy chú tâm tin điều con đọc, dạy điều con tin và thi hành điều con dạy”[25].
Các Giám
mục và linh mục với chức tư tế thừa
tác không những có nhiệm vụ đại diện cho Đức Kitô, Đấng là Đầu Hội Thánh, quy tụ
và công bố sứ điệp cứu độ cho cộng đoàn tín hữu, mà còn hành động nhân danh
toàn thể Hội Thánh, khi dâng lên Thiên Chúa lời cầu nguyện của Hội Thánh, và nhất
là khi dâng Hy lễ Thánh Thể lên Thiên Chúa Cha[26].
Các ngài được mời gọi phải thi hành thánh chức một cách cẩn trọng: “khi cử hành
Thánh Thể, ngài phải phục vụ Thiên Chúa và cộng đoàn cách trang nghiêm và khiêm
tốn; và qua thái độ cử chỉ cũng như cung cách đọc lời Chúa, phải gợi lên cho
các tín hữu thấy sự hiện diện sống động của Chúa Kitô”[27].
Các phó
tế không lãnh nhận chức tư tế thừa tác, nhưng việc phong chức trao cho họ
những nhiệm vụ quan trọng trong thừa tác vụ rao giảng Lời Chúa, phụ giúp các
giám mục và linh mục trong việc cử hành mầu nhiệm thánh, nhất là thánh lễ, trao
Mình Thánh Chúa, chứng hôn, rửa tội, công bố và rao giảng Tin Mừng, chủ tọa lễ
nghi an táng và đặc biệt là dấn thân vào việc bác ái[28].
Dù thi hành thánh chức ở cấp bậc nào, các thừa
tác viên cần lưu tâm nhận định của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI: “Nghệ thuật cử
hành là kết quả của sự trung thành tuân giữ các quy luật phụng vụ trong mọi
khía cạnh phong phú của nó”[29].
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã triển khai ý tưởng này chi tiết hơn:
Không được giản lược
ars celebrandi vào thái độ tuân giữ
cách máy móc các luật chữ đỏ, càng không được coi đó là sáng tạo - có khi là bừa
bãi -, không có quy tắc. Bản thân nghi thức là một quy định, và quy định không
phải là mục đích tự thân, nhưng nó phục vụ cho một thực thể cao hơn mà nó muốn
bảo vệ[30].
Giải pháp cho những vấn đề tồn tại trong việc
cử hành phụng vụ hiện nay cần khởi đi từ các linh mục. Để tránh những lạm dụng
và “đổi mới” tùy tiện trong cử hành, linh mục phải tuân giữ kỷ luật, từ bỏ những
tình cảm ủy mị, phải nghiêm túc thực thi tác vụ trong sự hiểu biết và tuân phục
Hội Thánh. Một nguyên tắc quan trọng trong khi chủ tế Thánh lễ mà linh mục cần
ghi nhớ là không được cướp mất sự chú ý phải dành cho tính cách trung tâm của
bàn thờ, một “dấu chỉ của Đức Kitô, Đấng mà từ cạnh sườn bị đâm thâu, nước và
máu đã chảy ra để nên nguồn mạch phát sinh các Bí tích của Hội Thánh” và là
“tâm điểm của việc ca ngợi và tạ ơn Chúa”[31].
Sau bàn thờ, linh mục là dấu chỉ sự hiện diện sống động của Chúa Kitô trong cộng
đoàn phụng vụ. Thế nên, vị trí của chủ tế, đặc biệt trong phần hiến tế - Kinh
nguyện Thánh Thể, không thể bị lấn chiếm. Trong thánh lễ đồng tế ở một vài nơi,
do không lưu ý nguyên tắc này hoặc vì thiếu micrô, vị trí của linh mục chủ tế
(ngay cả giám mục) thường bị lấn át hay che khuất bởi các vị đồng tế khi đọc
Kinh nguyện Thánh Thể. Hình ảnh này vừa mâu thuẫn với thực tại cử hành vừa làm
mất đi nét đẹp của phụng vụ.
Một số lạm dụng trong cử hành phụng vụ hiện
nay xuất phát từ nhận thức lệch lạc về tính sáng tạo và thích nghi[32].
Tái khám phá vẻ đẹp của phụng vụ cùng ý nghĩa của các dấu chỉ điệu bộ trong cử
hành cũng giúp cho thừa tác viên tránh được sự nhầm lẫn giữa nét đơn giản với sự
tầm thường bất cẩn, giữa điều thiết yếu với sự hời hợt thiếu hiểu biết, hoặc giữa
tính cụ thể của nghi lễ với quan điểm duy chức năng quá mức trong thực hành[33].
Các cử chỉ và điệu bộ của thừa tác viên “phải thế nào để toàn thể việc cử hành
có được vẻ đẹp đơn sơ trang trọng, giúp thấy rõ ý nghĩa thật và đầy đủ các phần
khác nhau cũng như làm cho sự tham dự của mọi người được dễ dàng hơn”[34].
Thiết nghĩ các linh mục cần chú tâm hơn đối với
một số tư thế cử chỉ quen thuộc trong khi chủ sự nhằm làm sáng tỏ ý nghĩa đích
thực và đầy đủ của các nghi thức và góp phần tạo nên vẻ đẹp và sự đơn giản của
việc cử hành.
Đối với tư thế của đôi tay, ngoài cử chỉ chắp
tay, một tư thế khác được linh mục chủ tế sử dụng thường xuyên là orans, tư thế với hai tay dang rộng vừa
phải và hơi nâng cao. Các tín hữu cũng nhìn thấy qua tư thế này hình ảnh Chúa
Kitô tự hiến mình trên thánh giá. Vị chủ sự thực hiện cử chỉ này khi cầu nguyện
nhân danh mình và cũng nhân danh Giáo Hội. Như thế, cử chỉ orans làm cho linh mục chủ tế nên giống Chúa Kitô qua việc dâng
chính Hy lễ của Ngài lên Chúa Cha. Trong khi đó, cử chỉ dang tay khi chào chúc
hoặc mời gọi hoàn toàn khác với cử chỉ orans.
Linh mục chủ tế dang tay hơi thấp rồi chắp lại trong khi nói lời chào chúc hay
mời gọi cộng đoàn (ví dụ, Chúa ở cùng anh chị em). Một điều cần lưu ý là trước
khi công bố Tin Mừng, phó tế hoặc linh mục khi không có phó tế, thực hiện lời
chào với đôi tay chắp lại[35].
Bởi lẽ công bố Tin mừng là tác vụ của phó tế và lời chào của phó tế lúc này
không có tư cách của linh mục chủ tọa. Thế nên, khi không có phó tế, một linh mục
công bố Tin mừng cũng chỉ chắp tay chào mà không dang tay trong tư cách của chủ
tế. Khi các phó tế chủ sự một vài nghi thức được luật cho phép cũng cần tuân giữ
những thực hành nêu trên.
Ở phần đối đáp mở đầu Kinh Nguyện Thánh Thể,
do có sự dịch chuyển giữa hai tư thế dang tay nên cách thức cử hành cũng có
chút thay đổi. Linh mục dang tay đọc “Chúa ở cùng anh chị em”, nhưng không chắp
tay lại như thường lệ. Sau lời đáp của cộng đoàn, linh mục đọc tiếp “Hãy nâng
tâm hồn lên” và đồng thời nâng hai tay lên. Sau cùng khi mọi người đáp xong,
linh mục giữ tay ở vị trí orans và đọc:
“Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta.” Tư thế tay orans này được duy trì cho đến hết Kinh tiền tụng đọc liền sau đó[36].
Một cử chỉ quen thuộc khác thường bị nhầm lẫn
hay thực hiện không chính xác liên quan đến đầu và toàn thân: cúi đầu và cúi
mình.
Cúi đầu nói lên sự tôn kính mỗi khi đọc kinh Ba Ngôi Thiên Chúa một trật, khi
đọc tên Chúa Giêsu, tên Đức Maria đồng trinh hay tên vị thánh được mừng kính[37].
Cách riêng, tên Chúa Giêsu Kitô không chỉ được nhắc đến hai lần trong kinh Vinh
Danh mà còn ở nhiều chỗ khác trong các kinh nguyện của Thánh lễ, ngay cả ở phần
đầu của kinh Tin Kính, nhưng các linh mục thường không chú tâm cúi đầu ở những
thời điểm này.
Cúi mình hay cúi sâu với cả phần đầu và lưng chỉ sự kính cẩn trước Thiên Chúa
hay một mầu nhiệm. Hội đồng Giám mục Việt Nam với sự đồng ý của Tòa Thánh đã
cho phép cúi mình vào những lúc mà phụng vụ quy định phải bái gối để tôn kính
phép Thánh Thể và Thánh giá[38].
Trong thánh lễ, ngoài những chỗ cúi mình thay cho bái gối hay chào kính bàn thờ,
linh mục phải cúi mình khi đọc các kinh: “Lạy
Thiên Chúa toàn năng, xin thanh tẩy tâm hồn...” trước khi công bố Tin mừng;
“Lạy Chúa là Thiên Chúa, xin thương nhận
chúng con...” sau khi đặt bánh rượu ở phần chuẩn bị lễ vật của Phụng vụ
Thánh Thể; trong kinh Tin Kính, khi đọc câu: “Bởi phép Chúa Thánh Thần…”; trong kinh nguyện Thánh Thể I, khi đọc
câu: “Lạy Chúa toàn năng, chúng con nài
xin Chúa sai Sứ thần…” Ngoài ra, linh mục cũng hơi cúi mình khi đọc lời
truyền phép. Còn phó tế thì phải cúi mình xin chủ tế chúc lành trước khi công bố
Tin Mừng[39].
Cần phân biệt tư thế cúi mình chào kính bàn thờ hay cúi mình bái lạy thay
cho bái gối với tư thế cúi mình kèm theo kinh nguyện. Tư thế sau thường kéo dài
cùng với việc đọc kinh, nếu không sẽ bị hiểu nhầm thành cử chỉ bái lạy hay chào
kính. Điều này thường xảy ra khi linh mục đọc lời nguyện dọn mình trước khi
công bố Tin mừng và lời nguyện dọn mình trước khi cử hành Kinh nguyện Thánh Thể.
Cúi mình lúc này thể hiện sự khiêm tốn chân thành xin cho được chu toàn thừa
tác vụ với tâm hồn chăm chú và đạo đức hơn khi cử hành hai phần cao điểm của Phụng
vụ Lời Chúa và Phụng vụ Thánh Thể[40].
Những cử chỉ điệu bộ rất quen thuộc khác như
làm dấu thánh giá, đấm ngực, đặt tay, ban phép lanh... cũng cần thực hiện cách
tự nhiên, trang nghiêm, không cường điệu và nhịp nhàng theo lời đọc. Khi chú
tâm chu toàn phận vụ của mình qua việc thực hiện các cử chỉ điệu bộ cách cẩn trọng,
các thừa tác viên góp phần vào ars
celebrandi của toàn bộ cử hành, giúp các tín hữu cảm nhận sự trang trọng
linh thánh của nghi thức và tham dự tích cực vào mầu nhiệm được cử hành.
2. Thừa tác viên không có chức
thánh
Những người giúp lễ, đọc sách, dẫn lễ và một số
vai trò khác đều là những người đang thực hiện một thừa tác vụ Phụng vụ đích thực.
Họ phải có đời sống gương mẫu và thi hành phận vụ với lòng đạo đức chân thành,
nghiêm túc, đây là thái độ xứng hợp đòi hỏi đối với một tác vụ cao trọng và
cũng là điều dân Chúa có quyền mong chờ[41].
Vì vậy, mỗi người tùy theo khả năng cần phải thấm nhuần tinh thần phụng vụ, và
trau dồi học hỏi để chu toàn các phần việc của mình cho đúng nghi thức và theo
đúng quy định.
Theo giáo luật, thừa tác vụ giúp lễ và đọc
sách cố định chỉ có thể ủy nhiệm cho người nam[42].
Tuy nhiên, trong những nơi không có các thừa tác viên đặc biệt này, những giáo
dân có khả năng và được huấn luyện có thể thay thế để phục vụ bàn thờ, trao
Mình Thánh Chúa, hay đọc Sách Thánh[43].
Những thừa tác viên này phải mặc y phục xứng đáng và có tác phong nghiêm trang
khi thi hành phận vụ.
Các thừa tác viên giúp lễ nên hạn chế đi lại
trên cung thánh khi không thực sự cần thiết, và phải cúi mình mỗi lần đi ngang
bàn thờ. Khi cần đi lại phải nghiêm trang với hai tay chắp trước ngực. Phía sau
bàn thờ là vị trí của chủ tế khi cử hành Phụng vụ Thánh Thể nên cũng tránh lấn
chiếm khu vực này với thời gian kéo dài.
Thừa tác viên trao Mình Thánh Chúa ngoại lệ chỉ
tiến đến gần bàn thờ khi cộng đoàn đọc kinh “Lạy Chiên Thiên Chúa”. Khi chủ tế
rước lễ xong, ngài cho các thừa tác viên này rước lễ, rồi cầm bình thánh trao cho
họ, để họ cùng ngài cho cộng đoàn rước lễ. Khi cho rước lễ, thừa tác viên nâng
Mình Thánh Chúa lên trước mặt và đọc “Mình Thánh Chúa Kitô”. Người rước lễ
thưa: “Amen” và đón nhận Mình Thánh Chúa cách kính cẩn.
Thừa tác viên đọc sách cần có khả năng và giọng
đọc rõ ràng, cung giọng phù hợp. Họ phải ý thức tác vụ công bố lời Chúa cho cộng
đoàn nên cần chuẩn bị kỹ lưỡng, làm quen trước với bản văn sẽ đọc, tránh sự nhầm
lẫn đáng tiếc như đọc sang ngày khác, hay đọc bài Tin mừng, gây chia trí cho mọi
người, thậm chí làm hỏng bầu khí phụng vụ. Về vị trí đọc sách thánh, luật hiện
nay đòi buộc các bài đọc Thánh Kinh đều phải được công bố từ giảng đài là nơi
thích hợp với phẩm giá Lời Chúa[44].
Những người dẫn lễ, người phụ trách phòng
thánh, người trang trí cung thánh, người xin tiền thau, người đón tiếp và hướng
dẫn... có nhiệm vụ chuẩn bị và sắp đặt những yếu tố cần thiết, cũng như tham
gia một số phận vụ cụ thể góp phần cho buổi cử hành diễn tiến trong trang
nghiêm sốt sắng[45].
III. THÁNH CA PHỤNG VỤ VÀ TÁC
VIÊN THÁNH NHẠC
Thánh ca phụng vụ có một vị trí ưu việt trong ars celebrandi, vì âm nhạc không chỉ là
phương tiện để cộng đoàn tham gia tích cực, mà còn phản ánh vẻ đẹp của Thiên
Chúa có thể nâng đỡ tâm hồn, truyền cảm hứng và làm phong phú cho việc thờ phượng.
“Việc cùng nhau diễn tả đức tin bằng lời ca tiếng hát trong các cử hành phụng vụ
làm kiên vững đức tin khi đức tin suy yếu, đồng thời đưa chúng ta hòa nhập với
tiếng nói được linh hứng của Hội Thánh cầu nguyện”[46].
Kho tàng thánh nhạc Việt Nam được tạo dựng non
một thế kỷ qua và vẫn tiếp tục được bổ sung chính là một gia sản đức tin phong
phú cần được trân trọng và sử dụng cách hiệu quả. Tuy nhiên, việc lựa chọn bài
hát cho phù hợp và đem lại lợi ích dồi dào cộng đoàn tín hữu là một nghệ thuật
đòi hỏi sự hiểu biết cả về âm nhạc lẫn phụng vụ. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI
đã lưu ý: “Nên tránh những kiểu ngẫu hứng hoặc đưa vào những loại nhạc không
tôn trọng ý nghĩa của phụng vụ[47].
Hội Thánh luôn khuyến khích việc ca hát cộng
đoàn để các tín hữu có thể dâng lời ca tiếng hát hầu tham dự đầy đủ và tích cực
trong các việc đạo đức thánh thiện cũng như trong chính hoạt động phụng vụ[48].
Tuy nhiên, có những người với khả năng của mình được mời gọi tham gia cách đặc
biệt vào việc ca hát phụng vụ góp phần trực tiếp cho buổi cử hành, đó là các thừa
tác viên thánh nhạc[49].
Ca đoàn có phận vụ giúp cộng đoàn tham dự phụng vụ cách tích cực qua việc ca
hát. Trong buổi cử hành, ca đoàn có bổn phận phải hát đúng những phần dành
riêng cho mình và không được lấn át những phần thuộc về cộng đoàn[50].
Khi chu toàn chức năng phụng vụ của mình, các ca viên cũng góp phần làm gia
tăng vẻ đẹp của buổi cử hành, đem lại lợi ích thiêng liêng cho các tín hữu và
cho chính họ[51].
Người xướng
thánh vịnh có phận vụ xướng hoặc hát thánh vịnh đáp ca
hoặc thánh ca Kinh Thánh theo cung điệu phù hợp. Tác vụ này có thể được thực hiện
tại giảng đài hay một nơi thuận tiện khác[52].
Để chu toàn phần việc của mình, người xướng thánh vịnh cần có nghệ thuật
đọc thánh vịnh, có khả năng phát âm và đọc cho đúng[53].
Người đệm
đàn trong phụng vụ có vai trò dẫn dắt và nâng đỡ tiếng
hát của cộng đoàn và ca đoàn. Giáo Hội luôn đề cao việc sử dụng phong cầm. Tuy
nhiên, thẩm quyền địa phương cũng có thể phê chuẩn cho phép sử dụng những nhạc
cụ khác, đặc biệt là các nhạc cụ truyền thống dân tộc, miễn sao phù hợp với vẻ
tôn nghiêm và bầu khí thánh thiện của phụng vụ[54].
Khi tham gia vào việc cử hành phụng vụ, cả người
hát lẫn người đệm đàn phải có những kiến thức cần thiết không những về âm nhạc
mà còn về phụng vụ và đạo đức nữa. Ca đoàn và các nhạc công phải ý thức phận vụ
của mình, không được biến buổi cử hành phụng vụ thành nơi trình diễn[55].
Các tác viên thánh nhạc cần ý thức phục vụ qua việc ca hát với tất cả con người
của mình, bao gồm cả kỹ năng âm nhạc lẫn tâm tình yêu mến tôn thờ, như thánh
Augustinô nhận định: “con người mới hát bài ca mới. Hát là biểu hiện của niềm
vui và, … hát còn là một biểu hiện của tình yêu”[56].
Ca trưởng là người chịu trách nhiệm toàn bộ việc thể hiện âm nhạc trong phụng vụ,
từ khâu chọn bài cho phù hợp đến giai đoạn tập luyện cho ca viên và cộng đoàn.
Ngoài ra, ca trưởng cũng phải phối hợp chặt chẽ với linh mục chủ tế và những người
chịu trách nhiệm các phần việc khác, nhằm “đồng tâm nhất trí với nhau để chuẩn
bị cách thiết thực cho cuộc cử hành phụng vụ”[57].
Việc lựa chọn bài hát rất quan trọng, người có
trách nhiệm phải biết chọn bài hát đúng với từng cử hành và phải tuân thủ các
chỉ dẫn của Hội Thánh trong lãnh vực thánh nhạc. Vì là một thành phần của phụng
vụ, bài thánh ca phải hòa nhập vào hình thức của buổi cử hành. Do vậy các yếu tố
như lời ca, giai điệu, và cả cách trình bày (bao gồm đệm đàn) đều phải phù hợp
với mầu nhiệm được cử hành, với các phần của nghi lễ, và với mùa phụng vụ[58].
Có lẽ nhiều ca trưởng chỉ dừng lại ở lời ca và
giai điệu khi chọn bài hát mà chưa lưu ý các yếu tố khác như tính biểu tượng và
chức năng diễn giải của âm nhạc liên quan đến thang âm điệu thức hay hòa âm và
sử dụng nhạc cụ. Ví dụ: các bộ lễ bình ca dù có bản văn không thay đổi nhưng âm
điệu thay đổi theo mùa hay buổi cử hành rất rõ ràng. Khi hát thánh vịnh, người
ta thường thay đổi mode (điệu thức) theo mùa hay ngày lễ: Dorian cho mùa Vọng, Ionian
cho mùa Giáng Sinh, Lydian cho Lễ Hiển
Linh. Trong tiếng Việt, có lẽ chúng ta chưa quan tâm thay đổi các bộ lễ theo hướng
sử dụng này. Cũng vậy, cách trình bày cũng có ý nghĩa và hiệu quả khác biệt. Ca
hát đồng giọng phù hợp hơn hết để diễn tả sự đồng tâm nhất trí, trong khi đó
hình thức ca hát đa âm hòa điệu lại trở thành hình ảnh của nhiều ơn gọi đặc thù
nhưng hợp nhất được tìm thấy bởi sự hài hòa các ân huệ khác nhau. Việc đệm đàn
trong mùa Chay cần theo nguyên tắc “chỉ được phép dùng phong cầm và các nhạc cụ
khác để giữ giọng hát”[59]
nhưng cũng nên hạn chế một số nhạc cụ hay âm sắc có thể lấn át đặc tính của
mùa đặc biệt này. Thậm chí cùng một bài hát thì cách đệm đàn trong mùa Chay có
thể khác với mùa Phục Sinh.
Những gợi ý trên đây có vẻ rườm rà và không thực
tế nhưng chính là đòi hỏi của nghệ thuật cử hành để thánh nhạc thực sự là một dấu
chỉ biểu tượng, liên kết hợp nhất với toàn bộ cử hành phụng vụ giống như các yếu
tố khác. Thánh nhạc trở thành nghi lễ trong chính bản thân nó, một lễ nghi được
thực hiện giữa lòng cộng đoàn và cho cộng đoàn.
IV. CỘNG ĐOÀN THAM DỰ VÀ CÁC YẾU
TỐ KHÁC
Ngoài các thừa tác viên là những người có phận
vụ riêng trong buổi cử hành, phần lớn còn lại của cộng đoàn phụng vụ cũng được
mời gọi góp phần mình vào nghệ thuật cử hành qua việc tham dự một cách tích cực.
Sự tham dự này không dừng lại ở lòng sốt sắng hay tâm tình, nhưng phải biểu lộ
ra bên ngoài, nghĩa là người tham dự phải cộng tác vào việc cử hành bằng những
lời tung hô, những câu đối đáp, những lời ca vịnh, những bài hát, hoặc làm những
cử chỉ điệu bộ xứng hợp, hay là thinh lặng trong lúc cần thiết. Việc mọi người
cùng đọc, cùng hát và thực hiện cùng nhau các cử chỉ điệu bộ phải giữ là dấu chỉ
của sự hợp nhất giữa các thành phần của cộng đoàn Kitô hữu đang quy tụ để cử hành
phụng vụ thánh: nó biểu lộ và khích lệ tâm hồn cũng như tình cảm của các người
tham dự[60].
Tham dự tích
cực vào phụng vụ một cách ý thức còn đòi hỏi người tín hữu phải hiểu những nghi
lễ đang cử hành. Chỉ khi người ta hiểu diễn tiến các lễ nghi, ý nghĩa các nghi
thức, các dấu phụng vụ, những từ ngữ, kiểu nói của Thánh Kinh, của lời nguyện,
người ta mới có thể tham dự cách đầy đủ, và khi ấy người ta mới có thể đi sâu
vào các mầu nhiệm đang cử hành. Vì thế, các mục tử, tùy theo hoàn cảnh cụ thể,
cần có chương trình đào tạo phụng vụ phù hợp cho đàn chiên của mình.
Cuối cùng, nghệ thuật cử hành còn phụ thuộc
vào các yếu tố vật chất cần thiết cho nghi thức cũng như không gian phụng vụ.
Khung cảnh cử hành Phụng vụ phải đẹp hài hòa xứng hợp với thực tại thiêng thánh.
Tuy quan niệm về “cái đẹp” có thể mang tính chủ quan và bắt nguồn từ văn hóa,
nhưng phẩm chất khách quan của cái đẹp chính là sự phản ánh Thiên Chúa là Đấng
Chân-Thiện-Mỹ. Sự hài hòa trong việc cử hành Phụng vụ thánh được nuôi dưỡng và
bảo vệ bởi các quy tắc phụng vụ mà mọi người buộc phải tuân giữ. Những quy tắc
này liên quan đến chính nghi thức, lễ phục phụng vụ, các vật dụng thánh như
chén, bình và các loại khăn; không gian thánh hay nhà thờ cùng các đồ vật, tượng
ảnh trong đó, tất cả đều phục vụ vẻ đẹp của nghi thức hướng đến Chúa Kitô là Đấng
toàn mỹ đang hành động trong nghi lễ cử hành. Việc giữ gìn sạch sẽ cũng như sắp
đặt hài hòa và trật tự các yếu tố vật chất liên quan đến cử hành góp phần củng
cố lòng kính trọng đối với các mầu nhiệm của Thiên Chúa, biểu lộ sự duy nhất của
đức tin và củng cố lòng đạo đức[61].
Qua Tông thư Desiderio Desideravi, Đức Giáo Hoàng Phanxicô muốn “khơi dậy sự ngỡ
ngàng thán phục trước vẻ đẹp của chân lý trong cử hành phụng vụ Kitô giáo”[62].
Trong phụng vụ, cái đẹp không phải là một thứ tùy tiện thêm vào; nét đẹp phụng
vụ là con đường dẫn ta đến với Chúa, đồng thời là biểu hiện vẻ đẹp toàn mỹ của
Chúa. Chính vẻ đẹp của Thiên Chúa mới là điều lôi kéo chúng ta đến với sự thánh
thiêng, đi sâu vào mầu nhiệm và vinh quang của Chúa Kitô trên thập giá, được biến
đổi hoàn toàn nhờ vẻ đẹp thần linh và tham dự vào sự viên mãn trọn vẹn của mầu
nhiệm. Nghệ thuật cử hành, ars celebrandi,
giúp người tín hữu nuôi dưỡng ý thức về sự thánh thiêng, cảm nhận nét đẹp của
phụng vụ, thúc đẩy sự sùng kính và khao khát tham dự vào vinh quang Thiên Chúa.
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 135 (Tháng 5 & 6 năm 2023)
[32] x. Gioan Phaolô II,
Thông điệp Giáo Hội từ Thánh Thể - Ecclesia de Eucharistia (17.4.2003), số
52.
[62] Tông thư Desiderio Desideravi, số 62.