MONITA AD MISSIONARIOS
VÀ ĐỜI SỐNG LINH MỤC HÔM NAY
LM Vinhsơn Trần Minh
Thực, PSS
Mục lục |
DẪN NHẬP
Bản Ratio 2016 của Tòa Thánh về việc đào tạo
linh mục, số 54, xác định rằng việc đào tạo ở chủng viện “được hiểu như là hành trình đào tạo người môn đệ truyền giáo”[1].
Nhìn dưới góc cạnh này, bản văn Monita ad missionarios
- Nhắn nhủ các thừa sai - thật là một bản văn hợp thời, đặc biệt với việc
thường huấn linh mục, với ý nghĩa tiếp tục, bổ sung, nối dài việc đào tạo tại
chủng viện, nhất là khơi dậy nhiệt huyết truyền giáo. Hơn thế nữa, với một linh đạo truyền giáo mang chiều sâu đặc
biệt, bản văn quan trọng này có vai trò như một bản văn kiến tạo Hội Thánh tại
Việt Nam nói riêng và tại cả vùng Viễn Đông nói chung. Với ước muốn tái khám
phá kho tàng phong phú trong lịch sử Hội Thánh tại Việt Nam, xin được giới thiệu những
nét vẫn còn hợp thời trong bản văn Nhắn
nhủ các thừa sai. Bài viết được trình bày theo hai phần:
- Bối cảnh chung của bản văn
- Những yếu tố còn nguyên giá trị
Bài viết được trình bày theo phương pháp đối chiếu, nhất là để cho văn bản trực
tiếp lên tiếng. Một trong những bài viết rất nên tham khảo là bài Bình vẫn chưa hề cũ
của cha Giuse Trương Đình Hiền.
I. BỐI CẢNH CHUNG CỦA BẢN VĂN
1. Bối cảnh xã hội và Giáo hội
Xã hội châu Âu vào thế kỉ 15-16 là giai đoạn của
những phát kiến địa lí:
- 1415: hoàng tử
Henrique (1394-1460) của Bồđàonha (BĐN) thiết lập và bảo trợ một trường hàng hải.
- Đoàn thám hiểm BĐN do Bartolomeu
Dias dẫn đầu đã tới được cực nam châu Phi, họ đặt tên mũi đất
này là mũi Hảo Vọng.
- Năm 1497, Vasco
da Gama đã dẫn đầu đoàn thám hiểm BĐN tới được Ấn Độ.
- Năm 1492,
một đoàn thám hiểm của Tâybannha (TBN) do Cristoforo Colombo chỉ huy đã tới được quần đảo miền
trung châu Mĩ, nhưng ông lại tưởng là đã tới được Ấn
Độ.
- Năm
1519-1522, Ferdinand Magellan đã dẫn đầu đoàn thám
hiểm TBN lần đầu tiên đi vòng quanh thế
giới.
Những phát kiến địa lí trên đây dẫn đến việc
Giáo hội ủy thác cho hoàng gia BĐN và hoàng gia TBN việc bảo trợ công cuộc truyền
bá đức tin cho thế giới ngoại giáo.
Những mốc trên đây cho thấy vào đầu thế kỉ 15
ngành hàng hải BĐN đã rất phát triển, nhờ vậy, họ được hưởng khá nhiều đặc quyền.
Ngày 4-4-1418, Đức Máctinô V ban hành sắc lệnh Sane Charissimus cho hoàng đế BĐN quyền làm chủ các vùng đất đã chiếm
cứ. Ngày 28-5-1455, Đức Nicôla V lại ban thêm sắc lệnh Romanus Pontifex, khẳng định rằng bất kì ai đến vùng đất chiếm đóng của hoàng đế BĐN để buôn bán hay truyền
giáo đều phải được sự cho phép của vị hoàng đế này. Từ năm 1492, độc quyền trên
đây của BĐN bị đặt lại vấn đề khi ngành hàng hải của người TBN cũng đang trên
đà phát triển. Cuộc tranh chấp giữa BĐN và TBN đã khiến Đức Alêxanđê VI đã phải
ấn định ranh giới đặc quyền của hai đế quốc, qua hiệp ước Tordesillas, lấy đảo
cuối cùng trong quần đảo Acores làm mốc, từ đó về phía tây thuộc ảnh hưởng TBN,
từ đó về phía đông thuộc ảnh hưởng BĐN
Ngày 23-1-1576, giáo phận Macao, còn gọi là Áo
Môn, được thành lập, với lãnh thổ bao trùm toàn bộ vùng Viễn Đông, trong đó có
Đại Việt. Khi bắt đầu việc truyền giáo tại Đàng Ngoài, trong số các vị thừa sai
Dòng Tên đến giảng đạo, luôn có một vị được đặt làm Bề Trên. Sau này, khi công
việc đã đạt những kết quả đáng khích lệ, trong số các thừa sai Dòng Tên, Đức
Giám mục Macao đặt một vị Đại Diện chịu trách nhiệm về vùng này.
Khi đặt hai Đại diện Tông tòa đầu tiên cho
Đàng Ngoài và Đàng Trong, bận tâm của Tòa Thánh là muốn cho công việc truyền bá
đức tin thoát khỏi ảnh hưởng của hoàng gia BĐN và TBN, nhưng đồng thời Tòa
Thánh cũng tạo ra trình trạng chồng lấn về thẩm quyền. Cùng với tình trạng này,
Huấn Thị 1659 cũng khiến cho giữa các
thừa sai của Hội Thừa sai Paris và các thừa sai Dòng Tên tại Viễn Đông có những
xung đột trầm trọng về quan điểm. Những xung khắc này kéo dài hàng thế kỉ và
gây ra rất nhiều tổn hại cho Giáo hội non trẻ ở Đàng Ngoài và Đàng Trong.
2. Bối cảnh của bản văn
Vì muốn công việc rao giảng Tin Mừng thoát khỏi
ảnh hưởng của hoàng gia BĐN và TBN, Đức Grêgôriô V đã thiết lập Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin vào năm 1622.
Tháng 6-1649, cha Đắc Lộ trở lại châu Âu,
trong dịp này, khoảng năm 1650, ngài đã trình lên Tòa Thánh nhu cầu phải đặt
các Giám mục cho vùng Viễn Đông, đặc biệt là cho Đàng Trong và Đàng Ngoài. Sau
đó, cha Đắc Lộ đi Paris với mục đích tìm ba ứng viên Giám mục cho kế hoạch truyền
giáo ở vùng Viễn Đông. Ngài được cha Bagot giới thiệu các ứng viên, trong đó có
ba người nổi bật là François Pallu, Montigny-Laval và Piques. Những trở ngại
sau đó khiến cả cha Montigny-Laval và cha Piques đều rút lui để dấn thân vào những
công việc khác. Cha François Pallu là người duy nhất vẫn âm thầm theo đuổi dự
án của cha Đắc Lộ. Năm 1657, cha François Pallu cùng bốn linh mục khác đi Rôma.
Trong chuyến đi này, cha gặp cha Pierre Lambert de la Motte. Những trao đổi giữa
hai vị đã đưa tới những kết quả cụ thể là đoản sắc bổ nhiệm hai vị làm Giám mục
vào ngày 29-7-1658. Sau đó, ngày 16-8, Đức cha François Pallu được bổ nhiệm làm
Đại diện Tông Tòa Đàng Ngoài, cùng với các tỉnh Vân Nam, Quí Châu, Hồ Quảng, Quảng
Tây, Tứ Xuyên và nước Lào; Đức cha Lambert de la Motte được bổ nhiệm làm Đại diện
Tông Tòa Đàng Trong. Đức cha François Pallu cũng thuyết phục được cha Ignace
Cotolendi, linh mục giáo phận Aix, chấp nhận trở thành vị Đại diện Tông Tòa thứ
ba.
Những cuộc lên đường[3]:
- Đức cha Pierre Lambert de la Motte lên đường ngày
18-6-1660, cùng với cha de Bourges, thầy Deydier lúc đó vẫn chưa chịu các chức
thánh. Các ngài rời Marseille ngày 27-11-1660, tới Ayuthia vào tháng 5-1662.
- Đức cha Ignace Cotolendi rời Paris ngày 22-7 và
lên tầu ở Marseille ngày 3-9-1661 cùng với ba người. Đức cha qua đời ngày
6-8-1662 ở Mazulipatam, Ấn Độ, một song các bạn đồng hành của ngài, Jean-
François de Fortis De Fortis qua đời tháng 12-1663.
- Đức cha François Pallu rời Marseille ngày
3-1-1662, cùng với bẩy giáo sĩ và hai giáo dân. Chuyến đi kéo dài hơn hai năm.
Năm người trong đoàn chết dọc đường. Cha Robert buộc phải rời đoàn để quay trở
về ở Aléppô do nhiễm bệnh nặng. Sau khi rời Érivan, Michel Swertz được yêu cầu
trở về do không phù hợp với việc truyền giáo. Đoàn đến Ayuthia ngày 27-1-1664.
Trên đây là ba cuộc lên đường chính. Bên cạnh
ba cuộc lên đường này, vào tháng 9-1661, cha de Saisseval-Danville và Laneau khởi
hành; tháng 10 năm đó, cha Périgaud và ông de Chamesson lên đường; tháng 11 cha
Brunel lên đường. Dường như các vị này sau đó đã nhập vào đoàn của Đức cha
François Pallu.
Lời nói đầu của cuốn Monita nói tới các chuyến
đi với 17 vị (có lẽ phải là 19 vị), trong đó tám vị bỏ mạng trên đường đi, hai
vị phải quay về vì những lí do khác nhau. Các tài liệu ghi nhận vào đầu năm
1664, khi các vị thừa sai gặp lại nhau tại Ayuthia, nhóm các vị gồm hai Đức cha
François Pallu và Lambert de la Motte; các linh mục Deydier, Laneau, Brindeau,
Hainques, Chevreuil và ông de Chamesson-Foissy. Trước đó, ngày 14-10-1663, cha
Jacques de Bourges đã được Đức cha Lambert sai đi châu Âu để trình bày cho Tòa
Thánh tình hình của vùng truyền giáo[4].
Ý thức được tầm quan trọng của một bộ luật về
nhiệm vụ của các thừa sai, Đức cha Pallu đã kêu gọi mọi người cùng suy nghĩ, nghiền
ngẫm, với các bản văn là Tin Mừng, bản giáo luật, hiến chế của các Đức Giáo
Hoàng, những hướng dẫn của Bộ Truyền Giáo, gương sáng của các thừa sai, nhất là
của thánh Phanxicô Xaviê[5].
Giai đoạn hình thành bản văn quan trọng này, trong bối cảnh chuẩn bị cho công
nghị Ayuthia vào năm 1664, của được Baudiment thuật lại như sau: “Để cân nhắc nghiêm túc về các biện pháp, hai
vị Đại diện Tông tòa đã phân chia các vấn đề ra cho các ngài và năm vị linh mục:
mỗi người sẽ suy nghĩ về phần riêng dành cho mình và trao đổi với những người
khác về kết quả suy nghĩ của họ. Với cách làm kéo dài trong nhiều tháng như thế,
họ thống nhất quan điểm và vị Giám mục nghĩ có thể đặt tên là công nghị”[6].
Từ công
nghị trong bản văn tiếng Pháp là synode, với gốc Hilạp gồm σύν ὁδὸς
(sun + ‘odos) mà thời gian gần đây chúng ta dịch là hiệp hành. Hai vị Đại diện Tông tòa đầu tiên đã bắt tay vào việc bằng
cách cùng với những người cộng sự cầu nguyện, suy nghĩ, đọc Lời Chúa, đối chiếu,
tham khảo những văn bản hướng dẫn của Tòa Thánh và của những người đã có kinh
nghiệm cụ thể trong hoạt động tông đồ, bàn bạc trao đổi với nhau. Như vậy, bản
văn Nhắn nhủ các thừa sai là kết quả
của đường hướng mà ngày nay chúng ta gọi là hiệp hành, tức là cùng lắng nghe tiếng
Chúa, trao đổi bàn bạc để đi đúng đường lối của Đấng xưng mình là con đường.
Trong thư đệ trình Đức Clêmentê IX, nội dung của
tài liệu Nhắn nhủ các thừa sai được
giới thiệu như sau:
Sống các nhân đức tông đồ (chương I)
Cách thức của Chúa Kitô và các tông đồ (II,
III, IV)
Các bổn phận nơi lương dân (V)
Nơi dự tòng (VI)
Nơi ứng viên chịu phép rửa (VII)
Nơi tân tòng (VIII)
Nơi các tín hữu đã được đào luyện (IX)
Nơi các thầy giảng (X)
Nơi nội dung này, chúng ta có thể nhận thấy một
linh đạo truyền giáo khởi đi từ đời sống thánh thiện của vị thừa sai, nhờ việc
chiêm ngắm đời sống của Chúa Giêsu và các Tông Đồ, hướng đến việc tiếp nhận lời
rao giảng Tin Mừng, tức là sự thánh thiện của các đối tượng khác nhau mà vị thừa
sai sẽ gặp gỡ trong cuộc đời thi hành nhiệm vụ rao giảng. Chương cuối cùng của
bản văn trình bày việc đào tạo các thầy giảng và vai trò của các thầy. Nơi đây,
bản văn đi vào một trong ba nội dung căn bản của Huấn dụ 1659 là việc đào tạo hàng giáo sĩ bản xứ. Xét như thế, bản
văn Nhắn nhủ các thừa sai có thể được
coi như một trong những bản văn nguồn của Hội Thánh tại Việt Nam nói riêng và tại
Viễn Đông nói chung.
Việc đọc bản văn chủ yếu dựa trên bản dịch của
giáo phận Kontum, đôi khi có đối chiếu với bản gốc Latinh hay bản tiếng Pháp. Bản
dịch của giáo phận Kontum dựa trên bản văn tiếng Pháp, phần đầu dịch khá tốt,
càng về cuối càng kém hơn. Là một bản dịch, dĩ nhiên bản văn này cũng có nhiều
vấn đề.
Ví dụ: “cái đức trong đạo” (ở chương V, tiết
3) là dịch từ tiếng Pháp “la vertu de religion” và tiếng Latinh “virtus
religionis”; hay tiêu đề chương I “vị thừa sai phải tránh mọi sự buông thả” so
với nguyên bản Latinh “de conservanda Missionariorum integritate”.
II. NHỮNG YẾU TỐ VẪN CÒN NGUYÊN GIÁ TRỊ
Những xem xét trên đây phần nào cho thấy tầm
quan trọng của bản văn Nhắn nhủ các thừa
sai đối với lịch sử Hội Thánh tại Việt nam. Khi đọc bản văn này, nếu lược bỏ
đi những yếu tố liên quan đến bối cảnh lịch sử và những lối diễn tả của thế kỉ
17, chúng ta có cảm giác rằng bản văn đang nói với từng người chúng ta, nhất là
các linh mục, vì bản văn xây dựng linh đạo truyền giáo trên nền tảng là nhận diện
để loại trừ các tật xấu, đồng thời xây dựng tương quan mật thiết với Chúa
Giêsu. Con xin được thử đưa ra một số chi tiết vẫn còn nguyên tính thời sự bằng
phương pháp đối chiếu bản văn Nhắn nhủ
các thừa sai với một số tài liệu khác.
1. Ba căn nguyên của tình trạng sa đọa trong đời mục tử
a. Trong bản
văn Nhắn nhủ các thừa sai
Chương I của bản văn chỉ ra rằng nền tảng của
đời sống tông đồ chính là đời sống nội tâm và kẻ thù của đời sống tông đồ là lối
sống buông thả. Bộ ba hủy diệt gồm những hình thức buông thả khác nhau được nhận
diện từ trình thuật về cuộc cám dỗ của Chúa và được trình bày hết sức cô đọng:
“Thật vậy, quá lo lắng cho thân xác
và những sự dễ dãi không chính đáng đã dần dần làm suy yếu lòng
yêu mến Thiên Chúa nơi nhiều vị khiến họ coi trọng xác thịt hơn tâm
linh. Tính tự phụ đã kéo theo nhiều điều xấu khác: Việc tập tành
nhân đức chưa xong, còn chưa có thể tự điều khiển được chính mình,
vậy mà họ đã dám nhận chăn dắt đàn chiên của Chúa Kitô. Đó chính
là bắt đầu xây dựng mà không có tài nào hoàn tất. Tính ham hố cuối
cùng cũng đã đưa đến những hậu quả tai hại: Lòng tham vô đáy muốn
chiếm hữu tất cả dẫn đến cuộc sống xa hoa và yếu nhược. Từ đó ta
mới hiểu nết xấu này đã biến những môn đồ thành tín của đức nghèo
khó Tin Mừng, trở nên những nô lệ xấu xa của tiền bạc. Đó là cách
thức dẫn đưa những tôi tớ của Chúa Kitô đến chỗ phục vụ ma quỉ”.
Chúng ta thử cùng nhau đọc lại những cảnh báo
của bản văn Nhắn nhủ các thừa sai đối
với từng thói xấu:
Đối với tật nuông chiều thân xác, bản văn cho
thấy từng bước của lối sống buông thả: “Ma
quỉ, đã từng biết rằng cuộc sống khắc khổ của các tông đồ thì bất
lợi cho chúng, nên đã dùng trăm phương nghìn kế để làm các ngài thay
đổi lối sống. Cũng thế, ma quỉ không chiêu dụ các ngài đi ngay vào
một cuộc sống quá dễ dãi vì biết các ngài yêu mến thánh giá, nhưng
chúng xoay hướng tấn công nhằm vào những công việc vất vả liên miên
làm cho kiệt sức, vào những thay đổi thất thường của thời tiết, vào
sự thiếu ăn, vào tất cả những gì con người tự nhiên thường sợ. Mặt
khác, ma quỉ còn viện cớ thiếu nhân sự nên công việc truyền giáo của
họ rất ích lợi và cần thiết. Rồi chúng khuyến dụ họ phải chăm lo
sức khoẻ của mình nhiều hơn, làm việc chừng mực để từ đó dần dà
lôi kéo các ngài đến sự buông thả.”
Cũng tương tự như đối với thói nuông chiều
thân xác, với tính tự phụ và chuộng vinh quang phù phiếm, bản văn cũng vạch ra
lộ trình sa đọa: “Cho nên ma quỉ không
nương nhẹ tay để làm cho vị thừa sai tiêm nhiễm những chất độc nguy
hại này. Nếu ma quỉ đạt được mục tiêu, nó sẽ làm tan biến công
trình và những nỗ lực của người thợ. Ma quỉ làm cho vị thừa sai
loá mắt vì muốn làm cho Thiên Chúa và Đức Kitô được vinh quang hơn khi
có một mùa gặt bao la các linh hồn và đem đạo Chúa Kitô đến khắp
cùng trái đất. Tiếp đó, nó lắt léo làm cho ngài nghĩ rằng phải
thừa cơ hưởng thụ những mối lợi về cả ân sủng lẫn vật chất. Và vị
thừa sai bị mắc lừa sẽ lao vào quá nhiều công việc một cách bất
cẩn. Dần dà, ngài sẽ bỏ bê những thực hành thường ngày của mình
như cầu nguyện, xét mình, đời sống nội tâm; ngài sống hướng ngoại,
không chu toàn bổn phận và hoàn toàn quên cả chính mình. Chẳng bao
lâu sau, bị mất đi sự trợ giúp của ân sủng và nâng đỡ của Chúa
Thánh Thần, ngài không thể chống đỡ trước những lôi cuốn của vinh
quang phù phiếm và lập tức rơi vào tình trạng xáo trộn nghiêm trọng
hơn: khinh rẻ mọi chuyện nhỏ, không vâng phục, chỉ màng đến những dự
tính mông lung, và mơ tưởng những chuyện đại sự. Từ đó ta hình dung cách
dễ dàng, ngài sẽ rơi xuống vực thẳm âu lo, lầm lạc và tội lỗi.”
Sau cùng, đối với tính tham lam, bản văn nhận
xét: “Đúng vậy, trong mọi thứ cám
dỗ tấn công nhà thừa sai, chính lòng ham muốn này đặt nhà thừa sai
vào tình trạng nguy hiểm nhất, vì nó dùng cái vẻ bề ngoài của nhân
đức để che phủ cái xấu. Bởi kẻ bị lòng khát khao trên dày vò,
thường cho việc tích trữ của cải là biết khôn ngoan tiên liệu; y lấy
cớ phải đáp ứng nhu cầu trước mắt trong nhà, phải lo trang hoàng nơi
thờ phượng, phải tổ chức lễ lạc. Như thế, y tự cho là không bao giờ
thừa và không bao giờ đủ, dù những của dâng cúng người ta giúp y có
đến mức nào đi nữa. Lòng tham của y vô đáy! Còn gì nữa? Y còn viện
cớ phải truyền bá đạo Chúa, phải vận động các vua quan, phải dùng
quà cáp để lấy lòng, phải làm cho dân chúng thán phục bằng vẻ hào
nhoáng bên ngoài và phải bảo vệ phẩm giá của mình. Và rồi, cuối
cùng chính y bị đưa đẩy cách thảm hại vào việc tích lũy của cải
bằng những phương thế đáng khinh và bất chính.”
Sau đó, bản văn căn dặn thêm: “Vậy thì, miễn là có ăn có mặc là
hạnh phúc rồi. Mặc thì cho sạch, nhưng tránh xa hoa. Đừng tìm kiếm
đồ đạc sang trọng, cũng đừng xây cất nhà cửa lộng lẫy, nhưng hãy
sống đơn giản nghèo khó.”
Đọc những dòng này, nhất là những gì liên quan
đến lối sống “đơn giản nghèo khó”,
chúng ta dễ dàng nhận ra rằng đây là lời mời gọi sống lối sống giản dị của Tin
Mừng, một lối sống vốn không xa lạ trong truyền thống Hội Thánh và nhiều truyền
thống khác.
b. Đối chiếu
với một số bản văn và truyền thống
Như đã nói, bộ ba những tật xấu trên đây vốn
không xa lạ với truyền thống tu đức của Hội Thánh công giáo, vì bộ ba này nằm
trong bẩy mối tội đầu và được định danh trong Nhắn nhủ các thừa sai là: quá lo cho thân xác - thói kiêu căng ngạo
mạn - lòng tham lam của cải. Trong cuốn Đối
thoại của thánh Catarina thành Siena, bộ ba hủy diệt đối với đời sống của
các mục tử được gọi đích danh bằng thói tà
dâm - tham lam - kiêu ngạo[7]. Riêng về thói tham lam, 1 Tm 6,10 đưa
ra những lời nhận xét thật nặng nề: “Thật
thế, cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng
ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé”.
Con không thể trích dẫn rất nhiều đoạn Kinh Thánh khác liên quan đến những tật
xấu khác, nhưng có thể nói rằng Lời Chúa chính là nền tảng, cùng với kinh nghiệm
là những cuộc gặp gỡ cụ thể trên những hành trình đầy gian khổ, những yếu tố đó
đã giúp hai Đức cha François Pallu, Lambert de la Motte và các thừa sai khác
phân định và nhận ra những cám dỗ, những hình thức buông thả là cội nguồn của sự
sa đọa trong đời sống của các mục tử.
Những lời cảnh báo này vốn đã được các thừa
sai và mọi người trong Nhà Đức Chúa Lời xưa kia cẩn thận tuân theo. Báo cáo năm
1751 của Đức cha Louis Néez, Đại diện Tông tòa Tây Đàng Ngoài, cho thấy điều
đó:
“Cho tới
nay, các vị Đại diện Tông toà và các thừa sai đã không nhận gì đối với việc duy
trì những trường tiểu chủng viện. Nguồn thu chính yếu, cùng với ơn Chúa giúp, gồm:
1° Để tất
cả tiền trợ cấp, tiền bổng lễ, v.v… làm của chung, không giữ lại một đồng xu
nào;
2° Sống
rất nghèo cùng với học trò và không hề tiêu pha điều gì vô ích;
3° Không
có bất cứ gia nhân ăn lương nào, mà chỉ có những người làm công quả chỉ cần có
cơm ăn và áo mặc.
Thiên
Chúa quan phòng đã chúc phúc cho một đời sống nghèo đến như thế. Vị Đại diện
Tông toà và các thừa sai đã có thể bao bọc và đào tạo một số đông các thầy giảng
cho chính các ngài và cho tất cả các linh mục Đàng Ngoài, và họ đã quen sống một
nếp sống thanh bần và cần mẫn, ngay cả khi đã được nâng lên các chức thánh”[8].
Trong cuốn Une
campagne au Tonkin, bác sĩ Hocquard có một đoạn miêu tả khá thú vị về tình
hình địa phận Tây Đàng Ngoài vào thời điểm đó, tức năm 1884. Ông có một thời
gian sống ở Nam Định và gặp cha Léon Girod Bắc. Ông có một số ghi nhận như sau
về cha Girod Bắc: “Cha Girod đang đọc
Kinh Nhật Tụng dưới mái hiên của khoảng sân nhỏ. Cha mặc áo chùng thâm bằng vải
mỏng, cài cúc ở một bên như áo dài của người Annam. Khuôn mặt xanh xao của cha
có viền bộ râu hoe vàng lưa thưa, để dài như mọi vị thừa sai. Nhiều nhất, cha
khoảng hai mươi lăm tuổi, nhưng những nét gầy gò và hốc má hõm do mệt mỏi và
thiếu thốn khiến cha như gấp đôi tuổi … Sau
đó cha đưa tôi thăm căn phòng nhỏ của cha ở tầng một ở một tòa nhà bằng gạch được
xây dưới bóng thánh đường. Chúng tôi leo lên căn phòng này bằng một loại thang.
Phòng chỉ có một khung tre trải chiếc chiếu mỏng. Đó là cái trõng, vốn không
khác với trõng của những nông dân nghèo nhất. Thậm chí cha Girod cũng không có
lấy một chiếc ghế đẩu để ngồi. Ngài làm việc trước một cái bàn thấp trên chiếc
chiếu trải trên nền nhà, hai chân khoanh lại theo kiểu thợ may … ”[9].
Đời sống khó nghèo đơn giản tới mức khổ chế,
cách cư xử khiêm tốn của các vị thừa sai qua nhiều thế hệ đã chịu ảnh hưởng rất
nhiều từ những hướng dẫn của những vị sáng lập Hội Thừa sai Paris, cũng là những
Đại diện Tông tòa đầu tiên ở Việt Nam. Nếp sống đó đã ảnh hưởng trực tiếp trên
đời sống của hàng giáo sĩ địa phương. Thiết nghĩ những yếu tố đó từng làm nên sức
mạnh nơi của Hội Thánh nơi những giáo phận của chúng ta. Cuốn Tích truyện 22 đấng tử vì đạo trong địa phận
Tây Đàng Ngoài kể về cha thánh Phaolô Phạm Khắc Khoan như sau: “Bao nhiêu kẻ đã quen biết người khi ấy và về
sau, thì điều làm chứng người có lòng đạo đức, trực tính và hay ép mình cho được
ở hòa nhã dễ dàng vuối người ta: người thương kẻ khó và hay làm phúc cho nó; những
sự sang trọng thế gian, sự ăn mặc là lượt theo thói đời thì người ghét lắm, người
ở nhiệm nhặt chẳng dưỡng xác mình bao giờ. Khi người đã chịu chức thày cả, thì
càng làm gương các nhân đức hơn nữa”[10]. Cũng xin được nêu lên ở đây một câu của
Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận: “Thế gian không thấy con vâng phục, thế gian không biết con trinh khiết,
nhưng thế gian dễ nhận ra con là chứng nhân thanh bần”[11].
Lối sống đơn sơ giản dị của Tin Mừng được truyền
từ đời nọ qua đời kia nơi đời sống của các thừa sai và các linh mục Việt Nam từng
làm nên sức mạnh của Hội Thánh Việt Nam, là một trong những yếu tố giúp Hội
Thánh đủ sức đương đầu với những cuộc bách hai dữ dội nhất. Xin được nêu ra ở
đây lời chứng của một vị thừa sai vào giai đoạn mà Hội Thánh gần như bị tước bỏ
mọi phương tiện. Sau những năm bách hại kinh hoàng dưới triều vua Minh Mạng,
cha chính Masson Nghiêm lúc đó coi sóc vùng Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình viết
trong bức thư ngày 16-6-1842 như sau: “Vào
dịp lễ Phục Sinh vừa qua, đám đông tân tòng tuôn đến vào dịp lễ trọng thật quá
đông, giống như những ngày tháng đẹp nhất của Hội Thánh tại Annam trước những
cuộc bách hại vậy. Hơn nữa, ở Đàng Ngoài này, máu các vị tử đạo cũng là hạt giống
nảy sinh các Kitô hữu. Kể từ mùa chay vừa qua, một trăm mười người ngoại đạo đã
đến xin rửa tội. Vào những lúc thanh bình, chưa bao giờ tôi thấy đông người ngoại
đạo trở lại như vậy”[12].
Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần lưu ý rằng truyền
thống tu trì Phật giáo nói tới tam thường
bất túc, tức là đối với người tu trì, ba thứ thiết yếu đối với đời sống hằng
ngày là ăn - ở - mặc phải thiếu thốn một chút. Trong khung cảnh văn hóa và Á
Đông như thế, đời sống với nhiều tiện nghi sang trọng trở thành một cản trở, thậm
chí một dạng phản chứng, đối với các giá trị Tin Mừng cần được rao giảng.
c. Thử nhìn
lại
Bộ ba tật xấu được bản văn Nhắn nhủ các thừa sai nói tới vẫn còn
nguyên giá trị đối với anh em chúng ta.
Nếu mỗi chúng ta xét mình dựa theo bộ ba trên
đây, chúng ta sẽ có thể khám phá ra cội rễ của những vết trượt, ban đầu có thể
là rất nhẹ nhàng đơn giản, nhưng càng ngày càng trở nên trầm trọng, thậm chí có
thể đưa mỗi chúng ta đến tận đáy vực sâu của muôn vàn tội lỗi. Thiết nghĩ, ba tật
xấu nền tảng này cũng đang hoành hành cách này cách khác trong đời sống Hội
Thánh tại Việt Nam. Do vô vàn lí do khác nhau, anh em linh mục chúng ta thường
phải gặp gỡ, làm việc, giao thiệp với giới quan chức chính quyền. Dĩ nhiên họ
cũng là đối tượng cần được loan báo Tin Mừng. Nhưng trong nhiều trường hợp,
chúng ta đã bị “truyền giáo” ngược. Thay vì trao cho họ Tin Mừng của Chúa Kitô,
chúng ta lại học theo những thói hư tật xấu của họ và trượt dài trong những tật
xấu mà bản văn Nhắn nhủ các thừa sai nói
tới, tức là lối sống ưa hưởng thụ, thói kiêu căng và lòng tham lam vô độ. Bộ ba
dâm ô - kiêu ngạo - tham lam này trở
thành những thứ chi phối và lèo lái toàn bộ cuộc đời chúng ta!
Đây là lúc chúng ta cần sống tinh thần công đồng
Vaticanô II ad fontes, trở về nguồn,
nguồn Tin Mừng và nguồn lịch sử để canh tân đời sống theo gương của các bậc tiền
bối thánh thiện của chúng ta bằng một lối sống giản dị, với những phương tiện
giản dị, bằng cách thức sử dụng giản dị. Đời sống tu trì với những phương tiện
hào nhoáng, đắt tiền, phô trương, với cách thức sử dụng theo kiểu “sành điệu”
dường như có vấn đề, vì nó phản ảnh một sự gắn bó thái quá nào đó với những
phương tiện vật chất. Lời nhắc nhở của bản văn Nhắn nhủ các thừa sai thật chí lí: “Tính ham hố cuối cùng cũng đã đưa đến những hậu quả tai hại:
Lòng tham vô đáy muốn chiếm hữu tất cả dẫn đến cuộc sống xa hoa và
yếu nhược. Từ đó ta mới hiểu nết xấu này đã biến những môn đồ
thành tín của đức nghèo khó Tin Mừng, trở nên những nô lệ xấu xa
của tiền bạc. Đó là cách thức dẫn đưa những tôi tớ của Chúa Kitô
đến chỗ phục vụ ma quỉ”.
2. Đời sống cầu nguyện, linh hồn của đời mục tử
Yếu tố thứ hai mà bản văn Nhắn nhủ các thừa sai nhấn mạnh đặc biệt là đời sống cầu nguyện của
nhà thừa sai. Điều này rất gần gũi với giáo huấn hiện nay của Hội Thánh về việc
đào tạo thiêng liêng.
a. Đời sống
thiêng liêng trong Nhắn nhủ các thừa sai
Ở tiết 5, chương I, tài liệu Nhắn nhủ các thừa sai xác định một cách
hết sức mạnh mẽ tầm quan trọng của đời sống cầu nguyện đối với vị thừa sai: “Một chân lý tuyệt đối: Tinh thần cầu
nguyện thì cần thiết và hiệu nghiệm chống lại mọi thứ cám dỗ.
Chính Chúa Giêsu Kitô đã tuyên bố điều đó cách dứt khoát, khi Ngài
nói: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Mc14,38).
Nếu đó là mệnh lệnh mà Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã ban cho
chính các Tông đồ, chúng ta lại càng không có lý do để nói rằng
người thừa sai truyền giáo lại không cần lương thực hằng ngày là sự
cầu nguyện để nuôi dưỡng! Nếu ngài chểnh mảng không tự nuôi sống
bằng thứ lương thực đó, ngài sẽ phải bị suy yếu ngay trên đường nhân
đức. Nguyện gẫm là nguồn và là đầu của mọi nhân đức”. Liền sau
đó, tài liệu này nói về thời lượng hằng ngày dành cho việc cầu nguyện: “Vẫn biết rằng, tất cả cuộc sống của
nhà thừa sai phải là một sự cầu nguyện liên lỉ, và phải gắn bó
từng giây phút với Thiên Chúa, nhưng mỗi ngày cần dành ra một thời
gian nhất định để thờ lạy Thiên Chúa: Ít ra là hai tiếng, đúng theo
luật được áp dụng cho phần đông các tu sĩ thừa sai, và theo thói quen
còn giữ đến nay nhờ những vị nhiệt tình làm tròn bổn phận tông đồ”.
Tiết 1 của chương II có tiêu đề “phải tĩnh tâm khi đến xứ truyền giáo”. Về
vấn đề này, bản văn kể lại tấm gương của chính Chúa Giêsu, của các tông đồ và của
thánh Gioan Tẩy Giả để đi đến xác định căn bản ở tiết 2 rằng “vị thừa sai thực ra chỉ là một dụng cụ bình
thường của Thiên Chúa”. Do xác tín căn bản này, “vị thừa sai phải ý thức rằng mình không có công trạng, cũng
không nhân đức gì so với các thánh rao giảng Tin Mừng này, và biết
mình cũng bất tài trong công việc của người tông đồ, nếu phải lui
vào nơi hiu quạnh trước khi hành động, như vậy ngài sẽ không liều
mình ban phát ân sủng để rồi làm thiệt hại chính mình, và làm hỏng
tất cả vì hành động không đúng lúc và chưa tìm ý Chúa”.
Sau đó, bản văn gắn kết đời sống cầu nguyện với
tinh thần khổ chế và hiệu quả của việc tông đồ: “vị thừa sai tìm thấy trong tinh thần khổ chế và cầu nguyện
một phương cách hoàn thiện cho chính mình, thì cũng chính những
phương thức ấy sẽ giúp ngài làm việc có hiệu quả hơn trong việc cứu
rỗi và thánh hoá kẻ khác. Kinh nghiệm hằng ngày cho ta thấy mọi thứ
đều thuận lợi cho những ai truyền giáo bằng đời sống khổ chế và
cầu nguyện, đồng thời kinh nghiệm cũng dạy ta thiếu những nhân đức
này, mọi sự sẽ tan thành mây khói, do đó ta có thể kết luận rằng
đời sống khổ chế và cầu nguyện là nền tảng chính yếu của việc
truyền giáo”.
Lí do căn bản của đời sống cầu nguyện và tinh
thần khổ chế là vì việc tông đồ không phải công việc của vị thừa sai, nhưng là
công việc của chính Chúa: “Cho nên ngài
chỉ có thể sinh lợi khi nhờ vào cầu nguyện để hợp nhất với Đấng
đã hối thúc và trợ lực ngài lên đường. Thật vậy, làm sao ngài có
thể hiểu được danh hiệu ‘được sai đi’, nếu vị thừa sai không lắng nghe
tiếng của Đấng phái ngài đi? Làm sao ngài có thể thực hiện ý Chúa
nếu ngài không đủ khả năng tìm ra trong cầu nguyện? Làm sao ngài có
thể làm nhiệm vụ người trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, nếu
ngài không biết cách giao hòa các thụ tạo với Đấng Tạo Hoá bằng
lời cầu nguyện? Làm sao ngài có thể sửa dạy các con chiên nếu ngài
không lĩnh hội sự khôn ngoan của Thiên Chúa từ nguồn mạch chiêm niệm?
Cuối cùng, nếu không có cầu nguyện, làm sao ngài vượt qua được mọi
khó khăn, ngoài sức con người, bản chất tự nhiên con người này phải
ăn nhịp với tác động của Chúa Thánh Thần, bằng đời sống khổ hạnh?
Cho nên, phải nhận rằng hai nhân đức kể trên là hai đức tính nòng cốt
của vị thừa sai và của sứ vụ”.
Hai nhân đức mà bản văn nhắc đến là việc khổ
chế và cầu nguyện trong đời sống của vị thừa sai. Khởi điểm cuốn sách là sự
thánh thiện của vị thừa sai và đích điểm cuốn sách là sự thánh thiện của các
linh mục bản xứ[13],
tức là sự thánh thiện của Hội Thánh địa phương. Nền tảng của sự thánh thiện này
là đời sống gắn bó với Thiên Chúa được thể hiện qua việc cầu nguyện và khổ chế.
b. Đời sống
thiêng liêng trong giáo huấn gần đây của Hội Thánh
Sắc lệnh Optatam
totius của công đồng Vaticanô II dành một phần khá quan trọng cho việc đào
tạo thiêng liêng. Chính tiêu đề của phần IV, gồm các số 8-12, cho thấy bận tâm
đặc biệt công đồng dành cho việc này: “Quan
tâm đặc biệt đến việc đào tạo thiêng liêng”. Ngay ở số đầu tiên, tức số 8 của
tài liệu này, sắc lệnh nhấn mạnh: “các chủng
sinh phải tập sống kết hợp liên lỉ và thân tình với Chúa Cha, nhờ Con của Người
là Chúa Giêsu Kitô, trong Chúa Thánh Thần. Được nên đồng hình đồng dạng với Đức
Kitô Tư Tế nhờ Bí tích Truyền Chức Thánh, họ luôn sống gắn bó với Người như những
người bạn tâm giao trong mối liên kết mật thiết trọn đời”[14].
Tông huấn Pastores
dabo vobis đã trích dẫn lại đoạn văn trên đây của Optatam totius trong phần trình bày về đào tạo thiêng liêng. Tông
huấn còn xác định rõ ràng hơn: “Cùng một
cách thức ấy, đối với mọi linh mục, việc đào tạo thiêng liêng phải là ‘tâm điểm’,
phải tạo sự thống nhất cũng như sức sống cho ‘hữu thể’ và ‘hành động’ của linh
mục. Trong chiều hướng ấy, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng quả quyết rằng ‘thiếu
đào tạo thiêng liêng, việc đào tạo mục vụ sẽ không có nền tảng’ và rằng đào tạo
thiêng liêng chính là “yếu tố quan trọng nhất trong nền giáo dục linh mục’”
(số 45).
Như vậy, những gì bản văn Nhắn nhủ các thừa sai nói về đời sống cầu nguyện không xa lạ với
giáo huấn gần đây của Hội Thánh về vấn đề này. Nói cách khác, thiếu mối tương
quan mật thiết, thiếu tình bằng hữu sâu xa với Chúa Giêsu, người mục tử “chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe
xoang xoảng” (1 Cr 13,1).
3. Những phương tiện trần thế
Chương III của tài liệu này cảnh báo về những
mối nguy của việc cậy dựa vào những phương tiện trần thế, những phương tiện thuần
túy con người, đặc biệt là hai mối nguy liên quan đến chuyện buôn bán và quyền
bính trần thế.
a. Về chuyện
buôn bán
Trước hết, bản văn Nhắn nhủ các thừa sai nhận xét tổng quát ở tiết 1 của chương III rằng
các phương tiện thuần túy con người không phù hợp với tinh thần tông đồ, rằng “càng ít cậy dựa vào nó càng tốt”,
bởi vì “kinh nghiệm cũng cho thấy
những sự giúp đỡ thuần túy con người gây hại nhiều hơn là đem lại
lợi ích cho việc truyền bá đức tin”. Ở đầu tiết 2, bản văn nhận xét rằng
“Tất cả những phương tiện con người
thì không cùng một tính chất, tất cả chúng không có cùng tính cách
như nhau”. Vì thế, vị thừa sai cần phải phân tích, đánh giá từng loại
phương tiện. Đặc biệt bản văn đi đến khẳng định mạnh mẽ về chuyện buôn bán: “Một số thì xấu và không được phép
làm trong mọi trường hợp: việc rõ nhất là thương mại, bởi vì nó
làm tổn hại nặng nhất đến thanh danh của sứ vụ tông đồ. Còn gì
đáng xấu hổ hơn cho người tông đồ vốn hướng lòng về trời, lại còn
mải mê với những công việc trần tục? Đó chính là ngoái lại sau khi
đã tra tay cầm cày, và lại gắn bó với những cái vặt vãnh đê hèn
của thế giới này. Còn gì bất xứng hơn sứ giả của Chúa Kitô, là nô
lệ hoá việc rao giảng Tin Mừng dưới những hoạt động thương mại?”.
Bản văn gọi những lối biện minh cho việc thương mại nơi những thừa sai là “sai lầm tai hại” và là “một tà thuyết chống truyền giáo”.
Bản văn nhắc đến những điều khoản giáo luật và
các sắc lệnh của huấn quyền Hội Thánh để đi đến khẳng định: “việc cấm đoán này không chỉ nhắm đến
những hoạt động thương mại, nhưng còn cấm quan tâm đến việc ấy và
ngay cả ước muốn cũng bị cấm”. Lí do được nêu ra là: “Việc buôn bán có hại cho đạo đến mức
này: một vị thừa sai mải mê với công việc buôn bán có thể làm người
ta xa lánh đạo nhiều hơn là một nhà rao giảng chân chính có thể chinh
phục người ta vào đạo. Và tốt hơn cho vị thừa sai là trở về quê
hương hay là buộc phải đến một nơi xa xôi tận cùng nào đó, nếu còn
tiếp tục nghề buôn”.
Để kết luận về mục này, bản văn nhận xét: “vị thừa sai sống giữa thế gian, giữa
các thiên thần và loài người, nên phải cảnh giác không những không
nhiễm vết nhơ buôn bán nhỏ nhặt nhất, mà còn không cho phép gây nghi
ngờ là ngài hám lợi dù nhẹ nhất, làm hoen ố thanh danh của mình”.
Những lời nhắn nhủ này gợi lại cách cư xử của
một trong những nhà thừa sai nổi tiếng tại đất nước chúng ta, cha Đắc Lộ, khi ý
thức giữ gìn sự trong sáng và vô vị lợi của việc loan báo Tin Mừng: “Mặc dầu lúc từ Macao trẩy đi, chúng tôi đã
đem theo tiền của cần dùng cho một năm, thế nhưng chúng tôi đã cư trú ba năm ở
Đàng Ngoài, dù chúng tôi rất tiết kiệm, chúng tôi cũng đã tiêu hết với tất cả số
Chúa đã ban. Chúng tôi không muốn để giáo dân chịu, cũng chẳng muốn xin của bố
thí mà họ rất vui lòng cho, họ sẵn sàng khoét mắt đem dâng cho chúng tôi nếu
chúng tôi xin, như vậy để cho họ xác tín rằng chúng tôi đến tìm các linh hồn chứ
không tìm kiếm của cải. Điều này làm cho họ rất cảm phục và dùng làm minh chứng
về tình yêu thương vô vị lợi chúng tôi đem tới để cứu vớt họ, để thuyết phục
giáo dân nhận thấy nhân từ và thánh thiện của đạo ta và chân lý đức tin chúng
tôi rao giảng”[15].
Như vậy, nếu như bản văn Nhắn nhủ các thừa sai nghiêm khắc cảnh báo các mục tử về mối nguy của
việc buôn bán kiếm lời là bởi vì điều này đi ngược lại với lời chứng về những
giá trị Nước Trời mà vị mục tử có trách nhiệm rao giảng không chỉ bằng lời nói
mà còn bằng trọn vẹn cuộc sống của mình.
b. Về tương
quan với quyền bính dân sự
Liên quan đến những phương tiện thuần túy con
người, cũng ở chương III, bản văn cũng đưa ra những nhận xét về mối tương quan
với quyền bính dân sự.
Vấn đề này được trình bày ở tiết 4 về việc “không được trông chờ vào những thủ thuật con
người để tạo uy tín”. Bản văn nêu bật sự tương phản của hai loại uy tín: “Chắc chắn là thanh danh và sự kính
trọng thì cần thiết cho người thợ Tin Mừng, để làm cho người ta lắng
nghe với lòng thành và không gặp khó khăn. Nhưng vấn đề là không phải
cái uy tín được tìm kiếm bằng sự phô trương, bằng của cải, bằng sự
xa hoa và tình bạn với các vua chúa, nhưng là uy tín đặt nền tảng
trên nhân đức và sự thánh thiện. Uy tín do thánh đức thì xây dựng
trong lúc uy tín thế tục thì phá hủy; một bên gợi lên sự khiêm tốn,
bên kia nuôi dưỡng tham vọng; một đàng dạy bảo việc khinh chê mọi sự,
khinh chê những của cải chóng qua, đặt chúng ta ở trên mọi thứ phù
vân, đàng kia mua danh vọng bằng vàng, nuôi dưỡng sự ham mê của cải và
tính kiêu ngạo”.
Sau đó, bản văn đưa ra lời khuyên rất cụ thể
và khôn ngoan: “Cho nên vị thừa sai
phải tỏ rõ giá trị, không phải bằng vẻ lộng lẫy khoa trương, nhưng
bằng việc áp dụng khiêm tốn, không phải bằng sự tìm kiếm danh vọng
nhưng bằng sự trốn chạy các phẩm tước, không phải bằng sự dồi dào
của cải nhưng bằng tình yêu sự khó nghèo. Bởi vậy, ngài sẽ không bao
giờ là khách quen của chốn cung đình. Đặt trường hợp mà ngài được
vua chúa hoặc những nhân vật quan trọng của cung đình mời đến, hoặc
ngài phải đến đó do cần thiết hoặc trong hy vọng sẽ làm cho họ trở
lại đạo, thì ngài cư xử ở đó với sự khiêm tốn, đơn giản và mộc
mạc là những phẩm tính thuần túy Kitô giáo; ở đó ngài sẽ tỏ ra
không quan tâm đến mọi việc thế tục, để cho mọi người thấy rằng ngài
chỉ mong chờ và tìm kiếm việc cứu rỗi các linh hồn, không màng đến
mọi việc khác.
Không
hề có ý định mưu đồ làm quan, làm đại sứ hoặc các chức vụ khác
tương tự, ngài cũng sẽ từ chối chúng mà không do dự nếu người ta đề
nghị, cũng như mọi chức vụ hào nhoáng vinh quang khác. Nếu thỉnh
thoảng vua chúa tham khảo ý kiến ngài, thì chỉ sau nhiều lần khẩn
khoản, ngài mới cho ý kiến, với tất cả chân thành và công bình, và
không bao giờ quên ý tưởng về sự vĩnh hằng. Sau đó ngài sẽ vội vã
rời cung điện hoặc triều đình. Hơn nữa, để có thể rút lui dễ dàng
hơn, ngài sẽ làm cho người ta thấy rõ ngài hoàn toàn không có khả
năng về chính trị và thực tế cũng không có khả năng về hành chính”.
Thiết nghĩ, những chỉ dẫn trên đây vẫn còn là
những hướng dẫn khôn ngoan và quí báu đối với chúng ta trong tương quan với quyền
bính dân sự.
c. Thần học
thập giá
Cuối chương III, ở tiết 7, bản văn trình bày
những nỗi dằn vặt của vị thừa sai, những thử thách thuộc về thần học thập giá,
theologia crucis, vốn chiếm vị trí trung tâm trong đời sống và suy tư của Đức
cha Pallu và Đức cha Lambert.
Bản văn đi vào phân tích một cách hết sức cụ
thể và gần gũi tình trạng mà mỗi chúng ta cũng có thể từng cảm nhận: “Cơn cám dỗ khó chịu nhất đối với nhà
truyền giáo đương nhiên gần với tình huống sau đây: ngài thiếu những
phương tiện thuần túy nhân loại đã được liệt kê ở trên, hoặc là
chúng ở trong tầm tay ngài; nhưng dường như một thần cảm từ Chúa, hay
Thiên Ý nào đó cấm ngài hoàn toàn không được sử dụng. Ngài kéo lê
cuộc sống khốn khổ, thường túng thiếu ngay cả cho những nhu cầu cần
thiết nhất; chấp nhận ngàn muôn nghịch cảnh: mọi người khinh rẻ, rồi
đủ loại đau khổ từ bên trong lẫn bên ngoài; và điều còn làm cho ngài
lo sợ hơn nữa, đó là không gặp thành công nào trong công việc truyền
bá Tin Mừng của ngài. Không kết quả tích cực nào từ những nỗ lực
của ngài, thế mà dưới mắt ngài, những nhà truyền giáo đồng nghiệp
khác, nhờ sử dụng những phương tiện trên, lại đang sống trong sung túc
và thịnh vượng, chỉ nghe những lời tán dương của mọi người về một
vụ mùa dồi dào... Đó chắc chắn là một viên đá vấp ngã mà một số
rất lớn sẽ vấp phải, một tảng đá hiểm trở nhô trên vực sâu: bàn
chân vững chắc nhất sẽ không trụ được ở đó nếu không có phép lạ phi
thường của ân sủng. Nhưng đúng hơn, chúng ta nên nói đó chính là thứ
đá thử vàng để làm lộ ra nhân đức của vị thừa sai, hay còn gọi là
lò nung đốt để các chất liệu của ngài được rũ bỏ đất đá bao quanh,
và đạt đến độ tinh khiết nhất. Trong lúc đó, thật ra bề ngoài có vẻ
thất bại, nhưng có nhiều người khi xem xét tình thế của ngài, lại
cho là rất hạnh phúc và đáng mơ ước: ngài cảm thấy trong chính mình
sự toàn thắng của ân sủng, con người cũ đã bị chôn vùi và nay con
người mới được phục sinh, hoàn toàn trơ trụi để phó thác cho Chúa”.
Từ hoàn cảnh xem ra là hoàn toàn thất bại dưới
mắt người đời, bản văn gắn kết đời rao giảng với tấm gương của thánh Phaolô và
chính Chúa Giêsu: “Phaolô biết để học
nơi Thầy của mình, bằng sự kiên nhẫn, sự ruồng bỏ và cái chết tủi
nhục của thập giá mà Giáo Hội đã được tạo dựng, nên vị thừa sai
Dân ngoại không trông chờ vào khôn ngoan loài người, cũng không màng
với những mưu mẹo mà những tông đồ giả sử dụng để thu hút về phía
mình lòng tốt của dân chúng; nhưng luôn luôn kiên vững và bình thản,
ngài không thay đổi cách sống cũng như phương pháp rao giảng của mình”.
Sống Tin Mừng là dám đón nhận thập giá và những
hệ quả của thập giá trong cuộc đời và sứ vụ của mình. Nơi đây, chúng ta nhận ra
sự gần gũi giữa linh đạo truyền giáo của bản văn và thần học thập giá. Điều này
nhắc nhở chúng ta một chân lí cứu độ luôn đúng, đặc biệt trong công việc truyền
giáo: “Không có máu đổ ra, thì không có
ơn tha thứ” (Hr 9,22).
4. Một số điểm nhấn khác
Trong phần này, con xin điểm qua một số điểm
nhấn khác nữa trong bản văn Nhắn nhủ các
thừa sai.
Điểm nhấn thú vị đầu tiên là về trách nhiệm
rao giảng, được trình bày ở chương IV. Bản văn xác định rằng đây là bổn phận của
người mục tử. Vị thừa sai phải dành nhiều tâm huyết, thời giờ và sức lực cho việc
thi hành bổn phận quan trọng này, đồng thời phải cho thấy sự thống nhất giữa lời
giảng và đời sống của ngài. Công việc chuẩn bị cho lời rao giảng được trình bày
cô đọng, thiết thực và hữu ích cho việc chuẩn bị bài giảng của chúng ta hôm
nay: “Khởi đầu, ngài phải nghiêm túc
biết phối hợp và chuẩn bị những đề tài mà ngài sẽ nói chuyện với
dân chúng; sau đó ngài sẽ chú tâm suy niệm chúng trước mặt Chúa và
chính mình gắng thưởng thức, nghiền ngẫm những đề tài ấy trước tiên
để nắm bắt hết tầm ảnh hưởng quan trọng. Như vậy, việc rao giảng sẽ
không phải là một sự tuôn ra khô khan theo trí nhớ, mà là kết quả
của những suy niệm mãnh liệt; ngài sẽ để vào đấy cả bầu nhiệt
huyết tâm hồn ngài. Và khi ấy như dòng sữa tươi bổ dưỡng, sự sùng
kính sẽ chảy ra từ môi miệng ngài dồi dào những ân sủng trên trời;
hoặc lời ngài sẽ như một tia lửa của Tình Yêu Thiên Chúa, đang bắn ra
từ miệng ngài và đang nung đốt con tim của những người đang nghe ngài”
(chương IV, tiết 2). Những lời nhắn nhủ trên đây rất gần gũi với nhận định của
thánh Tôma được đức Phanxicô nhắc lại rằng rao giảng là “thông truyền cho người khác điều chính mình đã chiêm niệm” (Niềm
vui Tin Mừng, số 150). Cùng với việc chuẩn bị như thế, bản văn cũng khuyên vị
thừa sai phải “nói thứ ngôn ngữ vừa
tầm mọi người” theo gương của Chúa Cứu Thế.
Điểm nhấn thú vị thứ hai mà con muốn nêu ra ở
đây là những chỉ dẫn khi vị thừa sai đối diện với ma quỉ. Bản văn đưa ra nhận
xét rất thú vị mà chúng ra đặc biệt phải lưu tâm trong khung cảnh xã hội Việt
Nam hiện nay: “Mặc dù mưu mẹo của
chúng thì nhiều, dẫu vậy ta có thể tóm tắt chúng lại thành hai thứ:
Ảo tưởng và đe doạ. Chính bằng
ảo tưởng mà chúng thường cám dỗ những kẻ dốt nát, những kẻ đơn
giản, những kẻ tò mò, những kẻ kiêu ngạo, tóm lại là mọi kẻ không
biết tự giữ chính mình bằng sự chú ý không hề giảm sút. Và chính
bằng đe dọa mà chúng hăm dọa và tác động đến kẻ nhút nhát, những
kẻ nhát gan, những kẻ hèn nhát, tóm lại là mọi kẻ mà vinh quang
Thiên Chúa, việc cứu rỗi người khác, việc cứu rỗi chính mình cũng
không thể lay chuyển như đáng ra phải như thế” (chương II, tiết 3).
Sau đó, bản văn căn dặn thêm: “nếu một
ngày nào đó xảy ra cho ngài phải có việc cần giải quyết với những
kẻ bị quỉ ám, ngài sẽ tuân thủ cẩn thận mọi hướng dẫn trong sách
nghi lễ của Giáo Hội. Sau đây thêm vài lời khuyên mà ngài còn có thể
dùng cách có lợi: ngài sẽ không lao vào loại cuộc chiến này mà
không cảnh giác chính mình và không tràn đầy lòng tin tưởng vào Thiên
Chúa; ngài sẽ không thể đẩy lùi những lời nguyền rủa của ma quỉ
bằng những lời khinh bỉ, nhưng bằng những cử chỉ rất khiêm tốn, kiên
nhẫn, khoan dung và nhẫn nhục; dầu cho sự chống cự của ma quỉ có
mãnh liệt đến đâu, tuyệt nhiên ngài sẽ không bao giờ đánh mất hi vọng
chiến thắng. Tóm lại ngài đừng đặt ra một câu hỏi quá tò mò và vô
ích nào”.
Điểm thú vị thứ ba mà con muốn đề cập ở đây đó
là cách thức tiếp cận với lương dân khởi đi từ luật tự nhiên để đến với luật
siêu nhiên: “Con người có hai cuộc
sống: cuộc sống hiện tại ở đời này và cuộc sống khác đợi mình ở
đời sau. Từ đó đương nhiên phát sinh hai bộ luật cần thiết: luật tự
nhiên, có nguồn gốc từ Thiên Chúa, chi phối đời con người ở dưới thế
để khiến họ sống sao cho thích hợp và hạnh phúc; rồi luật siêu
nhiên, có nhiệm vụ đưa con người vào đời sau để hưởng hạnh phúc mà
họ không thể đạt tới bằng sức tự nhiên” (chương V, tiết 3). Cũng ở
chương này, tiết 4, bản văn nói tới bốn nguyên nhân chủ yếu là cội nguồn của việc
thờ ngẫu tượng. Xin được trích lại ở đây những hướng dẫn hết sức đặc biệt này:
“Thứ nhất là sự yếu đuối của đầu óc con người sống trong sự thiếu
hiểu biết về Thiên Chúa. Không đủ khả năng thoát ra khỏi vật chất và
nâng mình lên đến cội nguồn thiêng liêng của mọi sự. Nó trao tặng những
vinh quang thánh thiêng cho những thụ tạo mà nó gặp thấy một sự xuất
sắc nào đó hoặc từ chúng phải dội lại một lợi ích nào đó.
Thứ hai là tham vọng của vua chúa. Bằng cách dựng tượng
mình và trưng bày những thần tượng vô ích, họ tự gán một cách trái
phép cho mình những vinh dự thần thánh, nhờ vào sự xu nịnh của
triều thần. ‘Người ta cho rằng, thánh Augustin nói, những vị thần
trước kia là con người, và người ta dành cho mỗi vị những vẻ trân
trọng riêng, tuỳ theo tài cán, thói quen, cử chỉ hoặc những cuộc
phiêu lưu của mỗi vị, tuy rằng các vị ấy có được sự thần thánh hoá
là nhờ qua trung gian những triều thần của mình. Và việc tôn thờ
này, chính họ đã gieo rắc khắp nơi bằng cách lén cài đặt vào những
tâm hồn, giống y như ma quỉ, vốn luôn khao khát những quang cảnh vô
ích. Các nhà thơ đã thêm thắt hoa hoè vào đấy bằng những lời nói
dối và những đầu óc lường gạt lại thêm vào đấy mồi nhử là những
lời cầu xin’ (De Civ. Dei, lib. 7, c. 18).
Thứ ba là tình yêu quá mức, hoặc thuộc về người cha hoặc thuộc người
con, được đẩy lên đến mức mù quáng. Sách Khôn Ngoan nói về điều này:
‘Một người cha phiền muộn khóc thương con chết yểu đã làm nên hình tượng đứa
trẻ sớm mất đi; và con người hôm qua chỉ là một người chết, hôm nay ông tôn
kính như một vị thần. Ông còn truyền lại cho những kẻ thuộc quyền ông bao điều
huyền nhiệm cùng lễ bái. Ngày tháng trôi qua, thói vô đạo này càng được củng cố,
được tuân hành giống như luật buộc. Theo lệnh vua chúa truyền, phải tôn thờ
hình tượng chạm trổ’ (Kn 14,15-16.)
Thứ tư và là nguyên nhân chính là thói ranh mãnh của ma quỉ. Những
con khỉ của Thiên Chúa, hay đúng hơn là kẻ thù không đội trời chung
với Người, cũng ghen tức với hạnh phúc con người, chúng xảo trá
thúc đẩy con người, bị lôi kéo bằng những lợi lộc vật chất, xa lánh
việc thờ phượng một Thiên Chúa vô hình để quay sang những ngẫu tượng
bất động, là chỗ họ tìm những giải đáp, những tiên đoán và những
xúi giục của chúng”.
Trên đây chỉ là một số yếu tố con xin lược lại
từ bản văn Nhắn nhủ các thừa sai. Như
đã nói, bản văn này mang giá trị kiến tạo đối với Hội Thánh tại Việt Nam và
đáng được chúng ta đọc đi đọc lại một cách kĩ càng để rút tỉa ra rất nhiều điều
hữu ích và còn nguyên giá trị trong đời sống hiện tại.
NHƯ MỘT LỜI KẾT
Một trong hai gương mặt nổi bật trong công việc
hình thành bản văn Nhắn nhủ các thừa sai là
Đức cha François Pallu. Từ vài năm nay, con có dịp đọc nhiều tài liệu về Đức
cha Pallu cũng như những tài liệu về giai đoạn ban đầu của Hội Thánh tại Việt
Nam. Con nhận thấy rằng hiểu biết của chúng ta về quá khứ là khá sơ sài và dường
như đây là một mảng trống khá lớn trong đời sống Hội Thánh tại Việt Nam. Trở lại
Đức cha Pallu, con nhận thấy đối với Hội Thánh Việt Nam, gương mặt Đức cha
Pallu khá gần gũi với Môsê ở hai điểm:
- Như Môsê, Đức cha Pallu đã bôn ba gian khổ để Lời
Chúa được bén rễ nơi miền đất hứa Việt Nam.
- Như Môsê, khát vọng Đất Hứa đối với Đức cha Pallu
vẫn mãi còn dang dở. Đàng Ngoài là mảnh đất ngài chỉ có thể nhìn thấy từ
xa.
Tuy nhiên, phải
nói rằng ảnh hưởng mà hai vị Đại diện Tông tòa để lại trên mảnh đất Việt Nam là
vô cùng sâu đậm. Nhờ các ngài mà chúng ta có hoa trái của Hội Thánh Việt Nam hiện
nay, với gương sáng đức tin của các bậc cha ông tử đạo. Cách nào đó, những hoa
trái này đã được vun tưới nhờ những lời Nhắn
nhủ các thừa sai. Năm năm nữa chúng ta sẽ kỉ niệm 40 năm lễ tuyên thánh của
các thánh tử đạo Việt Nam. Con có một ước mong là tại các giáo xứ, hay ít ra là
nơi mỗi giáo hạt, chúng ta có những nơi trưng bày về các thánh tử đạo, có thể
theo chủ đề về hai thế giới tương phản: những cổ vật và văn bản của giới quan lại
triều Nguyễn - những cổ vật, văn bản của các linh mục và giáo dân giai đoạn
bách hại. Hai thế giới này tương phản với nhau về lối sống, mục đích sống, thái
độ đối với cuộc sống. Thế giới của các vị tử đạo là phản ảnh trung thực của
lòng tin đặt nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh, cũng là thế giới được trình bày
trong bản văn Nhắn nhủ các thừa sai.
Làm được điều này, tức là giới thiệu được đời sống của các vị tử đạo cho đại đa
số giáo dân của chúng ta, cũng là cách chúng ta làm cho lịch sử của các chứng
nhân đức tin nơi quê hương chúng ta trở nên sống động và khích lệ cho đời sống
đức tin hiện tại nhiều hơn. Thiết nghĩ đây cũng là một cách chúng ta làm cho lối
sống mang đậm linh đạo truyền giáo được
đề nghị trong bản văn Nhắn nhủ các thừa
sai có thể đụng chạm đến cuộc sống hiện tại.
[3] X. François Pallu, Relation abrégée des Missions et des voyages
des Evesques françois, envoyez aux Royaumes de la Chine, Cochinchine, Tonkin,
& Siam, (Paris 1668), 9-13.
[4] X. Baudiment, L., François Pallu (1626-1684). Đấng sáng lập
chính Hội Thừa sai hải ngoại Paris, (Hà Nội 2022), 230-231.
[15] A. de Rhodes, Hành trình và truyền giáo, (TP. HCM
1994), 240.