BÌNH VẪN CHƯA HỀ CŨ:
PHẦN HAI: MONITA, “CẨM NANG TRUYỀN GIÁO” VƯỢT THỜI GIAN
Trương Đình Hiền
(Viết xong ngày 19.7.2021)
Lời đầu: Tản mạn lịch sử: “Bi đát” và “Trưởng
thành”:
Nếu Phần 1, chúng ta đã cùng nhau
đọc lại, xem lại thoáng qua những “trang nhật ký” liên quan đến câu chuyện “chèo ra chỗ nước sâu bắt cá” của Giáo Hội,
nhất là những “MỆNH LỆNH VÀ DI CHÚC ĐI
CÙNG NĂM THÁNG” mang tính “định hướng” của Hội Thánh hoàn vũ; thì giờ đây,
chúng ta thử trở về dừng lại trên cánh đồng truyền giáo của Á Châu – Việt Nam
vào thế kỷ 17, khoảng thời gian và không gian mà ở đó, công cuộc truyền giáo được
định hướng, vận dụng cách khôn ngoan và hiệu quả với Kim Chỉ Nam MONITA AD MISSIONARIOS” (NHẮN NHỦ CÁC THỪA SAI).
Khi tìm về một “Văn kiện Huấn Quyền”
cách đây đã 357 năm (1664), liệu chúng ta có rơi vào thái độ “biến Thiên Chúa thành món đồ cổ quý giá của
quá khứ” không ? Tôi nghĩ rằng không; nhưng, như lời mẹ Thánh Têrêsa
Calcutta, là để “có thể minh chứng cho thế
giới biết rằng Thiên Chúa rất hợp thời”[1].
Và đây cũng là nhận xét chí lý của một chứng nhân đương thời – thần học gia lỗi
lạc Jean Bona, cha sở St. Bernard, kiêm cố vấn thần học Thánh Bộ (Truyền Bá Đức
tin) - khi văn kiện Monita lần đầu tiên xuất hiện: “Quyển Monita “tràn đầy đầy tinh thần tông đồ, phù hợp với đức tin truyền
thống Công Giáo và cần thiết cho các Linh mục đang làm việc tại các giáo xứ
truyền giáo vì phần rỗi những người chưa tin”[2].
Trước khi đi sâu và “lượng giá
đúng mức” về “giá trị tổng thể” của văn kiện “Monita”, xin được góp ý về điều nầy:
có lẽ chúng ta nên “thay đổi” hoặc “diễn tả khác hơn” hai lập luận mang tính tiêu cực nầy liên quan đến các giai đoạn lịch sử
truyền giáo tại Việt Nam:
- Một là cho rằng: Công cuộc truyền
giáo đầu tiên tại Việt Nam thất bại hay “đã trở thành bi kịch”[3].
Có “thất bại một phần” nhưng
không phải là tất cả. Nếu bình thản đọc lại tất cả những công trình, nỗ lực,
sáng kiến và kết quả của các thế hệ Thừa sai ban đầu tại Việt Nam; cùng với thế
hệ linh mục, thầy giảng, nữ tu, giáo dân Việt Nam của “cái thuở ban đầu” ấy,
chúng ta phải “ngả mũ tâm phục và khẩu phục” các ngài.
Thật vậy, làm sao có thể nói việc
truyền giáo buổi đầu tiên là “thất bại”,
“bi đát”…, trong khi mới chỉ “37 năm
truyền giáo ở Đàng Ngoài và 50 năm truyền giáo ở Đàng Trong, các thừa sai Dòng
Tên đã rửa tội khoảng 100.000 tín hữu (20.000 ở Đàng Trong và 80.000 ở Đàng
Ngoài)[4];
và đây là kết quả của một “chương trình truyền giáo” thích thời, đúng đắn mà lịch
sử đã ghi nhận: “Nhờ các “Thầy Giảng” và
“Câu Trùm” là những tông đồ giáo dân nhiệt thành, việc truyền giáo đã đạt được
những kết quả ngoài sức tưởng tượng”[5]. Đó là chưa kể, cũng
vào cái thuở còn “vỡ đất Tin Mừng” đó, các thừa sai với sự cộng tác đắc lực của
tín hữu Việt Nam, đã làm nên những công trình “văn hoá-đức tin” mà cho tới hôm
nay chúng ta chưa chắc làm nổi: xây dựng thành công nền móng chữ Quốc ngữ với
tác phẩm vô cùng quý giá Tự điển Việt-Bồ-La
và Phép Giảng Tám ngày được xuất bản
tại giáo đô Rôma năm 1651[6]; nghĩa là mới chỉ 36 năm đặt
chân lên lần đầu tiên lên mảnh đất Việt Nam (1615) ! (x. GIÁO PHẬN QUI NHƠN QUA
DÒNG THỜI GIAN)[7]. Cũng vậy, trong khoảng thời
gian đó (1632-1656), “giáo sĩ Girolamo Majorica đã viết 45 tác phẩm lớn nhỏ bằng chữ Nôm, nổi tiếng
nhất là cuốn Các Thánh Truyện viết năm 1646”[8]. Sau đó ít lâu
(1670), một linh mục Việt nam, Lữ Y Đoan[9],
đã dùng ngôn ngữ thuần Việt (chữ Nôm) để dịch toàn bộ Ngũ Thư của Cựu Ước bằng
những vầng thơ lục bát mượt mà thanh tao qua tác phẩm “Sấm Truyền Ca”[10],
mà phải đến 200 năm sau (1870) thi hào Nguyễn Du mới làm được “Truyện Kiều”.
Truyền giáo như thế, “Hội nhập văn hoá” như thế… không là một thành công tuyệt
diệu sao ?
- Hai là cho rằng: Thời đại của
chúng ta là “Thời Trưởng thành”.
Thật vậy, lịch sử Giáo Hội tại Việt
Nam hay lịch sử của công cuộc truyền giáo tại Việt Nam thường được chia thành 4
thời kỳ (Khai sinh, Tăng trưởng, Phát triển,
Trưởng thành); và thời kỳ sau cùng (là ngày nay) được cho là “Thời kỳ trưởng thành”[11].
Cho dù sách Niên Giám Giáo Hội
Công Giáo Việt Nam 2016 có minh định: “Sự
trưởng thành của GHVN được xác định không phải chỉ hệ tại nơi việc tổ chức Giáo
Hội qua những con số tín hữu, linh mục, tu sĩ, hoạt động Công giáo tiến hành và
các cơ sở bác ái…”[12],
nhưng hình như có “một bộ phận không nhỏ” trong chúng ta vẫn hiểu “Trưởng
thành” đó là vì thời nay Giáo Hội có nhiều giáo dân, có Hội Đồng Giám mục và là
“Giám Mục Chính Toà”, có nhiều linh mục, tu sĩ được đào tạo bài bản, nhiều vị
có học hàm học vị cao; các cơ sở thờ tự (Toà Giám Mục, nhà thờ, tu viện, trung
tâm mục vụ…) to lớn, nhân sự dồi dào với trình độ cao…
Nếu hiểu trưởng thành là như thế thì hãy xem lại ! Thật vậy, nếu đem so với
Giáo Hội thuở ban đầu của “Công Vụ Tông Đồ”, thuở Hội Thánh còn chui rúc trong
các hang toại đạo, thời Hội Thánh của các Giáo Phụ…; hay so với thời của Giáo Hội
Đàng Trong, Đàng Ngoài chỉ có một Giám Mục Lambert De La Motte, thời của thánh
Giám Mục Stephanô Thể… chẳng có Toà Giám Mục, lặn lội, trốn tránh để chăm sóc
đoàn chiên… thì liệu Giáo Hội của chúng ta hôm nay có “trưởng thành” hơn không
? Cũng vậy, liệu cái thời mà những “bà Phước” như Anê Soạn, Anna Trị[13], đi chân đất, mặc áo nâu sồng,
với vốn liếng vài từ Quốc ngữ vỡ lòng…, len lỏi vào các thôn làng ngoại giáo để
giảng đạo… có “kém trưởng thành” hơn cái thời hôm nay với “các soeurs” bằng cấp
học vị đầy mình, du học từ Âu Mỹ, giao lưu với các trường Đại học.. !
Cho nên, khi bàn đến “lịch sử của
Giáo Hội”, lịch sử của các cộng đoàn hay
lịch sử tiến trình sinh hoạt đức tin…, xin giới hạn sử dụng hạn từ “trưởng thành” để dành cho một giai đoạn,
nhất là giai đoạn của chính thời đại mình, cho dù “sau đó” có “phân trần” như
những lời của Sách Niên Giám 2016: “GHCGVN
cũng chỉ thật sự trưởng thành khi có sự lớn mạnh về cộng đoàn tín hữu, về nhận
thức và hành động cũng như tinh thần truyền bá Phúc Âm cho mọi người. Chúng ta
sẽ phải xét xem GHCGVN thật sự đã trưởng thành chưa và cần phải làm gì để đạt được
sự trưởng thành như Giáo Hội Mẹ mong muốn” [14].
Và có lẽ đó là “thái độ tinh thần”
đối với lịch sử truyền giáo tại Việt Nam mà chúng ta cần có để cùng nhau tìm về
văn kiện “MONITA AD MISSIONARIOS”. Vâng, đó chính là tinh thần biết ngạc nhiên,
trân trọng “những công trình và di sản của
cha ông” như những kho tàng luôn mới mẻ, hợp thời, những “bầu da mới”, những
“chiếc bình chưa hề cũ”, để đựng thứ “rượu
luôn mới” là chính những “mệnh lệnh của
Đấng Sáng Lập” (Lc 5,37-38).
I. NHỮNG CHÂN TRỜI MỚI ĐỂ HỘI THÁNH “RA KHƠI”
Không thể bàn chuyện về văn kiện
“Monita” mà lại không đá động gì đến bối cảnh của Giáo Hội cũng như của xã hội
(thế kỷ 17) liên quan đến sự ra đời và ứng dụng của văn kiện nầy. Dĩ nhiên, đây
cũng chỉ là “một thoáng nhìn” tổng thể; và chỉ dừng lại ở những điểm liên quan
trực tiếp hay gián tiếp đến công cuộc loan báo Tin Mừng.
1. Những yếu tố “thúc bách con thuyền Giáo Hội ra
khơi”:
Bất cứ thời nào, sứ vụ truyền
giáo, “ra khơi loan báo Tin Mừng” của Hội Thánh cũng đều bắt nguồn từ một động
lực sâu thẳm và cốt lõi nhất: Tình yêu Đức Kitô “Tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc chúng tôi” (2 Cr 5,14). Vâng, Truyền
Giáo chính là “sứ vụ duy nhất và không
thay đổi, tại bất cứ nơi đâu và trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù có thể không được
thực hiện theo cùng một cách thức như nhau. Như thế, những khác biệt vẫn thấy
trong hoạt động của Giáo Hội không phát sinh từ bản chất của sứ mệnh, nhưng từ
những điều kiện thực tế khi thi hành sứ vụ” (AG 6). Vì thế, chẳng lạ gì,
trên chặng đường lịch sử 2000 năm, không ai phủ nhận công cuộc “chinh phục các
linh hồn” của Hội Thánh luôn chịu những sức tác động khách quan và chủ quan,
bên trong lẫn bên ngoài Giáo Hội.
Và
sau đây là một thoáng nhìn về những yếu tố đó trong bối cảnh “Giáo Hội thế kỷ
17”.
1.1.
Những yếu tố khách quan và “bên ngoài” Giáo Hội:
Trong sách “Niên Giám 2016” của Hội
Đồng Giám Mục Việt nam, người ta đọc thấy bốn yếu tố hay “sự kiện” chính diễn
ra trước khá lâu dẫn đến sự “chuyển mình” của Giáo Hội; một Giáo Hội Công Giáo
lẩn quẩn trong cái “nôi Âu Châu” bắt đầu đứng lên tiếp cận những “chân trời mới”
của thế giới. Bốn sự kiện tiêu biểu đó là (Xin trích):
- Thổ Nhĩ Kỳ chiếm đóng Constatinople (1453).
- Columbus đặt chân lên đảo Waitling tại Trung Mỹ (1492).
- Phái đoàn Magellan đi vòng quanh trái đất, bắt đầu từ Tây Ban Nha, đến
cực Nam Mỹ (1520), tới Philippines, vượt Ấn Độ Dương vòng qua mũi Hảo Vọng về tới
Tây Ban Nha.
- Hiệp định Tordesillas (1494) phân chia thế giới làm hai “dưới quyền bảo
trợ” của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha[15] (Hết trích).
Cùng với “cái nhìn tổng quan” đó,
các tác giả Stephens B. Bevans – Roger P. Schroeder còn đề xuất thêm một số
nguyên nhân và tác động khác như: chế độ
quân chủ chuyên chế lên ngôi; vai trò thần quyền của Giáo Hội nhường bước lần
cho thế quyền của các vương quốc, đế quốc; khoa học khám phá ra la bàn và những
con đường vòng quanh thế giới bao la được hỗ trợ bởi các lập thuyết “vật lý vũ
trụ” của các nhà khoa học “cách tân” như Copernicus, Galilêô; những cuộc buôn
bán nô lệ cho vùng đất mới Tân Thế giới; sự hấp dẫn của những cơ hội thương mại
đường xa, những cuộc hải hành và chinh phục thuộc địa[16]…
1.2.
Những yếu tố chủ quan và “bên trong” (hay thuộc về) Giáo Hội:
1.2.1. Công Đồng Trentô (1545-1563) và những cuộc canh tân triệt để:
Có thể nói được, có được “cuộc
cách mạng truyền giáo” của Giáo Hội lúc bấy giờ chính là nhờ “viễn kiến mục vụ”
đầy thức thời của Công Đồng Trentô[17].
Nhà sử học Công Giáo Việt Nam của Dòng Tên, cố linh mục Đỗ Quang Chính nhận
xét: “Chúng ta đã biết Công đồng Trentô
(1545-1563) có mấy điểm quan trọng
trong nhiều điểm quan trọng khác, đó
là: cải tổ sâu xa nội bộ Giáo hội, bảo vệ Giáo hội, cụ thể là ở châu Âu, khỏi bị cuốn theo Tin Lành, và mở rộng Giáo hội
sang các dân tộc ngoài châu Âu, tức
là công việc truyền giáo tại các
châu Á, Phi, Mỹ…”[18].
Nói đến cuộc canh tân của Công Đồng
Trentô không thể không nhắc đến công cuộc cải
cách của các Giáo Hội Kitô thuộc các hệ phái Tin Lành. Chắc chắn nhờ một nền
thần học “biểu thị một tinh thần con người
đang cố gắng đi tìm một lối sống Tin Mừng triệt để hơn” mà động lực truyền
giáo đã tác động không nhỏ lên Giáo Hội Công Giáo lúc bấy giờ[19]. Cũng trong bối cảnh “canh
tân toàn diện đó”, cũng cần ghi nhận sự canh tân của các Dòng Tu và hình thành
các Hội Dòng mới với một nền linh đạo mang niềm khát vọng mới về nội dung ý
nghĩa của “Mission”: ra đi đến mọi
chân trời góc biển để loan báo Tin Mừng[20].
1.2.2. Góc nhìn mới của Giáo Hội về thế giới:
Gần như trước thế kỷ 16, Giáo Hội
và Âu Châu cứ cho rằng chỉ có Hy Lạp, Rôma, Do Thái, Hồi Giáo là tất cả; ngoài
ra chỉ là man di mọi rợ. Chính nhờ sự khám phá thế giới và nhiều giá trị độc
đáo cùng với những nền văn minh, văn hóa du nhập về Âu Châu…, Giáo Hội đã có một
góc nhìn mới: “Khoảng từ đầu thế kỷ XVI
trở về trước, Giáo hội Công giáo mới gặp gỡ các nền văn minh Hi Lạp, Roma, Ai Cập, Trung Đông và gặp
gỡ tôn giáo lớn ngoài Kitô giáo như
Hồi giáo. Nhưng với sự khám phá ra nhiều dân tộc khác nhau trên thế giới sống
trên quả đất hình tròn, chứ không phải là hình phẳng, Giáo hội “đụng” với những
nền văn minh Ấn Độ, Trung Hoa, Đông
Nam Á, Trung Nam Mỹ và ngỡ ngàng khi đối mặt với các tôn giáo lớn như Ấn giáo, Phật giáo, Khổng
giáo, Lão giáo, Thần đạo và nhiều dạng tín ngưỡng ở các châu lục ngoài châu Âu.
Từ đó Giáo hội nhận thấy công cuộc truyền giảng Tin Mừng không dễ như xưa.”[21].
1.2.3. Một “định hướng” mang tính “cách mạng”: Thánh Bộ Truyền Bá Đức
tin:
Chúng ta thừa biết, cho tới trước
ngày 22.6.1622, toàn bộ công cuộc truyền giáo của Hội Thánh, có thể nói được,
là hoàn toàn lệ thuộc vào cái định chế “bảo trợ truyền giáo”[22] mà người “cầm chịch và chi
phối toàn diện” chính là hai đế quốc Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Quả thật, định
chế nầy đã như một cái “gọng kềm” làm cho “cái đầu của Nhiệm Thể”, cái trung
tâm lãnh đạo của Giáo Hội là Tòa Thánh Rôma phần nào bị “bó chân bó tay”[23]. (Xem thêm nhận xét về vấn
đề nầy nơi tác giả Josef Holzer)[24].
Nhưng khi con người “bất lực” thì
Chúa Thánh Thần đã can thiệp. Một cơ quan đầu não, điều hành toàn bộ công cuộc
loan báo Tin Mừng mà không phải lệ thuộc bởi một thế lực trần tục nào, đã xuất
hiện trong “cơ chế quản trị” của Hội Thánh hoàn vũ. Đó chính là Thánh Bộ Truyền
Bá Đức Tin[25] được chính thức thiết lập
ngày ngày 22-6-1622 do Đức Grêgôriô XV bằng Hiến chế (Constitutio) Inscrutabili
Divinae Providentiae. Linh mục Đỗ Quang Chính nhận xét về sự kiện “cách
mạng” nầy như sau: “Đứng trước hoàn cảnh
này, Toà thánh phải tìm cách thoát ra khỏi cơ chế bảo trợ trong các vùng truyền
giáo, phải đứng ra lãnh trách nhiệm trực tiếp và toàn bộ trong việc tổ chức và
phái các thừa sai đến những xứ trên, mà không còn phải lệ thuộc vào quyền lực
chính trị các đế quốc nữa. Như vậy mới tránh được nhiều tiêu cực trong công cuộc
truyền giảng Tin Mừng. Vì thế, dù quá hiểu cơ chế mới này trực tiếp đụng đến
cách sắp xếp và điều hành quen thuộc của chế độ bảo trợ, nhất là của Bồ Đào
Nha, làm vua mất nhiều ảnh hưởng, Toà thánh cũng phải vượt mọi ngãng trở để lập
ra Thánh Bộ Truyền giáo.”[26].
2. Á Châu: “mảnh đất đầy hứa hẹn và hy vọng cho cả
loài người”.
Không phải chúng ta, những người
Á Châu, nhưng chính Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, người Ba Lan Âu Châu
đã phát biểu như thế trong Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu: “Vì Chúa Giêsu sinh ra, sống, chết và chỗi dậy
từ kẻ chết nơi Đất Thánh, vùng đất bé nhỏ ở Tây Á đã trở nên mảnh đất đầy hứa hẹn và hy vọng cho cả
loài người. Chúa Giêsu hiểu biết và yêu mảnh đất này. Người lấy lịch sử, những
đau khổ và hy vọng của dân miền này làm của riêng mình…”[27].
Từ điểm xuất phát là “Trung tâm
Giáo đô Rôma”, giờ đây, chúng ta thử đưa mắt nhìn về Á châu, một “Phương Đông
huyền hoặc”, đầy thi vị và hấp dẫn mà hàng bao trăm năm trước thế kỷ 17, đã trở
thành “điểm đến hấp dẫn” của hàng hàng lớp lớp đoàn người Phương Tây và Á Rập,
trên con đường huyền thoại mang tên “Con
đường Tơ Lụa”[28];
đó cũng là con đường để các thừa sai tung chân đem Tin Mừng cho những vùng Á
Châu xa xôi vạn dặm[29].
2.1.
Á Châu và công cuộc đón nhận Tin Mừng:
2.1.1. Kitô giáo: Đạo của Phương Tây hay của Phương Đông?
Xưa nay, người ta vẫn hay lập luận
rằng: “Kitô giáo luôn là tôn giáo của
phương Tây”. Nhưng tác giả Philip Jenkins đã nhận định: “Được sáng lập ở Cận Đông, Kitô giáo trong
suốt một ngàn năm đầu tiên đã phát triển mạnh tại Châu Á và châu Phi hơn là tại
châu Âu, và chỉ sau năm 1400 Châu Âu (và Bắc Mỹ chịu ảnh hưởng Châu Âu) mới thực
sự trở thành trung tâm của Kitô giáo”[30]. Trong khi đó, tác
giả Samuel Moffet lại đưa ra nhiều luận điểm để khẳng định “Giáo Hội Kitô đã được thiết lập tại Ấn Độ rất sớm, có thể là cuối thế
kỷ thứ II, và chắc chắn là trước thế kỷ thứ IV” nhờ chính Thánh Tôma Tông Đồ,
các Kitô hữu kiều dân Do Thái[31]; và tiếp nối là các đan sĩ
khổ hạnh “bắt nguồn từ Syria”, với
truyền thống linh đạo khác với các “ẩn tu
Ai Cập, vốn thích rời xa thế gian để lui về sống trong các hang núi và các túp
lều”, là “những nhà truyền giáo lưu động…,
đã từng rao giảng Tin Mừng và thiết lập các cộng đoàn Kitô trên khắp đế quốc Ba
Tư và đi rất xa về phía đông đến tận vùng mà nay là miền bắc Afghanistan”[32].
Chúng ta đừng quên, ngay từ Công
Đồng Nicêa năm 324, đã có một Giám Mục tham dự Công Đồng đã ký tên nhân danh
các Giáo Hội tại Ba Tư và Ấn Độ[33]. Cho nên, đúng như nhận xét
của hai tác giả Stephens B. Bevans – Roger P. Schroeder: “Những người Châu Âu đã tỏ ra
ngạc nhiên khi ngay từ đầu họ đã gặp các Kitô hữu Thánh Tôma ở Ấn Độ, các cộng
đồng có bề dày lịch sử Kitô giáo hơn họ”[34].
Trong khi đó, vào năm 1623, người
ta đã phát hiện một “tấm bia kỷ niệm… xác
nhận rằng nhà truyền giáo người Đông Syria tên là Alopen đã đến kinh đô Tràng
An của Trung Quốc năm 635, vào những năm đầu của triều đại hùng mạnh nhà Đường
(618-907), thường được gọi là “Thời Hoàng Kim” của Trung Quốc”[35]; và như hai tác giả
Stephens B. Bevans – Roger P. Schroeder ghi lại, thì cũng chính “Alopen được tiếp đón vào thư viện của Hoàng
Đế (một trong những thư viện lớn nhất thế giới với 200 ngàn quyển) và được
hoàng đế truyền lệnh bắt đầu dịch Kinh Thánh sang tiếng Trung Quốc. Năm 638
hoàng đế cung cấp tiền để xây dựng ngôi nhà thờ Kitô giáo đầu tiên tại Trung Quốc
ở Tràng An, thành phố lớn nhất trên thế giới vào thời đó, và tiếp đến là xây dựng
các nhà thờ và các tu viện khác. Năm 638, tại Trung Quốc có 21 tu sĩ, có lẽ tất
cả là người Ba Tư”[36].
Cứ tưởng mọi sự rồi sẽ tốt đẹp, hạnh
thông. Một mùa lúa vàng đồng đang đón đợi ! Nhưng “đá sỏi, nắng nôi, gai góc…” lúc nào cũng có để thử thách những “hạt
giống Tin Mừng (Mt 13,3-9). Chắc chắn có nhiều lý do khiến công cuộc truyền
giáo đầy hứa hẹn tại Á Châu đã bị ngưng trệ gần như tắt lịm suốt nhiều thế kỷ.
Riêng hai tác giả Stephens B. Bevans – Roger P. Schroeder đã tóm lại trong “bốn phạm trù sau đây: tôn giáo, thần học,
truyền giáo và chính trị”[37].
- Về tôn giáo: Á Châu đã
là cái nôi của những tôn giáo lớn lâu đời như Ấn giáo (Hindu, Bà La Môn…), Phật
giáo, Khổng giáo, Lão giáo, Thần Đạo…; nếu “ăn ở không nên”, Kitô giáo dễ dàng
bị khép vào loại “tôn giáo ngoại lai”, một thứ “tà đạo” cần khai trừ. Và đã xảy
ra điều đó[38]. Đó là chưa kể, từ thế kỷ
thứ 8, Hồi Giáo nổi lên với những cuộc bành trướng và chinh phục sắt máu đã phần
nào đe doạ triệt tiêu những con đường truyền giáo ở phương Đông[39].
- Về thần học: Đâu là
“chân lý” đâu là “mê tín dị đoan” ? Một nền thần học thiếu bao dung và không
mang tính “hội nhập văn hoá” sẽ chắc chắn khó thuyết phục; nếu không nói là bị
“tẩy chay thẳng cẳng” như nhận xét của tác giả Ngô Công Đức: “Cuộc Tranh Cãi Về Nghi Thức Trung Hoa” hồi
đầu thế kỷ 17 và những diễn biến sau đó là một bài học ‘xương máu’ cho sứ mạng
của Giáo Hội, không chỉ ở Trung Hoa hay Ấn Độ mà còn tại nhiều nước khác nữa.
Phải mất ba thế kỷ, Giáo Hội mới ‘nghĩ lại’ mà chấp thuận cho người Công Giáo
Trung Hoa (từ 1939)[40]
và Việt Nam (từ 1964)[41]
có những thực hành tôn kính tổ tiên, thì ta đừng ngạc nhiên và cũng đừng phiền
trách tại sao nhiều anh chị em lương dân ngày nay vẫn còn nghĩ rằng “theo đạo
là bỏ ông bà.” Vì đâu mà Giáo Hội phạm sai lầm quá lớn và quá lâu dài như
vậy? Vì ảnh hưởng của chế độ thực dân tây phương, và vì cảm thức tự tôn văn hóa
nơi người tây phương. Thời ấy, các Kitô hữu tây phương không hề ý thức rằng thần
học của họ đã bị điều kiện hóa bởi bối cảnh văn hóa; họ đơn sơ nghĩ rằng thần học
ấy có hiệu lực phổ quát và siêu văn hóa. Và vì văn hóa tây phương được coi là
văn hóa Kitô giáo, nên rõ ràng là văn hóa này phải được ‘xuất khẩu’ cùng với đức
tin Kitô giáo!”[42].
- Về truyền giáo: Thay vì
làm cho Tin Mừng thành men, thành muối biến đổi và thăng tiến, đồng hành và sẻ
chia…, cung cách truyền giáo lại mang tính “chinh
phục và lật đổ”: “Tâm thức và cách thức này như bị dội lại khi gặp hai cột trụ
sừng sững của các dân tộc Á Châu: tức các tôn giáo lớn và các nền văn hóa kỳ cựu
tại lục địa này, kỳ cựu hơn Kitô giáo rất nhiều. Chỉ xét về mặt tâm lý ứng xử
thôi, thì một tín đồ cắm sâu trong truyền thống Ấn giáo, Phật giáo, Khổng giáo
hay Lão giáo, chẳng hạn, chắc chắn sẽ cảm thấy bị tổn thương và do đó sẽ đề
kháng khi họ nhận ra các Kitô hữu đến để “truyền giáo” cho họ, theo nghĩa là để
chinh phục họ, để xóa tôn giáo và văn hóa của họ và thay vào đó bằng Kitô giáo.
Họ sẽ lịch sự nói cám ơn và quay đi chỗ khác khi nhận ra các Kitô hữu đến với họ
trong tư thế của ông nhà giàu tự tôn và trịch thượng chỉ biết dạy và cho mà
thôi chứ không hề biết học và nhận”[43].
- Về chính trị: Chính sách “bao dung tôn giáo” bị cuốn
theo sự sụp đổ của triều đại Nhà Đường (907) bên Trung Quốc đã dẫn đến những cuộc
bách hại khủng khiếp; cùng với các “hệ luỵ chính trị” từ các quốc gia theo Hồi
Giáo (Giáo Hội cũng bị cuốn vào những cuộc “phiêu lưu Thập Tự Chinh”)[44]…, nên công cuộc truyền giáo
tại Á Châu đã một thời đi vào ngõ cụt !
2.1.2. Á Châu và cuộc “tái rao giảng Tin Mừng”:
Nhưng “mùa xuân truyền giáo đã trở
lại” tại vùng đất Á Châu nầy ! Kể từ năm 1541, “Thánh Phanxicô Xavier (k. 1506-1552) bắt đầu truyền giáo ở Ấn Độ, rồi
sang Sri Lanka, Malacca, Nhật Bản”[45]. Riêng tại Trung
Hoa, thì từ năm 1582, “cha Matteo Ricci
(Lợi Mã Đậu) sang truyền giáo ở Trung quốc và mất năm 1610. Ngài khai mào cho
những liên lạc văn hoá giữa Châu Âu và Trung Quốc”[46].
Có một điều chắc chắn là vào thời
cha Đắc Lộ[47], tại trung tâm Goa, “một thành phố rất đẹp của người Bồ ở ven biển
Ấn Độ Dương trong miền nhiệt đới, vĩ tuyến 15… đã có một đoàn giáo sĩ dưới quyền
một Tổng Giám Mục, vị nầy cai quản hết mọi giáo dân ở miền này cho tới Trung Quốc.
Có nhiều tu viện đẹp, sang, nam tu viện cũng như nữ tu viện”[48].
Nếu căn cứ vào thời điểm
“9.9.1659”, tức thời Đức Giáo Hoàng Alexandre VII ký sắc lệnh “Super Cathedram”[49]
bổ nhiệm hai Giám Mục Tông Toà Đàng Trong[50]
và Đàng Ngoài[51] (F. Pallu và P.L. De La
Motte), và sau đó một năm, 1660, bổ nhiệm Vị Giám mục Tông toà thứ ba
(Cotolendi) cai quản Nam Kinh[52], thì có thể nói được, cả miền
“Viễn Đông”, dọc ven biển từ Việt Nam cho tới Đông Bắc Trung quốc, Triều Tiên,
hạt giống Tin Mừng đã “đâm chồi nảy lộc”; một cuộc “tái truyền giảng Tin Mừng”
sau hàng trăm năm lụi tàn kể từ đầu thiên niên kỷ II.
Sở dĩ có được những “nền móng”
ban đầu để xây dựng công cuộc loan báo Tin Mừng vững chắc và phát triển về sau,
ngoài công sức của các Hội Dòng như Đa Minh, Phanxicô, Augustinô…, phải ghi
công đặc biệt cho các thừa sai Dòng Tên mà những gương mặt với phong cách truyền
giáo tiêu biểu như Phanxicô Xaviê,
Alexandro Valignano, Matteo Ricci, Roberto de Nobili, Alexandre de Rhodes vẫn
còn ghi dấu ấn sâu đậm trong những trang dài lịch sử truyền giáo tại Á Châu[53]. (x. Giáo phận Qui Nhơn qua
dòng thời gian)[54].
2.2.
Hạt giống Tin Mừng trên “vùng đất chữ S”:
2.2.1. Hạt giống Tin Mừng theo chân những cuộc “Diaspora”:
Riêng tại vùng đất mang hình chữ
“S” mà hôm nay là Việt Nam chúng ta, thì như sách Niên Giám 2016 của Hội Đồng
Giám Mục Việt Nam, ngay từ giữa thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 17 (lấy cột mốc là năm
1533 theo bộ “Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục”), từ Bắc chí Nam đã ghi dấu
những bước chân đi gieo hạt giống Tin Mừng của các vị thừa sai của các Dòng như
Đa Minh, Phan Sinh, Augustinô, Dòng Tên… để chuẩn bị cho công cuộc truyền giáo
bài bản và chính thức[55] khi Toà Thánh thiết lập các
giáo phận Tông Toà.
Có một điều không thể phủ nhận,
đó là, công cuộc truyền giáo tại Việt Nam vào thế kỷ 17, có thể nói được, phần
nào là một “cơ may đến từ cái rủi”, gần
giống như thời Giáo Hội trong buổi khai sinh mà sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật:
“Hồi ấy, Hội Thánh tại Giê-ru-sa-lem trải
qua một cơn bắt bớ dữ dội. Ngoài các Tông Đồ ra, mọi người đều phải tản mác[56]
về các vùng quê miền Giu-đê và Sa-ma-ri…. Vậy những người phải tản mác này đi
khắp nơi loan báo lời Chúa.” (Cv 8,1.4).
Thật vậy, như tác giả Charles
Duniol đã ghi nhận: “Vào năm 1614, khi
Dafiusama, hoàng đế Nhật Bản, ban lệnh trục xuất mọi vị thầy tu người châu Âu
ra khỏi quốc gia này, những giáo sĩ Dòng Tên với một số đông các giáo dân người
Nhật Bản tìm đến nương náu tại các vương quốc lân cận. Những cha Dòng Tên trẻ
tuổi được cử đến Philippines hoặc Macao để hoàn thành việc học tập và chuẩn bị
việc phong phẩm chức, những giáo sĩ khác rút về trốn tránh với đàn con chiên của
mình, một phần ở Đàng Trong, một phần ở Siam hoặc Cam bốt, một phần ở Đàng
Ngoài hoặc trong đảo Hải Nam…”[57].
(x. Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian; tr. 46-47: Cơ duyên các thừa sai Dòng Tên đến Đàng Trong).
Kể từ biến cố đó, Ma Cao đã trở
thành “Trung Tâm” của Dòng Tên điều hành công cuộc truyền giáo tại Viễn Đông,
trong đó có Việt Nam chúng ta[58]. Riêng tại Việt Nam, kết quả
của công cuộc truyền giáo của Dòng Tên vào thời điểm đó đã được đánh giá tóm tắt
như sau: “Với số 36 thừa sai ra vào làm
việc trên một miền đất xa lạ từ năm 1615 đến năm 1659, có khi chỉ có một thừa
sai, có khi cả 10 năm không có bóng dáng một thừa sai nào. Tuy nhiên, với
phương châm "Ad majorem Dei gloriam - Cho vinh danh Thiên Chúa hơn" của
Dòng Tên và do biết ứng xử, vận dụng nếp sống văn hóa của người Việt, các thừa
sai đã gặt hái được nhiều kết quả”[59].
2.2.2. Một mảnh đất màu mở:
Đó là bối cảnh truyền giáo liên
quan đến “người rao giảng”. Trong khi đó, miền đất Việt Nam vào thế kỷ 17, theo
“thực tế chính trị xã hội”, đó là thời kỳ “Trịnh Nguyễn phân tranh” với hai
lãnh địa hoàn toàn như hai vương quốc độc lập về văn hoá, chính trị, kinh tế[60]...: Đàng Ngoài từ bắc Sông
Gianh trở ra và Đàng Trong từ nam sông Gianh trở vào giáp với vương quốc Champa
mà biên giới bấy giờ nằm ở phía nam Dinh Trấn Biên thuộc Phú Yên, nơi thừa sai
Đắc Lộ đã rửa tội cho 90 người, trong số đó có Á Thánh Anrê Phú Yên, vào dịp Phục
Sinh năm 1641[61].
Cho dù đang là thời chiến tranh
giữa “Trịnh – Nguyễn”, hạt giống Tin Mừng đã được dân cả hai miền Đàng Trong và
Đàng Ngoài đón nhận như một “mảnh đất tốt”. Theo nhận xét của cha Christoforo
Borri: người Đàng Trong cởi mở, thân thiện, dễ dàng đón tiếp và gặp gỡ các thừa
sai: “ở Đàng Trong, dân chúng đến bắt
chuyện với chúng tôi từng đám đông, hỏi chúng tôi hàng ngàn điều, mời chúng tôi
ăn uống và đối xử với chúng tôi muôn vàn lịch thiệp, gần gũi và văn minh. Đó là
những trải nghiệm đã xảy đến với tôi và các bạn hữu; chỉ vừa bước chân vào nhà
họ, chúng tôi đã được coi như bạn bè quen biết từ lâu. Đây quả là một điều kiện
tốt để các sứ giả của Chúa Giêsu rao giảng Phúc Âm”[62]. (x. GIÁO PHẬN QUI
NHƠN QUA DÒNG THỜI GIAN tr. 37). Nhưng đây cũng là vùng đất không thiếu những
người có học, trí thức, đầy chín chắn và sâu sắc, khó đón nhận chân lý Phúc Âm,
như chính văn kiện Monita xác nhận: “Đặc
biệt có một người xứ Đàng Trong, đầu óc chín chắn và hơn nữa sâu sắc, đã mắc phải
những lầm lạc kiểu này mà đến giờ chúng tôi đã chưa thể dẫn đến đón nhận giáo
huấn Tin Mừng”[63].
Trong khi đó, dân Đàng Ngoài, nhờ
các yếu tố “văn hoá, khung cảnh, nếp sống,
tín ngưỡng, phong tục xã hội” mang tính truyền thống cố cựu hơn, nên xem ra
“thuận lợi cho đạo Công giáo, một Công
giáo thế kỷ XVII với những “cơ cấu đạo” dễ được dân Đàng Ngoài chấp nhận hơn
Đàng Trong và các dân tộc láng giềng”, như báo cáo của thừa sai João
Cabral: “Con nhận xét trong cõi phương
đông, chẳng có dân tộc nào có điều kiện thích hợp với Kitô giáo hơn dân tộc
Đàng Ngoài. Đó là một dân tộc đơn sơ, ngoan hiền, không vướng mắc những thói tật
xấu xa, thường làm cho người ta khó thực hành các nhân đức Kitô giáo”[64].
Phải chăng, chính nhờ những “yếu
tố thuận lợi” đó, mà vào thời điểm khai diễn “Công nghị Ajuthia 1664”, Đàng
Trong đã có 50.000 tín hữu và Đàng Ngoài khoảng 350.000 giáo dân cùng với hàng
trăm ngôi nhà thờ đã được xây dựng từ Bắc vô Nam để dân Chúa quy tụ thờ phượng
Chúa và sinh hoạt đức tin[65].
2.3.
Công việc của Chúa và yếu tố con người:
Không ai phủ nhận công sức của
các tu sĩ, nhất là các thừa sai Dòng Tên, trong việc loan báo Tin Mừng trên quê
hương đất nước chúng ta trong giai đoạn thế kỷ 17; và cũng không ai loại trừ những
đóng góp quý báu của một công cụ truyền giáo mang tính thời sự và thực tế lúc bấy
giờ gọi là “Chế độ bảo trợ truyền giáo”
mà Toà Thánh ký thác trong tay hai “mạnh thường quân” là đế quốc Tây Ban Nha và
Bồ Đào Nha qua Sắc chỉ Inter Caetera[66].
Tuy nhiên, cho dù là “Dòng Tên” hay là những “quốc gia Công Giáo” thì vẫn là những “tập
thể con người”. Dẫu biết rằng “Truyền Giáo” là “công việc của Chúa”[67]; nhưng các thừa sai, các định
chế, các tổ chức, hiệp hội truyền giáo lại… lại mang “yếu tố con người” cùng với
tất cả những yếu đuối và giới hạn, bất toàn và tội lỗi[68]
!
Về mặt Dòng tu, cũng chính trong
thế kỷ 17 và tại vùng đất Á Châu nầy, đã không tránh khỏi hiện tượng “tinh thần thế tục” lây nhiễm và chi phối
đời sống của không ít tu sĩ, khiến nhiều vị sống buông thả, bất chấp các lời khấn
và nhân đức của bậc tu trì[69]; tinh thần “cạnh tranh băng
nhóm”, phá đổ sự hiệp nhất giữa các Hội Dòng[70]
và ngay cả với thẩm quyền Hội Thánh[71]…
Trong khi đó, đế quốc Công Giáo Bồ
Đào Nha, cho dù được Toà Thánh tín nhiệm và uỷ thác cho trách vụ thánh thiêng
“Bảo Trợ Truyền Giáo”, nhưng khi có được “thế quyền” cộng với sự lạm dụng “thần
quyền” được uỷ nhiệm, một số người Bồ (công chức, lái buôn, thuỷ thủ…; cả các
linh mục, tu sĩ) đã dần dần bị tinh thần thế tục chi phối và bộc lộ đầy dẫy những
tham vọng và khiếm khuyết như “bảy sự” được Đức Cha Lambert vạch trần: “sự hống hách kiêu căng khinh thường dân bản
địa, tinh thần thống trị, mâu thuẫn giữa cuộc sống và lời rao giảng, hưởng thụ
ăn không ngồi rồi, thường xuyên gây gương mù gương xấu, mại thánh, không đáp ứng
đủ nhân sự[72].
3. Đã đến lúc cần một “Công Nghị” để bắt đầu lại:
Chúng ta vừa rà soát lại những “yếu
tố chín mùi” và là những nguyên nhân đỉnh điểm để dẫn đến sự kiện lịch sử trọng
đại “9.9.1659”, việc Toà Thánh thiết lập hai giáo phận và bổ nhiệm hai Giám Mục
Tông Toà Đàng Trong và Đàng Ngoài. Cùng với biến cố lịch sử có tính “bước ngoặc”
trên, đó là sự ra đời Huấn Thị 1659 của Toà Thánh dành cho các Đại Diện Tông Toà đi các nước Trung Quốc, Đàng Ngoài và Đàng Trong[73];
để rồi, từ “văn kiện mục vụ” quan trọng nầy, khi các Giám Mục và phái đoàn được cử đi đặt chân lên vùng đất Á Châu
Ayutthaya[74], họ đã bắt tay tiến hành một
“Công Nghị” để xây dựng một “Kim Chỉ Nam Truyền giáo” sao cho hoàn chỉnh, khả
dĩ đáp ứng thật tốt cho “giai đoạn “Truyền bá Phúc Âm mới” nầy.
Vâng, đó là sự ra đời của văn kiện
“MONITA AD MISSIONARIOS”, kết quả của “Công Nghị Ajuthia 1664”, một “tiến trình
Công Nghị” bài bản và truyền thống, mang đầy đủ chiều kích “Synodality”[75] như được ghi nhận như sau: “Trước tiên họ đã tìm nguồn cảm hứng trong
việc tĩnh tâm và sám hối, họ cầu nguyện, ăn chay trong nhiều ngày, khai mạc các
cuộc họp bằng việc cử hành thánh lễ cầu xin Chúa Thánh Thần, tiếp đến họ phân
phát các đề mục sẽ được bàn thảo và không quên dặn dò ‘Mỗi người hãy củng cố tất
cả các phương châm và các quyết định về các đề mục này dựa vào Kinh Thánh, Giáo
Luật và các Hiến Chế của các Đức Giáo Hoàng, học thuyết các Giáo Phụ, dựa theo
hạnh các thánh, nhất là hạnh thánh Fr. Xavier’. Từ những công việc được thảo luận
chung và được phối hợp chặt chẽ nầy, một quyển sách đã ra đời với nhan đề: Những
Chỉ Dẫn để chu toàn nhiệm vụ Tông Đồ, rất có ích cho các xứ truyền giáo Trung
Hoa, Đàng Ngoài, Đàng Trong, Siam. Những chỉ dẫn này được soạn thảo do các vị
thừa sai thuộc Thánh Bộ Truyền Giáo tại Ayuthaya, thủ đô vương quốc Siam”[76].
II. VĂN KIỆN “MONITA AD MISSIONARIOS”: NHẬN ĐỊNH TỔNG
QUÁT
1. Sự “Phân Định” cần thiết: Huấn thị 1659:
Mở đầu cho Chương V của tông huấn
Gaudete et Exsultate (hãy Vui Mừng và Hoan hỉ), Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã có
những lời sau: “Đời sống Kitô hữu là cuộc
chiến đấu liên lỉ. Chúng ta cần sức mạnh và sự can đảm để chống lại những cám dỗ
của ma quỷ và để loan báo Tin Mừng.” (GE 158). Và cuộc “chiến đấu liên lỉ”
đó chính là “hành trình Phân Định”, một sự “cần
thiết trong những thời điểm đặc biệt”, như cách ngài cắt nghĩa: “Phân định không chỉ cần thiết trong những
thời điểm đặc biệt, khi chúng ta cần giải quyết những vấn đề hệ trọng và đưa ra
những quyết định gay go, nó còn là một phương thế của cuộc chiến thiêng liêng
giúp chúng ta đi theo Chúa cách trung thành hơn. Sự phân định luôn là điều hữu
ích, nhằm giúp ta nhận ra chương trình của Chúa và ân sủng của Ngài, đồng thời
giúp ta không để vụt mất những gợi ý Ngài soi sáng và không xem thường lời Ngài
mời gọi ta lớn lên.” (GE 169).
Một cách nào, chúng ta có thể nói
được, Giáo Hội Mẹ đã có một cuộc “Phân Định” tới nơi tới chốn trong biến cố thiết
lập Thánh Bộ Truyền Giáo năm 1622; để từ đó đi tới quyết định thành lập các
Giáo Phận Tông Toà Đàng Trong, Đàng Ngoài, Nam Kinh cùng với văn kiện Huấn Thị
1659.
Thật vậy, trước khi đi tới những
quyết định khôn ngoan được đúc kết nơi “Bản Huấn Thị 1659”, Toà Thánh thông qua
Thánh Bộ Truyền Giáo mà người “cầm trịch” chính là Đức Ông Phanxicô Ingoli
(1578-1649), người có công đầu trong cuộc “Đại Phân Định” nầy[77]. Chính “Vị Thư Ký Thánh Bộ”
này “đã tổ chức được một hệ thống tiếp
thu tin tức ở mức độ tuyệt hảo, bằng cách nhờ đến các khâm sứ Toà Thánh, các bề
trên tổng quyền các dòng tu khác nhau; và chính các thừa sai, hay các tác giả
những bản tường trình chu đáo đầy dữ liệu, hay các vị chỉ tạm dừng chân tại
Roma. Trong mức độ có thể, Đức Ông Ingoli còn chú tâm lo kiểm chứng các tin tức
nhận được”[78].
Đặc biệt, từ các “bản tường trình chu đáo” 1625,
1628 và 1644[79],
Thánh Bộ Truyền Giáo hoàn toàn có đầy đủ cơ sở để “phân định” và đưa ra một quyết
sách mới về Truyền Giáo được cụ thể hoá nơi Huấn Thị 1659 mà tác giả Joseph
Metzler đã tóm tắt với bảy điểm cốt yếu sau:
1. Tìm giải thoát hoạt động truyền giáo khỏi
chế độ thực dân mà vào thời đó là chế độ bảo trợ truyền giáo Bồ Đào Nha và Tây
Ban Nha.
2. Tìm giải thoát hoạt động truyền giáo khỏi
các vấn đề chính trị.
3. Tìm giải thoát hoạt động truyền giáo khỏi
mọi tổ chức thương mại.
4. Tìm tuyển chọn và đào tạo những thừa sai
xứng đáng với nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng.
5. Tìm thiết lập hàng giáo sĩ bản xứ.
6. Tìm thực hiện việc, mà nói theo ngôn ngữ
thần học hôm nay, là “hội nhập văn hóa”.
7. Tìm phương cách truyền giáo có tính mục vụ
và nhân bản hơn: rao truyền, giảng dạy, bàn luận, cầu nguyện, ăn chay, hãm
mình, khuyên bảo, khuyến khích, cử hành bí tích, ấn loát sách vở, mở trường dạy
học, v.v…[80].
2. Từ Huấn Thị 1659 đến Công Nghị Ajuthia 1664:
Con đường từ Âu Châu sang Á Châu
thuở ấy dài “vạn dặm” ! Trong “Phái đoàn” đi về Châu Á “dưới chiếc ô dù của Thánh Bộ Truyền Giáo” từ tháng 6.1660 (Ngày Đức
Cha Lambert de la Motte rời nước Pháp) cho đến ngày 3.01.1662 (Ngày Đức Cha
Pallu lên đường) có cả thảy 17 vị thừa sai (Giám mục + Linh mục + giáo dân),
nhưng chỉ có 9 vị tới được Ayuthaya; còn 8 vị đã chết dọc đường (Trong đó có Đức
Cha Cotolendi. Ngài khởi hành vào tháng 7.1661, lâm bệnh chết ngày 26.8.1662 và
được chôn ở bờ biển Đông Ấn)[81].
Đã có được “Định hướng của Thánh
Bộ” trong tay, lại may mắn có được một thời gian thuận lợi để quan sát cùng một
địa điểm yên bình để cầu nguyện và làm việc chung, “nhóm thừa sai Pháp” đã tiến
hành một Công nghị vào Thứ Sáu sau ngày Thứ Tư Lễ Tro năm 1664[82], với lý do thiết thực nhưng
cũng đầy nhạy cảm cho chương trình mục vụ lúc bấy giờ: “Xét định các bê bối rất lớn và vô kỷ luật của những giáo sĩ triều và
các dòng tu nơi những miền này, nói chung, và cách riêng, lo tránh né các tệ hại
đó và tìm các phương tiện để đừng sa ngã vào”[83].
Đây cũng là kết quả của một sự
“Phân định” kỹ lưỡng mà chúng ta có thể nhận rõ nơi bức “Thư đệ trình Đức Thánh Cha Clément IX”
(để giới thiệu tổng quát về tài liệu Monita của Công nghị Ajuthia 1664) của hai
vị chủ chăn vừa mới được bổ nhiệm: “Từ
lúc mà Thiên Chúa nhân từ đã đoái thương gọi chúng con đi truyền
giáo, mặc dù chúng con bất xứng; và từ lúc mà vị Tiền nhiệm của
Đức Thánh Cha, Đức Alexandre VII đáng nhớ, đã cất nhắc chúng con lên
hàng Giám Mục và sai chúng con đến với lương dân giúp họ trở lại,
thì không điều gì khiến chúng con quan tâm hơn là đem hết sức lực để
hoàn thành sứ mạng cao quí và quan trọng này. Chúng con đã nghe
nhiều, chúng con đã đọc nhiều, chúng con cũng đã quan sát tường tận
tại các cuộc họp với những anh em đồng nhiệm từ các xứ truyền
giáo, và nhờ kinh nghiệm chúng con đã xem xét kỹ lưỡng tất cả các
tường trình. Một biến cố “thuận lợi” chưa chắc đã giúp ích cho
chúng con bằng việc chúng con phải bị bắt buộc dừng lại lúc vừa
đến ranh giới lãnh thổ được giao phó. Ý Chúa quan phòng đã làm chậm
lại những nỗ lực của chúng con để chúng con cùng nhận ra điều phải
làm hoặc phải tránh, đồng thời sự quan phòng cũng bảo đảm “một vụ
mùa bội thu” sắp tới.”[84].
3. Bố cục nội dung và tiêu đích nhắm tới.
3.1. Từ định hướng của Huấn thị 1659:
Như chúng ta biết, Công Nghị
Ajuthia 1664 với văn kiện đúc kết là MONITA AD MISSIONARIOS, thực chất là việc
triển khai các định hướng của Huấn Thị
1659 để đưa vào áp dụng mục vụ thực hành, nhất là Phần III của Huấn Thị nầy:
Tại nơi truyền giáo (In ipsa missione).
Riêng trong Phần III, Huấn Thị đã đề nghị 23 mục[85],
trong đó, có hai mục quan trọng được
MONITA tập chú khai triển và đề xuất những phương án hành động: mục (17): Buộc các linh mục giữ đúng kỷ luật
truyền giáo và mục (22): Đào tạo linh mục tương lai.
Chúng ta có thể nhận rõ “nội dung
và đích nhắm” nầy nơi chính “Thư Đệ Trình” của quý ngài gởi cho Đức Giáo Hoàng
Clément IX: “Cũng thế, để những nơi
được giao cho chúng con tránh được những tai họa như thế, chúng con
mạo muội đưa ra một số ý kiến mà chúng con tin sẽ giúp tránh xa
được những bất trắc sẽ xảy ra, những ý kiến này chúng con tóm gọn
trong tập CHỈ DẪN. Do đó, trong tài liệu này, chúng con trình bày
cách thức phải tránh những thói quen buông thả bằng cách sống các
nhân đức tông đồ (chương I). Chúng con quan tâm đến việc cải thiện cách
truyền bá Tin Mừng, dựa theo cách thức tuyệt diệu của Chúa Kitô và
các Tông đồ (ch II, III và IV). Sau cùng, để đánh tan sự dốt nát,
chúng con đã trình bày những bổn phận phải thực thi khi đi làm việc
tông đồ nơi lương dân (ch V), nơi các
dự tòng (ch VI), nơi những ứng viên đã được tuyển chọn để lãnh nhận
Phép Rửa (ch VII), nơi các tân tòng (ch VIII), nơi các tín hữu đã được
đào luyện (ch IX), nơi những thầy giảng sẽ được lãnh chức linh mục
(ch X). Trong phần phụ lục, chúng con cũng thêm những ý kiến rất hữu
ích liên quan đến cách giảng dạy cho có hiệu qủa, hoặc những điều
phải truyền đạt.[86].
3.2. Bố cục nội dung của “MONITA”:
Như “lời giới thiệu tổng quát” của
“Thư Đệ Trình” vừa nêu, chúng ta biết văn kiện Monita gồm có mười Chương và một phần Phụ lục. Trong khi đó, nơi “Lời Tựa” của Văn kiện, chúng
ta lại được các ngài phối trí nội dung Monita thành ba phần rõ rệt, như một “tiền
đề” gợi hứng để sau nầy, vào thế kỷ 20, trở thành phương pháp của Phong trào
Thanh Sinh Công đó là “XEM, XÉT, LÀM”[87];
hay mới đây, rọi sáng cho “cấu trúc diễn
trình biện phân” của “Tài liệu làm việc” của Thương Hội Đồng Giám Mục thứ
XV về Giới trẻ[88], đó là: NHÌN NHẬN, GIẢI
THÍCH VÀ LỰA CHỌN.
Sau đây, có thể tóm tắt các nội
dung của MONITA thành ba chủ đề chính như sau:
- Tìm hiểu và đánh giá hiện tình (Xem hay Nhìn
nhận)
- Phân định dưới ánh sáng Lời Chúa (Xét hay
Giải thích)
- Lựa chọn phương án tối ưu để hành động
(Làm hay Lựa chọn)[89].
III. MONITA AD MISSIONARIOS: ĐỊNH HƯỚNG VÀ ÁP DỤNG
1. Điểm nhấn mang chiều kích “linh đạo”: Tìm hiểu
khái quát nội dung MONITA
Có thể nói được rằng: toàn bản
văn Monita là những “nhận định, phân tích, khuyến dụ và định hướng” liên quan
trực tiếp đến “hành trang lên đường” cho các thừa sai. Quả thật, đây đích thị
là một “văn kiện Huấn Quyền”, được cảm hứng và soi sáng từ “Kinh Thánh, Giáo Luật và các Hiến Chế của các Đức Giáo Hoàng, học thuyết
các Giáo Phụ, dựa theo hạnh các thánh, nhất là hạnh thánh Fr. Xavier…”[90];
cùng với việc các ngài đã “nghe nhiều, …
đã đọc nhiều, … quan sát tường tận tại các cuộc họp với những anh
em đồng nhiệm từ các xứ truyền giáo, và nhờ kinh nghiệm (các ngài)
đã xem xét kỹ lưỡng tất cả các tường trình”[91]. Chính vì thế, bản
văn của MONITA có thể nói được chứa đựng cả một kho tàng “linh đạo truyền giáo” dành cho những ai dấn thân vào công cuộc
loan báo Tin Mừng như chính Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã xác nhận trong
thông điệp REDEMPTORIS MISSIO (Sứ Vụ Đấng Cứu Độ): “Hoạt động truyền giáo đòi hỏi một linh đạo riêng, linh đạo này đặc biệt
chi phối những người được Chúa kêu gọi trở nên nhà truyền giáo” (RM 87).
Sau đây, chúng ta sẽ dừng lại những
“điểm nhấn quan trọng” của MONITA.
2. XEM (Nhận diện tiêu cực): Không lẽ thừa sai là
như thế ? (CHƯƠNG I)
2.1. Mất phương hướng: “đánh mất nhiệt tình ban đầu hầu như không
còn quan tâm đến những dân tộc được giao phó cho họ, rồi chẳng bao lâu sau, họ
không quan tâm đến chính phần rỗi của mình nữa”[92].
2.2. Buông thả và nuông chiều thân xác: “Thật vậy, quá lo lắng cho thân xác và những sự dễ dãi không chính đáng
đã dần dần làm suy yếu lòng yêu mến Thiên Chúa nơi nhiều vị khiến họ coi trọng
xác thịt hơn tâm linh”[93].
2.3. Nô lệ cho lòng tham và chiếm hữu: “Lòng tham vô đáy muốn chiếm hữu tất cả dẫn đến cuộc sống xa hoa và yếu
nhược. Từ đó ta mới hiểu nết xấu này đã biến những môn đồ thành tín của đức
nghèo khó Tin Mừng trở nên những nô lệ xấu xa của tiền bạc. Đó là cách thức dẫn
đưa những tôi tớ Chúa Kitô đến chỗ phục vụ ma quỉ”[94]; “chính lòng ham muốn
này đặt nhà thừa sai vào tình trạng nguy hiểm nhất, vì nó dùng cái vẽ bề ngoài
của nhân đức để che phủ cái xấu. Bởi kẻ bị lòng khát khao trên dày vò, thường
cho việc tích trữ của cải là biết khôn ngoan tiên liệu; y lấy cớ phải đáp ứng
nhu cầu trước mắt trong nhà, phải lo trang hoàng nơi thờ phượng, phải tổ chức lễ
lạc. Như thế, y tự cho là không bao giờ thừa và không bao giờ đủ, dù những của
dâng cúng người ta giúp y có đến mức nào đi nữa. Lòng tham của y vô đáy ! Còn
gì nữa ? Y còn viện cớ phải truyền bá đạo Chúa, phải vận động các vua quan, phải
dùng quà cáp để lấy lòng, phải làm cho dân chúng thán phục bằng vẻ hào nhoáng
bên ngoài và phải bảo vệ phẩm giá của mình. Và rồi, cuối cùng chính y bị đưa đẩy
cách thảm hại vào việc tích luỹ của cải bằng những phương thế đáng khinh và bất
chính”[95].
2.4. Xa rời nền tảng, đối nghịch với tinh thần tông đồ: “Vậy phải nhận định thế nào về sự đối nghịch
giữa những lo toan này với tinh thần tông đồ ?”; và Monita đã chỉ ra vài
nét về “tinh thần tông đồ” như sau: Lời
mời gọi của chính Chúa Giêsu: “Nếu ai muốn
theo ta thì hãy chối bỏ chính mình, vác lấy khổ giá mà theo Ta” (Lc 9,23); Đời
sống của Chúa Giêsu và các Tông Đồ: “Chúa
Giêsu không có cả nơi gối đầu” (Lc 9,58); chứng từ của Thánh Phaolô: “Cho đến giờ nầy chúng tôi phải đói, phải
khát, mình trần thân trụi .v.v…” (1 Cr 4,11); mẫu gương của các thánh: “Thánh F.r. Xavier, vị tông đồ vĩ đại của
xứ Ấn Độ…”[96].
2.5. Tính tự phụ và vinh quang phù phiếm: “Cho nên đối với các thừa sai, không gì nguy hiểm hơn là tính tự phụ và
vinh quang phù phiếm. Thật vậy, chính tính tự phụ, đã biến Thiên Thần hành ma quỉ;
khi tính tự phụ xâm nhập vào tâm hồn của vị thừa sai, nó liền phá huỷ công
trình của Thiên Chúa khiến vị này liều lĩnh mà không lường được sức mình. Vinh
quang phù phiếm tước đoạt rất nhanh phần thưởng chính đáng sau nhiều năm nỗ lực…”[97].
2.6. Hướng ngoại, đánh mất đời sống nội tâm, cầu nguyện: “Dần dà, ngài sẽ bỏ bê những thực hành thường
ngày của mình như cầu nguyện, xét mình, đời sống nội tâm; ngài sống hướng ngoại,
không chu toàn bổn phận và hoàn toàn quên cả chính mình”[98]; Điều xấu mà chúng
ta vừa nói đến, đã hoành hành khắp cả Ấn Độ, đến mức mà ba lời
Khấn Dòng, đáng ra phải là những liều thuốc hữu hiệu nhất, thì đã
không thể giữ cho một số tu sĩ tránh khỏi những tổn hại bi thảm.
Phải có một nguyên nhân tiềm ẩn của sự đồi truỵ này. Khi xem xét kỹ
càng người ta nhận ra một nguyên nhân duy nhất: Sự lơi lỏng tinh thần
cầu nguyện trong những miền này đã lên đến mức báo động như lời tiên
tri Giêrêmia: “Cả xứ đã ra cằn cỗi, mà không người để tâm lo đến” (Gr
12,11)[99].
3. XÉT (Giải thích tích cực): Không phải như thế này
sao ? (CHƯƠNG II,III)
3.1. Thái độ đầu tiên: tĩnh tâm gặp gỡ Chúa
Kitô: “Vậy nên, ngay khi vị thừa
sai đặt chân đến xứ truyền giáo sẽ được giao phó cho mình, ngài mau
mắn đưa mắt nhìn lên Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta, Người Mục Tử, để
được chúc phúc. Và khi hoàn cảnh cho phép, ngài sẽ rút lui để tĩnh
tâm hầu tích luỹ những nhân đức cần thiết, ngài sẽ dâng lên Chúa Kitô
các linh hồn được giao phó cho ngài, và đem hết mình dạy dỗ họ,
ngài vui sướng vì đã đổ công sức chăm lo cho các linh hồn, và có thể
một ngày nào được đổ máu mình nữa”[100].
3.2. Khổ chế và cầu nguyện: “Cho nên vị thừa sai, để thanh tẩy mình
khỏi mọi vết nhơ, hãy cùng Môsê tháo giày ra trong nơi hiu quạnh, phải
cởi bỏ con người cũ cùng mọi quyến luyến xác thịt, phải chế ngự
thân xác mình bằng chay tịnh và bắt nó phải phục tùng tinh thần
bằng sự khổ chế, và bắt tinh thần phải tùng phục Thiên Chúa bằng
cầu nguyện. Như vậy ngài sẽ xứng đáng được đàm đạo với Thiên Chúa,
và để Người trao ban lề luật mà sau đó ngài sẽ làm cho các dân tộc
phải tuân giữ”[101].
3.3. Chống lại ma quỉ bằng vũ khí hữu hiệu: Lời Chúa (Ep 6,10-17): “Nhưng để thắng chúng cách tốt hơn,
vấn đề là phải tấn công; thánh tông đồ Phaolô như vậy đã có lý khi
chỉ ra lưỡi gươm tinh thần, nghĩa là Lời của Thiên Chúa (Ep 6,17).
Thật vậy, không gì bằng Lời Chúa để bẻ gãy những nỗ lực của ma
quỉ…”[102].
3.4. Tìm hiểu thực trạng: “Vậy
nên khi vừa cấm phòng xong, ngài cố gắng hết sức để tìm hiểu tình
trạng của nơi truyền giáo… ; nghiên cứu cặn kẽ phong tục địa
phương và các sở thích của dân chúng… ; khám phá mọi thứ liên
quan đến tôn giáo của dân địa phương, những nghi lễ và những sai lầm
phổ biến nơi họ… ; tìm hiểu kỹ thời kỳ mới du nhập đạo, lịch
sử xuất phát, những phương thức được các đấng thừa sai dùng để củng
cố ngọn đuốc đức tin và chủ yếu những người đã thành công nhất;
cuối cùng nếu có sự gián đoạn trong việc phát triển các xứ truyền
giáo, thì lý do là gì và lúc đó cách ứng xử của các thừa sai ra
sao?... ; tìm hỏi số tín hữu, số nhà thờ, số thừa sai và Thầy
giảng, về cách sống và dạy dỗ của họ, về những qui chế Giáo Hội
hiện hành nơi đó, về những qui chế chưa được ban hành, về qui chế bị
vi phạm hoặc đã bị huỷ bỏ do tập quán đặc biệt…; tìm hiểu chính
quyền dân sự, nhưng với sự đúng mức mà sự việc đòi hỏi để hướng
dẫn cộng đoàn của mình, lợi thế của Giáo Hội và việc thi hành đều
đặn của chức vụ tông đồ”[103].
3.5. Học ngôn ngữ: “Chúa
Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã không sai các thánh Tông đồ đi rao giảng Tin
Mừng khắp thế gian mà không trước tiên ban cho các ngài ơn nói các
thứ tiếng (Cv 2,4). Điều đó rõ ràng cho thấy sứ vụ rao giảng kéo
theo sự cần thiết học các thứ tiếng, bởi vì Thiên Chúa, trong sự
khôn ngoan của Ngài, đã muốn rằng đức tin lan truyền bằng phương thức
rao giảng. Thật vậy, “Ấy vậy, tin là do bởi đã được nghe, còn nghe
là nhờ việc rao giảng Lời Đức Kitô” (Rm 2,17)[104].
3.6. Tựa nương vào Chúa thay vì tìm kiếm phương tiện tuần tuý con người:
Thánh Ambroise đã nói với chúng ta điều đó. (lib. 6, in Luc., cap.9): “Người loan báo Nước Thiên Chúa phải
như thế nào thì Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã chỉ thị rõ trong Tin
Mừng: hãy ra đi không gậy, không bao bị, không giày dép, không bánh và
không tiền bạc, nghĩa là ngài không tìm những hỗ trợ phàm tục, nhưng
mạnh mẽ nhờ đức tin, ngài hãy xác tín rằng càng ít sử dụng chúng thì
càng có lợi” (…) “Cho nên ngài
đừng tìm kiếm những chỗ dựa khác với những chỗ mà Tin Mừng gợi lên
cho ngài. Vả lại, ngài cần xác tín rằng cánh tay của Thiên Chúa vốn
đã dài và rằng điều còn thiếu, không phải là nhờ phép lạ, nhưng là
những con người tông đồ xứng đáng phục vụ Thiên Chúa như là những
dụng cụ để thực hiện phép lạ ấy;… Tuy nhiên, sự tin tưởng này phải
luôn luôn đi kèm với sự khiêm tốn, không bao giờ quá liều lĩnh hay quá
tự phụ để đòi những phép lạ tức thời, nhưng phải biết chờ đợi”[105].(x.
MONITA, Chương III, Tiết 4: Không trông chờ vào những thủ thuật con người)[106].
3.7. Tránh xa việc buôn bán, thương mại: “Một số thì xấu và không được phép làm trong mọi trường hợp:
việc rõ nhất là thương mại, bởi vì nó làm tổn hại nặng nhất đến
thanh danh của sứ vụ tông đồ. (…) Một vị kỳ cựu ở xứ truyền giáo
Ấn Độ đã nói: “nếu cần một phép lạ để việc loan báo Tin Mừng có
hiệu quả, thì phép lạ ấy là các sứ giả khi rao giảng tránh được
mọi nghi ngờ là ngài ham mê tiền bạc hay tiếng đồn ngài sống vô luân”
(Acista, de procur. Indorum convers., lib. 5, c. 22)[107].
3.8. Không dùng bạo lực và áp đặt: “Chúa Kitô đã muốn chế ngự thế gian, không phải bằng thanh
gươm, mà bằng Thập giá. Ngài đã sai các Tông đồ như chiên vào giữa
sói rừng (Lc 10,3); Ngài đã quở trách nghiêm khắc Phêrô vừa chém một
nhát gươm để bảo vệ ngài (Mt 26,52). Cũng thế, thánh Phaolô đã nói:
“Quả vì khí giới chúng tôi dùng để chiến đấu không thuộc về xác
thịt, nhưng có quyền phép của Thiên Chúa, để triệt hạ các đồn lũy”
(2 Cr 10,4)[108].
3.9. Không dựa trên sự khôn ngoan loài người
(Một thứ “Ngộ Đạo”): “Đó chính là
khoa học mà những nhà khôn ngoan của thế gian rao giảng với những lời
nói lắt léo, trí trá của con người. Chính về những người đó mà đã
được viết: “Ta sẽ hủy diệt sự khôn ngoan của hạng khôn ngoan, và Ta
sẽ triệt tiêu trí thông thái của hạng người thông thái.” (1 Cr 1,19).
Rõ ràng là những hạng người thiếu lòng tin này đã không được
trải nghiệm rằng việc trở lại
không phải là kết quả của người trồng, cũng không phải của người
tưới, nhưng chỉ là kết quả của lòng nhân từ Thiên Chúa đã thay đổi
trái tim con người”[109]…
3.10. Kiên trì trong “lựa chọn thập giá”: “Cơn cám dỗ khó chịu nhất đối với nhà truyền giáo đương nhiên
gần với tình huống sau đây: ngài thiếu những phương tiện thuần túy
nhân loại đã được liệt kê ở trên, hoặc là chúng ở trong tầm tay
ngài; nhưng dường như một thần cảm từ Chúa, hay Thiên Ý nào đó cấm
ngài hoàn toàn không được sử dụng. Ngài kéo lê cuộc sống khốn khổ,
thường túng thiếu ngay cả cho những nhu cầu cần thiết nhất; chấp
nhận ngàn muôn nghịch cảnh: mọi người khinh rẻ, rồi đủ loại đau khổ
từ bên trong lẫn bên ngoài; và điều còn làm cho ngài lo sợ hơn nữa,
đó là không gặp thành công nào trong công việc truyền bá Tin Mừng của
ngài. (…) Trong lúc đó, thật ra bề ngoài có vẻ thất bại, nhưng có
nhiều người khi xem xét tình thế của ngài, lại cho là rất hạnh phúc
và đáng mơ ước: ngài cảm thấy trong chính mình sự toàn thắng của ân
sủng, con người cũ đã bị chôn vùi và nay con người mới được phục
sinh, hoàn toàn trơ trụi để phó thác cho Chúa”[110].
4. LÀM (Lựa chọn hợp lý): Vẫn còn cơ hội để “lại bắt
đầu”: (Từ CHƯƠNG IV ĐẾN X)
4.1. Nhà truyền giáo và Thừa tác vụ “Rao Giảng” (CHƯƠNG IV):
4.1.1.
Xác tín vào “sứ mệnh cốt yếu”: Mỗi
người đều hiểu việc rao giảng là phần chính yếu của trách nhiệm
tông đồ, vị thừa sai phải tập trung công sức tinh thần của mình với
hết nhiệt tình. Trong mục đích này Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta đã
chọn các Tông đồ “để Người sai đi rao giảng” như thánh Marcô miêu tả
(3,14). Các Tông đồ luôn luôn tự cho mình mang trách nhiệm phải bó
buộc từ bỏ và xa lánh mọi thứ
không mấy phù hợp với chức trách này. Các ngài nói: “không
phải là điều đẹp lòng Thiên Chúa, nếu chúng tôi sao nhãng Lời Chúa
mà đi lo giúp việc bàn ăn” (Cv 6,2). Và thánh Phaolô xác định: “Quả
vậy, Đức Kitô đã không sai tôi đi thanh tẩy, mà là rao giảng Tin Mừng”
(1 Cr 1,17). Những lời mà thánh Phaolô dặn dò Timôtê về sứ vụ rao
giảng, chắc chắn đáng ta lưu ý “trước
mặt Thiên Chúa và Đức Kitô Giêsu, Đấng phán xét kẻ sống và kẻ
chết, vì cuộc hiển linh và vương quyền của ngài, cha khẩn thiết yêu
cầu con hãy rao giảng Lời, hãy ứng phó lúc thuận, cũng như lúc
nghịch...v.v.” (2 Tm 4,1-2)[111].
4.1.2. Rao giảng và cuộc sống: “Nhưng thực ra, nếu lối cư xử không đi
đôi với lời nói, người rao giảng sẽ thu hoạch được ít, nếu không nói
là không được gì. Do vậy thánh Phaolô tông đồ đã viết cách khôn ngoan
cho Titô “trong mọi sự, anh hãy tỏ mình gương mẫu về đức hạnh” (Tt
2,7). Như thánh Luca nhận xét, chính Chúa Kitô “đã bắt đầu bằng hành
động và bằng dạy dỗ” (Cv 1,1)… Phẩm hạnh đời sống sẽ giúp các vị
thừa sai có nhiều uy tín nơi các dân tộc hơn là những phép lạ…. Thêm vào
cuộc sống gương mẫu, phần bổ sung thứ hai của việc rao giảng là sự
tận tụy đậm đà tình phụ tử, sẽ mở toang con đường dẫn đến việc
chinh phục các tâm hồn… Vậy nên, người thừa sai sẽ tận tụy hoàn toàn
cho sứ vụ rao giảng, nơi riêng tư hoặc nơi công cộng, cho người nghèo
cũng như người giàu, cho giới chủ cũng như tớ, cho mọi người, ngài
sẽ bẻ và phân phát Bánh thánh thiêng của Tin Mừng. Ngài sẽ rảo qua
những con đường, thăm viếng dân chúng, làm lan toả khắp chốn hương thơm
dịu ngọt của sự nhận biết Thiên Chúa; mời gọi, thúc bách mọi người
đến dự tiệc cưới của vị Hôn Phu trên trời”[112].
4.1.3. Chuẩn bị Lời cẩn thận: “Lời Thiên Chúa là Hạt giống” (Lc
8,11); vị thừa sai phải chuẩn bị Lời cẩn thận trước khi giao Lời cho
trí khôn của những người đang nghe ngài. Bởi vì Thiên Chúa đã muốn
việc cứu rỗi các dân tộc phụ thuộc vào việc rao giảng của các vị
thừa sai, nên Người cũng mong muốn các ngài tỏ ra tích cực trong sứ
vụ, không được quá nhàn rỗi và lười biếng. Tuy nhiên, không phải nghệ
thuật ăn nói dạy cho vị thừa sai soạn và chuẩn bị bài giảng của
mình, chính nhờ nguyện gẫm nhiều hơn”[113].
4.1.4. Ngôn ngữ
cho mọi người: “Ngài sẽ cố gắng
trước hết nói thứ ngôn ngữ vừa tầm mọi người. Ngài sẽ bỏ đi điều
vượt quá trí khôn của những người bình thường mà kết quả duy nhất
chỉ là làm lóa mắt họ. Sau cùng, để dùng lời của thánh Công đồng
Trente “Ước gì ngài nuôi dưỡng bằng lời cứu rỗi những dân tộc được
giao phó cho ngài, bằng cách giảng dạy mọi người điều cần thiết cho
việc cứu rỗi và dạy điều ấy trong một ngôn ngữ dễ hiểu và ngắn
gọn, bằng cách thu hút sự chú ý của họ về những thói hư tật xấu
phải tránh và những nhân đức phải thi hành để khỏi sa hoả ngục và
đón nhận vinh quang thiên quốc” (Sess. 4, c.2, de Reform.)”[114].
4.2.
Nhà truyền giáo và “lập trường đức tin” (CHƯƠNG V):
4.2.1.
Làm chứng “Đạo Thật” trong môi trường ngoại giáo: “Nếu những nền móng chính yếu của Đạo, như chúng tôi sắp đưa ra, được vị thừa sai
trình bày đúng đắn và đầy đủ cho dân ngoại, thì chúng sẽ xua tan
ngay lập tức những bóng tối dày đặc của những lầm lạc này và chắc
chắn người có lương tri sẽ được thuyết phục về sự cần thiết của
Đạo thật. Bởi vì Đạo thật tự bản chất có một đức tính mà chỉ
cần trí tuệ nắm vững là đủ để hiểu những quyền chính đáng mà
Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta phải tôn kính Ngừơi và con người được
thúc đẩy cách tự nhiên để thực hiện nghĩa vụ đó, và vì mục đích
ấy, ơn Chúa không bao giờ thiếu”[115].
4.2.2. Chân lý đức tin và dung mạo Thiên
Chúa qua ngôn ngữ dễ thuyết phục: “Nhưng
phải lưu ý khi giới thiệu những điểm căn bản trên, ít dùng những lý
chứng tế nhị, mà nên dùng những lý luận được rút ra từ ý thức chung của con người và được hỗ
trợ bằng những ví dụ thông thường. Đương sự phải được thuyết phục
rằng ở trường học đạo, chính Thiên Chúa, nguồn ánh sáng bên trong,
mới làm cho trí khôn hiểu và nắm bắt được chân lý. (…) Cho nên trong
những nhắn nhủ của ngài, điều chính mà ngài sẽ luôn luôn nhấn mạnh,
liên quan đến sự quan phòng phụ tử của Thiên Chúa, sự khôn ngoan của
Người, quyền năng, sự thánh thiện, tính trung thực, lòng nhân từ, sự
công chính và lòng thương xót của Người. Tóm lại là tất cả mọi
thuộc tính của Thiên Chúa có khả năng sản sinh trong họ đức tin, niềm
hy vọng, sự kính sợ, lòng tôn kính và đức bác ái. Chính đó cũng
là bấy nhiêu tình cảm tốt, là cội nguồn, là lương thực nuôi dưỡng
để Đạo tồn tại”[116].
4.2.3. Tất cả là “vì và cho con người”: “Để tưởng thưởng đức tin chúng ta bằng
sự hưởng kiến vĩnh phúc. Tại sao phải trông cậy, nếu không phải là
để lấp đầy những nguyện ước của những người mà niềm hy vọng thúc
đẩy cầu nguyện ? Tại sao là đức ái, nếu không phải để đổ đầy bằng
tình yêu những người đang yêu và để hiến thân cho họ, mong cho họ
hưởng được niềm hạnh phúc vĩnh cửu ?”[117].
4.2.4. Không chỉ “tín lý” mà còn “luật đạo”
và “giới răn”: “Biết sự cần thiết
phải thờ phượng Thiên Chúa thì chưa đủ; còn cần phải có ý niệm rõ
ràng về bản chất của việc thờ phượng, của những luật lệ và giới
răn của đạo; việc hiểu biết này là cần thiết đối với mọi người,
nhưng đặc biệt hơn đối với các thừa sai và các thầy giảng. Bởi vì
làm thế nào đem dân chúng ra khỏi những tuân giữ vô ích và mê tín
của họ để hứơng về đạo thật, nếu chính các ngài không hiểu biết ?”[118].
4.2.5. Thái độ đối với việc “thờ ngẫu tượng”:
Sau khi hướng dẫn các thừa sai phân tích việc thờ ngẫu tượng (mê tín dị
đoan) qua 4 nguyên nhân: (1) “sự yếu
đuối của đầu óc con người sống trong sự thiếu hiểu biết về Thiên
Chúa”; (2) “tham vọng của vua chúa”; (3) “tình yêu quá mức, hoặc thuộc
về người cha hoặc thuộc người con, được đẩy lên đến mức mù quáng”;
(4) “thói ranh mãnh của ma quỉ”[119], Monita đề nghị hướng
giải quyết:
- Hoặc bằng sự dứt khoát của
Thánh Phaolô: “Cho nên phải bắt chước
gương thánh Phaolô ở Athènes, ngài càng đề cao Thiên Chúa lên cao trong
những bài diễn văn của mình, thì ngài càng hăng say tấn công ngẫu
tượng. Cũng vậy, vị thừa sai sẽ không đề cập vấn đề cách qua loa và
cho xong chuyện, nhưng hết sức lưu ý và cố gắng trừ tận gốc khỏi tâm
hồn những người chưa tin sự quyến luyến thờ cúng ngẫu tượng đáng chê
trách này”[120].
- Hoặc bằng lời cầu nguyện: “Những kẻ, do chưa hoàn toàn bị thuyết
phục, tỏ ra do dự, ngài sẽ mạnh mẽ cổ vũ họ khẩn thiết nài xin sự
trợ giúp của Thiên Chúa sẽ dẫn dắt họ tìm kiếm đức tin thật và
giúp đỡ họ có được đức tin ấy. Thiên Chúa luôn trung thành, kẻ mà
Người kêu gọi và lôi kéo, Người sẽ không để kẻ ấy lạc đường nếu
thấy kẻ ấy biết vâng lời, nhưng Người sẽ chỉ con đường phải theo và
sẽ giúp đương sự bằng những thần cảm để đi theo con đường ấy mà
không bị giao động”[121].
4.2.6. Thận trọng “tiếp cận” những người
ngoại giáo: Sau khi “phân loại các đối tượng” cần tiếp cận: (1) những người ngoan cố; (2) những người
nhiệt tình; (3) những người vô cảm; (4) những người do dự[122], và đề nghị những
thái độ tiếp cận tương ứng, chúng ta có thể nhận ra hai “lựa chọn” hay “thái độ”
cần thiết được Monita đề nghị như sau đây:
- “Phải đối xử khoan hồng với những người ấy, tránh thúc đẩy
họ đến tận cùng, nên gắn bó với họ bằng sự giúp đỡ, bằng lòng yêu
mến và khoan dung, trao phó họ cho Chúa trong kinh nguyện, hơn là dồn
họ bằng lập luận và tư tưởng. Chính lời cầu nguyện của thánh
Têphanô đã sản sinh ra thánh Phaolô cho Giáo hội, và nước mắt của
thánh Monica đã cho thánh Augustin”[123].
- Tinh thần “hội nhập văn hoá”: “Về vấn đề này, ngài sẽ dành một
phần quan tâm để tìm hỏi tập quán của dân địa phương, để phân biệt
rõ ràng tính chất ngại ngùng của chúng: dân sự, chính trị hay mê
tín ? Ngài sẽ cố gắng lo báo cho Tòa Thánh biết mọi sự, ngài sẽ
xin Tòa Thánh cho mình biết những tập quán nào sẽ phải lên án, đồng
ý hay chiếu cố và nhất là cho ngài biết những phương cách phải dùng
để tranh thủ các tâm hồn. Như thế, bằng cách làm mọi việc cho mọi người,
ngài sẽ chinh phục mọi người đến với Chúa Giêsu Kitô”[124].
4.3. Nhà truyền giáo và “mục vụ Dự tòng và Tân tòng” (CHƯƠNG VI, VII,
VIII):
Với “3 Chương” và “14 Tiết”, quả
thật Monita đã dành một “ưu tiên đặc biệt” cho chương trình “mục vụ Dự Tòng và Tân Tòng”. Mà cũng phải
thôi; bởi vì đây chính là “đối tượng chính yếu” của Truyền Giáo, của công cuộc
“chài lưới người” mà các thừa sai đang đảm trách. Dĩ nhiên, cách đây gần bốn thế
kỷ, kinh nghiệm “mục vụ Dự tòng và Tân tòng” của Hội Thánh chắc chắn không được
phong phú, đa dạng, sâu sắc và hoàn chỉnh như hôm nay; nhất là sau những “canh
tân vĩ đại” của Công Đồng Vaticanô II cùng những “định hướng Huấn Quyền” luôn cập
nhật và tương thích với các trào lưu và tiến bộ ngoài xã hội cũng như trong
Giáo Hội. Tuy nhiên, từ thế kỷ 17 mà đã có được một “định hướng rõ ràng và chắc
chắn” như “phương án mục vụ Dự Tòng và
Tân Tòng” của Monita, quả thật là một “viên ngọc hiếm quý” !
4.3.1. Lưu ý đầu tiên về “mục vụ Dự tòng”:
- Tạ ơn và cầu nguyện: “Sau khi đã nhận ra ý ngay lành của
dự tòng, vị thừa sai cùng với họ cảm tạ Thiên Chúa Cứu Độ, xin
Người hướng dẫn và ban xuống ơn soi sáng nội tâm nhằm thấu đạt các
kỳ công và sự xét xử công minh của Người. Vị đó nài van Thiên Chúa
can thiệp sao cho dự tòng biết hãi sợ sự bất chính, gian tà và khi
đã bước vào đường lối sự thật, người dự tòng xứng đáng hưởng ơn
Phép rửa tái sinh, trở nên nghĩa tử của Chúa và tên tuổi được ghi
vào sổ sách hằng sống”[125].
- Đón tiếp với thái độ nhân bản: “Vị thừa sai cũng phải biết ứng xử
dịu dàng với dự tòng, tránh nói nặng và đừng tỏ dấu quá nghiêm
khắc”[126].
- Một chương trình Huấn giáo
thích hợp: “Ngài cũng không dạy bảo
họ như cách huấn luyện dành cho những ai đã hiểu biết đức tin và đã
xác tín. Thánh Tông đồ có nói: “Tôi đã không nói với anh em như với
những người thuộc giới thần thiêng, nhưng mà với người phàm xác
thịt” (1 Cr 3,1). Cũng trong ý nghĩa đó mà Đức Giêsu đã đưa ra nhận
định: “Không ai vá vải mới vào áo cũ; vì miếng vải sẽ ra tồi tệ
hơn …” (Mt 9,16). Do vậy, việc dạy giáo lý cần được tiến hành theo
từng bước, đầu tiên phải kiên trì chịu đựng vài điểm bất toàn khi
họ chưa tiến triển bao nhiêu trong lòng sùng đạo. Đức Giêsu từng làm
gương nhịn nhục như thế khi Người đã sống rất nhẫn nại với các Tông
đồ. Cũng điểm này cần theo gương Thánh Tông đồ vốn “trở nên yếu hèn
với người hèn yếu hầu có thể thu phục mọi người” (1 Cr 9, 22-23)[127].
- Trong khung cảnh Phụng vụ và
tương tác với Cộng đoàn: “Trong các tông
thư, các Đức Giáo Hoàng Lêô và Syrilô nhắc dạy ta là để xóa tan các
cơn cám dỗ đang vây bủa dự tòng, ta nên thường xuyên cậy dựa vào các
nghi thức trừ tà và việc đặt tay
do các linh mục thực hiện. Cũng cần để ý thúc nhắc bổn đạo cầu
nguyện thường xuyên cho họ, cũng như thúc nhắc cho chính dự tòng luôn
biết hướng về Chúa và cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin để
bù đắp sự yếu kém lòng tin nơi con”. (Mc 9,23), sao cho họ liên lỷ cầu
xin Người khấng ban cho họ một đức tin mạnh mẽ, kiên vững”[128].
4.3.2. Về “Huấn giáo Dự tòng”:
- Trật tự ưu tiên của tín điều:
Sau khi phân tích “3 loại tín điều”: Loại
vừa tầm với lý trí (Có một Đấng Toàn năng, con người khát vọng vô biên…); loại
cần có sự trợ giúp của mạc khải (Sáng tạo, sa ngã, tội tông truyền…); loại vượt
quá trí hiểu (Ba Ngôi, Nhập Thể…)[129], Monita đề nghị
khai triển chương trình Giáo lý Dự tòng theo một tiến trình tiệm tiến và tương
tác giữa các tín điều: “Mọi tín điều
trên kết nối theo nhau : loại đầu dọn đường cho loại sau, và các tín
điều sau chuẩn bị các tín điều cao cả hơn nữa. Thứ tự này gần như
bó buộc phải trình bày như thế cho dự tòng. Chính Đấng đáng kính
Bède đưa ra ý kiến: “Các bước khởi sự không nhằm mưu tìm sự toàn
thiện, nhưng là những phương tiện dẫn đưa đến đó”. (x. Cv 17)[130].
- Không nên chậm trễ dạy cho Dự
tòng cách sống hoàn thiện (Luân lý): “Đằng
khác, không có gì đưa lương dân nhanh chóng đến đạo Chúa cho bằng một
đời sống thánh thiện thiết yếu cho phần rỗi và đạt đến sự sống
đời đời. Do vậy vị thừa sai không được chậm trễ dạy cho dự tòng tuân
giữ các bổn phận mà ngay lý trí cho là đúng đắn mà không cần bất
cứ sự soi sáng nào khác. Hệ quả là vị thừa sai cùng với thánh Tông
đồ cần khuyến dụ dự tòng phải “từ bỏ lối sống vô luân và những đam
mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian
này” (Tt 2,12)[131].
- Nhấn mạnh việc từ bỏ “dị đoan”
và luân lý tính dục sai trái: “Vị thừa
sai phải quyết liệt tấn công các dị đoan của dân ngoại cùng những
mối liên hệ xấu xa của họ với ma quỷ. Ngài cần mời gọi dự tòng là
muốn theo đạo thì phải sớm từ bỏ những hành vi này… Vị thừa sai
phải vạch ra tính xấu xa của sự dâm ô vốn hoàn toàn không hợp với
lý trí lành mạnh, nó làm cho con người khốn đốn, lầm lạc khi đã bị
chi phối sâu xa…”[132].
- Dạy Dự tòng cầu nguyện: “Nếu mọi điều trên họ thấy khó quá
trong việc chế ngự các nỗi đam mê, thì vị thừa sai cần liệu sao cho
họ đừng ngã lòng mà hãy dựa cậy vào sự cầu nguyện …; ngài khuyến
dụ họ sẽ chắc chắn lãnh nhận ơn Chúa trợ giúp nếu họ cầu nguyện
cho nên. Ngài dạy họ cầu nguyện theo cách thức Đức Giêsu đã dạy các
môn đồ; ngài cần bảo họ học thuộc lòng bản kinh ngày Chúa nhật,
trong đó có nêu 10 giới răn, gắng nhớ và suy niệm thường xuyên nội dung
và quyết tâm trung thành tuân giữ huấn lệnh của Chúa và hằng ngày
dâng lên Thiên Chúa ba việc hi sinh: dè chừng tình cảm, lời nói và
hành vi của mình”[133].
- Tiến trình Giáo lý cần dựa trên
“tiến trình Lịch Sử Cứu Độ”: “Việc hiểu
biết Đức Kitô cũng như hiểu biết Thiên Chúa là hai vòng tròn quy tâm
mà đạo giáo xoay quanh: sau khi rao giảng Thiên Chúa, phải thiết yếu
rao giảng ngay Đức Kitô. Tuy nhiên y như việc dạy một khoa học nào đó
cần có phương pháp, nghĩa là trình bày điều gì đó cho đúng thời
điểm và đúng chỗ của nó, thật không hợp lý tí nào nếu rao giảng
Đức Kitô và các mầu nhiệm liên quan đến Người, trước khi đã trình
bày đầy đủ cặn kẽ việc loài người sa ngã, vì như Thánh Phaolô tuyên
bố: “Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian để cứu chuộc tội nhân” (1 Tm 1,15)[134].
- Sẵn sàng giải thích các vấn nạn:
Monita đưa ra 4 vấn nạn tiêu biểu cùng với 4 cách giải thích: Tại sao lại cho phép xảy ra tội lỗi; lý do dựng
nên thiên sứ và loài người; tại sao có hình phạt đời đời; tại sao Tội Nguyên Tổ
lại lưu truyền cho con cháu. Riêng phần “giải thích” hay “phản biện”,
Monita trưng dẫn các lý chứng của Lời Chúa, Thánh Phaolô, các thánh Giáo phụ và
Tiến sĩ thời danh như Thánh Augustinô, Tôma, Alselmô, cùng với những lưu ý: “Vị thừa sai chớ dại mà “đầu độc” tâm
trí dự tòng bằng những câu hỏi cắc cớ như trên để hòng tìm giải
đáp cho họ. Ngược lại, nếu dự tòng tự nêu các thắc mắc trên, ngài
sẽ gắng tìm cách kìm hãm sự tọc mạch quá đáng của họ, làm sao cho
họ tin nhận là trong mọi sự xảy ra thì ý định của Thiên Chúa vừa
chính đáng vừa khôn lường. Tốt hơn có lẽ cùng nêu lên với vị Tông đồ
dân ngoại: “Ôi ! Những phán quyết của Người thật khó hiểu biết bao,
bởi nào ai dám đi dò các ý định của Thiên Chúa?” (Rm 11,33-34). Dầu
vậy, sợ anh chị em dự tòng không vui khi không được giải đáp thỏa
đáng thì chúng tôi cố gắng cung cấp ở đây một vài đáp án”[135].
4.3.3. Cẩn trọng khi dạy hai mầu nhiệm cao
trọng nhất: “Thiên Chúa Ba Ngôi và Nhập
Thể: Sự hiểu biết lẫn cách trình bày liên quan đến mầu nhiệm cực
trọng này phải chạm đến những chiều sâu khôn dò: ta thiếu lời lẽ để
giải thích, trí hiểu ta dường như đụng phải bức tường, do vậy phải
cẩn trọng, đừng quá mạo hiểm với những gì quá mới lạ, mà chỉ nên
trình bày niềm tin của ta cách chắc chắn vững chãi. Ngoài ra, vì
những so sánh với đời thường đều có hiệu quả tốt, nhất là với
những tâm trí đang còn đơn sơ. Ví dụ sự tương tự loại suy với linh
hồn có trí khôn, với mặt trời, với nguồn nước. Những loại suy cho
dẫu bất toàn, vẫn ít ra cho phép đưa ra một ý niệm nào đó về mầu
nhiệm Ba Ngôi”[136].
4.3.4. Dạy về mầu nhiệm Chúa Kitô cần tuân
thủ một “quy luật”: hướng tới mục tiêu: “Khi
nói về Chúa Kitô, mục tiêu vị thừa sai phải nhắm là giúp cho dự
tòng thán phục và yêu mến Người hơn nữa”[137]; và để đạt “mục
tiêu đó”, các thừa sai phải trình bày toàn vẹn cuộc đời của Chúa, nhất là “cuộc
đời công khai”, cuộc khổ nạn và sự phục sinh. Cho dù Monita không xác nhận rõ,
nhưng chúng ta hiểu đây chính là “Kerygma”, phần giáo lý nền tảng dành cho các
Dự tòng[138].
4.3.5. Tổng hợp “đạo lý Tin Mừng” trong năm
chủ điểm: “giáo lý về lề luật
Tin mừng có thể qui về năm điểm chính. Trước hết về đức tin, những
chân lý phải tin được hàm chứa trong Bản Biểu Tín của các thánh Tông
đồ, còn các điều khác do truyền thống truyền lại. Điểm thứ hai, đức
cậy có đối tượng được diễn đạt trong cầu nguyện suy gẫm ngày Chúa
Nhật. Điểm thứ ba, các chỉ thị luân lý mà nguồn gốc chính là từ
Bản Mười Điều Răn, ngoài ra ta có thể thêm các lời khuyên Phúc Âm.
Điểm thứ tư, hiến tế không đổ máu của Mình và Máu của Đức Giêsu
Kitô. Và sau cùng điểm thứ năm, các Bí tích”[139].
4.3.6. Lập trường đối với những người “ở
ngoài Hội Thánh”: Mặc dù xuất hiện trước Công Đồng Vaticanô II 300 năm
(1664 – 1965), nhưng Monita đã cho thấy một “cái nhìn thông thoáng” của Hiến chế
Lumen Gentium về “những ai chưa lãnh nhận
Tin Mừng cũng quy hướng về Dân Thiên Chúa bằng nhiều cách” (LG 16): “Bất cứ người bán khai nào, cho dẫu
đang sinh sống nơi núi xa rừng thẳm, vẫn đều hiểu phải thờ phượng và
phục vụ Thiên Chúa duy nhất, Đấng tạo dựng mình, bởi là việc chính
đáng và phải lẽ: không được phép nói dối, thề vặt, không được trộm
cắp, giết người, không được làm hại người khác, không được vi phạm
luật khiết tịnh và các khoản luật khác tương tự vốn tất cả đều
được hàm chứa trong lề luật tự nhiên của Thiên Chúa. Kỳ diệu thay
việc mọi kẻ sống trên dương thế này, cho dẫu phong tục tập quán có
khác biệt nhau, nhưng đều đồng thuận từng chi tiết về các nguyên tắc
và chỉ thị nói trên. Chính Thiên Chúa đấng tạo dựng muôn loài đã
đặt sự thông hiểu này vào trong nội tâm thẳm sâu của từng người, và
để ghi nhận ân huệ nơi lòng trí của họ, dường như thể Thiên Chúa đã
ghi khắc đậm những lề luật này nơi trái tim họ, nơi có những bản
luật thật sự sống động…”[140].
4.3.7. Trình bày giáo lý căn bản về “mầu
nhiệm Hội Thánh”: “Các ngài cũng
phải có mối quan tâm mục vụ để giảng giải về nguồn gốc của Hội
thánh, quyền uy Giáo hội từ đâu mà có, các tính chất và sắc thái
mà qua đó người ta nhận ra Hội thánh chân thật. Phải xác tín là,
giữa những người đã vào đạo, thì phải có sự nối kết họ lại với
nhau, chặt chẽ nơi một thân mình duy nhất dưới hình thức một xã hội
hữu hình trong đó có người chỉ huy và có người vâng phục.(…). Trên
thực tế ta có thể nêu ra các dấu hiệu đặc trưng của Hội thánh Đức
Giêsu Kitô từ chính yếu tính của đạo: tính duy nhất, tính thánh
thiện, tính phổ quát và tính tông truyền. Những dấu chứng rõ rệt
cho thấy Giáo hội được Thiên Chúa thiết lập, mọi người nghe lời và
tuân giữ các luật lệ, quy định của Hội thánh”[141].
4.3.8. Chuẩn bị thật nghiêm túc để “Dự tòng
nhập đạo”:
- Tránh việc chuẩn bị vội vàng, cẩu
thả: “Việc vội vàng để có được số
đông người rửa tội, không chuyên tâm để dạy dỗ, coi sóc cẩu thả, tính
cả tin thái quá khi chọn lựa giữa họ, hối hả ban Bí tích Thanh tẩy
cho họ. Đây đúng là khó khăn đặt ra cho họ. (…). Kinh nghiệm cho thấy
không có Kitô hữu nào xấu hơn những người lãnh nhận Bí tích Thanh
tẩy mà không trang bị đủ: sự vội vàng ghi danh tên vào danh sách của
những người Kitô giáo. Nhưng cứ sự thường thì để có được tự do hợp
pháp đào tẩu. Người ta cũng thấy họ có thói quen vừa đi nhà thờ
vừa đi đến các đền thần, và điều đáng buồn hơn nữa đó là họ còn
tệ hơn những người lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy trước họ, và họ
không chịu đựng nổi ngay cả một chút hối cải”[142].
- Thừa sai đích thân lo huấn giáo
Dự tòng: “Bao nhiêu có thể các nhà
thừa sai phải tự trau dồi giáo lý và bổn phận này không được thoái
thác cho những người khác, như là điều đó không xứng đáng với họ”[143].
- Chú trọng “chất lượng” và tính
“thống nhất”: “Nguy hiểm trước hết
phải chú ý đó là chạy theo số lượng người hơn là chất lượng đào
tạo và tính thống nhất của việc giáo dục tân tòng”[144].
- Chỉ cử hành phép Rửa khi đã chuẩn
bị đầy đủ: “… Trước hết, Giáo hội
phải đề phòng một cách nghiêm túc để chặn đứng tất cả sự giả dối,
thiếu xác tín khi lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy và Giáo hội có thể
bằng việc tra khảo kỹ càng của mình biết rõ ý định của người muốn
lãnh nhận Bí tích. Và như thế họ mới thấu đáo được những bài học
về giáo lý đức tin mà chính họ phải loan truyền và sống nhân chứng.
Ngoài ra, người ta kính trọng thể Bí tích này chỉ trong những ngày
đã ấn định như ngày lễ Phục Sinh và ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện
Xuống thật lộng lẫy và trang trọng”. S. Tôma (trong “Somme” của ngài)
giữ một ngôn ngữ đồng nhất (P.III, q.68 a.3)[145]… “Lại nữa: cho dù ước muốn lãnh nhận
Bí tích Thanh tẩy của dự tòng mãnh liệt đến đến đâu chăng nữa hay
sau khi họ đáp ứng tất cả những điều kiện cần thiết về học hỏi
thì các nhà thừa sai cũng không nên vội vàng ban Bí tích Thanh tẩy
cho họ”[146]…
“Vì thế, thời gian quan trọng để cho nhà thừa sai dạy dỗ họ là trả
lời những câu hỏi đặt ra cho họ khi mới bắt đầu; để biết điều gì
nên từ bỏ, điều gì nên giữ lại. Thực vậy, họ phải từ bỏ ma quỷ,
ước muốn danh vọng và lối sống xa hoa của mình để tháp nhập vào
Đức Giêsu Kitô”[147]….
“Ngược lại, nếu ta làm phép rửa cho
họ sớm thì sự thành tâm nơi họ giảm sút, trở nên người lười biếng
và bê tha trong đời sống tinh thần. Họ yếu đuối và vô tình sa lầy
vũng tội ngày xưa, họ coi thường dược sủng, chai cứng và trở nên bê
bối và làm ô danh chính Giáo hội”[148] .
4.3.9. Sự cần thiết của “giai đoạn Nhiệm Huấn”:
“Chăm
sóc các Tân tòng: Phải khắc sâu
những lời giáo dục đức tin cho những người trưởng thành không những
trước mà cả sau khi họ lãnh nhận Bí tích Thanh tẩy. Như Chúa nói:
“vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa
cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Nhưng Người
lập tức nói thêm: “dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho
anh em” (Mt 28,19-20). Vậy phải dạy cho những anh em tân tòng thực hành
mọi việc tốt và chăm chút cho họ sự hiểu biết đúng đắn về tất cả
các bổn phận mà họ sẽ phải trung thành sau khi chịu phép rửa, và
về tất cả những gì cần thiết để sống một cuộc sống hiếu thảo,
đức độ và trinh trắng. Đối với họ, cần phải kín múc nguồn sống và
sự vững vàng trong Lời Chúa, để họ được ở trong sự che chở của
Giáo hội như những cây mới trồng đang lớn và để nền tảng đức tin họ
đã chọn lựa được ngày càng bền chặt”[149].
4.3.10. Giáo lý Tân tòng (thời Nhiệm huấn):
- Các chủ đề giáo lý chính: Bí tích Giải tội, các điều răn Hội Thánh, bổn
phận riêng của mỗi thành phần, các bí tích thường lãnh nhận, Tám mối phúc thật,
những lời khuyên Tin Mừng, cầu nguyện, sám hối, rước lễ và tham dự thánh lễ,
sùng kính Đức Maria, Thiên Thần Bản Mệnh, Thánh Bổn mạng, thực hành suy gẫm[150]…
- Chương trình “mục vụ Tân tòng: “Sau đó thật hữu dụng khi để những
người dự tòng tự họ hành động ngay khi họ được đào tạo đủ và chấp
nhận họ mà không phân biệt trong việc giáo dục chung của cộng đồng
tín hữu. Các vị thừa sai không được giảm thiểu sự chăm sóc riêng cho
họ. Những cây non này cần được tưới đều đặn, và những cơn lốc cám
dỗ có thể dễ dàng lung lay và làm bật rễ chúng”[151].
- Mục vụ Tân tòng có thể bao gồm
các điều sau: Sự hỗ trợ của các Kitô hữu
cao niên phẩm hạnh; không ngừng động viên, tận dụng mọi cơ hội đưa họ đến nhà
thờ, đi hành hương; giúp tiếp cận các thông lệ, lễ nghi, thói quen của Kitô hữu;
quan tâm khuyên bảo, giúp đỡ, thăm viếng, hoà giải, giao lưu; giúp sống đạo tốt
trong gia đình, với người lân cận; kiên nhẫn và bao dung với những Tân tòng yếu
đuối[152]…
4.4. Nhà truyền giáo và việc chăm sóc mục vụ
cho đoàn chiên (CHƯƠNG IX, X)::
4.4.1. Chăm sóc mục vụ các tín hữu lâu năm:
“Các vị Đại diện Tông toà phải có
trách nhiệm không những với người dự tòng và tân tòng mà còn với
những tín hữu lâu năm, trách nhiệm của người cha đối với con cái,
của người chủ chăn với giáo dân, của người thầy với học trò; Vậy
phải yêu mến, dẫn dắt, dạy dỗ họ và phải dành sự chăm sóc hơn mức
bình thường vào việc hướng dẫn cũng như giáo dục họ”[153].
Việc chăm sóc mục vụ nầy tập vào ba điều: hướng dẫn, gìn giữ và cai quản đoàn chiên được giao cho họ chăm sóc.
- Hướng dẫn: “Vậy người mục tử - thừa sai phải chăm chú toàn tâm vào việc
cung cấp cho các tín hữu Sữa Thần Linh của giáo lý thánh, củng cố
họ bằng ơn sủng từ các Bí tích; Trong những nỗi đau khổ sâu xa, hãy
nhỏ xuống trên họ những giọt sương êm dịu của sự an ủi; Khi tàn tật,
tăng thêm cho họ sức mạnh, giúp đỡ bằng những lời khuyên khi họ đau
buồn, bằng sự bố thí khi họ thiếu thốn, nâng đỡ họ hết thảy bằng
sự hy sinh và cầu nguyện, vây bọc họ trong sự ân cần của lòng vị tha
đầy tình phụ tử”[154].
- Gìn giữ: “nhiệm vụ thứ hai của người mục tử, gồm 3 điều: xua đuổi sói
xa khỏi chuồng, dẫn về những con chiên lạc, và liều mình vì chúng”[155].
- Kế hoạch mục vụ chăm sóc các cộng
đoàn thiếu linh mục: huấn luyện nhân sự
tông đồ giáo dân để họ tự quản một số công việc như: Hướng dẫn cầu nguyện, nhất
là vào ngày Chúa Nhật, thông báo tin tức Giáo Hội, thông tin Phụng vụ, rao Hôn
Phối, việc rửa tội cho trẻ em, cho bệnh nhân nguy tử, ghi chép và giữ gìn các
loại sổ: rửa tội, thêm sức, khai tử, hôn phối, hiện tình sống đạo…; chăm sóc bệnh
nhân, trân trọng người quá cố, tổ chức lễ nghi An táng[156]…
4.4.2. Đào tạo Thầy giảng: “Việc đào tạo tốt và hoàn bị cho các
Thầy giảng không kém phần quan trọng để đạt được những thành công và
tiến bộ của các xứ truyền giáo: Ở đó lúa chín đầy đồng mà thợ
gặt lại ít, các Thầy giảng có thể giúp đỡ các thợ gặt này. Nếu
việc bách hại hoành hành và xảy đến cho các vị chủ chăn thì các
Thầy phải thay thế họ. Cuối cùng họ cũng có thể tiến đến Chức
Thánh và được đặt làm đầu các giáo xứ mới thành lập có một nhà
thờ”[157]…
4.4.3. Đào tạo ứng viên chức thánh: “Chức Thánh thì cao trọng hơn chức
Thầy giảng. Vậy các Thầy được đề nghị đón nhận Chức Thánh phải có
những phẩm hạnh cao hơn những phẩm hạnh mà chúng tôi đã nói là cần
thiết thực tế nơi các Thầy giảng. Hơn nữa, ta sẽ không giao trọng
trách quan trọng và nguy hiểm này lên vai những người tu hành bình
thường mà cho những Thầy được đề cử bởi những nhân đức thật sự
thoát tục, để các Thầy sẽ không tìm lại vinh dự này cho chính họ
mà để các Thầy được Chúa kêu gọi như Aaron”[158]…
4.5.
Kỹ năng giúp lời rao giảng có sức thuyết phục (PHỤ LỤC):
Trong phần Phụ Lục, Monita bổ
sung thêm một số ý kiến của các chủ chăn nhằm giúp các thừa sai khai triển các
nội dung giáo lý đức tin sao cho hiệu quả và dễ thuyết phục. Có hai điểm cần
lưu ý:
4.5.1. Trình bày mầu nhiệm Chúa Kitô
(Kerygma) cách tiệm tiến khởi đi từ “chiều kích nhân loại”: Vì thấy sự ngu muội của dân chúng, họ
đã không bắt đầu rao giảng Chúa Giêsu như một Thiên Chúa. Chúng ta hãy
nghe thánh Jean Chrysostome bình luận về sách "Tông đồ Công
vụ". Ngài nói: "điều phải kính phục nhất nơi các tông đồ
là cách họ tự đặt mình vào một mức độ khiêm tốn của các tinh thần
mềm yếu và thô lỗ này; cách này được Chúa Thánh Thần gợi lên cho
họ. Chính Chúa Thánh Thần là Đấng chuẩn bị cho họ như thế để thực
hiện như Ngài đã phù hợp với thừa tác vụ Lời Chúa. Và qủa thật,
dù cho có đọc những bài diễn văn dài dòng về Chúa Giêsu, họ cũng
ít đụng đến thần tính của Ngài. Thánh Phaolô, khi nói với người dân
thành Athène, cũng lấy làm bằng lòng mang cho Đức Kitô cái tên con
người mà không có phẩm tính nào khác. Kết qủa là các Tông đồ hướng
dẫn họ từ từ và tiệm tiến; các ngài cố công trong các việc trình
bày các tín điều phải theo theo mức độ của tinh thần yếu đuối, để
nâng họ lên một mức độ cao hơn”. Vả lại một nhà truyền giáo sẽ phản
bội thừa tác vụ của mình nếu như người ấy để mình bị lèo lái bởi
sự khôn ngoan của xác thịt là thứ bịt miệng người ấy trước sự
nghèo khó của Chúa Giêsu trước những nỗi đau và thánh giá của Ngài.
Thánh Tôma nói: "niềm tin Công giáo dạy rằng, chính ơn cứu độ
bằng thánh giá của Chúa Giêsu vượt trên tất cả"[159].
4.5.2. Trình bày tính ưu việt của luật
Thánh Kinh với 4 điều kiện: “Quả
thật, lề luật hoặc giáo lý Thánh Kinh chỉ là một, được Con Một của
Thiên Chúa trao tặng và chỉ có một kết luận. Tuy nhiên, dưới bốn
diện mạo khác nhau, Thánh Kinh chỉ ra tính ưu việt của mình so với
các lề luật khác do Thiên Chúa hay con người gìn giữ. Một ghi chú sẽ
là điều hiển nhiên. Bằng lý trí, người ta nói các lề luật phải hội
đủ 4 điều kiện: (1) luật phải có chức năng nhổ tận gốc các nết
xấu, (2) vạch đường đi nước bước cho con người và cho hành động của con
người, (3) đem lại hạnh phúc và (4) giúp nhận ra chân lý một cách rõ
ràng. Trong sự ưu việt của mình, lề luật hoặc giáo lý thánh kinh
vượt trên mọi luật lệ dù thánh hay phàm”[160].
5. Những “chiều kích vượt thời gian”:
Chúng ta vừa đọc lại một số nội
dung chính yếu của sách “MONITA”. Chỉ cần đối chiếu với hai văn kiện quan trọng
về Truyền Giáo của thời đại hôm nay: AD
GENTES của Vaticanô II và REDEMPTORIS
MISSIO của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chúng ta sẽ nhận ra một số
“chiều kích vượt thời gian” của văn kiện Monita ad missionarios, một “kim chỉ
nam” cho các thừa sai cách đây gần 4 thế kỷ.
5.1.
Hai điểm nhấn của AD GENTES:
5.1.1. Chứng từ Kitô hữu: “Để có thể
làm chứng cho Chúa Kitô cách hữu hiệu, các Kitô hữu phải tìm đến mọi người
chung quanh với thái độ tôn trọng và yêu thương, phải ý thức về tư cách là
thành viên của cộng đồng đang chung sống, tham gia đời sống văn hoá, xã hội qua
những giao tiếp và hoạt động nhân văn…” (AG 11).
5.1.2. Dành ưu tiên cho việc rao giảng và
chăm sóc Dự tòng: “Đối với những người đã được Thiên Chúa ban cho niềm tin
vào Chúa Kitô qua Giáo Hội, hãy cử hành những lễ nghi phụng vụ tiếp nhận họ vào
lớp dự tòng; đây không chỉ giản đơn là một giảng khoá để trình bày về giáo thuyết
và các giới răn, nhưng là chương trình đào tạo cho toàn bộ đời sống Kitô hữu, đồng
thời cũng là thời gian tập sự cần thiết để giúp các môn sinh sống mối tương
giao với Thầy của mình là Chúa Kitô…” (AG 14).
Về “điểm nhấn thứ nhất” (Chứng từ
Kitô hữu), Monita đã dạy: “Phẩm hạnh
đời sống sẽ giúp các vị thừa sai có nhiều uy tín nơi các dân tộc
hơn là những phép lạ…. Thêm vào cuộc sống gương mẫu, phần bổ sung
thứ hai của việc rao giảng là sự tận tụy đậm đà tình phụ tử, sẽ
mở toang con đường dẫn đến việc chinh phục các tâm hồn…”[161].
Về “điểm nhấn thứ hai” (Chăm sóc
Dự tòng), Monita cũng dạy và dạy thật kỹ trong suốt 3 Chương VI, VII, VIII. Đơn
cử: “Do vậy, việc dạy giáo lý cần
được tiến hành theo từng bước, đầu tiên phải kiên trì chịu đựng vài
điểm bất toàn khi họ chưa tiến triển bao nhiêu trong lòng sùng đạo.
Đức Giêsu từng làm gương nhịn nhục như thế khi Người đã sống rất
nhẫn nại với các Tông đồ. Cũng điểm này cần theo gương Thánh Tông đồ
vốn “trở nên yếu hèn với người hèn yếu hầu có thể thu phục mọi
người” (1 Cr 9, 22-23)[162].
“Trong các tông thư, các Đức Giáo
Hoàng Lêô và Syrilô nhắc dạy ta là để xóa tan các cơn cám dỗ đang vây
bủa dự tòng, ta nên thường xuyên cậy dựa vào các nghi thức trừ tà và việc đặt tay do các linh mục
thực hiện. Cũng cần để ý thúc nhắc bổn đạo cầu nguyện thường xuyên
cho họ, cũng như thúc nhắc cho chính dự tòng luôn biết hướng về Chúa
và cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin ban thêm đức tin để bù đắp sự yếu kém
lòng tin nơi con”. (Mc 9,23), sao cho họ liên lỷ cầu xin Người khấng ban
cho họ một đức tin mạnh mẽ, kiên vững”[163].
5.2.
Hai điểm nhấn của Redemptoris Missio:
5.2.1. Sống mầu nhiệm Đức Kitô “được sai
đi”: Từ bỏ và khó nghèo: “Nhà truyền giáo cũng bị đòi hỏi “từ bỏ chính mình
và những gì mình có từ trước đến nay và trở nên mọi sự cho mọi người”, qua sự
nghèo khó, họ được tự do loan báo Tin Mừng, qua sự từ bỏ những người thân cũng
như của cải, nơi quê hương mình, họ trở nên anh em của những người mình được
sai đến và mang Đức Kitô Cứu độ đến cho họ. Đó chính là điều mà linh đạo của
nhà truyền giáo hướng tới: “với những người yếu, tôi đã nên người yếu… với mọi
người, tôi nên mọi sự, để dầu sao cũng cứu được ít người. Mọi sự tôi làm, đều
là vì Tin Mừng…” (1 Cr 9,22-23)” (RM 88).
5.2.2. Nhà truyền giáo đích thực là một vị
thánh: “Mỗi nhà truyền giáo chỉ đích thực là nhà truyền giáo khi dấn thân sống
theo con đường thánh thiện: “sự thánh thiện là nền tảng cốt thiết và là một điều
kiện tuyệt đối không thể thay thế để chu toàn sứ vụ cứu độ của Giáo Hội” (RM
90).
Về điểm thứ nhất (Mầu nhiệm Đức
Kitô “được sai đi”), Monita đã dạy: “Cho
nên vị thừa sai phải tỏ rõ giá trị, không phải bằng vẻ lộng lẫy khoa trương,
nhưng bằng việc áp dụng khiêm tốn, không phải bằng sự tìm kiếm danh vọng nhưng
bằng sự trốn chạy các phẩm tước, không phải bằng sự dồi dào của cải nhưng bằng
tình yêu sự khó nghèo. Bởi vậy, ngài sẽ không bao giờ là khách quen của chốn
cung đình…””[164].
Về điểm thứ hai (Nhà truyền giáo
là vị thánh), Monita cũng dạy như sau: “Rõ
ràng để làm rung động con tim và làm cho người ta trở lại, gương lành
cuộc sống thánh thiện có nhiều ảnh hưởng hơn là chính việc rao
giảng, bởi ta thuyết phục bằng hành động dễ dàng hơn là bằng lời
nói suông. Gương sáng làm cho con đường nhân đức trở nên dễ đi và mau
mắn; còn ngược lại thì có vẻ khó nhọc và lâu dài. Chính đó là
bằng chứng tốt nhất chứng tỏ đạo của chúng ta không đến nỗi khó
quá và gay go đến thế; từ đó nhờ sức mạnh thần thiêng, người ta dễ
thiện cảm và đến chỗ yêu mến đạo. Về phía lương dân, sức mạnh này
làm cho các vị thừa sai được kính trọng và tán dương, khiến họ
thích thú đến gặp và nghe các ngài, rồi quyến luyến ưa chuộng cộng
đoàn các ngài ở, họ sẽ quyết định nghe theo lời khuyên và ý kiến
của các ngài”[165].
Thật ra chẳng phải chỉ có bấy
nhiêu ! Nếu chăm chú đọc kỹ mọi lời giáo huấn của Monita chắc chắn chúng ta còn
khám phá được biết bao “hạt ngọc” quý giá vẫn còn “lấp lánh” và hoàn toàn thích
hợp cho công công cuộc loan báo Tin Mừng hôm nay trên quê hương đất nước chúng
ta.
KẾT: “BÌNH
MỚI VÀ RƯỢU MỚI” ĐỂ SẺ CHIA
Trong những lời kết thúc tông huấn
Giáo Hội tại Á Châu (Ecclesia in Asia), Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã
chia sẻ những tâm tình thật ưu ái dành cho châu Á: “Các dân tộc Á Châu cần đến Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người. Á
Châu đang khao khát uống nước hằng sống mà chỉ một mình Chúa Giêsu có thể ban
phát cho (x. Ga 4,10-15). Các môn đệ Chúa Kitô tại Á Châu, do đó, phải cố gắng
không hạn chế để làm tròn sứ mạng họ đã lãnh nhận do Chúa, Đấng đã hứa ở với họ
cho tới tận thế (x. Mt 28,20). Tin tưởng vào Chúa, Đấng không bỏ mặc những kẻ
Người kêu gọi, Giáo Hội tại Á Châu vui vẻ hành trình đi vào ngàn năm thứ ba. Niềm
vui duy nhất của Giáo Hội là niềm vui xuất phát từ sự chia sẻ, với đông đảo các
dân tộc Á Châu, ân huệ to lớn mà Giáo Hội đã lãnh nhận – tình yêu của Chúa
Giêsu Cứu Thế. Tham vọng duy nhất của Giáo Hội là tiếp tục sứ mạng phục vụ và
yêu thương của mình, để tất cả dân Á Châu “có sự sống và sống dồi dào” (Ga
10,10) (EA 50).
Chắc chắn đó cũng chính là tâm
tình và khát vọng của các Giám Mục Tông Toà François Pallu và Pierre Lambert de
la Motte, cùng các “thế hệ thừa sai” được sai đến vùng đất Á Châu vào thế kỷ
17, những bước chân mang “Chúa Giêsu và
Tin Mừng của Người” để chia sẻ “với
đong đảo các dân tộc Á Châu”.
Ngày hôm nay, đứng trước một “Á
Châu đang trỗi dậy” hay đang “tự khẳng định”[166]
chính mình về mọi mặt: dân số, kinh tế, văn hoá, chính trị, quân sự, tiến bộ
khoa học…, nhưng cũng là một đại lục đang chứa đựng “nhiều vấn đề đầy tang thương do đau khổ, bạo lực, kỳ thị và nghèo đói”[167],
công cuộc loan báo Tin Mừng cho vùng đất nầy chắc chắn phải đối diện với “nhiều phương diện phức tạp, vừa trong nội
dung vừa trong phương cách”[168].
Riêng đối với Giáo Hội tại Việt
Nam, nhân dịp kỷ niệm Năm Thánh 2010 (Kỷ niệm 350 thiết lập hai giáo phận Tông
Toà Đàng Trong và Đàng ngoài, 1659-2009; và 50 năm thiết lập Hàng Giáo phẩm Việt
nam, 1960-2010), “truyền giáo” là mục tiêu sau cùng được Hội Đồng Giám Mục nhắm
tới, trong “Thư Công Bố Năm Thánh”: “Cuối
cùng, Năm Thánh 2010 phải là động lực thúc đẩy chúng ta hăng say chia sẻ niềm
vui đức tin với tất cả mọi người dân Việt. Để thực hiện được điều này, cần phải
khơi dậy hồng ân đức tin đã lãnh nhận nhưng vì hoàn cảnh khách quan hoặc những
yếu tố chủ quan, hồng ân ấy có thể đã bị phai mờ, lãng quên hay mai một. Ngoài
ra, cần canh tân các phương thức truyền giáo nhắm đáp ứng những biến chuyển
nhanh chóng của thời đại; tuy nhiên nên nhớ rằng chứng tá đời sống vẫn luôn là
cách thế cụ thể và thuyết phục nhất trong việc làm chứng cho Tin Mừng và giới
thiệu Chúa cho người khác…” (Số 4).
Việc cùng nhau đọc lại văn kiện
truyền giáo của cha ông cách đây 357 năm (Monita hay Huấn thị Ajuthia 1664) nào
chẳng phải là “khơi dậy hồng ân đức tin đã lãnh nhận” ? Mà chẳng phải khơi dậy
thôi đâu, nếu biết trân trọng và thành tâm vận dụng, MONITA AD MISSIONARIOS, sẽ
là một “Kim Chỉ Nam” tuyệt hảo, một thứ “Bình
Mới” vẫn còn nguyên giá trị để chứa thứ “Rượu Mới” là Tin Mừng Cứu độ, một
thứ “Rượu ngon hảo hạng” mà bất cứ
người Kitô hữu nào đều có quyền và trách nhiệm chia sẻ cho anh chị em mình.
Xem Phần I: Bình vẫn chưa hề cũ: Mệnh lệnh và di chúc đi cùng năm tháng
[1] Y PHAN CMC; 1001 Danh Ngôn Các Thánh; nxb. Tôn giáo
2009; câu số 686, tr.148; Chân phước Têrêsa Calcutta: “Người ta đang cố gắng biến
Thiên Chúa thành món đồ cổ quý giá của quá khứ. Nhưng các bạn, bằng tình yêu của
các bạn, bằng sự thanh thiết của đời sống các bạn và bằng lòng cảm thông của
các bạn, có thể minh chứng cho thế giới biết rằng Thiên Chúa rất hợp thời”.
[2] TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ GIÁO PHẬN QUI NHƠN; Kim Chỉ
Nam Truyền Giáo thế kỷ 17; MONITA
AD MISSIONARIOS; Lời Nói đầu cho lần Tái bản sách MONITA; tr. 30.
[3] x. LM. JOS. TẠ DUY TUYỀN; bài viết Cách thức loan báo
Tin Mừng cho người Việt Nam hôm nay; website http://conggiao.info/cach-thuc-loan-bao-tin-mung-cho-nguoi-viet-nam-hom-nay-d-2347;
đăng ngày 10/3/2011: “… Thế nên, việc rao giảng Tin Mừng đã không đem lại kết
quả là bao, có khi trở thành phản chứng trong môi trường truyền giáo. Đó cũng
là bi kịch đã diễn ra tại việt nam vào thời gian đầu của việc truyền giáo.
Trong quá khứ, Giáo hội Việt Nam đã trở thành một tà đạo đối với dân tộc. “Điểm
then chốt ở đây là: Giáo Hội chưa thích nghi để hội nhập văn hoá,để diễn tả niềm
tin theo ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam…”.
[4] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM; Giáo Hội Công Giáo Việt
Nam, Niên Giám 2016; nxb. Tôn Giáo 2017; tr.176.
[7] Để có thêm thông tin về những bước đầu truyền giáo của
các thừa sai Dòng Tên cùng với công trình xây dựng và hình thành chữ Quốc ngữ,
xin đọc trong: BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ GIÁO PHẬN; Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời
gian; nxb. An Tôn & Đuốc Sáng 2017; Chương IV: Phương châm và Phương pháp
hoạt động truyền giáo; tr. 85-105.
[8] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM; Giáo Hội Công Giáo Việt
Nam, Niên Giám 2016; nxb. Tôn Giáo 2017; tr.175
[11] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM; Giáo Hội Công Giáo Việt
Nam, Niên Giám 2016; nxb. Tôn Giáo 2017; tr.174-194. (x. LM. ANTÔN NGUYỄN MẠNH
ĐỒNG; bài viết Từ Loan báo Phúc Âm đến Truyền giáo và Tân Phúc Âm hoá; website https://www.hdgmvietnam.com/chi-tiet/tu-loan-bao-phuc-am-den-truyen-giao-va-tan-phuc-am-hoa-41941;
đăng ngày 22.5.2021)
[13] HỘI DÒNG MẾN THÁNH GIÁ QUI NHƠN; 350 năm Dòng Mến
Thánh Giá từ An Chỉ đến Qui Nhơn; nxb. An Tôn & Đuốc sáng 2021; Cuộc tử đạo
của nữ tu Anê Soạn và Anna Trị; tr. 123-125.
[14] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM; Giáo Hội Công Giáo Việt
Nam, Niên Giám 2016; nxb. Tôn Giáo 2017; tr.188.
[16] x. STEPHENS B. BEVANS – ROGER P. SCHROEDER; Trung
Thành và thích nghi (Constants in Context) – Thần học Truyền giáo cho hôm nay;
bản dịch Việt Ngữ: Lm. Đaminh Ngô Quang Tuyên; nxb. Tôn Giáo 2020; Chương 6:
Truyền giáo trong thời đại khám phá (1492-1773); tr. 283-284.
[17] GHI CHÚ RIÊNG: Công đồng Trentô (hay còn được gọi là
Tridentino) là Công đồng chung thứ XIX của Giáo Hội Công Giáo được khai mạc
ngày 13.12.1545 tại Trentô, miền bắc nước Ý, gần các quốc gia germaniques là
nơi đã lan tràn giáo phái Tin lành. Công đồng Trentô diễn ra từ năm 1545 -1563
do Giáo hoàng Phaolô III triệu tập. Lúc khai mạc có 70 Giám mục, lúc kết thúc
có 252 Giám mục và nhiều giáo sĩ tham dự trong 25 khoá họp từ ngày 13 tháng 12
năm 1545 đến ngày 4 tháng 12 năm 1563 và trải qua 3 thời kỳ Giáo Hoàng: Đức
Phaolô III (1545-1547); Đức Giuliô III (1551-1552); Đức Piô IV (1562-1563).
Công đồng xác định một số tín điều và giáo lý liên quan đến Phong trào Cải
Cách, canh tân Giáo hội về nhiều điểm thực tế. Nội dung của công đồng có thể được
tóm tắt như sau:
- Thúc đẩy sự canh tân trong
Giáo hội Công giáo, phản đối phong trào cách mạng của nhóm Thệ Phản (Tin Lành)
liên quan đến vấn đề Mặc Khải và Đức Tin (Lý trí và sự Tiếp thụ) như Thánh
Kinh, Thánh Truyền, Huấn quyền của Giáo hội, Tội Nguyên Tổ, ơn Công Chính hoá,
Đặc Sủng, Bảy Phép Bí tích (Thánh Lễ), Thánh nhân, Thánh cốt, Thánh tượng.
- Quy định quyền lợi và trách
nhiệm của Giám mục.
- Quy định đời sống của Giáo
sĩ và Tu sĩ.
- Quy chế việc thành lập Dòng
tu.
Công đồng Trentô đã có một ảnh hưởng quyết định trên đời
sống và bộ mặt của Giáo hội Tây phương vào thế kỷ 16 và tiếp sau đó. (Nguồn tổng
hợp).
[19] x. STEPHENS B. BEVANS – ROGER P. SCHROEDER; Trung
Thành và thích nghi (Constants in Context) – Thần học Truyền giáo cho hôm nay;
bản dịch Việt Ngữ: Lm. Đaminh Ngô Quang Tuyên; nxb. Tôn Giáo 2020; Chương 6:
Truyền giáo trong thời đại khám phá (1492-1773); tr. 285-286.
[22] GHI CHÚ RIÊNG: Chế độ “Bảo trợ Truyền giáo” thường được
gọi chung bằng tiếng La tinh là Patronatus hình thành từ sắc chỉ “Inter Caetera”
của Đức Giáo Hoàng Alexandro VI ký ngày 04.5.1493, “phân chia quyền bảo trợ
truyền giáo cho hai nước Tây ban Nha và Bồ Đào Nha. Sau đó hai nước ký hiệp ước
tại Tordesillas (Tây Ban Nha) vào ngày 07.06.1494, thỏa thuận đường ranh giới
là kinh tuyến 30 từ Bắc cực xuống Nam cực. Tây kinh tuyến thuộc Tây Ban Nha;
Đông kinh tuyến thuộc Bồ Đào Nha, gồm Phi châu và Á châu…” (Giáo phận Qui Nhơn
qua dòng thời gian; tr. 44; xem thêm: STEPHENS B. BEVANS – ROGER P. SCHROEDER; Trung
Thành và thích nghi (Constants in Context) – Thần học Truyền giáo cho hôm nay;
bản dịch Việt Ngữ: Lm. Đaminh Ngô Quang Tuyên; nxb. Tôn Giáo 2020; Chương 6:
Truyền giáo trong thời đại khám phá (1492-1773); tr. 286-287.).
[23] x. BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ; Giáo phận Qui Nhơn qua dòng
thời gian; nxb. An Tôn & Đuốc Sáng 2017; đăng ký bản quyền tại Hoa Kỳ tháng
6/2017; tr. 44.
[24] GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN; Mẹ tôi là thế đấy – Suy tư,
bình luận, nghiên cứu về Mẹ Giáo Hội; nxb. An Tôn & Đuốc Sáng 2019; Bài 17:
Tìm lại kho tàng bị lãng quên; tr. 275: Và đây là nhận xét của Josef Holzer, một
tác giả rất uy tín viết về lịch sử Giáo Hội, trong tác phẩm “LỊCH SỬ GIÁO HỘI
QUA 100 TRÌNH THUẬT”: “Thực-dân Bồ và Tây-Ban-Nha đi tới đâu, các nhà truyền
giáo theo tới đó. Những khám-phá và xâm chiếm đất-đai không chỉ vì quyền-lợi
chính-trị, quân-sự và kinh-tế, mà còn cả tôn-giáo. Nhưng tiếc thay, công cuộc
truyền giáo dưới cây dù thực-dân thường với những phương-cách tàn-bạo và
nhơ-nhuốc đó đã tạo cho người ta cảm-tưởng rằng Giáo-hội đã cùng một bè một
cánh với thực-dân cướp-bóc. Cảm-tưởng này cho đến ngày nay vẫn còn hằn sâu
trong tâm-trí của một số dân-tộc.”
[25] ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ; Hai Giám Mục đầu tiên tại Việt
Nam; nxb An Tôn & Đuốc Sáng 2005; tr. 24. (x. tr. 20-21: Bắt đầu thành lập
năm 1622, cơ quan này mang tên La tinh Sacra
Congregatio de Propaganda Fide (trong tiếng Việt ngày nay quen dịch là Thánh Bộ Truyền giáo nhiều hơn là Thánh Bộ Truyền bá đức Tin, từ năm 1946
trở về trước cũng còn gọi là Toà Áp giải
việc truyền giáo); ngày 15-8-1967, Đức Giáo hoàng Phaolô VI bằng Hiến chế Regimini Ecclesiae đổi tên Bộ này là Sacra Congregatio pro Gentium
Evangelizatione seu de Propaganda
Fide (Thánh Bộ Phúc âm hoá các Dân tộc hoặc Truyền bá đức Tin); ngày
28-6-1988, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II bằng Hiến chế Pastor bonus lại rút gọn tên Bộ này là Congregatio pro Gentium Evangelizatione
(Bộ Phúc âm hoá các Dân tộc). Với Hiến chế Pastor bonus cải tổ giáo triều Roma, Toà thánh đã dám có một thay đổi
lớn, dù chỉ là một tính từ, là bỏ hết
từ Sacra (Thánh) đứng trước tên các
Bộ và các cơ quan đầu não của giáo triều, vì vậy từ 1988 trở đi chỉ còn gọi là Bộ Phúc âm hoá các Dân tộc, Bộ Giám mục, Bộ
Giáo sĩ , V.V
[27] ĐGH GIOAN PHAOLÔ II; Tông huấn “Giáo Hội tại Á Châu”
(Ecclesia in Asia - EA); lm. Phêrô Nguyễn Quang Sách chuyển ngữ; phần DẪN NHẬP;
số 1.
[28] PETER FRANKOPAN; Những Con đường Tơ lụa – Một lịch sử
mới về thế giới (Tựa gốc: The Silk Roads: A New History of The World); Trần Trọng
Hải Minh dịch, Huỳnh Hoa hiệu đính; nxb. Đà Nẵng 2019; Phần 1: SỰ RA ĐỜI CỦA
CON ĐƯỜNG TƠ LỤA; tr. 25-68: “Phương Tây đã bắt đầu nhìn về phương Đông, và
phương Đông đã bắt đầu nhìn về phương Tây. Cùng với giao thông ngày càng kết nối
chặt chẽ Ấn Độ với vịnh Ba Tư và Hồng Hải, Những Con đường Tơ lụa của thời cổ đại
tràn ngập sức sống”;
[29] SĐD (PETER FRANKOPAN … ); Phần 2: CON ĐƯỜNG CỦA NHỮNG
ĐỨC TIN; tr. 69: “Không chỉ hàng hoá chảy dọc theo những tuyến đường huyết mạch
nối Thái Bình Dương, Trung Á, Ấn Độ, vịnh Ba Tư và Địa Trung Hải thời cổ đại;
còn có cả các tư tưởng nữa. Và trong những tư tưởng mạnh mẽ nhất có tư tưởng về
thần thánh. Sự trao đổi trí thức và tôn giáo đã luôn diễn ra sôi động khắp vùng
này; giờ càng trở nên phức tạp và cạnh tranh. Các hệ thống tín ngưỡng và nghi lễ
thờ cúng địa phương bắt đầu tiếp xúc với những vũ trụ luận đã được thiết lập
lâu đời, tạo ra một nồi lẩu thập cẩm phong phú, nơi các tư tưởng được vay mượn,
tinh chỉnh và dựng lại hình ảnh”
[30] x. STEPHENS B. BEVANS – ROGER P. SCHROEDER; Trung
Thành và thích nghi (Constants in Context) – Thần học Truyền giáo cho hôm
nay; bản dịch Việt Ngữ: Lm. Đaminh Ngô Quang Tuyên; nxb. Tôn Giáo 2020; Chương
3: Truyền giáo trong Giáo Hội thời kỳ đầu (100-301); tr. 131.
[33] SĐD (STEPHENS B. BEVANS – ROGER P. SCHROEDER…); Chương
4: Truyền Giáo và phong trào Dòng tu; tr. 175.
[34] SĐD (STEPHENS B. BEVANS – ROGER P. SCHROEDER…); Chương
6: Truyền giáo trong thời đại khám phá (1492-1773); tr. 302.
[35] SĐD (STEPHENS B. BEVANS – ROGER P. SCHROEDER…); Chương
4: Truyền Giáo và phong trào Dòng tu; tr. 177.
[39] x. SĐD (STEPHENS B. BEVANS – ROGER P. SCHROEDER…); Chương
5: Truyền Giáo và phong trào khất thực (1000-1453); tr. 227.
[40] LM. ĐÀO QUANG TOẢN; Giáo Hội Việt Nam Năm 1659; nxb
Phương Đông 2010; tr. 94: “Ngày 8.12.1939, trong triều đại ĐGH Pio XII, Thánh Bộ
Truyền Bá Đức Tin công bố sắc lệnh “Plane compertum est”, xóa bỏ sự nghiêm cấm
việc thờ cúng ông bà tổ tiên tại vùng văn hóa Khổng Mạnh”.
[41] LM. TRĂNG THẬP TỰ; Năm mươi năm thờ cúng tổ tiên; nxb
Phương Đông 2014; trang 15: “Ngày 20.10.1964, Tòa Thánh, qua Bộ Truyền Giáo đã
chấp thuận đề nghị của hàng Giám Mục Việt Nam xin áp dụng huấn thị Plane
Compertum est (8.12.1939), về việc tôn kính Tổ tiên cho giáo dân Việt nam”.
[42] LM. LÊ CÔNG ĐỨC; Truyền giáo; website
http://conggiao.info/truyen-giao-d-15998; đăng ngày 30.5.2013.
[44] x. SĐD (STEPHENS B. BEVANS – ROGER P. SCHROEDER…); Chương
5: Truyền Giáo và phong trào khất thực (1000-1453); tr. 227.
[45] x. HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM; Giáo Hội Công Giáo Việt
Nam, Niên Giám 2016; nxb. Tôn Giáo 2017; tr.27
[47] GHI CHÚ RIÊNG: Linh mục Alexandre De Rhodes sinh ngày
15.3.1591 tại “lãnh địa Giáo Hoàng Avignon” thuộc Pháp, là một thừa sai Dòng
Tên và là một nhà ngôn ngữ học, đã góp phần rất lớn trong công cuộc truyền giáo
tại Việt nam vào thế kỷ 17, nhất là công cuộc thiết dựng và kiện toàn chữ Quốc
Ngữ. Ngài mất ngày 5.11.1660 tại Isfahan Iran.
[48] ALEXANDRE DE RHODES; Hành trình và Truyền giáo
(Divers voyages et Missions); bản dịch Việt ngữ của Hồng Nhuệ; nxb. Hồng Đức
2020; tr. 35-36.
[49] LM. ĐÀO QUANG TOẢN; Giáo Hội Việt Nam 1659; nxb.
Phương Đông 2010; tr. 10: Sắc lệnh “Super Cathedram” năm 1659 gồm hai bản, một gởi cho Đức cha F. Pallu và
một gởi cho Đức cha Lambert De La Motte. Hai bản giống nhau, chỉ khác về các miền
đất được trao phó.
[50] SĐD (LM. ĐÀO QUANG TOẢN… ); tr. 11: “… xứ Đàng Trong
và các tỉnh Triết Giang, Phước Kiến, Giang Tây, Quảng Đông, đảo Hải Nam và các
đảo khác…”
[51] SĐD (LM. ĐÀO QUANG TOẢN … ); tr. 11: “… xứ Đàng Ngoài
và các vùng kế cận là Vân Nam, Quí Châu, Hồ Quảng, Quảng Tây, Tứ Xuyên và xứ
Lào…”.
[52] ĐỖ QUANG CHÍNH, SJ; Hai Giám Mục đầu tiên tại Việt
Nam; nxb. Tôn Giáo 2008; tr. 110: “Giáo phận Nam Kinh bao la bát ngát; vì giáo
phận này gồm các vùng rộng lớn của Trung Quốc: Bắc Kinh, Sơn Tây, Thiểm Tây,
Sơn Đông, Mông cổ và cả nước Triều Tiên…”.
[53] STEPHENS B. BEVANS – ROGER P. SCHROEDER; Trung Thành
và thích nghi (Constants in Context) – Thần học Truyền giáo cho hôm nay; bản dịch
Việt Ngữ: Lm. Đaminh Ngô Quang Tuyên; nxb. Tôn Giáo 2020; ; Chương 6: Truyền
giáo trong thời đại khám phá (1492-1773); tr. 302-314.
[54] x. BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ; Giáo phận Qui Nhơn qua dòng
thời gian; nxb. An Tôn & Đuốc Sáng 2017; đăng ký bản quyền tại Hoa Kỳ tháng
6/2017; Chương II, III, IV; tr. 43-105 (Công cuộc truyền giáo tại Việt Nam của
Dòng Tên).
[55] x. HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM; Giáo Hội Công Giáo Việt
Nam, Niên Giám 2016; nxb. Tôn Giáo 2017; tr.174-175.
[57] NGUYỄN THỪA HỶ (Tuyển dịch, giới thiệu và bổ chú); Việt
Nam thế kỷ XVII, XVIII, XIX (Qua các nguồn tư liệu phương Tây); nxb Khoa Học Xã
Hội 2020; Phần IV: Du hành và tác vụ của các giáo sĩ Dòng Tên (Voyages et
travaux des missionnaires de la Compagnie de Jésus); nguồn: De Montézon &
Estève, Mission de Cochinchine et du Tonkin, Charles Duniol, Paris, 1858; tr.
189-190.
[58] x. BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ; Giáo phận Qui Nhơn qua dòng
thời gian; nxb. An Tôn & Đuốc Sáng 2017; đăng ký bản quyền tại Hoa Kỳ tháng
6/2017; Chương II: Các Thừa sai Dòng Tên từ Ma Cao đến Đàng Trong; tr. 45-47.
[59] SĐD (Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời gian…); Chương
IV: Phương Châm và Phương Pháp hoạt động Truyền Giáo; tr. 85.
[60] OLGAR DROR & K.W. TAYLOR; Việt nam thế kỷ XVII,
Những góc nhìn từ bên ngoài; Hoàng Tịnh Thuỷ dịch; nxb Đà Nẵng 2020; tr. 36.
[61] BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ; Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời
gian…; Chương III: Công cuộc truyền giáo của các thừa sai tại Đàng Trong; tr.
72.
[62] CRISTOFORO BORRI; Xứ Đàng Trong; Thanh Thư dịch; nxb
Tổng Hợp Thành phố Hồ Chí Minh 2019; tr. 82.
[63] TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ GIÁO PHẬN QUI NHƠN; Kim Chỉ
Nam Truyền Giáo thế kỷ 17; MONITA AD MISSIONARIOS; Chương V, Tiết 2; tr. 91.
[64] ĐỖ QUANG CHÍNH SJ; Tản mạn lịch sử Giáo Hội Công Giáo
Việt Nam; nxb An Tôn & Đuốc Sáng 2007; tr. 52.
[66] BAN BIÊN SOẠN LỊCH SỬ; Giáo phận Qui Nhơn qua dòng thời
gian; nxb. An Tôn & Đuốc Sáng 2017; đăng ký bản quyền tại Hoa Kỳ tháng
6/2017; Chương II: Các Thừa sai Dòng Tên từ Ma Cao đến Đàng Trong; tr. 44.
[68] x. LG 8: “Giáo Hội lại luôn có những tội nhân, vừa
thánh thiện vừa luôn cần được thanh tẩy, nên không ngừng tiến bước trên con đường
sám hối và canh tân”.
[69] LM. ĐÀO QUANG TOẢN; Tìm hiểu lịch sử Dòng Mến Thánh
Giá; tr. 12-13. (Dẫn nguồn: Ghi chú 6: AMEP, tập 121, trang 621-622).
[70] SĐD (ĐÀO QUANG TOẢN…); tr. 13: “… Hẳn là do những sai
phạm quái gở ấy mà người ta thấy bàn thờ nầy chống lại bàn thờ kia, và trong
các cuộc rước kiệu công khai và trọng thể, có giáo sĩ và tu sĩ mang dưới tu phục
họ những dao găm và súng đạn, mà đôi khi họ sử dụng để tàn sát lẫn nhau.”
[71] x. ĐỖ QUANG CHÍNH; Dòng Tên trong xã hội Đại Việt
1615-1773; nxb Tôn Giáo 2008; Chương ba, II: Căng thẳng giữa hai nhóm thừa sai;
tr. 218: “Ngày 6.10.1675, ĐC Lambert ra vạ tuyệt thông hai cha B. d’Acosta và
G. Candone vì tội bất phục tùng”
[72] LM. ĐÀO QUANG TOẢN; Giáo Hội Việt Nam năm 1659; nxb
Phương Đông 2010; tr. 122-123. (Xem thêm: Lm. Đào Quang Toản, Giáo Hội Việt Nam
năm 1659; tr. 22-23 trong nội dung “các xứ truyền giáo trong chế độ bảo trợ Bồ
Đào Nha đang trong tình trạng sa lầy”).
[74] GHI CHÚ RIÊNG: Địa danh AYUTTHAYA, mà Tây Phương thường
viết là Ayuthia, Ajuthia, Yuthia hoặc Juthia, Theo lịch sử nước Thái Lan, Địa
danh nầy vừa chỉ vương quốc Ayutthaya (Tên đầy đủ là Phra Nakhon Si Ayutthaya)
tồn tại từ khoảng năm 1350-1767; vừa chỉ thành phố thủ đô của Vương quốc nầy do
vua Uthong xây dựng từ năm 1350 và tồn tại liên tục 417 năm, cho đến khi bị
quân Miến Điện tàn phá năm 1767. Đây cũng là địa điểm tập trung của các thương
gia và thừa sai phương Tây.
[75] x. GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN; Mẹ tôi là thế đấy – Suy
tư, bình luận, nghiên cứu về Mẹ Giáo Hội; nxb. An Tôn & Đuốc Sáng 2019; Bài
20: Muốn đi xa phải đi cùng nhau; tr. 371: “Là một chiều kích tạo nên Giáo Hội,
tính “hiệp hành” (synodalité) cung cấp cho ta một cái khung giải thích rất phù
hợp để thấu đáo về chính thừa tác vụ phẩm trật. Nếu đồng quan niệm như Thánh
Gioan Kim Khẩu đó là “Giáo Hội và thượng hội đồng (synode) luôn đồng nghĩa với
nhau”, vì Giáo Hội chính là cuộc đồng hành của Đoàn Chiên Chúa trên các nẻo đường
lịch sử hướng về cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô,…”.
[76] TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ GIÁO PHẬN QUI NHƠN; Kim Chỉ
Nam Truyền Giáo thế kỷ 17; MONITA AD MISSIONARIOS; Lời Nói đầu cho lần Tái bản
sách MONITA; tr. 30.
[81] TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ GIÁO PHẬN QUI NHƠN; Kim Chỉ
Nam Truyền Giáo thế kỷ 17; MONITA AD MISSIONARIOS; Lời Nói đầu cho lần Tái bản
sách MONITA; tr. 29.
[83] LM. ĐÀO QUANG TOẢN; Giáo Hội Việt Nam năm 1659; nxb
Phương Đông 2010; Công đồng Ajuthia; tr. 131
[84] TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ GIÁO PHẬN QUI NHƠN; Kim Chỉ
Nam Truyền Giáo thế kỷ 17; MONITA AD MISSIONARIOS; Thư đệ trình Đức Thánh Cha
Clément IX; tr. 38.
[85] x. LM. ĐÀO QUANG TOẢN; Giáo Hội Việt Nam năm 1659;
nxb Phương Đông 2010; tr. 50-73: (1) Đào tạo giáo sĩ bản quốc, (2) Về giám mục
bản quốc, (3) Vâng phục và lĩnh ý Toà Thánh, (4) Toà Thánh đặt đại diện ở các
miền xa xôi, (5) Đừng bức bách người ta tuân theo Thánh Bộ, (6) Tổ chức liên lạc
thư thừ với Thánh Bộ, (7) Thận trọng trong việc gởi thư, (8) Khuyên các thừa
sai viết thư, (9) Kính trọng nhà cầm quyền, (10) Đừng xen vào chính trị, (11) Đừng
lưu lại nơi công đường, (12) Dạy dân chúng họp nhất và vâng phục chính quyền,
(13) Tôn trọng cổ tục bản xư, (14) Tôn trọng trật tự công cộng, (15) Đừng rời bỏ
khu vực của mình, (16) Đừng tranh luận, (17) Buộc các linh mục giữ đúng kỷ luật
truyền giáo, (18) Những lý do để các cha về Âu châu, (19) Đối với các cha dòng,
(20) Vấn đề tiền của, (21) Vấn đề văn hoá, (22) Đào tạo linh mục tương lai,
(23) Những lời nhắn nhủ kết thúc.
[86] TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ GIÁO PHẬN QUI NHƠN; Kim Chỉ
Nam Truyền Giáo thế kỷ 17; MONITA AD MISSIONARIOS; Thư đệ trình Đức Thánh Cha
Clément IX; tr. 38-39.
[87] GHI CHÚ RIÊNG: Phương pháp “XEM, XÉT, LÀM” (( See –
Jugde – Act) được Đức ông Joseph Cardijn (sau là Hồng y) phổ biến. Năm 1946,
Phong trào Thanh Sinh Công thế giới (International Young Catholic Students –
IYCS) ra đời. Phương pháp kiểm điểm đời sống: Xem – Xét – Làm đã trở thành nền
tảng cho tiến trình huấn luyện của TSC. Nói cách khác, đây chính là con đường sống
Lời Chúa của phong trào TSC.
[88] Tài Liệu Làm Việc PHIÊN HỌP TOÀN THỂ THƯỜNG LỆ LẦN THỨ
XV CỦA THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC GIỚI TRẺ, ĐỨC TIN VÀ BIỆN PHÂN ƠN GỌI; số 3: “Tài
Liệu Làm Việc tập hợp và tóm tắt các đóng góp được thu thập trong diễn trình tiền
Thượng Hội Đồng trong một tài liệu được cấu trúc thành ba phần, phản ánh rõ
ràng cấu trúc của diễn trình biện phân được mô tả trong Evangelii Gaudium 51: nhìn nhận, giải thích, lựa chọn”.
[89] TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ GIÁO PHẬN QUI NHƠN; Kim Chỉ
Nam Truyền Giáo thế kỷ 17; MONITA AD MISSIONARIOS; Lời Tựa; tr. 43: “Trước
hết chúng tôi phải tìm hiểu cặn
kẽ hiện tình đạo Kitô và thấu
hiểu những tệ nạn đang phát triển tại đó. Tiếp đến, khi nhóm
họp với các đồng sự, ưu tư đầu tiên của chúng tôi, theo lời thánh Tông Đồ gửi cho ông Timothê: “Anh hãy thận
trọng trong cách ăn nết ở và trong lời giảng dạy. Hãy kiên trì trong
việc đó. Vì làm như vậy, anh sẽ cứu được chính mình, lại còn cứu
được những người nghe anh giảng dạy.” (1 Tm 4,16) phải là: ưu tư về
phần rỗi của chính mình và phần rỗi của các thừa sai khác. Do đó, chúng tôi phải quyết định làm gì,
tránh gì để khỏi phải rơi vào con đường xấu. Sau cùng, lấy những qui luật tông đồ làm kim chỉ nam,
chúng tôi phải vạch ra đâu là phương
cách đúng và tốt để truyền bá Đức Tin”.
[106] SĐD (MONITA…); Chương III, Tiết 4; tr. 72: “Nhưng
vấn đề là không phải cái uy tín được tìm kiếm bằng sự phô trương,
bằng của cải, bằng sự xa hoa và tình bạn với các vua chúa, nhưng là
uy tín đặt nền tảng trên nhân đức và sự thánh thiện. Uy tín do thánh
đức thì xây dựng trong lúc uy tín thế tục thì phá hủy; một bên gợi
lên sự khiêm tốn, bên kia nuôi dưỡng tham vọng; một đàng dạy bảo việc
khinh chê mọi sự, khinh chê những của cải chóng qua, đặt chúng ta ở
trên mọi thứ phù vân, đàng kia mua danh vọng bằng vàng, nuôi dưỡng sự
ham mê của cải và tính kiêu ngạo...”
[166] SAMUEL P. HUNTINGTON; The Clash of Civilizations and
the Remaking of World Order (Sự Va chạm của các nền Văn minh và sự tái lập trật
tự thế giới); Nguyễn Phương Sửu, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Phương Nam, Lưu Ánh
Tuyết dịch, Võ Minh Tuấn hiệu đính; nxb Thế Giới 2018; tr. 149: “Phát triển
kinh tế của Đông Á là một trong những tiến triển có ý nghĩa của thế giới vào nửa
sau thế kỷ 20. Quá trình này bắt đầu ở Nhật Bản từ những năm 1950, và đã có lúc
Nhật Bản được coi là trường hợp ngoại lệ điển hình: một đất nước phi phương Tây
đã hiện đại hoá thành công và rất phát triển về kinh tế. Tuy nhiên, quá trình
phát triển kinh tế sau đó đã lan rộng sang Bốn con hổ (Hong Kong, Đài Loan, Hàn
Quốc, Singapore), rồi Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan, và Indonesia, đang diễn
ra ở Philippines, Ấn Độ và Việt Nam. Các nước này trong vòng hơn một thập niên
đã duy trì được mức độ tăng trưởng trung bình hằng năm từ 8 đến 10% hoặc hơn. Lần
đầu tiên, thương mại được mở rộng đáng kể giữa châu Á với thế giới, giữ các nước
châu Á với nhau. Thành tựu kinh tế này của châu Á đi ngược lại với tăng trưởng
khiêm tốn của kinh tế châu Âu và Mỹ cũng như sự trì trệ của phần lớn kinh tế thế
giới”.
[168] SĐD (EA); số 23.