WHĐ (12.02.2024) - Ngày 5 tháng 8 năm 2023,
Ủy ban Phụng tự Hội đồng Giám mục Việt Nam đã thông báo về chương trình Đào tạo phụng vụ cho Dân Chúa gồm: (1) Thực hành
mục vụ và (2) Kiến thức phụng vụ. Để đào sâu hiểu biết về kiến thức phụng vụ, Ủy
ban Phụng tự trân trọng giới thiệu loạt bài về cử hành Thánh Thể do linh mục
Giuse Phạm Đình Ái, SSS tổng hợp và biên soạn.
- Trong Lời nguyện chung, cũng gọi là Lời nguyện tín hữu, một cách nào đó
cộng đoàn đáp lại lời Chúa mà họ vừa đón nhận trong đức tin và thực thi chức vụ
linh mục nhận được qua bí tích Thanh Tẩy mà dâng lên Thiên Chúa những lời nguyện
cầu xin ơn cứu độ cho mọi người. Thường nên đọc lời nguyện này trong các Thánh
lễ có giáo dân tham dự để cầu cho Hội Thánh, cho các nhà cầm quyền, cho những
người đang gặp các khó khăn khác nhau, cho hết mọi người và cho toàn thể thế giới
được ơn cứu độ (QCSL 69).
- Những ý nguyện thường theo thứ tự này là: a) Cho các nhu cầu của Hội
Thánh; b) Cho các nhà cầm quyền và cho toàn thế giới được ơn cứu độ; c) Cho các
người đang gặp bất cứ khó khăn nào; d) Cho cộng đoàn địa phương. Nhưng trong một
buổi cử hành đặc biệt nào đó, như là Thêm sức, Hôn phối, An táng, thì thứ tự
các ý nguyện có thể ưu tiên cho trường hợp đặc biệt đó (QCSL 70).
- Chính linh mục chủ tế sẽ điều khiển việc cầu nguyện tại ghế. Ngài nói vắn
tắt mấy lời dẫn nhập mời gọi các tín hữu cầu nguyện và ngài đọc lời nguyện kết
thúc. Những ý nguyện đưa ra phải giản dị, bằng những lời vắn tắt tự nhiên và thận
trọng, diễn tả ý nguyện của toàn thể cộng đoàn. Thường thì các ý nguyện được đọc
từ giảng đài hoặc một nơi khác thích hợp, do phó tế, hoặc do một ca viên, hoặc
một độc viên, hoặc một tín hữu giáo dân. Còn cộng đoàn thì đứng và biểu lộ lời
nguyện của mình, hoặc bằng lời kêu cầu chung sau mỗi ý nguyện được xướng lên, hoặc bằng cách cầu nguyện trong thinh lặng (QCSL
71).
II/ LỊCH SỬ
Trong phụng
vụ hội đường, có đến 18 lời chúc phúc bao hàm những lời kêu xin cho những nhu cầu
khác nhau của cá nhân và cộng đoàn. Chúng được đọc phối hợp với kinh Shema và
mở rộng hơn chính kinh Shema bằng việc thêm vào những lời thỉnh nguyện
và chúc tụng (Đnl 6,1-9).[1]. Ngay từ rất sớm, những lời cầu
nguyện tương tự như vậy cũng là một thành phần trong phụng vụ của Hội Thánh cả
bên Đông phương lẫn Tây phương.
Chứng cứ đầu tiên về Lời nguyện được gọi là Lời nguyện phổ quát/Lời nguyện chung
là từ bút tích của Đức Clêmentê I (gởi cho giáo đoàn Côrintô) và của thánh
Justinô tử đạo vào thế kỷ II. Thánh Justinô cho biết, khoảng năm 150 tại Rôma,
khi cử hành Bí tích Thánh tẩy xong, “tất cả chúng tôi cùng đứng dậy và đọc
những Lời nguyện chung” (I Apologia 67), “dâng Lời nguyện chung
cho chính cộng đoàn, cho người vừa mới được khai tâm và cho dân chúng khắp nơi”
(I Apologia 65,1).[2] Những lời
nguyện này thật quan trọng đến độ các dự tòng không hiện diện, họ phải ra về
sau cử hành Phụng vụ Lời Chúa với những công thức giải tán khác nhau.[3]
Tới thế kỷ
III, nhờ bút tích của thánh Hippôlytô trong cuốn Truyền thống Tông đồ (Traditio
Apostolica), người ta biết rõ những lời nguyện này là phần dành riêng cho
các tín hữu, tức những người đã được thanh tẩy (Chương 19), chứ không phải của
người còn đang học đạo.[4]
Đến thế kỷ
IV, bên Đông phương, lời nguyện này mang hình thức kinh cầu (litanie) do
một phó tế xướng các ý nguyện, sau mỗi ý nguyện, cộng đoàn Dân Chúa đáp bằng một
công thức cố định dâng lên Chúa Kitô: Kyrie eleison (Lạy Chúa, xin thương xót
chúng con). Khi kinh
Kyrie chiếm vị trí tại phần khởi đầu của Thánh lễ, thì những Lời nguyện chuyển cầu bắt đầu biến mất, có lẽ dưới
triều của Đức Vigilius (537-555).[5]
Cha A.
Nocent đã quả quyết: từ thời thánh Justinô cho tới triều đại của Đức Fêlixê III
(483-492), cấu trúc phần Phụng vụ Lời Chúa là: Bài đọc Sách Thánh, Thánh vịnh
đáp ca, bài giảng, Lời nguyện tín hữu.[6] Khi lên ngôi Giáo hoàng, Đức
Gelasio (492-96) đã soạn ra một kinh theo dạng kinh cầu Đông phương và truyền đọc
trong cả Hội Thánh trong đó cộng đoàn sẽ đáp lại sau mỗi ý nguyện bằng điệp
khúc “Lạy Chúa, xin lắng nghe và thương xót chúng con” (Domine,
exaudi et miserere).[7] Nhưng
chỉ một thế kỷ sau, từ thời Đức Grêgôriô Cả (thế kỷ VI), Lời nguyện chung bị
quên lãng trong phụng vụ Rôma, mỗi năm chỉ đọc chúng một lần vào chiều thứ Sáu Tuần Thánh, cho tới mãi Công đồng Vaticanô II mới tái lập
(x. PV 53). Lý do được
các sử gia như Callewaert và Jungmann đưa ra là vì trong Kinh nguyện Thánh Thể (Lễ quy Rôma) cũng đã có những Lời
chuyển cầu cho các nhu cầu của Hội Thánh, vì thế không nên lập lại ở chỗ khác nữa.[8]
Sách lễ
1570 cho thấy có dấu vết của những lời nguyện này. Trước khi phần dâng lễ bắt đầu,
chủ tế nói: “Chúng ta hãy cầu nguyện”, nhưng không có lời nguyện nào
theo sau.[9] Mãi đến
thế kỷ XX, Công đồng Vaticanô II mới tái lập lời nguyện này trong Thánh lễ. Hiến
chế Phụng vụ Thánh của Công đồng Vaticanô II đã quyết định lấy lại Lời nguyện
tín hữu trong Thánh lễ:
Phải tái lập “Lời nguyện chung” hay “Lời
nguyện tín hữu”, sau Phúc Âm và bài giảng, nhất là những ngày Chúa nhật và lễ
buộc, để khi dân chúng tham dự lời nguyện đó, họ cầu khẩn cho Hội Thánh, cho
các nhà cầm quyền, cho những kẻ khốn khổ vì mọi nhu cầu khác nhau, cho tất cả mọi
người, và cho phần rỗi của toàn thế giới (PV 53).
Hội Thánh
mong ước ít là Lời nguyện chung được thực hiện vào các ngày Chúa nhật và lễ buộc
(x. PV 5). Để thi hành nghiêm chỉnh quyết định này, Bộ Nghi lễ, với sự cộng tác
của Hội đồng thực thi Hiến chế Phụng vụ Thánh, ngày 26/09/1964, đã ban hành Huấn
thị Inter oecumenici (IOE 56), và năm 1966, đã xuất bản cuốn các Lời
nguyện tín hữu mẫu dưới tựa đề là De oratione communi seu fidelium.[10] Ngày nay, Lời nguyện tín hữu
đã được chính thức ghi vào Nghi thức Thánh lễ của Sách lễ Rôma công bố
ngày 03/04/1969.[11]
III/ CÁC TÊN GỌI [12]
Đây là tên
gọi lâu đời nhất của hình thức cầu nguyện này. Gọi là Lời nguyện chung (oratio
communis) bởi vì: [i] Nó nói lên tính chất tham dự cao độ của cộng
đoàn vào việc cử hành Lời Chúa, như rước lễ là tham dự trọn hảo nhất vào việc cử
hành Thánh Thể. Bản chất của Lời nguyện chung là ở những câu đáp mà mọi giáo sĩ
và giáo dân phải đọc lên (giúp thi hành chức tư tế chung của mọi tín hữu); [ii]
Các ý cầu xin liên kết mọi tín hữu đang tản mác khắp nơi vào một kinh nguyện
chung, và lo lắng cho nhu cầu chung của toàn thế giới.
Tên gọi được
truyền thống ưa chuộng nhất là Lời nguyện tín hữu do sự kiện lịch sử là trước
đây, những người chưa rửa tội chỉ được tham dự Thánh lễ cho tới khi giảng xong.
Khi họ vừa ra về, toàn thể cộng đoàn đứng lên cầu nguyện, tức chỉ còn những người
đã trở thành tín hữu mới có quyền tham dự.
Đây là tên
gọi được sử dụng bởi các gia đình phụng vụ Đông phương, nhưng dễ lẫn lộn với Lời
chuyển cầu trong Kinh nguyện Thánh Thể và ở những chỗ khác.
Người ta
cũng gọi lời nguyện này là Kinh cầu, vì nó có hình thức của một kinh cầu, nghĩa
là một người xướng lên ý nguyện, và cộng đoàn đáp lại bằng một lời kêu cầu vắn
tắt.
Quy chế Tổng
quát Sách lễ Rôma gọi kinh nguyện này là
Lời nguyện phổ quát (oratione universali) nhằm gợi lên bản chất của nó: là
kinh nguyện của mọi người và cầu cho mọi người (số 69, 139, 178, 190, 385).
IV/ Ý NGHĨA [13]
A. Lời nguyện hướng về các thực tại trần thế.
Lời nguyện
tín hữu được coi như kết quả của việc các tín hữu nghe Lời Chúa và được Lời Chúa tác động trong lòng. Thực vậy,
qua các Bài đọc Sách Thánh, những lời giải thích và khuyến cáo trong bài giảng,
người tín hữu như hiểu được chương trình và ý định cúu độ của Thiên Chúa, hiểu
được bổn phận của họ phải dấn thân để thực thi chương trình cứu độ ấy. Đồng thời
họ cũng ý thức và cảm nghiệm được sự yếu đuối, bất xứng của mình, nên dâng lên
Chúa những lời khẩn nguyện cho chính mình, cho mọi người, cho nhu cầu của thế
giới, của cộng đoàn đang sống, cho các cấp bậc trong Hội Thánh, đặc biệt cho những
người nghèo đói, bệnh tật hay đang lâm vào bất cứ tai ương hoạn nạn nào. Họ khẩn
khoản xin Chúa đoái thương giơ tay nâng đỡ phù trì (QCSL 69) và nhìn đến nhu cầu của tất cả những ai mà họ cùng chia sẻ “vui
mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng” (Hiến chế Gaudium Et Spes, số
1). Khi đưa cuộc sống cụ thể vào trong buổi cử hành, Lời nguyện tín hữu nói lên
sự dấn thân của người tín hữu trong thế giới và nhiệm vụ cụ thể của họ là xây dựng
thế giới và Hội Thánh. Như vậy, đối tượng của lời cầu không chỉ gồm có
những thực tại trên trời, nhưng cả những sự việc trần thế, những hoàn cảnh cụ
thể hiện nay của thế giới.
B. Lời nguyện thể hiện chức tư tế do
Bí tích Rửa tội.
Với sắc thái chuyển cầu, Lời nguyện phổ quát thể hiện chức năng tư tế của người Kitô hữu (x. 1Pr 2,9). Qua lời khẩn cầu, cộng đoàn phụng vụ, dù nhỏ bé đến đâu, cũng biểu lộ Hội
Thánh muốn chu toàn sứ mạng của mình là “bày tỏ và thực
hiện mầu nhiệm tình thương của Thiên Chúa đối với mọi người” (Gaudium
Et Spes, số 45). Khi Dân Chúa cầu nguyện chính là Đức Kitô dùng môi miệng
và lòng trí họ mà nguyện cầu (x. Kh 1,5-6). Khi Dân Chúa cầu nguyện, họ cùng đứng với Đức
Giêsu trước ngai ân sủng mà chuyển cầu cho toàn thể nhân loại. Trong Cựu Ước, những lời chuyển cầu của Môsê,
Aharon (x. Xh 17,11; 32,11; Ds 12,13), của Giêrêmia (15, 14), của Amos (7,1-6) là
hình bóng của lời nguyện này.[14]
Trong Lời nguyện tín hữu, cộng đoàn còn diễn tả niềm tin vào mầu nhiệm
các thánh thông công. Những người vắng mặt được nhắc đến trong lời nguyện, sẽ
trở nên hiện diện một cách nào đó giữa cộng đoàn. Lời nguyện này là một trong
những hành vi bác ái huynh đệ tuyệt hảo nhất, được thực hiện trong đức tin. Bởi
vậy, ngày xưa, khi đọc xong lời nguyện này, các tín hữu trao hôn bình an cho
nhau.[15]
C.
Lời nguyện biểu lộ tình con thảo
Lời nguyện cho mọi người còn biểu lộ tình con thảo của người tín hữu đối
với Thiên Chúa là Cha. Ngợi khen, tạ ơn và cầu xin là những việc làm phải đạo của
con cái đối với Thiên Chúa. Từ đó, ta thấy Lời nguyện chung không chỉ mang tính
khẩn cầu mà còn phải được thực hiện trong bầu khí tạ ơn, ngợi khen và chúc tụng
Chúa. Một cộng đoàn Kitô hữu cầu nguyện trong Đức Kitô và nhờ Đức Kitô không
bao giờ được quên tâm tình tạ ơn, chúc tụng và ngợi khen.
V/ CẤU TRÚC
A. Phần thứ I: Lời kêu mời của chủ tế
Đây là lời của chủ tế dưới hình thức lời kêu mời
toàn thể cộng đoàn chứ không phải là lời cầu nguyện. Vị chủ tế hướng dẫn cộng
đoàn chú ý đến Lời nguyện tín hữu và liên kết lời nguyện này với mầu nhiệm đang cử hành, với ngày
lễ, hoặc mùa phụng vụ, hay với một vài khía cạnh đặc biệt của Lời Chúa vừa được
công bố
B. Phần thứ II: Những ý nguyện
Đây là phần
loan báo cho cộng đoàn các ý nguyện/thỉnh nguyện chứ không phải lời cầu nguyện hướng
lên Thiên Chúa. Thầy phó tế hoặc nếu thầy vắng mặt, một thừa tác viên khác đọc
một chuỗi những những ý nguyện với lời thưa của cộng đoàn sau mỗi ý nguyện.
C. Phần thứ III: Lời nguyện của chủ tế
Vị chủ tế
hướng về Thiên Chúa, tóm tắt và nài xin Chúa thương chấp nhận lời cầu của cộng
đoàn. Kết thúc lời nguyện, cộng đoàn thưa Amen.
VI/ CÁC Ý NGUYỆN
Để có thể
thành Lời nguyện phổ quát/Lời nguyện chung, QCSL số 70 đòi phải hướng các ý
nguyện vào 4 đối tượng/nhu cầu sau:
a) Cho các nhu cầu của Hội
Thánh: Như sự hiệp nhất các Kitô hữu, ơn gọi linh mục,
tu sĩ; công việc truyền giáo và các xứ truyền giáo; Đức Giáo hoàng, các Giám mục,
linh mục, tu sĩ, các người dự tòng v.v...
b) Cho các người trong
chính quyền và cho toàn thế giới được ơn
cứu độ: Như nền công lý và hòa bình, những vấn
đề xã hội, các vị lãnh đạo, giới công nhân, nông dân, những người sống tại thôn
quê, những người không có nhà ở v.v...(x. 1 Tm 2.1-4).
c) Cho các người đang gặp
bất cứ khó khăn nào: Như các bệnh nhân, những người
nghèo đói, những người thất nghiệp, những người mù chữ, bị tù đày, đang hấp hối
v.v. Cũng nên nhớ là ngoài đau khổ thể xác còn có những nỗi khổ của tâm hồn, tỉ
dụ những người đang bị khủng hoảng về luân lý, những người mất đức tin, mất hy
vọng…
d) Cho cộng đoàn địa
phương: Đời sống cộng đoàn phải được đem vào lời kinh,
vì thế nên cầu cho các thanh niên nam nữ sắp kết hôn, những em đang dọn mình
xưng tội, rước lễ lần đầu hay lãnh nhận bí tích Thêm sức, những người mới qua đời
v.v. Dĩ nhiên cũng phải cầu nguyện cho những người đang hiện hiện trong cộng
đoàn phụng vụ.
Nhưng trong
một buổi lễ cử hành đặc biệt nào đó, như là Thêm sức, Hôn phối, An táng, thì thứ
tự ý nguyện có thể dành ưu tiên cho trường hợp đặc biệt đó.
VII/ MỤC
VỤ
1/ Chúng ta
không chỉ dâng lời nguyện tín hữu vào lễ Chúa nhật/lễ trọng/những dịp đặc biệt,
nhưng Hội Thánh khuyến khích dâng lời nguyện tín hữu trong mọi Thánh lễ
có giáo dân tham dự (x. PV 53; QCSL 36, 69, 264).[16]
2/ Đối với ý
nguyện thứ IV “Cầu cho cộng đoàn địa phương”: nên hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa
là bao gồm mọi thành phần Dân Chúa trong địa phận, trong họ đạo dù có mặt hay vắng
mặt trong buổi cử hành. Sau ý nguyện này, có thể nêu những ý lễ của thánh lễ ấy,
kể cả danh tánh một vài tín hữu đã qua đời theo ý chỉ tương ứng với bổng lễ vị
tư tế đã nhận (x. QCSL 355).[17]
3/ Việc soạn
lời nguyện tín hữu và nêu các ý nguyện cần lưu ý những điểm sau đây:
- Sử dụng lời nguyện tín hữu trong các sách xuất bản
như một tham khảo và khơi nguồn cảm hứng hơn là đọc y nguyên vì ý nguyện cần đi sát với đời sống
thực tế, phản ánh những mối quan tâm và nhu cầu hiện tại của
cộng đoàn, Hội Thánh và thế giới và thích nghi hết sức có thể với mỗi buổi cử
hành. Làm như vậy sẽ vất vả hơn, nhưng lại trung thực hơn và mang tính giáo dục
đức tin hơn.
- Không nên để cho một người soạn lời nguyện tín hữu
hoài và những người biết rõ nhu cầu của giáo xứ được coi là thích hợp nhất cho
nhiệm vụ này.[18]
- Ý nguyện có thể soạn theo hai cách. (a) Một là “Ý nguyện trực tiếp”: đi thẳng
vào nhu cầu mà không có lời dẫn trước; (b)
Hai là “Ý nguyện gián tiếp”: gồm 2 phần: nêu ra lý do trước (phần 1) rồi mới tới
lời nài xin (phần 2). Lý do có thể là một phẩm tính của Thiên Chúa, một giáo huấn
của Hội Thánh, một kinh nghiệm sống đức tin…,[19] hoặc từ
các bản văn Kinh Thánh vừa mới công bố trước đó.[20]
- Mỗi ý nguyện phải vắn gọn, đơn giản, rõ ràng, dễ
hiểu; không mang dáng vẻ tình cảm ủy mị, ướt át, phóng đại và đừng chú trọng
quá đến ý tưởng cao siêu, trừu tượng, mơ hồ, ẩn dụ;[21]
- Không nên gói ghém vào trong một ý nguyện tất cả một giáo thuyết/một bài học hay dồn
nhiều điều xin/ý xin vào trong một ý nguyện;[22]
- Không cá nhân hoá lời nguyện tín hữu bằng cách đề cao hay khen ngợi người nọ người
kia/nhóm nọ nhóm kia, cũng không phản ánh quá chặt chẽ các lợi ích thiêng liêng
của một cá nhân, hoặc một nhóm trong cộng đoàn;[23]
- Tránh sử dụng lời nguyện tín hữu như một bài giảng ngắn về luân lý hoặc lên lớp
dạy đời, hay như một bản cáo trạng, phê phán người khác hoặc thanh toán nhau
cách trá hình.[24]
4/ Người xướng
ý nguyện: nếu phó tế hiện diện, theo truyền thống, thầy là người ưu tiên nhất để
xướng tất cả ý nguyện (QCSL 71, 94, 171, 177).[25] Nếu không có phó tế, các ý nguyện
do một người khác xướng lên hoặc trong một số trường hợp, nhất là với cộng đoàn
sử dụng nhiều ngôn ngữ, thì mỗi người xướng một ý nguyện, nhưng đừng bao giờ
quá 6 ý nguyện (x. QCSL 71, 99, 138, 197; LNGM 144). Người loan báo ý nguyện/người
xướng ý nguyện phải vào vị trí đã ấn định cho mình trước khi chủ tế đọc lời mời
gọi cũng như tiếp tục đứng tại chỗ và hướng về chủ tế/bàn thờ cho đến khi chủ tế
đọc xong lời nguyện kết thúc và cộng đoàn thưa “Amen” rồi mới di chuyển về chỗ
của mình (x. QCSL 71).[26]
5/ Vị trí
ưu tiên nhất để loan báo các ý nguyện là tại giảng đài như khi công bố Sách
Thánh hầu giúp mọi người hiểu rằng: lời
nguyện tín hữu nối kết với phần Phụng
vụ Lời Chúa và là thành tố của phần này. Luật cho phép nêu ý nguyện ở một
nơi khác thích hợp/thuận tiện, nhưng tốt nhất là người xướng ý nguyện ở trong
cung thánh hay sát cung thánh mà cộng đoàn có thể thấy được, và quan trọng hơn,
là có thể lắng nghe họ cách rõ ràng (x. QCSL 71, 138, 197, 309; BĐ 31; LNGM 144).[27]
6/ Sau lời
mời gọi cộng đoàn cầu nguyện, mọi người có thể hát/đọc một lời đáp quen thuộc,
hoặc im lặng một lát (x. QCSL 71, 138; BĐ 31). Thực hành thinh lặng sau mỗi ý
nguyện thích hợp cho Mùa Vọng/Mùa Chay và giúp mọi người tham gia vào lời nguyện
cách nội tâm hơn.[28] Thay vì chỉ đáp “Xin Chúa nhậm
lời chúng con” cho mọi Thánh lễ, sau mỗi ý nguyện, chúng ta có thể đa dạng hoá
lời đáp bằng cách cho in ra giấy hoặc trình chiếu lên màn hình một lời đáp khác
làm nổi bật khía cạnh quan trọng của cử hành.[29] Lời đáp của cộng đoàn gợi lên
thỉnh nguyện/cầu xin chứ không phải là lời chúc tụng, tạ ơn hay thống hối vốn
là không thể thiếu trong các phần khác của thánh lễ.[30]
7/ Chính
linh mục chủ tế sẽ điều khiển việc cầu nguyện tại ghế. Ngài nói vắn tắt mấy lời
dẫn nhập mời gọi các tín hữu cầu nguyện; sau những ý nguyện, ngài dang tay đọc lời nguyện kết thúc (x. NTTL 20; QCSL 69-71,
138). Trước khi đọc lời
nguyện kết thúc, chủ tế có thể dành ra ít giây thinh lặng cho mỗi người đưa ra những ý nguyện riêng (thầm) của
mình.[31]
VIII/
SUY NIỆM
Lạy Chúa
Giêsu, sau khi được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và được soi sáng bởi bài giảng lễ,
cộng đoàn chúng con thể hiện vai trò tư tế của mình khi dâng lên Chúa lời nguyện
tín hữu. Chúng con tin rằng đó là một lời đáp thích ứng với Lời Chúa vừa được
công bố. Lời nguyện chung này được so sánh giống như cuộc đối thoại giữa Thiên
Chúa và cộng đoàn quy tụ và như một cuộc trò chuyện trong tâm tình cầu nguyện.
Đây là hình một hình thức thờ phượng đặc biệt: Thiên Chúa nói và chúng con đáp
lại bằng những lời thỉnh nguyện.
Lạy Chúa,
chúng con tự hào vì Chúa đã ghi danh chúng con làm thành viên thuộc về dân tư tế
của Chúa. Được gọi bước ra khỏi bóng tối mà vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền,
chúng con cất lên tiếng nói của chúng con trong lời cầu nguyện tư tế. Trên đồi
Canvê, Chúa đã dang rộng cánh tay để cầu nguyện trong tư cách là Thượng Tế và
là Đấng Trung Gian của chúng con. Đau khổ và cái chết của Chúa là những biểu hiện
sâu sắc nhất chức tư tế của Chúa. Ở đây và bây giờ, trên đồi Canvê của Thánh lễ,
chúng con, những tín hữu của Chúa, đã được mặc trên mình chiếc áo rửa tội và thể
hiện chức năng tư tế của mình, chúng con làm vang vọng trong lời nói của chúng
con và bằng ngôn ngữ ngày nay chính lời cầu nguyện của Chúa trong tư cách tư tế.
Lạy Chúa
Giêsu, chúng con cầu nguyện cho Hội Thánh. Xin Chúa hãy quy tụ và hiệp nhất Hội
Thánh nên một; ước chi Kitô hữu không còn nói ra những lời chống trọi phản
kháng nhau, không làm những gì gây tổn thương sự hiệp nhất của Hội Thánh. Chúng
con cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo tinh thần của chúng con, cho những người nắm
giữ chức vụ công cộng, cho những ai đang bị đè nặng bởi lương tâm của họ, cho
những người đang phải đau khổ vì thiên tai. Lạy Chúa Giêsu, danh sách các ý
nguyện của chúng con là một kinh cầu vô tận.
Lời nguyện
tín hữu do đó cũng là một lời chuyển cầu đại đồng. Chúng con cầu nguyện cho mọi
dân tộc, bất cứ ai và bất cứ nơi nào họ hiện diện, cho mọi loài thụ tạo được an
khang. Chúng con cầu nguyện trong tư cách là Hội Thánh duy nhất, thánh thiện,
công giáo và tông truyền. Đó là lý do tại sao, ngay cả khi cộng đoàn phụng vụ của
chúng con nhỏ bé hoặc cách xa những Kitô hữu khác, lời cầu nguyện của chúng con
vừa cho chính chúng con lại vừa cho cả Hội Thánh hoàn vũ. Khi thế giới đang
trong tình trạng dầu sôi lửa bỏng, liệu chúng con có thể cầu nguyện cho những
nhu cầu tầm thường của mình không? Khi cầu nguyện trong tư cách Hội Thánh,
chúng con học cách quên đi những khó chịu bất tiện nho nhỏ của cá nhân mình
trong cuộc sống. Lạy Chúa Giêsu, xin dạy cho chúng con biết loại kinh nguyện
nào đáng được Chúa Cha chấp nhận nhất: đó là cầu nguyện cho người khác, tức là
cầu nguyện cho toàn thể Hội Thánh và thế giới.
Ngày thứ
Sáu Tuần Thánh, các lời chuyển cầu long trọng là lời đáp của chúng con cho việc
loan báo Tin Mừng về biến cố Chúa chịu nạn và chịu chết. Sự liên kết giữa chúng
với nhau rất mạnh mẽ: lời cầu nguyện của chúng con được ghép với Lời Chúa. Nhờ
sự bảo đảm chắc chắn bởi đức tin mà Chúa Cha đoái nhìn đến những lời cầu nguyện
của chúng con bởi vì Người phát hiện trong đó hình ảnh của Chúa, Đấng chịu đóng
đinh vì loài người chúng con. Mỗi ngày trong Thánh lễ, chúng con thu thập ý
nguyện qua những lời chúng con nghe được và đọc được. Chúng con mặc cho chúng bằng
sức mạnh của Lời Chúa. Chúng con nâng chúng lên như là chính lời của Chúa mà trở
nên xác phàm trong kinh nguyện chuyển cầu của Hội thánh. Lạy Chúa Giêsu, chúng
con nài van Chúa lắng nghe lời cầu nguyện tư tế của chúng con, bởi vì lời nguyện
cầu này đại diện cho những giọt nước mắt và tiếng kêu xin khẩn nài của chính
Chúa trong tư cách tư tế. Amen.
[2] X. Robert
Cabié, “The Eucharist”, trong The Church at Prayer, vol. 2, ed. A. G. Martimort, trans.
Matthew J. O’Connell (Collegeville: The Liturgical Press, 1986), 16.
[3] X. Joseph A. Jungmann, SJ, The Mass of the Roman Rite: Its Origins and
Development (Missarum Sollemnia), vol. 1, trans. Francis A. Brunner (New York : Benziger Brothers, 1951), 480.
[4] X. Committee of Liturgical Experts, The Commentary on the Constitution and on
the Instruction on the Sacred Liturgy, eds. A. Bugnini & Braga, trans.
Vincent P. Mallon (Rome: Edizione Liturgiche, 1964/ NY: Bezinger Brothers,
Inc., 1965),141.
[7] John D. Laurance (ed.), The Sacrment of the Eucharist (Collegeville: The Liturgical Press,
2012), 143.
[13] X. Chủ yếu trích từ Ant. Nguyễn Đức Khiết, “Lời nguyện cho mọi
Tín hữu: Ý Nghĩa và Cách Soạn Thảo”, trong http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Phungvu/01SoanLoiNguyenGD.htm
[14] Suy tư Thần
học và Mục vụ Chuẩn bị cho Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 50 tại Dublin,
Ireland
(10 – 17/06/2012), 76.
[15] Bernard Botte, Truyền
thống Tông đồ của Hippôlytô thành Rôma, s. 21 (Aschendorff Munster,
1989), 55.
[16] X. DeGrocco, A Pastoral Commentary on the
General Instruction of the Roman Missal (Chicago: Liturgy Training Publication, 2011), no. 69; Emminghaus, The Eucharist: Essence, Form, Celebration (Collegeville: The Liturgical Press, 1997), 154; Lucien Deiss, Visions of Liturgy and Music for a New
Century, trans. Jane M. A. Burton (Collegeville: The Liturgical Press,
1996), 186-187; McNamara, “Prayer
of the Faithful; Kiss of Peace” (11 March
2014), https://www.ewtn.com/catholicism/library/prayer-of-the-faithful-kiss-of-peace-4716.
[17] X. McNamara, “Mass Intentions” (03 Aug. 2005); DeGrocco,
A Pastoral Commentary on the General Instruction of the Roman Missal, no. 355.
[18] X. Pierre Tournier, “Lời Cầu nguyện Phổ
quát,” trong Họp nhau Cử hành Phụng vụ, tập II, 288; Jean-Louis Angué, “Le Devenir de la Prière
Universelle,” La Maison-Dieu, 192 (1992): 48-49.
[21] X. Jean-Louis Angué, 58; Introduction to Order of Mass: A Pastoral Resource of the Bishops'
Committee on the Liturgy [DNTL] (Collegeville: The Liturgical Press, 2004), 98; Nguyễn
Thế Thủ, Hướng dẫn Cử hành Phụng vụ,
109-111.
[23] X. McNamara, “Prayers
of the Faithful” (03 Oct. 2017), https://www.ewtn.com/catholicism/library/prayers-of-the-faithful-4870; Pierre
Tournier, 283; Jean-Louis Angué, 58.
[24] X. Adolf Adam, The Eucharist Celebration: The Source and Summit of Faith, trans.
Robert C. Schultz (Collegeville: The
Liturgical Press, 1994), 50; X. DeGrocco, A Pastoral Commentary on the
General Instruction of the Roman Missal, no. 71; Pierre Tournier, 283; Jean-Louis Angué, 58.
[25] Peter Elliot, Ceremonies of the Modern Roman
Rite (San Francisco:
Ignatius Press, 2004), no. 392; X. DeGrocco, A Pastoral Commentary on the General Instruction of the Roman Missal,
no. 94.
[26] X. DeGrocco, The Church at Worship (Chicago:
Liturgy Training Publication, 2013), 130; Pierre Tournier, 285.
[27] X. DeGrocco, A Pastoral Commentary on the
General Instruction of the Roman Missal, nos. 71, 138; Turner, Let
Us Pray, no. 391; Peter
Elliot, no. 266.
[28] X. DeGrocco, A Pastoral Commentary on the
General Instruction of the Roman Missal, no. 71; Pierre Tournier, 278.
[29] X. DNTL 98; DeGrocco, A Pastoral Commentary on the General Instruction of the Roman Missal,
no. 71.
[31] X. McNamara, “Ad-libbing the Prayers of the Faithful”
(20 July 2004), https://www.ewtn.com/catholicism/library/adlibbing-the-prayers-of-the-faithful-4631.