WHĐ (26.12.2023) - Ngày 5 tháng 8 năm 2023, Ủy ban Phụng tự Hội đồng Giám mục Việt Nam
đã thông báo về chương trình Đào tạo phụng vụ cho Dân Chúa gồm: (1) Thực hành
mục vụ và (2) Kiến thức phụng vụ. Để đào sâu hiểu biết về kiến thức phụng vụ, Ủy
ban Phụng tự trân trọng giới thiệu loạt bài về cử hành Thánh Thể do linh mục
Giuse Phạm Đình Ái, SSS tổng hợp và biên soạn.
BÀI 12: BÀI ĐỌC I & BÀI ĐỌC II
I. VĂN
KIỆN
- Dứt lời
nguyện nhập lễ, mọi người ngồi. Linh mục có thể nói mấy lời rất vắn tắt, dẫn
tín hữu vào phụng vụ lời Chúa. Thầy/người đọc sách tiến tới giảng đài đã có
Sách Bài đọc đặt sẵn từ trước Thánh lễ, đọc bài thứ nhất, mọi người lắng nghe.
Đến cuối, thầy/người đọc sách xướng lời tung hô: Đó là lời Chúa, mọi người đáp
lại: Tạ ơn Chúa. Bấy giờ, có thể tùy nghi giữ thinh lặng giây lát, để mọi người
suy gẫm những lời đã nghe (Quy chế Tổng quát Sách lễ
Rôma [QCSL], số 128).
- Sau
đó, nếu có Bài đọc thứ hai trước bài Tin Mừng, thì độc viên cũng đọc tại giảng
đài như trên, mọi người ngồi nghe và đến cuối thì đáp lời tung hô, như đã nói
trên (x. số 128). Rồi, có thể tùy nghi giữ thinh lặng giây lát (QCSL 130).
II/ LỊCH
SỬ
Trong hội đường Do Thái xưa, người ta vẫn lần
lượt đọc các sách Luật cách liên tục từ phần này sang phần khác (lectio continua); còn các sách Ngôn sứ
thì được đọc theo kiểu chọn lọc (lectio
selecta). Cho đến nay, Hội Thánh vẫn thừa kế cách thức cử hành Lời Chúa như
vậy.[1]
Thời Hội Thánh sơ khai, các sách Cựu Ước được
công bố trong hội đường và ở những nơi khác nhau (nhà tư hay nghĩa trang) khi nổi
nên chiến dịch bách hại Kitô giáo.[2]
Ban đầu, các tín hữu đọc sách Luật và sách các Ngôn sứ, xen kẽ bằng những Thánh
vịnh hay những bài Thánh ca Cựu Ước khác. Dần dần, Hội Thánh đã thêm vào những
bài Tân Ước, đó là những Bút tích của các
tông đồ (Cv 4,42; 2 Tm 2,2). Bài
kết thúc luôn luôn là Tin Mừng, được coi như đỉnh cao tỏa sáng trên các Bài đọc
khác, và nhờ ánh sáng này, những sự việc được nói đến trong các sách khác trở
nên sáng tỏ. Điều này thật đúng với lời thánh Augustinô (354-430): “Tân Ước ẩn tàng trong Cựu Ước và Cựu Ước ẩn
tàng trong Tân Ước” và cũng phù hợp với tư tưởng của thánh Irênê (130-200):
“Những gì Môsê viết đều là những lời của
Chúa Kitô.”[3]
Thật ra, không có sự đồng nhất giữa các gia
đình phụng vụ về số lượng các Bài đọc được công bố trong mỗi Thánh lễ cũng như
việc lựa chọn những đoạn Sách Thánh nào cho mỗi mùa phụng vụ hay mỗi Thánh lễ.[4]
Tuy nhiên, các nghi điển phụng vụ lại có hai điểm đồng nhất này: [i] Trong Thánh lễ, chỉ được công bố những
bản văn trích từ Sách Thánh;[5]
[ii] Luôn phải có ít là hai Bài đọc,
và Bài đọc sau cùng luôn phải là bài Tin Mừng.
Việc công bố hơn một Bài đọc Sách Thánh trước
bài Tin Mừng đã được ghi nhận trong tài liệu Hiến chế các Tông đồ (năm 380). Lúc bấy giờ, dường như trong phần
Phụng vụ Lời Chúa, hai Bài đọc trích từ Cựu Ước được công bố và theo sau là
Thánh vịnh đáp ca. Tiếp đến, hai Bài đọc Tân Ước, rồi cuối cùng là bài Tin Mừng.[6]
Theo thánh Justinô, vào thế kỷ II, Hội Thánh
thường đọc những bài trích từ sách các Ngôn sứ và từ các sách Hồi ký của các tông đồ (Tin Mừng). Tertulianô
(thế kỷ II-III) cũng đề cập đến việc các Kitô hữu đọc các sách Kinh Thánh,
Thánh vịnh (có thể đọc cả Hạnh các vị tuẫn đạo); thời gian cho phép chừng nào
thì các Bài đọc này dài chừng ấy. Rồi khi độc viên ngừng, vị chủ tọa ban giáo
huấn miệng, khuyến dụ tín hữu hãy noi gương bắt chước mà làm những việc tốt đẹp
như mới được nghe. Sau cùng, cộng đoàn dâng lên Chúa những lời nguyện xin.[7]
Từ thế kỷ VI trở đi, đối với phụng vụ Rôma, chỉ
hai Bài đọc được công bố trong Thánh lễ: Thánh thư và Tin Mừng. Từ thế kỷ XII,
các nghi điển Tây phương bắt chước phụng vụ tại Rôma nên cũng chỉ có hai Bài đọc
trong các Chúa nhật mùa Chay và mùa Phục sinh.
Sang thời kỳ Công đồng Trentô, do nhận thấy số
các Bài đọc trong vòng một năm quá ít, một đề nghị đã được đưa ra: đó là đưa
thêm 3 Bài đọc trích từ thư của thánh Phaolô và 3 bài Tin Mừng vào Thánh lễ các
ngày trong tuần. Nhưng dự án này bất thành.[8]
Vì vậy, Sách lễ Rôma 1570 vẫn chỉ còn
chứa đựng những Bài đọc bị cắt tỉa và thiếu sức sống. Tình trạng này kéo dài
cho tới thời gian canh tân phụng vụ của Công đồng Vaticanô II.
Một trong những đóng góp lớn nhất Công đồng
Vaticanô II thực hiện trong lãnh vực phụng tự chính là thúc đẩy cho ‘bàn tiệc Lời Chúa được dọn ra dồi dào hơn
cho các tín hữu, mở ra cho họ những kho tàng Kinh Thánh phong phú hơn’ (Hiến
chế Phụng vụ Thánh [PV], số 51). Vì vậy, sau Công đồng Vaticanô II, Hội Thánh
đã sớm cho tu chính và xuất bản cuốn “Mục
lục Sách Bài đọc cho Thánh lễ” mới (Ordo
Lectionum Missae) vào ngày 25/05/1969, trong đó Hội Thánh trở lại truyền thống
xa xưa, tức là: [i] Cho công bố ba Bài đọc vào các Thánh lễ Chúa
nhật/lễ trọng thay vì chỉ hai bài; [ii]
Công bố hai Bài đọc trong những lễ khác. Hội Thánh phân phối các Bài đọc và cho
công bố các sách khác nhau trong bộ Kinh Thánh theo những cách thức sau: Cách
thứ I là Lectio continua (Đọc liên tục):
đọc liên tục từ quyển này đến quyển khác, từ chương này đến chương khác; Cách
thứ II là Lectio semi - continua (Đọc bán liên tục): cũng đọc Sách Thánh theo
thứ tự các quyển và chương nhưng có thể bỏ qua những câu, đoạn, chương không
thích hợp; Cách thứ III là Lectio antologica: chọn lọc những đoạn
thích hợp với đề tài của mùa phụng vụ hay ngày lễ.[9]
Bài đọc II luôn trích từ bản văn Tân Ước và được
công bố theo cách đọc liên tục (lectio
continua). Đôi khi bản văn Tân Ước
được chọn công bố theo cách bán liên tục (semi-lectio
continua). Thông thường Hội Thánh
chủ đích kết nối chủ đề giữa Tin bài Mừng và Bài đọc I, Bài đọc II thường không
liên quan, vì nó tuân theo kiểu đọc bán liên tục riêng biệt. Tuy nhiên, cả 3
Bài đọc đều tham dự vào một mục đích chung là công bố ơn cứu độ của Thiên Chúa
trong Chúa Kitô.[10]
III/ MỤC
LỤC CÁC BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ, SÁCH BÀI ĐỌC & SÁCH TIN MỪNG
1/ Mục Lục Các Bài đọc Trong Thánh
Lễ
Nhằm thực thi ý định và lệnh truyền của Công đồng
Vaticanô II (PV 35, 51) cuốn “Mục lục Các Bài đọc Thánh lễ” [BĐ] (Ordo Lectionum Missae) cho nghi lễ Rôma
đã được tu chính và xuất bản vào ngày 25/05/1969. Tiếp đến, ngày 21/01/1981, Hội
Thánh cho công bố ấn bản mẫu thứ hai. Cuốn Ordo
Lectionum Missae mới này hướng dẫn như sau:
(1) Liên quan đến ngày Chúa nhật và lễ trọng (BĐ 66-68)
(a) Các Bài đọc cho Chúa nhật được
sắp xếp theo chu kỳ 3 năm (A-B-C) và được đọc theo hình thức bán liên tục (lectio semi - continua) hầu các tín hữu
có thể nghe được những đoạn văn quan trọng nhất của Kinh Thánh (BĐ 58, 60).
Tính chất đặc thù của mỗi năm dựa trên Sách
Tin Mừng: Năm A dựa trên Tin Mừng
theo thánh Matthêu; Năm B, theo thánh Maccô, nhưng vì Tin Mừng theo thánh Maccô quá ngắn, không đủ phân phối
cho một năm, nên chương 6 của Tin Mừng
theo thánh Gioan sẽ được phân phối để đọc trong các Chúa nhật XVII- XXVI
của năm B; Năm C, theo thánh Luca.
(b) Ba Bài đọc của các Chúa nhật
mùa Vọng, mùa Chay hay lễ trọng thường liên kết với nhau bởi vài tư tưởng
chung. Còn trong các Chúa nhật Thường niên, chỉ có sự tương đồng ý tưởng giữa
bài Cựu Ước và bài Tin Mừng.
(c) Trong các ngày lễ trọng cũng
có ba Bài đọc: Cựu Ước, thư các tông đồ, Tin Mừng, trừ mùa Phục sinh cả ba bài
đều lấy trong Tân Ước. Nhờ đó, chúng ta thấy rõ mối duy nhất của hai Giao Ước,
của lịch sử cứu độ, mà trọng tâm là Chúa Kitô được kính nhớ trong mầu nhiệm Vượt
qua của Người.
(2) Liên quan đến ngày thường trong tuần (BĐ 69)
(a) Khối “Riêng” (mùa Vọng,
Giáng sinh, Chay và Phục sinh) gồm một chu kỳ với 2 Bài đọc: Bài đọc I (Cựu Ước
hoặc Tân Ước) và bài Phúc Âm. Giữa 2 Bài đọc này, có sự tương đồng về chủ đề
(hoà hợp ý nghĩa).
(b) Khối “Thường niên” gồm 2 Bài
đọc (Bài đọc I + Tin Mừng). Bài đọc I được chia theo chu kỳ 2 năm và được sắp xếp
theo nguyên tắc liên tục tương đối. Bài Tin Mừng dùng chung cho cả năm chẵn lẫn
năm lẻ theo nguyên tắc liên tục tương đối, nhưng Bài đọc I thay đổi (theo năm
chẵn và năm lẻ) và được trích hoặc từ Cựu Ước hoặc từ Tân Ước. Không có sự
tương đồng về đề tài giữa 2 Bài đọc.
2/ Sách
Bài đọc
Cuốn “Mục lục Các Bài đọc Thánh lễ” (Ordo Lectionum Missae) định ra danh
sách/mục lục tất cả các Bài đọc Kinh Thánh dùng trong cử hành thánh lễ nhằm
cung cấp cho các tín hữu sự hiểu biết toàn bộ Lời Chúa, theo một lối giải thích
phù hợp (BĐ 60). Chúng được sắp xếp theo thứ tự lịch phụng vụ với các trích dẫn
nguồn [chứ không có bản văn Kinh Thánh]. Dựa vào “Mục lục Các Bài đọc Thánh lễ”,
HĐGM sẽ sử dụng bản dịch/bản văn Kinh Thánh của HĐGM hay do HĐGM chọn để hình
thành và xuất bản Sách Bài đọc (BGL
825#1; 838#2, 3) dùng cho thánh lễ. Vì số lượng các Bài đọc quá lớn, nên thường
phải in Sách Bài đọc ra thành nhiều
cuốn (BĐ 112-113). Khi cử hành phụng vụ, các sách phụng vụ, chẳng hạn như Sách Bài đọc cũng là dấu chỉ/biểu tượng
cho những thực tại siêu nhiên, nên phải liệu sao cho chúng thật xứng đáng,
trang nhã và đẹp mắt (PV 122; BĐ 35).
3/ Sách
Tin Mừng
Trong khi Sách
Bài đọc chứa đựng cả Bài đọc I, thánh vịnh đáp ca, Bài đọc II, tung hô Tin
Mừng và bài Tin Mừng, thì Sách Tin Mừng
chỉ chứa đựng những bài Tin Mừng. Ngoài khác biệt về nội dung, vì loan báo Tin
Mừng luôn được coi là chóp đỉnh của phụng vụ Lời Chúa, cho nên truyền thống cả
Đông lẫn Tây luôn dành cho Sách Tin Mừng
một sự phân biệt nào đó với các Sách Bài
đọc như được đóng cẩn thận và trang trí mỹ thuật đặc biệt hơn (BĐ 36). Đây
chính là sách dùng trong cuộc rước nhập lễ (x. QCSL 172, 117, 120d), rước tung
hô Tin Mừng (QCSL 133, 175), trao cho ứng viên phó tế trong lễ truyền chức phó
tế, đặt và giữ trên đầu ứng viên giám mục trong lễ truyền chức giám mục.[11]
IV/ Ý
NGHĨA
Thiên Chúa mặc khải tiệm tiến trong lịch sử cứu
độ. Các sách Cựu Ước (Luật, Lịch sử, Ngôn sứ và Giáo huấn) không phải chỉ viết
riêng cho dân Israel, nhưng viết cho toàn thể nhân loại.[12]
Bởi vậy, các Bài đọc Cựu Ước được chọn lọc để công bố trong Thánh lễ giúp tín hữu
xác tín rằng chỉ có một Thiên Chúa đã và đang hoạt động trong cả thời kỳ Cựu Ước
lẫn Tân Ước và Thiên Chúa của Israel cũng là Thiên Chúa của người Kitô hữu. Đọc
và lắng nghe Lời Chúa trong Cựu Ước để tín hữu nhớ lấy những hành động của
Thiên Chúa không bị chôn vùi trong quá khứ, để họ thấy rõ mối liên hệ chặt chẽ
của hai Giao Ước, giúp họ hợp nhất với dân của Cựu Ước như một dân của Chúa.[13]
Đọc và lắng nghe Lời Chúa trong Cựu Ước còn
giúp tín hữu nhận ra cách tỏ tường tình yêu Thiên Chúa thể hiện qua lịch sử được
mặc khải qua các tổ phụ, các ngôn sứ và sau cùng là qua Đức Giêsu Kitô như thế
nào (x. Dt 1,1-4). Thiên Chúa nói với dân của Người (cả Cựu Ước lẫn Tân Ước), để
họ biết được kế hoạch tình yêu của Người mà thờ phượng, tôn vinh, tạ ơn và đền
tội. Lời nói tối hậu của Thiên Chúa là chính Đức Giêsu Kitô. Muốn hiểu được lời
cuối cùng của Thiên Chúa, phải nghe những lời đầu tiên và đã qua của Người. Đó
chính là nghe các Bài đọc Cựu Ước.[14]
Khi nghe đọc Bài đọc II, thường là thư các
tông đồ, tín hữu được đón nhận trực tiếp lời giáo huấn của các tông đồ, chính
các ngài truyền lại cho tín hữu giáo huấn của Đức Giêsu Kitô. Việc công bố thư
các tông đồ trong phụng vụ soi sáng cho các tín hữu biết đón nhận ý Chúa và hướng
dẫn Hội Thánh qua mọi thời đại vì thư các tông đồ cũng chính là Lời Chúa được mặc
khải. Ngoài ra điều này còn chứng tỏ mãnh liệt rằng Hội Thánh của Chúa Kitô được
xây dựng trên nền tảng các tông đồ.[15]
V/ ĐỀ
NGHỊ MỤC VỤ
1) Chỉ sử dụng duy nhất một giảng đài trong
nhà thờ để nói lên tính duy nhất của Lời Chúa cũng giống như chỉ có một bàn thờ
nhằm biểu tỏ một Chúa Kitô và một Hy Lễ Tạ Ơn của Hội Thánh. Tại giảng đài chỉ đọc các bài đọc, thánh vịnh
đáp ca và bài công bố Tin Mừng Phục sinh. Cũng tại đó, có thể giảng và đọc lời
nguyện chung, tức là lời nguyện tín hữu. Để giữ sự trang nghiêm của giảng đài,
chỉ có thừa tác viên mới được bước lên đó (x. QCSL 309; BĐ 32-34; LNGM 51); đối
với các phần việc khác như dẫn lễ/đánh nhịp/thông báo… thì sử dụng một cái bục/cái
giá khác và chúng phải thật đơn giản hơn mọi mặt so với giảng đài, nghĩa là
không nên làm giống hay trội hơn giảng đài.[16]
2) Vì phẩm giá của Lời Chúa, không nên thay thế
những Sách Bài đọc dùng trong các cử
hành phụng vụ với những trợ giúp mục vụ khác, ví dụ, với những tờ in cho giáo
dân chuẩn bị bài đọc hoặc sách dành cho việc suy niệm (BĐ 37).
3) Có thể đọc những lời dẫn trước các Bài đọc,
đặc biệt là trước Bài đọc I/Bài đọc II. Lời dẫn phải được soạn kỹ trước và phải
vắn tắt rõ ràng: không dài dòng hơn chính Bài đọc, bao gồm một hay hai ý tưởng
liên quan đến buổi lễ là đủ (x. QCSL 105b). Lời dẫn phải giống như lời “khai vị”
làm cho người tham dự thèm khát lắng nghe Lời Chúa sắp được công bố nhưng không
phải là bài suy niệm, bài giảng hay bài huấn dụ (BĐ 15, 42; QCSL 31).[17]
4) Theo truyền thống và quy định phụng vụ, thừa
tác viên đã lãnh tác vụ đọc sách phải được ưu tiên trước hết cho nhiệm vụ công
bố hai Bài đọc trước Tin Mừng. Khi họ không hiện diện, các tín hữu khác với những
điều kiện cần thiết như có khả năng và đoàn sủng để thi hành chức năng này cũng
như được chuẩn bị kỹ càng được ủy thác làm độc viên Sách Thánh để đọc thay (x.
QCSL 99, 101; BĐ 49, 51-52, 55; Paul VI,
Ministeria quædam, August 15, 1972, § V).[18]
Độc viên Sách Thánh thuộc về một đội/một nhóm chuyên đọc Sách Thánh của giáo xứ,
chứ không phải bị chỉ định đột xuất.[19]
Vì là người công bố và chuyển đạt Lời Chúa cho cộng đồng tín hữu, cho nên ngoài
thái độ cung kính và cách ăn vận, phục sức đứng đắn chỉnh tề, độc viên còn phải
thấu hiểu Bài đọc và có khả năng truyền thông Lời Chúa.[20]
Độc viên Sách Thánh không những cần chuẩn bị cho việc công bố mà còn phải chuẩn
bị về mặt thiêng liêng trước Thánh lễ.[21]
5) Y phục cho thừa tác viên đọc Sách Thánh có
thể là áo alba (trắng dài), tu phục của các dòng tu (đối với tu sĩ) hay thường
phục xứng đáng được Hội Đồng Giám Mục chấp thuận cách hợp pháp nhằm mục đích vừa
diễn tả chức vụ của thừa tác viên vừa diễn tả lòng tôn kính và trang trọng của
nghi lễ thánh. Tại Việt Nam, HĐGM dạy rằng ngoài áo trắng dài chung cho các thừa
tác viên phụng vụ, các thừa tác viên nam không chức thánh, có thể mặc âu phục với
cà vạt hoặc áo dài khăn đóng; nữ có thể mặc áo dài thông thường hoặc áo dài với
khăn vành truyền thống Việt Nam (x. Lễ
Nghi Giám Mục [LNGM], số 65; QCSL 336, 335; BĐ 54).
6) Nếu ở vị trí gần/sát cung thánh, phải chờ
cho chủ tế đọc xong lời nguyện nhập lễ và cộng đoàn đáp lại Amen, tức là sau
khi đã kết thúc phần nghi thức đầu lễ, thừa tác viên/độc viên Sách Thánh mới di
chuyển tiến đến giảng đài (x. NTTL 10; QCSL 32; LNGM 137) và công bố Lời Chúa ở
đây chứ không ở bất kỳ nơi đâu khác (x. QCSL 58, 128, 130; BĐ 16, 33). Nếu ở vị
trí xa cung thánh, thừa tác viên/độc viên Sách Thánh phải di chuyển sớm hơn
đang khi cộng đoàn hát khúc cuối của kinh thương xót/kinh vinh danh và tạm đứng
ngay trước cung thánh cho tới khi cộng đoàn đáp Amen thì mới tiến lên giảng
đài. Chỉ khi quan sát thấy cả cộng đoàn đã ngồi yên trong thinh lặng chăm chú,
độc viên mới bắt đầu công bố.[22]
7) Thừa tác viên công bố Bài đọc II không lên
giảng đài trước khi bài Thánh vịnh đáp ca kết thúc (NTTL 12).
8) Thay vì đọc, độc viên Sách Thánh có thể hát
Bài đọc, tuy nhiên phải hát sao cho không lấp lời, nhưng làm cho lời dễ nghe
hơn, phải tôn trọng vần điệu và sự tinh túy của ngôn ngữ (BĐ 14).[23]
Trong những dịp lễ đặc biệt/trọng thể, cho dù thừa tác viên không hát chính
Bài đọc thì vẫn nên hát câu “Đó là Lời Chúa” khi kết thúc Bài đọc vì đây là
hình thức thích hợp hơn đối với lời tung hô.[24]
Độc viên hay thậm chí một người khác có thể hát câu “Đó là Lời Chúa” và cộng
đoàn hát đáp lại “Tạ ơn Chúa”. Bằng cách này, cộng đoàn đang tụ họp tỏ lòng
cung kính trong tinh thần đức tin và tâm tình tri ân đối với Lời Chúa vừa tiếp
nhận (BĐ 18).
9) Khi lễ kính được nâng lên bậc lễ trọng thì
thêm Bài đọc lấy từ phần Chung lễ các thánh (tử đạo, mục tử, đồng trinh…);[25]
còn khi gặp lễ nhớ không có Bài đọc riêng thì đọc theo ngày trong tuần (x. QCSL
357; BĐ 70, 83-84). Khi lễ trọng và lễ kính rơi vào các ngày trong tuần, phải
ưu tiên công bố những Bài đọc của lễ trọng và lễ kính.[26]
10) Khi công bố xong Bài đọc, độc viên nên dừng
khoảng 15-30 giây trước khi loan báo “Đó là Lời Chúa”, và nên chờ cộng đoàn đáp
lại “Tạ ơn Chúa” xong [nếu không ở lại đọc/hát Thánh vịnh đáp ca] như là dấu chỉ
cộng đoàn lắng nghe và tán thành Lời Chúa được công bố,[27]
thì thừa tác viên mới từ từ rời khỏi giảng đài, di chuyển về lại chỗ ngồi của
mình (x. NTTL 10; QCSL 59, 128).[28]
11) Khi thừa tác viên đang công bố Lời Chúa, mọi
người phải hướng về giảng đài và chăm chú lắng nghe (QCSL 309). Do đó, không cầm
sách dò theo hay cùng đọc chung với nhau vì Thánh lễ không phải là lớp giáo lý
và càng không phải là nơi tập đọc Sách Thánh.
12) Sự thinh lặng sau khi lắng nghe các Bài đọc
I/II (x. QCSL 45, 56) có chức năng giúp cho các tín hữu đón nhận được “âm thanh
trọn vẹn từ tiếng nói của Chúa Thánh Linh” và hợp nhất kinh nguyện cá nhân của
họ “một cách gần gũi hơn với Lời Chúa và tiếng nói công khai của Hội Thánh.” [29]
VI/ SUY
NIỆM
Lạy Chúa Giêsu, chúng con nghe thấy giọng đọc
của độc viên Sách Thánh, nhưng thực ra chúng con đang lắng nghe chính lời của
Chúa. Tiếng đọc của độc viên vang tới tai chúng con, và ước chi Lời Chúa chạm đến
tâm trí chúng con. Ước gì lòng chúng con bừng cháy lên ngọn lửa mến yêu Lời
Chúa như kinh nghiệm của hai môn đệ trên đường Emmau, khi Chúa đồng hành và giải
thích Sách Thánh cho họ.
Khi ngồi lắng nghe Bài đọc, đức tin của chúng
con vẫn thường xuyên bị thử thách. Một vài điều có thể làm chúng con sao nhãng,
mất tập trung vào Lời Chúa, đầu óc có lúc lang thang đây đó …. Lạy Chúa, xin
giúp chúng con vượt qua những cản trở như thế. Xin nhắc cho chúng con biết khi
Kinh Thánh được công bố thì Chúa đang nói với cộng đoàn phụng vụ; Chúa hiện diện
trong Lời Chúa; Chúa vẫn đang công bố Tin Mừng thứ tha, yêu thương và bình an.
Xin ban cho chúng con một đức tin sống động để cảm nhận sự hiện diện của Chúa
khi Lời Chúa được vang lên từ những trang Kinh Thánh của cả Cựu Ước lẫn Tân Ước.
Lạy Chúa, Chúa là Ngôi Lời đã hóa thành nhục
thể và cư ngụ giữa chúng con. Chúa đã trở về bên lòng Chúa Cha nhưng Chúa đã
không bỏ rơi chúng con. Chúa ở ngay trong lời mà Hội thánh công bố từ Sách
Thánh. Trong mỗi Thánh lễ, Lời Chúa cùng với Bánh sự sống như của ăn được đặt
trên bàn tiệc của Hội thánh hầu nuôi dưỡng tâm trí và linh hồn chúng con. Lạy
Chúa Giêsu, xin nói Lời Chúa cho chúng con. Xin để chúng con ăn Lời Chúa. Và để
Lời Chúa đốt cháy trái tim chúng con bằng tình yêu của Chúa. Amen.
[3] X. Lawrence J. Johnson, The Mystery of Faith: A Study of the Structural Elements of the Order
of the Mass (Washington DC: FDLC,
NE, 2003), 33.
[6] AC 2:57, 5-9, trích lại trong Paul Turner, At the Supper of the Lamb (Chicago:
Liturgy Training Publications, 2011), 30.
[7] X. Suy
tư Thần học và Mục vụ Chuẩn bị cho Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 50 tại
Dublin, Ireland (10 –
17/06/2012), số 67; Nguyễn Thế Thủ, Phụng
vụ Thánh Thể, 54.
[10] John D. Laurance (ed.), The Sacrament of the Eucharist (Collegeville: The Liturgical Press,
2012), 134.
[11] x. Nghi
Thức Phong Chức Phó Tế, Linh Mục và Giám Mục (Nxb. Đa Ngữ Vaticanô 1968),
p. 28, số 24; p.58, số 21; p.85, số 24; p. 70, số 25; p. 110, số 25.
[17] X. J. Gélineau, Họp Nhau Cử Hành Phụng Vụ, tập II (Đồng Nai: Nxb. Đồng Nai, 1992),
226; Nguyễn Thế Thủ, Giải Đáp Các Vấn Nạn
Về Phụng Vụ, tập I (Hà Nội: Nxb. Tôn Giáo, 2001), 159-160.
[18] X. Monique Brulin, “Các Dịch vụ và Thừa tác vụ
trong Cộng đoàn,” trong Họp nhau Cử hành
Phụng vụ, tập II (Đồng Nai: Nxb Đồng Nai, 1992), 80; André Mutel et Peter Freeman, Cérémonial de la sainte Messe à
l'usage ordinaire des paroisses: suivant le missel romain de 2002 et la
pratique léguée du rit romain, 2nd ed. (Perpignan:
Editions Artège, 2012), 93.
[19] X. Lucien Deiss, It’s the Lord’ Supper: The
Eucharist of Christians (NY: HarperCollins Publishers, 1986), 126-127.
[20] Xc. “Giáo dân với các thừa tác vụ” trong Hợp Tuyển Thần Học số 34, Năm thứ XII
(2002); Joseph Lionel, Speak O Lord (Bangalore:
Asian Trading Corporation, 2006), 67-70.
[21] X. James A. Wallace, The Ministry of Lector (Collegeville: Liturgical Press, 2004), 27;
Joseph Lionel, Speak O Lord (Bangalore:
Asian Trading Corporation, 2006), 61-64.
[22] Paul Turner, Let Us Pray: A Guide to the Rubrics of Sunday Mass (Collegeville:
The Liturgical Press, 2012), no. 281.
[23] X. Catholic Bishops’ Conference of England
and Wales, Celebrating the Mass (London:
Catholic Truth Society and Colloquium [CaTEW] Ltd., 2005), no. 160.
[24] X. DeGrocco, A Pastoral Commentary on the General Instruction of the Roman Missal,
no. 128; Deiss, It’s the Lord’s Supper,
128.
[25] X.
Edward McNamara, “Tìm Bài Đọc 3
cho lễ kính trở thành lễ trọng ở đâu?” (03/07/2018), dg. Nguyễn Ngọc Đa, https://gpquinhon.org/q/phung-vu/tim-bai-doc-3-cho-le-kinh-tro-thanh-le-trong-o-dau-1193.html.
[28] X. Joseph DeGrocco, A Pastoral Commentary on the General Instruction of the Roman Missal,
no. 128.
[29] Edward Foley, “The Structure of the Mass, Its
Elements and Its Parts” trong A
Commentary on the Order of Mass of the Roman Missal, ed. Edward Foley (Collegeville: The Liturgical Press, 2011), 133.