CÂU CHUYỆN “CON LỪA” VÀ “NGƯỜI THỢ VƯỜN
NHO”
(Hành trang giúp người giáo lý viên sống và chu toàn sứ
vụ)
Trương
Đình Hiền
Từ câu
chuyện con lừa: “Vì Chúa cần đến nó”
Đọc chung
trích đoạn Tin Mừng Mc 11,1-3:
Khi Đức
Giê-su và các môn đệ đến gần thành Giê-ru-sa-lem, gần làng Bết-pha-ghê và
Bê-ta-ni-a, bên triền núi Ô-liu, Người sai hai môn đệ và bảo: "Các anh đi
vào làng trước mặt kia. Tới nơi, sẽ thấy ngay một con lừa con chưa ai cỡi bao
giờ, đang cột sẵn đó. Các anh cởi dây ra và đem nó về đây. Nếu có ai bảo: “Tại
sao các anh làm như vậy?”, thì cứ nói là Chúa cần đến nó và Người sẽ gởi lại
đây ngay.” (Mc 11,1-3).
Vài gợi ý suy
tư về “sứ điệp Con Lừa”:
Xin được mượn
đôi dòng suy tư và cảm nghiệm của Đức cố Hồng y Etchegarey[1] về
“câu chuyện con lừa”; con lừa mang Đức Kitô trên lưng để Ngài tiến vào
Giêrusalem hoàn tất hành trình cứu độ theo chương trình và thánh ý Chúa Cha
trong chính tác phẩm Như một con lừa…tôi tiến bước[2]:
Tôi tiến bước,
như con lừa vùng Giêrusalem mà Đấng Mêsia, vào ngày Lễ Lá, đã cưỡi lên như một
ông vua hiền lành. Tôi chẳng biết gì nhiều, nhưng tôi biết là tôi đang cõng Đức
Kitô trên lưng tôi, và tôi thì quá hãnh diện còn hơn được là người Basque. Tôi
cõng Người, nhưng chính Người dẫn tôi đi. Tôi biết rằng Người dẫn tôi đến Vương
Quốc của Người, ở đó tôi sẽ được nghỉ ngơi muôn đời trên những đồng cỏ xanh
tươi.
Tôi tiến bước,
những bước đi chậm chạp. Qua những con đường hiểm trở, cách xa những đại lộ cao
tốc, (…). Khi tôi vấp phải hòn đá, ông Chủ của tôi chắc bị dằn mạnh lắm, nhưng
Ông chẳng hề trách mắng tôi nửa lời…
Tôi tiến bước…lặng
thinh (…). Câu nói duy nhất của Người mà tôi hiểu được thì hình như chỉ để cho
tôi thôi, và tôi cũng chứng thực được điều đó: “Ách của Ta thì dễ mang và sức nặng
của Ta cũng nhẹ.” (Mt 11,30). Cũng như khi, Mẹ của Người ngồi trên lưng tôi, đi
tới Bêlem, vào một buổi tối Giáng Sinh, sao lúc đó tôi vui sướng làm sao (…).
Tôi tiến bước…trong
sướng vui. Khi tôi muốn hát lên, ca ngợi, thì tôi lại thốt ra những tiếng ồn ào
như lũ quỷ, vì tôi lạc giọng. Còn Người, lúc đó, Người cười ngả nghiêng, một tiếng
cười khiến những vết lằn xe trên đường làm nên một điệu vũ, còn những móng chân
tôi thành những đôi dép tung trên gió. Những ngày như thế, tôi thề đấy, chúng
tôi đi được nhiều lắm!
Tôi tiến bước,
tiến bước như một con lừa đang cõng Đức Kitô trên lưng[3].
Sở dĩ chọn hình ảnh
“con lừa” cùng với những “suy tư gợi ý” trên của Đức cố Hồng Y Etchegarey như một
“dẫn khởi” cho bài nói chuyện đầu tiên trong chương trình Huấn Luyện Giáo lý
viên Giáo phận Qui Nhơn, là muốn nhấn mạnh đến vai trò rất cần thiết nhưng đầy
khiêm tốn của người Giáo lý viên trong sứ mệnh và công cuộc “Tông Đồ” của Giáo
Hội.
Vâng, một cách
nào đó, mọi ơn gọi Kitô hữu trong Nhiệm Thể Đức Kitô, đều có chung một “xuất
phát điểm”: lời mời gọi cộng tác vào công trình cứu độ của Thiên Chúa qua Người
Con Một được ban tặng cho thế gian; và ý nghĩa nầy có thể được tóm gọn trong một
câu nói của chính Chúa Giêsu: “VÌ CHÚA CẦN ĐẾN NÓ”.
“Nó” là “Con Lừa”
ngày xưa, hay “Nó” là chính chúng ta hôm nay đều thuộc về lời mời gọi đầy yêu
thương đó!
Sau đây là một
vài gợi ý, như là những định hướng cơ bản cho công cuộc thường huấn
dành cho các Giáo lý viên mang tính vừa “gợi mở nẻo đường linh đạo” vừa “rọi
sáng định hướng mục vụ huấn giáo”. Ước mong sao “cuộc thường huấn giáo dân”
đặc biệt nầy thực sự mang lại hoa trái thiêng cho đời sống đức tin và sứ vụ của
các anh chị em Giáo lý viên và cho sự phát triển phong phú công cuộc truyền
giáo của giáo phận.
I. GIÁO LÝ VIÊN, ANH CHỊ LÀ AI?
(Để xác tín
về về ơn gọi và sứ mệnh cao quý của mình)
Dân gian, đặc biệt,
giới lao động, công nhân, bộ đội… có câu tục ngữ nầy: “Tư tưởng không
thông vác bình không cũng nặng”. Chắc chắn có không ít anh chị em Giáo lý
viên chúng ta rất nhiều khi cảm thấy trách nhiệm làm giáo lý viên thật nặng nề;
đôi khi muốn “bỏ quách” cho nhẹ nhàng thoải mái; và chắc chắn, cũng không ít
người quan niệm việc đi làm giáo lý viên, đi dạy giáo lý… chẳng qua chỉ là công
việc phụ, là “nghề tay trái”, là công việc hay thời gian dư thừa “bố thí” cho
Chúa, cho Giáo Hội, giáo xứ… được bao nhiêu thì được… chứ chẳng phải chuyện cao
quý, quan trọng gì để phải trân trọng, lo lắng, hết mình…
Phải chăng chính
vì những “tư tưởng không thông” đó mà các Giáo lý viên chưa cảm
thấy vui và hạnh phúc, chưa cảm thấy bị “cám dỗ”, thuyết phục hay được “quyến
rũ” như ngôn sứ Giêrêmia[4] khi
dấn thân cho sứ vụ giảng dạy giáo lý. Sau đây là vài gợi ý nhắc lại để giúp
chúng ta một lần nữa ý thức và xác tín về ơn gọi và sứ vụ làm “Giáo Lý Viên” của
mình.
1. Tham dự vào chức linh mục của
Chúa Kitô: Giáo lý viên là Kitô hữu.
1.1. Ơn gọi
Kitô hữu trên nền tảng Bí tích (Thánh Tẩy và Thêm Sức):
Có một điểm giáo
lý tuy xưa cũ nhưng các Giáo lý viên cũng cần phải xác tín trở lại và thường
xuyên; bởi vì đây là một “ân ban cao cả” làm nên phẩm giá tuyệt vời cho tất cả
những ai mang danh “Kitô hữu”, trong đó có các Giáo lý viên.
Thật vậy, mọi
thành phần trong Hội Thánh (Giáo Hoàng, Giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân…) đều
có chung một tước hiệu cao cả “nói lên ơn cứu độ”, diễn tả một hồng ân vĩ đại…
đó là Kitô hữu (Christifideles); tất cả đều thuộc “hàng tư tế thánh”,
cùng “tham dự vào chức tư tế duy nhất của Chúa Kitô”. Ấn tín của bí tích Rửa Tội
và Thêm Sức đã làm cho mọi thành phần Dân Chúa đều có được một phẩm giá cao cả
như nhau, chẳng bên trọng chẳng bên khinh, như Hiến chế Giáo Hội và Sách
Giáo lý Hội Thánh Công Giáo khẳng định:
“Thật vậy, nhờ
sự tái sinh và việc xức dầu Thánh Thần, những người đã nhận ơn Thánh tẩy được
thánh hiến trở nên ngôi nhà thiêng liêng và hàng tư tế thánh… Chức tư tế cộng đồng
của các tín hữu và chức tư tế thừa tác hay phẩm trật…. theo cách thức riêng của
mình, mỗi bên đều tham dự vào chức tư tế duy nhất của Đức Kitô” (GH 10). (Xem thêm: GH 7)[5].
“Như vậy,
toàn thể cộng đoàn các tín hữu là tư tế. Các tín hữu thực thi chức tư tế do
Phép Rửa qua việc họ tham dự, mỗi người theo ơn gọi riêng của mình, vào sứ vụ của
Đức Kitô là Tư Tế, Tiên tri và Vương đế. Nhờ bí tích Rửa tội và Thêm Sức, các
tín hữu “được thánh hiến để trở nên…một hàng tư tế thánh” (GLHTCG 1546).
1.2. Ơn gọi của Giáo
lý viên giáo dân:
Đó chính là “ơn
gọi đặc thù của giáo dân”: sống giữa đời, như men như muối giữa mọi hoàn cảnh
và môi trường cuộc sống: “Còn giáo dân, do chính ơn gọi đặc biệt của
mình, có bổn phận tìm kiếm vương quốc Thiên Chúa bằng cách dấn thân vào các việc
trần thế và xếp đặt chúng theo ý Thiên Chúa. Họ sống giữa trần thế, nghĩa là giữa
tất cả và từng nghề nghiệp cũng như công việc trần thế, trong môi trường thông
thường của cuộc sống gia đình và xã hội, tất cả những điều đó như thể đã dệt
thành cuộc sống của họ. Trong khung cảnh đó, họ được Thiên Chúa mời gọi, để nhờ
việc chu toàn những bổn phận riêng của mình và được tinh thần Tin Mừng hướng dẫn,
họ trở nên như nắm men góp phần vào việc thánh hoá thế giới từ bên trong, và
như thế, họ làm cho người khác nhận biết Đức Kitô, đặc biệt, bằng chứng từ đời
sống toả sáng đức tin, đức cậy, đức mến.” (GH 31). (x. Sắc lệnh Tông Đồ
giáo dân số 2)[6].
2. Đặc sủng “giáo lý viên” và “Thừa
tác vụ cổ kính”:
2.1. Đặc sủng
“giáo lý viên”:
Phát xuất từ một
ơn gọi chung “Kitô hữu”, các Giáo lý viên được trao ban một ân huệ đặc biệt của
Chúa Thánh Thần, một “đặc sủng” được Hội Thánh nhìn nhận và ủy nhiệm: “Ơn gọi giáo lý viên không những bắt nguồn
từ bí tích Thánh tẩy và Thêm sức, mà còn do lời mời gọi đặc biệt của Chúa Thánh
Thần hay một “đặc sủng được Hội Thánh nhìn nhận” và được
Giám mục minh nhiên uỷ nhiệm. Điều quan trọng là làm thế nào để ứng sinh
giáo lý viên nhận ra ý nghĩa siêu nhiên và giáo hội của lời mời gọi ấy, hầu có
thể đáp trả như Ngôi Lời: “Này đây, Con xin đến” (Dt 10, 7) hoặc như ngôn sứ
Isaia: “Này con đây xin hãy sai con” (Is 6, 8)”[7]. (x. TS. TÔMA NGUYỄN DƯ
DANH, Ơn gọi,
căn tính và sứ mạng của giáo lý viên)[8].
2.2. Giáo
lý viên và “Thừa tác vụ cổ kính”:
Giáo lý viên
không bao giờ “tự coi” hay “được coi” như “người giúp việc của các linh mục”[9] mà
là người được trao một “Thừa tác vụ” (Ministerium); và chính Thừa tác vụ này đã
“đi cùng năm tháng” với sự hình thành và phát triển Hội Thánh: “Thừa tác vụ
của Giáo lý viên trong Giáo hội là một thừa tác vụ cổ kính. Cách chung các nhà
thần học cho rằng những mẫu gương đầu tiên đã có trong các bản văn Tân Ước. Việc
dạy giáo lý đã khởi sự từ “các thầy dạy”, được Thánh Tông Đồ đề cập đến trong
thư gửi cộng đoàn Cô-rin-tô: “Trong Hội Thánh, Thiên Chúa đã đặt một số người,
thứ nhất là các Tông Đồ, thứ hai là các ngôn sứ, thứ ba là các thầy dạy,…”[10].
3. Giáo lý viên trong sứ vụ Loan
báo Tin Mừng của Hội Thánh:
3.1. Mục vụ
huấn giáo (Dạy giáo lý) luôn gắn liền với công
cuộc phúc âm hóa: “Lịch sử của việc phúc âm hóa suốt hai thiên niên kỷ qua
cho thấy rõ sự hữu hiệu của sứ vụ giáo lý viên. Các giám mục, linh mục và phó tế,
cùng với những người nam và nữ sống đời thánh hiến, đã dâng trọn cuộc đời cho
việc dạy giáo lý, để đức tin có thể trở nên sự nâng đỡ hữu hiệu cho đời sống của
mỗi người. Một số trong các vị này cũng tập họp xung quanh mình những anh chị
em khác có cùng đặc sủng, và lập nên những hội dòng toàn hiến cho việc dạy giáo
lý” (Thừa tác vụ cổ kính số 3). (x. VATICANÔ II, Sắc
lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo hội (Ad Gentes – Viết tắt: AG),
17)[11].
3.2. Giáo
lý viên giáo dân trong dòng chảy đức tin của Dân Chúa: “Chúng ta không thể quên vô số giáo dân nam nữ tham gia trực tiếp
vào sứ vụ rao giảng Tin Mừng qua việc dạy giáo lý. Họ là những người nam và nữ
có đức tin sâu xa, những chứng nhân đích thực của sự thánh thiện, trong một số
trường hợp cũng là những vị sáng lập các Giáo hội và cuối cùng đã chết như các
vị tử đạo. Ngày nay cũng vậy, nhiều giáo lý viên có khả năng và tận tụy là những
người lãnh đạo cộng đoàn trong những miền khác nhau của thế giới và thực hiện một
sứ vụ vô giá là truyền thụ và làm tăng trưởng đức tin. Một dòng dõi thật dài
các chân phước, các thánh và các vị tử đạo từng là giáo lý viên đã thăng tiến
vượt bực sứ mạng của Giáo hội và đáng được công nhận, vì họ là nguồn phong phú
không chỉ cho việc dạy giáo lý, mà còn cho toàn bộ lịch sử linh đạo Kitô giáo.” (Thừa
tác vụ cổ kính số 3). (Xem thêm:Tông huấn Loan Tin mừng
(Evangelii Nuntiandi - EN)[12]
Giáo Hội luôn
nghĩ và xác tín như thế về Giáo lý viên. Nói cách khác, ơn gọi và đời
sống mang tên “giáo lý viên” thuộc “cảm thức đức tin” của Dân Chúa
chứ không là “sự đáp ứng nhu cầu” mang tính thời sự. Vì thế, điều còn
lại là chúng ta hãy luôn mang tâm tình cảm tạ, tự hào và xác tín về chính
ơn gọi và sứ mệnh của mình: một ơn gọi cao quý, một sứ mệnh cần thiết.
II. SỐNG ĐỜI GIÁO LÝ VIÊN CÓ GÌ
HAY?
(Để xác tín
về con đường nên thánh và hạnh phúc của mình)
Trước khi đến gặp
gỡ và “ở lại” với Thầy Giêsu, Nathanaen đã có một nhận định khá tiêu cực: “Ở
Nadarét có cái gì hay đâu?” (Ga 1,45-46). Nhưng một khi đã gặp Đức Kitô và được
chính Ngài dạy dỗ bảo ban, Nathanaen “biến đổi 180 độ” để trở nên Tông đồ sống
chết cho sứ mệnh.
Đối với chúng
ta, những Giáo lý viên, cũng thế thôi. Hiểu biết, ý thức về ơn gọi, về phẩm giá
của Giáo lý viên thì bất cứ ai cũng có thể có; nhưng phải dấn thân, phải sống
chính ơn gọi đó bằng chính cuộc đời mình… thì mới cảm nhận được “cái hay”, cái “giá
trị đích thực và cao quý” của ơn gọi nầy, sứ mệnh nầy, mà một Kitô hữu bình thường,
không tham gia gì hết, sẽ không có được.
Và đây là vài
nét đặc trưng trong đời sống của một “giáo lý viên đích thực”:
1. Giáo lý viên luôn mang “kho
tàng vô giá”: Thiên Chúa và Giáo Hội:
1.1. Một
đức tin luôn sống động:
Có Chúa Ba
Ngôi luôn ở cùng: Trong tài liệu “Hành trang Giáo lý viên có những
lời sau: “Giáo lý viên phải có một đức tin sống động, thực vậy, chỉ có ai
có kinh nghiệm bản thân về Thiên Chúa mới có thể đưa anh em mình đến Thiên
Chúa. Kiến thức chuyên môn của một viên kỹ sư không cần phải ăn khớp với hạnh
kiểm của mình, những trái lại một giáo lý viên không thể truyền đạt giáo lý nếu
không sống chính điều mình dạy, bởi vì giáo lý không phải là một kiến thức mà
là một sự sống”[13].
Đây cũng chính
là điều được tài liệu “Hướng dẫn Giáo lý viên” (GC) nhấn mạnh: Giáo
lý viên phải được lôi cuốn vào bầu khí của Chúa Cha, Đấng ngỏ lời; của Đức Kitô,
Ngôi Lời Nhập Thể, Đấng chỉ loan báo mọi lời đã nghe được từ Chúa Cha (Ga 8,
26; 12, 49); của Chúa Thánh Thần, Đấng soi sáng tâm trí và sưởi ấm con tim để
giúp hiểu Lời Chúa, trung thành yêu mếu và thực thi Lời Chúa (Ga 16, 12 –14).
Như thế linh đạo giáo lý viên bén rễ trong Lời hằng sống theo chiều kích Ba
Ngôi, như thấy trong ơn cứu độ và trong sứ mạng phổ quát. Điều này bao hàm một
thái độ liên kết bên trong, tức là tham dự vào tình yêu của Chúa Cha, Đấng muốn
mọi người nhận biết chân lý và được cứu độ (1 Tm 2, 4); là hiệp thông với Đức Kitô,
bằng cách chia sẻ các “tâm tình” của Người (Pl 2,5) và như thánh Phaolô, sống
kinh nghiệm về sự hiện diện thường xuyên và khích lệ của Đức Kitô; “Đừng sợ… vì
Ta ở cùng con” (Cv 18, 9 – 10), bằng cách để Chúa Thánh Thần hướng dẫn và biến
đổi thành chứng nhân can đảm của Đức Kitô và thành người loan báo Lời Chúa có
kinh nghiệm.” (GC 7).
1.2. Một
đời sống hiệp thông với Hội Thánh để “kể câu chuyện tình yêu”:
Khi một đời
sống thấm nhuần niềm tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi chắc chắn sẽ làm cho
người giáo lý viên gắn kết và hiệp thông sâu xa với Hội Thánh để
cùng với Hội Thánh chu toàn sứ mạng loan báo Tin Mừng mà Đức Kitô
đã ủy thác. Đây chính là điểm nhấn được Đức Thánh Giáo Hoàng Phaolô
VI lưu ý trong tông huấn Loan Tin Mừng (Evangelii Nuntiandi): “đã được
sai đi và đã được Phúc Âm hóa, nên chính Giáo Hội lại sai phái những kẻ loan
truyền Tin Mừng. Giáo Hội đặt nơi miệng họ lời cứu rỗi, Giáo Hội giải thích cho
họ sứ điệp mà chính Giáo Hội gìn giữ, Giáo Hội ban cho họ quyền mà Giáo Hội đã
lãnh nhận và sai họ đi rao giảng… Như thế giữa Đức Kitô, Giáo Hội và việc Phúc
âm hóa có một mối liên hệ sâu xa. Trong “Thời của Giáo Hội này” chính Giáo Hội
có bổn phận rao giảng Tin Mừng. Bổn phận không thể hoàn tất mà không có Giáo Hội,
càng không thể hoàn tất nếu chống lại Giáo Hội.” (EN 15,16).
Thế nhưng,
giáo lý viên cần luôn ghi nhớ lời cảnh giác của Đức Giáo hoàng
Phanxicô: Giáo Hội không là một “tổ chức phi chính phủ”, một cơ cấu
mang dáng đứng kinh tế xã hội phàm trần hay “bộ máy hành chính”, mà
đích thị là “câu chuyện về tình yêu”; và trong câu chuyện đó có
chúng ta, “chúng ta chính là Hội Thánh” chứ không phải ai khác; bởi
vì chúng ta chính “cành nho trong thân nho” (Ga 15,5), là “chi thể trong
một Thân mình” (1 Cr 12,27)[14].
Như vậy, có
thể tóm tắt những “chiều kích thiêng liêng” gắn liền với đời sống
của một giáo lý viên đích thực, đó là:
- Tinh thần
con thảo với Chúa Cha để phục vụ thánh ý.
- Đồng hình
đồng dạng với Chúa Kitô để làm chứng và chia sẻ.
- Được
thánh hóa và hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần để kiện toàn ơn gọi Kitô
hữu.
- Được hiệp
thông với Hội Thánh để dấn thân cho công cuộc loan báo Tin Mừng.
2. Giáo lý viên luôn được tiếp
cận thực hành đời sống đức tin để nên thánh:
2.1.
Thường xuyên tiếp xúc với “nguồn thánh thiện”:
Người ta vẫn
thường nói: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Được trang bị
những “hành trang thiêng liêng” tuyệt vời như thế, đời sống của giáo
lý viên lại có cơ hội thường xuyên để tiếp cận, chia sẻ, chuyển tải,
dạy dỗ… những “chân lý đức tin”,”Tin mừng ơn cứu độ”…, thì chắc
chắn, con đường “nên thánh”, hoàn thiện bản thân của người giáo lý
viên phải luôn như ngọn đèn cháy sáng.
Chúng ta dễ
dàng tìm thấy ý nghĩa và nội dung nầy nơi tài liệu “Hướng dẫn
tổng quát việc dạy giáo lý tại Việt Nam 2017” của Văn Phòng
Ủy Ban Giáo lý Đức tin trực thuộc HĐGMVN:
“Mục đích tối hậu của việc dạy giáo lý là
làm cho con người không những tiếp xúc, mà còn được hiệp thông mật thiết với
Chúa Giêsu Kitô; nhờ đó, con người được kết hợp với Chúa Cha, với Chúa Thánh Thần,
với Hội Thánh, và với nhân loại.” (số 39)
“Việc dạy giáo lý có nhiệm vụ làm cho sự
hoán cải ban đầu được hoàn hảo, việc tuyên xưng đức tin trở nên sống động, minh
nhiên và hữu hiệu: sống động nhờ luôn biết học hỏi, khám phá, tìm kiếm; minh
nhiên bởi đức tin được biểu lộ một cách rõ ràng qua việc tham gia các hoạt động
mục vụ; hữu hiệu nghĩa là đức tin được sống, được chuyển thành kinh nguyện, được
chia sẻ và được rao giảng. Tóm lại, việc dạy giáo lý phải chu toàn các nhiệm vụ
khác nhau nhưng bao hàm lẫn nhau, đó là giúp hiểu biết đức tin, giáo dục phụng
vụ, huấn luyện luân lý, dạy cầu nguyện, giáo dục đời sống cộng đoàn và khai tâm
cho việc truyền giáo.” (Số 40).
2.2. Giáo
lý viên luôn là một “chứng nhân” hơn là “thầy dạy”:
Không gì hơn,
chúng ta nghe lại chính lời của Đức Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI trong
tông huấn Loan Tin Mừng (Evangelii Nuntiandi): “Người đương thời sẵn sàng
lắng nghe những nhân chứng hơn là những thây dạy, hoặc nếu họ có nghe thầy dậy,
thì bởi vì chính thầy dạy cũng là những nhân chứng”.
Thánh Phêrô
đã diễn tả rõ rệt điều này khi Ngài đưa ra một cách sống trong sạch và đáng
kính “Không dùng lời nói nhưng lại chinh phục được cả những kẻ từ chối tin vào
Lời” (1P 3,1). Vì vậy chính bằng cách xử thế, bằng đời sống mà Giáo Hội sẽ rao
giảng Tin Mừng cho thế giới, nghĩa là bằng chứng tá đời sống trung thành với Đức
Kitô, sống nghèo khó và từ bỏ, sống không lệ thuộc vào các quyền lực thế gian,
tắt một lời, chính bằng đời sống thánh thiện mà Giáo Hội rao giảng Tin Mừng.”
(EN 41).
Đây cũng là
điều mà Thánh bộ Phúc Âm hóa các dân tộc lặp lại riêng cho các giáo
lý viên: “Giáo lý viên phải có một đời sống thống nhất và đích thực. Trước
khi dạy giáo lý, họ phải là giáo lý viên. Chân lý về đời sống
giáo lý viên xác định tính cách họ phải có khi thực thi sứ mạng. Thật chẳng
tương hợp chút nào, nếu giáo lý viên không sống điều mình dạy, và chỉ nói theo
sách vở về một Thiên Chúa mình chẳng mấy thân thuộc. Chớ gì giáo lý viên áp dụng
cho mình điều thánh sử Maccô đã nói về ơn gọi các tông đồ: ‘Người lập nhóm Mười
Hai để sống với Người và để Người sai đi rao giảng Tin Mừng’ (Mc 3, 14 – 15)”
(GC 8).
Như vậy chúng
ta có thể tóm tắt: Giáo lý viên dễ dàng thực hiện hoàn thiện bản
thân nhờ:
- Hiểu
biết và canh tân kho tàng giáo lý đức tin (Nhờ đào sâu, học hỏi,
chuẩn bị...)
- Thường
xuyên áp dụng thực hành chân lý đức tin (Nhờ việc dạy giáo lý…)
- Luôn sống
đời nhân chứng (nhờ sống nhân bản, cầu nguyện, bí tích, phục vụ).
III. GIÁO LÝ VIÊN, ĐỨNG BÊN LỀ
HAY HIỆP HÀNH VỚI GIÁO HỘI
(Để canh tân
đời sống và sứ vụ)
Không là những
“kẻ đứng bên lề” nhưng giáo lý viên luôn hòa chung nhịp đập với trái
tim Giáo Hội (Sentire cum Ecclesia), luôn sống và bước đi trong ánh sáng
“hiệp hành” của dân Chúa.
1. Thái độ của Giáo lý viên
trước “những đám mây đen đồi trụy và tục hóa”.
1.1. Không
ảo tưởng về một Giáo Hội tại thế “không tì ố, không vết nhăn”:
Đứng trước
những “đám mây mù”, những sự kiện “hổ mặt hổ mày” trong lòng Hội
Thánh, ngay cả từ nơi “các đấng có chức quyền”…, giáo lý viên không
nãn lòng, thất vọng; nhưng luôn vững lòng trông cậy và ý thức
rằng: chúng ta, các giáo lý viên, những người thuộc “đàn chiên nhỏ” của
Chúa Giêsu, chúng ta luôn ý thức thân phận của mình và của cả Hội Thánh do Chúa
Kitô thiết lập cũng như sứ mạng được Ngài giao phó, đó là: nuôi dưỡng , thương
yêu, nâng đỡ cho mọi con cái không phân biệt mầu da, tiếng nói và văn hóa; đặc
biệt lưu tâm đến các đứa con bệnh hoạn, tức những người tội lỗi để ân cần
chữa lành cho chúng, theo gương Chúa Kitô, Đấng đến “như Thầy
thuốc đi tìm người đau ốm để chữa trị chứ không tìm người mạnh khỏe, không cần
thấy thuốc”. Hay nói khác đi, “Chúa không đến để kêu gọi người công
chính mà để kêu gọi người tội lỗi” ( Mt 9,13). Đây cũng chính là
chân lý mà mục sư Richard Wurmbrand đã nại đến khi dùng hình ảnh Hội Thánh như “nhà
thương” (hôpital), như “người mẹ”, như “biển cả” để luôn bênh vực, cưu mang những
đứa con tội lỗi, mang đầy thương tích[15].
1.2. Nhận
diện “bàn tay lông lá của ma quỷ” và chiến thắng bằng vũ khí của
Chúa Giêsu:
Chính Đức
đương kim Giáo Hoàng Phanxicô đã lưu ý chúng ta: “Anh chị em ơi, ngày
nay chúng ta thấy mình trước một biểu hiện của một sự xấu xa trơ trẽn, hung dữ
và hủy hoại. Đằng sau và bên trong nó, là ma quỷ,… chúng ta cần phải sử dụng
các phương thế siêu nhiên mà chính Chúa dạy chúng ta: đó là khiêm nhường, tự
cáo buộc mình, cầu nguyện và đền tội. Đây là cách duy nhất để thắng vượt ma quỷ.
Đó chính là cách Chúa Giêsu đã chiến thắng nó…”[16].
2. Sự đáp trả của Giáo lý
viên trước tiếng gọi “Tân phúc âm hóa” (Evangelii Gaudium) và “Nên thánh”
(Gaudete et Exsultate).
2.1. Giáo
lý viên luôn cần “hoán cải mục vụ”: Không
phải sống đạo theo lối “xưa bày nay làm”, loay hoay củng cố một cộng
đoàn khép kín và ngại dấn thân, mở lối mới... Phải nghe lệnh truyền
của Chúa Giêsu mà mạnh dạn “chèo ra chỗ nước sâu” (Lc 5,4), nghe lời
Hội Thánh gọi mời “đi ra” qua tông huấn “Niềm vui Tin Mừng” (EG) của Đức
Thánh Cha Phanxicô: “Mỗi Kitô
hữu và mỗi cộng đoàn phải nhận ra con đường mà Chúa chỉ cho, nhưng tất cả chúng
ta phải vâng theo tiếng gọi của Ngài là ra đi từ vùng đất tiện nghi của mình để
đến với mọi vùng “ngoại vi” đang cần ánh sáng Tin Mừng”
(EG 20)…; “Vì vậy
chúng ta hãy đi ra, đi ra để cống hiến cho mọi người sự sống của Chúa Giêsu Kitô.
Ở đây tôi lặp lại cho toàn thể Hội Thánh điều tôi từng nói cho các linh mục và
giáo dân ở Buenos Aires: Tôi thà có một Hội Thánh bị bầm dập, mang thương tích
và nhơ nhuốc vì đi ra ngoài đường, hơn là một Hội Thánh ốm yếu vì bị giam hãm
và bám víu vào sự an toàn của mình…” (EG 49).
2.2. Giáo
lý viên: người rao giảng vui tươi: Chúng ta
có thể tiếp tục lắng nghe: “Do đó người loan báo Tin Mừng không bao giờ được mang bộ mặt của một người
vừa đi đưa đám về! Chúng ta hãy lấy lại và đào sâu sự phấn khởi của mình, đào
sâu “niềm vui dịu ngọt và phấn khởi của việc loan báo Tin Mừng, cả khi chúng ta
phải gieo trong nước mắt... Và chớ gì thế giới của thời đại chúng ta, một thế
giới đang kiếm tìm, khi thì trong lo âu, khi thì trong hi vọng, có thể nhận được
tin mừng không phải từ những người rao giảng rầu rĩ, chán nản, mất kiên nhẫn
hay lo âu, nhưng từ những thừa tác viên Tin Mừng đang sống một cuộc đời đầy nhiệt
huyết, những người trước đó đã nhận được niềm vui của Đức Kitô” (EG 10).
2.3. Giáo
lý viên hãy là “những vị thánh trẻ của thời đại”[17]: phải sống anh hùng, khao khát nên thánh; không sống cách
mỏi mệt, thất vọng nhưng luôn tràn đầy sức sống thần linh, nhiệt
huyết của tuổi trẻ Công Giáo…, như lời hiệu triệu của Đức Phanxicô
trong tong huấn “Hãy vui mừng và hoan hỷ” (Gaudete et Exsultate): “Các
bạn trẻ thân mến, tốt hơn hết các con đừng đánh mất tuổi thanh xuân của mình,
đừng ngắm nhìn cuộc sống từ ban công. Các con đừng lẫn lộn hạnh phúc với chiếc
ghế bành và đừng sống cả cuộc đời mình trước cái màn hình. Đừng để
mình rơi vào cảnh tượng
thê thảm như của một chiếc ôtô phế thải. Đừng như những chiếc xe nằm trong bãi đậu xe, nhưng hãy ước mơ thỏa chí và hãy
đưa ra những quyết định. Các con hãy mạo hiểm, dù có thất bại. Đừng sống sót với
tâm hồn đã tê dại và đừng nhìn thế giới như những khách du lịch. Hãy
lên tiếng! Hãy xua tan những nỗi sợ khiến các con tê liệt, để không trở thành
những người trẻ như
xác ướp. Hãy sống! Hãy dấn thân cho những gì tốt nhất
trong cuộc sống! Hãy mở các cánh cửa lồng ra và bay đi! Làm ơn, đừng về hưu non các con nhé.” (GE 43).
3. Giáo lý viên trong định
hướng “Hiệp Hành” của Giáo Hội.
3.1. Giáo
lý viên là những người “rủa chân cho anh chị em”, người “mang lấy mùi
chiên”: “mùi chiên” đó là các học viên
giáo lý, là những người thân yêu trong gia đình, là bạn bè, anh chị
em trong giáo xứ, là những người tiếp xúc gặp gỡ hằng ngày trong
công việc mưu sinh… Giáo lý viên không đặt mình thành một thứ “luật
sĩ hay biệt phái” cách biệt, ăn trên ngồi trước, mà là, như giáo
huấn của Chúa Giêsu, “Người rửa chân cho anh chị em” (Ga 13,5-14); hay
như gọi mời của Đức Phanxicô: “Một cộng đoàn loan báo Tin Mừng dấn mình vào đời sống hằng ngày của dân
chúng bằng lời nói và hành động; công đoàn ấy vượt qua các khoảng cách, sẵn
sàng hạ mình khi cần, và ôm ấp đời sống con người, chạm vào thân thể đau khổ của
Đức Kitô nơi người khác. Như vậy, các người loan báo Tin Mừng mang lấy “mùi của
đàn chiên” và đàn chiên sẵn sàng nghe tiếng của họ. Một cộng đoàn loan báo Tin
Mừng cũng nâng đỡ, đồng hành với dân chúng ở mỗi bước đi trên đường, bất kể con
đường này có thể dài hay khó đi bao nhiêu. Cộng đoàn này cũng quen với việc
kiên nhẫn chờ đợi và sự chịu đựng tông đồ.” (EG 24).
3.2. Đặc
biệt, giáo lý viên sống và thực thi định hướng “hiệp hành” mà
Thượng Hội Đồng Gám Mục thứ XVI đang triển khai trên Giáo Hội hoàn
vũ: Không làm việc một mình mà luôn biết
cọng tác; không độc đoán chủ quan mà luôn biết khiêm hạ lắng nghe;
không gây bè kết nhóm để rẽ chia, phân tán mà quy tụ, hiệp nhất để
xây dựng tình hiệp thông…: “Tất cả chúng ta trên cùng một con thuyền.
Cùng hợp đoàn, chúng ta làm nên Thân thể Đức Kitô. Bỏ đi thói ảo tưởng tự mãn,
chúng ta mới có thể học hỏi lẫn nhau, đồng hành với nhau và phục vụ lẫn nhau.
Chúng ta có thể xây những nhịp cầu bắc qua những bức tường đôi khi đe dọa ngăn
cách chúng ta, như tuổi tác, giới tính, giàu nghèo, năng lực, giáo dục, v.v…”[18].
IV. GIÁO LÝ VIÊN LỚN LÊN TRONG “TỪ
ĐƯỜNG GIÁO PHẬN QUI NHƠN
1. Giáo lý viên trân trọng gia
tài và công đức của các vị “tiền nhân đức tin”:
Giáo lý viên
Giáo phận Qui Nhơn chúng ta rất tự hào và hãnh diện là cháu con của
các vị tiền nhân thuộc thế hệ đầu tiên[19] mang
hạt giống Tin Mừng gieo trồng trên mảnh đất “Miền Trung đất cày lên
sỏi đá” nầy, như Đức Cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi, Giám Mục Giáo phận,
đã tóm tắt trong Bài giảng Thánh lễ Khai mạc Năm Thánh 400 năm Giáo
phận Qui Nhơn đón nhận Tin Mừng vào chiều 26.7.2027 tại Làng Sông: “Hòa chung với dòng máu tử đạo của
các chứng nhân đức tin, còn có biết bao mồ hôi và nước mắt của các thế hệ tiền
nhân qua dòng thời gian suốt 400 năm qua, từ buổi sơ khai tại cảng thị Nước Mặn
một thời vang bóng cho đến hôm nay. Đó là các thừa sai Dòng Tên đã lập cư sở đầu
tiên của dòng tại Nước Mặn, vừa làm khởi điểm truyền giáo, vừa làm chiếc nôi của
chữ quốc ngữ trong giai đoạn thô sơ nhất. Tiếp đến là Đức cha Phêrô Lambert de
La Motte, vị Đại diện Tông tòa tiên khởi của Giáo Đàng Trong, người đã
truyền chức linh mục cho người Việt tiên khởi là cha Giuse Trang, quê ở Quảng
Ngãi, vào ngày 31 tháng 03 năm 1668 và đã thành lập Dòng Chị Em Mến Thánh Giá của
Đàng Trong tại An Chỉ (Quảng Ngãi) vào năm 1671. Từ đó đến nay các vị Giám mục
cùng với các linh mục, tu sĩ, thầy giảng và giáo dân, đã đồng lao cộng khổ để
canh tác trên cánh đồng truyền giáo của Giáo phận, để làm cho hạt giống Tin Mừng
tiếp tục sinh sôi nẩy nở, bất chấp mọi khó khăn thử thách…”.
Mà không chỉ
tự hào và hãnh diện, quan trọng đó là biết vận dụng kinh nghiệm
truyền giảng Tin Mừng và di sản đức tin và văn hóa các ngài để lại
hầu để phát huy và và canh tân công cuộc huấn giáo trong điều kiện
và hoàn cảnh hôm nay.
2. Giáo lý viên trung thành
với truyền thống đức tin: Các Vị Tử đạo của Giáo Phận:
Giáo lý viên
Giáo phận Qui Nhơn lại càng tự hào và hãnh diện hơn nữa khi chúng ta
hôm nay chính là hoa trái của những hạt lúa mì mục nát là các cha
ông tiên tổ anh hùng tử đạo. Vâng, chúng ta chính là thế hệ con cháu
các vị tử đạo, một thiên trường ca mà Đức Cha Matthêô đã tóm tắt
cũng trong Bài Giảng Thánh lễ Khai mạc Năm Thánh 400 năm: Chân phước Anrê Phú Yên được gọi là “Người
chứng thứ nhất” vì Ngài là người đầu tiên của Giáo Hội Việt Nam đã làm chứng
cho Tin Mừng một cách công khai và chính thức trước mặt quan quyền, mở màn cho
cả một truyền thống chứng nhân tử đạo ở những thế kỷ tiếp theo tại Việt Nam nói
chung, và tại Giáo phận Đàng Trong, Đông Đàng Trong, rồi Qui Nhơn nói riêng. Thực
vậy, chỉ ít năm sau ngày Giáo phận Đàng Trong được thành lập, vào cuối năm 1664
sang đầu năm 1665, một cuộc bách hại đã xảy ra, nhiều tín hữu đã can đảm hy
sinh mạng sống để làm chứng cho đức tin, trong số đó nổi tiếng nhất là cuộc tử
đạo của bốn anh hùng đức tin Quảng Ngãi: ông Tôma Tín, ông Tôma Nghệ, ông Đa
Minh và ông Bênêđictô. Một hồ sơ xin phong chân phước cho các vị tử đạo trong
cuộc bách hại này đã được Đức cha Phêrô Lambert de la Motte gửi về Rôma, nhưng
rất tiếc đã bị thất lạc. Tiếp đến, tại Bình Định có ba khuôn mặt chứng nhân đức
tin nổi bật là thánh Phanxicô Isidore Gagelin Kính, linh mục, tử đạo năm 1833;
thánh Anrê Nguyễn Kim Thông, trùm cả, tử đạo năm 1855; thánh Stêphanô Théodore
Cuénot Thể, Giám mục, tử đạo năm 1861; nhiều vị tử đạo trong những năm 1860 đến
1862, trong số đó có 16 vị đã được Giáo Hội đưa vào danh sách các Tôi tớ Chúa.
Đó là những đại diện tiêu biểu của cả một truyền thống anh hùng tử đạo qua các
thời kỳ bao gồm mọi thành phần dân Chúa từ giáo sĩ, tu sĩ, thầy giảng và giáo
dân. Nhưng đông đảo nhất là số người bị giết vì đạo trong cuộc tàn sát của
phong trào Văn Thân vào năm 1885 tại 3 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định và Phú Yên.
Quảng Ngãi: 5.600 người, Bình Định: 8.940 người, Phú Yên: 5.780 người. Tổng cộng:
20.320 người…”
3. Giáo lý viên sống linh đạo “tình
yêu đáp trả” của Á Thánh Thầy giảng Anrê Phú Yên:
Trong buổi đầu
Tin Mừng vừa đến với quê hương Việt Nam “đang thời mở cõi”, đã có một Kitô hữu
tân tòng, một Giáo lý viên, cũng đã sống và làm chứng cho “TÌNH YÊU” bằng một
sự “ĐÁP TRẢ” tuyệt vời là chính cuộc “Tử Đạo” oai hùng của mình. Đó chính là Thầy
Giảng Anrê Phú Yên, hoàn tất hiến lễ tình yêu và chiều ngày 26.7.1644 và được
Giáo Hội tuyên phong Á Thánh ngày 5.3.2000 mà di chúc thiêng liêng của ngài còn
lưu lại có thể tóm tắt trong một linh đạo mang tên: TÌNH YÊU ĐÁP TRẢ TÌNH YÊU:
“Hỡi anh chị em, đối với Chúa Giêsu yêu dấu của chúng ta, chúng ta hãy lấy
tình yêu đáp lại tình yêu. Chúa đã chịu chết đau khổ vì chúng ta, nên chúng ta
hãy lấy mạng sống đáp đền mạng sống…”… “Hỡi anh chị em, ta hãy trung tín cùng Đức
Chúa Trời cho đến chết; cho đến chết, không một điều gì có thể dập tắt lòng
thương mến Chúa Giêsu Kitô trong trái tim ta.”… “Hỡi anh chị em, chúng ta hãy
giữ nghĩa cùng Đức Giêsu cho đến hết hơi, cho đến trọn đời”[20].
Người Giáo lý
viên hôm nay, phải chăng, chỉ cần sống trọn hảo “sáu từ” mà Á Thánh
Anrê Phú Yên trối lại như một di chúc tinh thần “TÌNH YÊU ĐÁP TRẢ
TÌNH YÊU”, thì chắc chắn đã hoàn thành trọn hảo ơn gọi và sứ vụ
của mình.
KẾT LUẬN:
Đến câu
chuyện vườn nho: “Hãy đi vào vườn nho!”
Đọc chung Tin
Mừng: Mt 20,6-7:
Khoảng giờ mười
một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ: “Sao
các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết? “Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng
tôi.” Ông bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!”.
Xin được mượn
chính lời của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong tông huấn “Kitô hữu
giáo dân” (Christifideles Laici) để hiểu thêm về ngụ ý của chính Chúa Giêsu
trong “dụ ngôn vườn nho”; đặc biệt câu nói của “ông chủ vườn nho”: “Cả các
anh nữa, hãy đi vào vườn nho!”
Cả các anh
nữa: Lời mời gọi không chỉ gửi tới các vị Chủ
chăn, các linh mục, các tu sĩ nam nữ, nhưng tới mọi người: cả các giáo dân cũng
được mời gọi đích danh, nhận lãnh từ Ngài một sứ vụ đối với Giáo Hội và thế giới.
Khi giảng thuyết cho các Kitô-hữu, Thánh Grêgôriô Cả nhắc lại điều
đó khi ngài diễn giải dụ ngôn thợ làm vườn nho trong một bài giảng cho dân
chúng: “Anh em thân mến, hãy lưu ý một chút về cách sống của anh em, hãy nghiêm
chỉnh xét xem anh em có phải đã là thợ làm vườn của Chúa không. Mỗi người hãy tự
xét việc mình làm và nhận định xem mình có làm việc trong vườn nho của Chúa hay
không…” (KTHGD số 2).
Các bạn giáo
lý viên ơi! Khiêm hạ làm chú “lừa con còng lưng cõng Chúa Giêsu vào
thành” hay sẵn sàng chấp nhận “dãi dầu mưa nắng làm anh
thợ vườn nho Giáo Hội” chắc chắn sẽ không được nhiều fan hâm
mộ hay thu nhập cao như nhóm nhạc nữ BlackPink của Hàn Quốc vừa biểu
diễn và gây hiện tượng “lên đồng” nơi giới trẻ tại Hà Nội. Tuy nhiên
không vì thế mà các bạn nãn lòng hay “bỏ cuộc chơi”, đúng hơn, một
cuộc dấn thân trong “cuộc chơi xây dựng vương quốc Nước Trời”; một công
việc xem ra âm thầm, lặng lẽ như “một cánh rừng đang mọc”.
Nếu có khi
nào bạn nãn lòng hay mệt mỏi với sứ vụ, có khi nào bạn bị cám dỗ
buông trôi hay thoái thác chối từ đặc sủng được ân trao, bạn hãy nhớ
lại hai Lời của Thầy Chí Thánh: “Vì Ta cần đến nó” – “Hãy đi vào
vườn nho ta”.
Lễ
Thánh Gioan Maria Vianney – 04.08.2023
Nguồn: gpbuichu.org (29.07.2023)
[1] Roger Marie Élie Etchegaray (sinh ngày 25 tháng 9 năm 1922) là một Hồng y người Pháp của
Giáo hội Công giáo Rôma. Etchegaray từng là tổng giám mục của Marseille từ
năm 1970 đến năm 1985 trước khi vào giáo triều Rôma, nơi ngài từng là Chủ tịch
Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình (1984-1998) và Chủ tịch Hội đồng
Giáo hoàng Cor Unum (1984 - 1995). Ngài đã được vinh thăng hồng y trong Công
nghị Hồng y năm 1979. Ngài đã đến viếng thăm Việt Nam 3 lần trong thời gian từ 1989-1990
như một đặc sứ của Tòa Thánh để xây dựng những bước tích cực trong quan hệ giữa
Tòa Thánh và Nhà nước Việt Nam cụ thể đó là: Đức
Giáo hoàng Bênêđictô XVI, ngày 13/ 1/ 2011 đã bổ nhiệm Đức Tổng Giám mục
Leopoldo Girelli làm Đại diện Tòa Thánh không thường trú đầu tiên tại Việt Nam…
Đức Hồng Y Etchegaray qua đời ngày
2.9.2019, hưởng thọ 97 tuổi.
[2] ĐHY ROGER
ETCHEGARAY. Nguyên tác:
J'avance comme un âne – Như một con lừa…tôi tiến bước, dịch giả: Nguyễn Thị Chung, nxb Tôn Giáo 2010.
[4] Gr 20,7: “Ngài
đã quyến rũ con
và con đã để cho
Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con và Ngài đã thắng”.
[5] GH, số 7: “Như tất cả các chi thể của thân thể, tuy
nhiều, nhưng chỉ tạo thành một hân thể, thì các tín hữu trong Đức Kitô cũng vậy
(x. 1 Cr 12,12). Trong việc xây dựng thân mình Đức Kitô, rất cần đến sự đa dạng
của các chi thể và phận vụ. Chỉ có một Thần Khí duy nhất là Đấng ban những ân
huệ khác nhau theo sự sung mãn của Người và tuỳ nhu cầu của các tác vụ vì ích lợi
của Giáo Hội” (x. 1 Cr 12,1-11).
[6] TĐGD, số 2: “Tính cách đặc thù của bậc giáo dân là sống
giữa thế gian và giữa các công việc trần thế, họ được Thiên Chúa mời gọi để nhiệt
thành thực thi việc tông đồ với tinh thần Kitô hữu như chất men thấm vào thế giới”
[7] THÁNH BỘ PHÚC ÂM
HÓA CÁC DÂN TỘC, Hướng dẫn Giáo
lý viên (Guide for Cathechists, 1993 – Viết tắt: GC), số 2.
[8] TS. TÔMA NGUYỄN
DƯ DANH, Ơn gọi, căn tính
và sứ mạng của giáo lý viên, website https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/on-goi-can-tinh-va-su-mang-cua-giao-ly-vien-46361
[9] GC, sđd, số 4: “Giáo lý viên
không phải đơn thuần chỉ là người giúp đỡ linh mục, nhưng thực sự là chứng nhân
của Đức Kitô trong cộng đoàn của mình”.
[10] ĐGH PHANXICÔ, Thừa Tác vụ cổ kính (Antiquum
Ministerium), Bản dịch của Ủy Ban Giáo lý Đức tin trực thuộc
HĐGMVN 2021, số 1.
[11] AG, số 17: “Cũng thế, liên quan đến việc truyền giáo
cho lương dân, phải thật sự đề cao công lao to lớn của đội ngũ giảng viên giáo
lý, nam cũng như nữ, những người thấm nhuần tinh thần tông đồ, đã vất vả rất
nhiều để mang lại sự trợ giúp đặc biệt và vô cùng cần thiết cho việc truyền bá
đức tin và mở rộng Giáo hội. Hiện nay, vì số giáo sĩ không đủ để đáp ứng cho việc
rao giảng Tin Mừng cũng như thi hành mục vụ cho lượng người quá đông, nên phận
vụ của các giảng viên giáo lý lại càng trở nên quan trọng hơn”
[12] EN, số 73: “Chắc chắn bên cạnh những thừa tác vụ có
chức thánh, nhờ đó một số người được gọi vào hàng ngũ các chủ chăn và đặc biệt
hiến thân phục vụ cộng đoàn, Giáo Hội còn nhìn nhận chỗ đứng của các thừa tác vụ,
tuy không có chức thánh nhưng có đủ khả năng đảm nhận một dịch vụ đặc biệt của
Giáo Hội.”
[13] TỦ SÁCH ĐỨC
KITÔ NGUỒN SỐNG, Hành trang
Giáo Lý Viên, Baton Rouge 1996, Bài 4, tr. 25.
[14] Định hướng mục
vụ của Giáo phận Qui Nhơn trong năm 2023: MỘT CÂY NHO MỘT THÂN MÌNH (Ga
15,5; 1Cr 12,27).
[15] RICHARD
WURMBRAND, Mes prisons avec dieu, Édition Francaise,
Casterman 1969. P. 32, tạm dịch: “Một
nhà thương có thể ươm mùi mủ và máu; nhưng đó là nơi mang vẻ đẹp tuyệt vời, vì
là nơi đón nhận bệnh nhân với những vết thương ghê tởm và những căn bệnh khủng
khiếp. Hội Thánh chính là nhà thương của Chúa Kitô. Hàng
triệu bệnh nhân được tình yêu chữa lành. Hội Thánh chấp nhận tội nhân - họ tiếp
tục phạm tội - và Hội Thánh mang lấy tội lỗi của họ.”
[16] ĐGH PHANXICÔ, Diễn từ bế mạc Hội Nghị Bảo Vệ
Trẻ Vị Thành Niên Trong Giáo Hội, J.B. Đặng Minh An dịch, website http://www.vietcatholic.org/News/Home/Article/249056
[17] ĐỨC THÁNH GIÁO
HOÀNG GIOAN-PHAOLÔ II, Bài
giảng trong đêm bế mạc Đại Hội giới trẻ thế giới lần thứ 17 năm 2002 tại
Toronto: “Vì thế, tối hôm
nay, tôi nói với các bạn: hãy để cho ánh sáng Chúa Kitô chiếu sáng trong cuộc sống
các bạn! Ðừng đợi đến lúc già hơn mới dấn thân tiến bước trên con đường thánh
thiện! Sự thánh thiện luôn trẻ trung, cũng như sự trẻ trung trường cửu của
Thiên Chúa”.
[18] CẨM NANG CHO THƯỢNG
HỘI ĐỒNG VỀ TÍNH HIỆP HÀNH (VADEMECUM FOR THE SYNODE ON SYNODALITY), tiểu mục 2: Các nguyên tắc của
một Tiến trình hiệp hành (Sau đây sẽ dùng VADEMECUM).
[19] X. BAN BIÊN SOẠN
LỊCH SỬ GIÁO PHẬN, Giáo
phận Qui Nhơn qua dòng thời gian, nxb An Tôn & Đuốc Sáng 2017, Chương II, các
thừa Sai Dòng Tên từ Ma Cao đến Đàng Trong, tr. 43-55.
[20] NHIỀU TÁC GIẢ, CHỦ
BIÊN: LM. GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Rực
sáng một vì sao (Tài liệu tổng hợp về Á Thánh Anrê Phú Yên),
nxb Tôn giáo 2006, tr. 4. (Xem thêm: Positio super
Martyrio, vol. Ii, Rapport de la commission historique et appendices sumarrium, Romae, 1998, p. 17-18, notes 24,25,26).