VIỆC PHÂN ĐỊNH ƠN GỌI CỦA NGƯỜI CÓ XU HƯỚNG ĐỒNG
TÍNH LUYẾN ÁI
Nguyên bản: Lm. Peter Lechner, s.P.
Chuyển ngữ: Lm. Giuse Nguyễn Văn Doanh, s.P.
Biên tập: Lm. Giuse Phạm Văn Trọng
Mục lục
I. ĐỒNG
TÍNH TRONG HÀNG GIÁO SĨ
1.
Nghiên cứu của Richard Sipe
2.
Các thuyết về nguyên nhân đồng tính
3.
Các thuyết phát triển về đồng tính:
a.
Lý thuyết “Ảnh hưởng của cha mẹ”:
b.
Lý thuyết “Điều kiện môi trường”:
c.
Lý thuyết “Lạm dụng tình dục”:
d.
Lý thuyết “Thoái lui”(regression):
e.
Thuyết hoàn cảnh (Situational theory):
f.
Các thuyết dịch chuyển (Spectrum Theories):
g.
Thuyết Tính mềm dẻo tính dục (Sexual Plasticity):
4.
Những tính cách có thể có nơi các đối tượng đồng tính
II.
HUẤN QUYỀN VỀ VIỆC TIẾP NHẬN CÁC ỨNG SINH CÓ XU HƯỚNG ĐỒNG TÍNH
III.
GIẢI PHÁP CHO NHỮNG THÁCH THỨC VỀ PHÂN ĐỊNH ƠN GỌI TRONG GIAI ĐOẠN CHỦNG VIỆN
1. Đối
diện với văn hóa im lặng
2. Phát triển sự tin tưởng như một sự đối lại với thách thức của văn hóa thinh lặng
3. Sự
minh bạch về đường lối và thủ tục chủng viện liên quan đến trưởng thành tình cảm
3.1.
Đề cập tới vấn đề trưởng thành tình cảm:
3.3.
Chia sẻ thông tin cá nhân:
I. ĐỒNG TÍNH TRONG HÀNG GIÁO SĨ
1. Nghiên cứu của Richard Sipe
Theo nghiên cứu mới đây của
Richard Sipe, khoảng 20% trong hàng giáo sĩ Hoa Kỳ có xu hướng đồng tính hoặc
có hành vi đồng tính.
Tuy nhiên, một nửa trong số này
đang giữ đời sống độc thân rất tốt. Và một nửa còn lại (10%) có liên quan tới
hoạt động đồng tính (quan hệ trực tiếp, coi phim ảnh khiêu dâm, tưởng tượng, thủ
dâm).
Sipe cũng lưu ý trong nghiên cứu
của mình rằng khoảng một nửa trong số các linh mục có khuynh hướng dị tính sống
trung thành với đời sống khiết tịnh. Những vấn đề liên quan tới “Trưởng thành
tình cảm” có liên hệ tới những người có xu hướng hoặc là dị tính hoặc là đồng
tính luyến ái.
Trong khảo sát của Sipe, trong số
các linh mục có liên quan tới hoạt động đồng tính theo cách này hay cách khác
thì có:
40% có sinh hoạt đồng tính, nhưng không cảm thấy tội lỗi; “văn hóa
đồng tính”?
30% có các vấn đề về sức khỏe tâm thần (tự kỷ ái mộ, làm chủ xung lực
kém, cường điệu [cảm xúc phóng đại], tính cách bất định [đánh giá quá cao/thấp
về người khác]. Những người này thay đổi rất ít.
30% có hoạt động đồng tính theo tình tiết, do căng thẳng hoặc phản ứng
xoay chỉnh. Hoạt động này kéo theo cảm giác tội lỗi, và đương sự có thể tìm đến
sự trợ giúp về tâm linh hoặc chuyên môn. Đương sự có thể chưa trưởng thành, chậm
phát triển ở tuổi vị thành niên hoặc lo sợ rằng mình là người đồng tính, nhưng
thực chất là dị tính. Những người này có thể trợ giúp được.
2. Các thuyết về nguyên nhân đồng tính
Các lý thuyết sinh học liên quan
đến sự phát triển trước khi sinh bao gồm:
(1) Sự phát triển
trước khi sinh của các vùng của não có ảnh hưởng tới hoạt động tính dục (SDLH)
(2) Sự phát triển
về hoóc môn (hoóc môn nam, nữ)
3. Các thuyết phát triển về đồng tính:
a. Lý thuyết “Ảnh hưởng của
cha mẹ”:
Cha vắng mặt, mẹ kiểm soát quá mức.
J. Nicolosi đặt liệu pháp của mình trên lý thuyết cho rằng những người nam có
khuynh hướng đồng tính đã không được ảnh hưởng, hỗ trợ và khẳng định đủ bởi vai
trò người nam trong gia đình.
b. Lý thuyết “Điều kiện môi
trường”:
Việc tiếp xúc sớm với cảnh quan hệ
tình dục của người đàn ông khác đưa tới cảm giác khoái cảm, sẽ ảnh hưởng đến
hành vi của đương sự trong tương lai.
c. Lý thuyết “Lạm dụng tình
dục”:
Bị lạm dụng tình dục sẽ dẫn đến
việc lặp lại sự sai quấy của hành vi này đối với người khác (vì tức giận, kiểm
soát, khắc phục…)
d. Lý thuyết “Thoái
lui”(regression):
Khuynh hướng thoái lui hay trốn
trở lại trạng thái phát triển của một giai đoạn trước đó vì sự căng thẳng, xung
đột, v.v... của cuộc sống hiện tại (chẳng hạn, do căng thẳng… anh ấy đột nhiên
mút tay vốn là một thói quen từ bé…). Theo Freud, sở thích đồng tính là nét nổi
bật của những giai đoạn đầu phát triển tính dục. Khi căng thẳng không còn nữa,
đương sự lại trở về với sở thích khác giới.
e. Thuyết hoàn cảnh
(Situational theory):
Thuyết
hoàn cảnh cho rằng đồng tính xảy ra trong môi trường chỉ toàn nữ hoặc toàn nam
(quân đội, nhà tù, trường nam sinh, chủng viện, v.v.)
f. Các thuyết dịch chuyển
(Spectrum Theories):
Các thuyết dịch chuyển cho rằng hầu
như không có ai là hoàn toàn đồng tính hoặc dị tính, mà hầu hết chúng ta đều di
chuyển từ hoàn toàn đồng tính đến hoàn toàn dị tính.
g. Thuyết Tính mềm dẻo tính
dục (Sexual Plasticity):
Khuynh hướng tính dục trong những
năm đầu đời có thể được định hình theo nhiều cách khác nhau do nhiều tác động
khác nhau.
Đồng tính có thể có nhiều nguyên
nhân. Nó có thể là sự kết hợp của các nguyên nhân sinh học và phát triển, khác
nhau tùy theo mỗi cá nhân. Đồng tính luyến ái có thể đi kèm với nhiều yếu tố cá
tính khác nhau và rất khó để xác định một người đồng tính điển hình.
4. Những tính cách có thể có nơi các đối tượng đồng
tính
Một số cách biểu lộ hoặc những
tính cách có thể gặp thấy nơi các đối tượng có khuynh hướng đồng tính bao gồm:
(1) Các đối tượng
đồng tính có nhu cầu về quyền lực và kiểm soát hoặc, ngược lại, quá lệ thuộc
vào người khác.
(2) Họ ngưỡng mộ
và gắn bó quá mức với một số người nam (vd: trẻ tuổi hơn) và không thích những
người khác (vd: già hơn)
(3) Đồng nhất
hóa với sự nhạy cảm của phụ nữ (đàn ông đồng tính có thể hiểu rõ hơn và trân trọng
những cảm xúc & giá trị đặc trưng của phụ nữ).
(4) Thiếu hứng
thú trong việc tham gia vào các trò chơi thể thao & các hoạt động nam.
(5) Có những sở
thích và cách cư xử như nữ giới (nhưng có nhiều người đàn ông có khuynh hướng đồng
tính không thể hiện tính cách này).
II. HUẤN QUYỀN VỀ VIỆC TIẾP NHẬN CÁC ỨNG SINH CÓ XU
HƯỚNG ĐỒNG TÍNH
Theo Ratio 2016 của Bộ Giáo sĩ,
Giáo hội, trong khi hết sức tôn trọng những người đang được nói đến (tức là những
người có xu hướng đồng tính), không thể tiếp nhận vào chủng viện hoặc vào hàng
chức thánh những ai:
a) Có sinh hoạt đồng tính
b) Thể hiện xu hướng đồng tính nặng
c) Hoặc cổ xúy cái gọi là “văn
hóa đồng tính”
Lưu ý: Giáo lý Giáo hội Công giáo
coi hoạt động đồng tính là một hành vi chống lại luật tự nhiên và “lệch lạc tự
bản chất” (cf. GLGHCG, 2357). Tuy nhiên, những người có xu hướng như vậy phải
được đón nhận với sự tôn trọng, tình thương và sự nhạy cảm.” (số 2358)
* Ngoại trừ: Những xu hướng đồng tính nhất thời
Tuy nhiên, trường hợp sẽ khác nếu đương sự có biểu hiện xu hướng đồng
tính mang tính nhất thời – chẳng hạn như vì chưa thoát ra khỏi thời kỳ niên
thiếu. (Ratio, 200)
Dù vậy, những xu hướng như vậy phải được khắc phục một cách rõ ràng ít nhất 3 năm trước khi đương sự đón nhận
chức phó tế.
* Hướng dẫn liên quan đến những
chuẩn tắc phân định ơn gọi đối với những người có khuynh hướng đồng tính luyến
ái (Bộ GD Đức Tin CG, 2005)
Linh mục… một cách bí tích, đại diện cho Chúa Kitô. Vì có sự đồng hình
đồng dạng với Chúa Kitô […] nên ứng
viên của thừa tác vụ chức thánh phải đạt đến sự trưởng thành tình cảm […]; điều
này sẽ giúp ứng viên có thể quan hệ một cách đúng đắn với cả nam lẫn nữ. (số 1)
* Trưởng thành tình cảm
Trưởng thành tình cảm đề cập tới sự hòa hợp cách lành mạnh của các
khuynh hướng, niềm tin và hành vi căn bản, cả về tự nhiên và ân sủng, liên quan
đến các mối quan hệ nam nữ, và cảm xúc, suy nghĩ, bối cảnh xã hội, xác tín tâm
linh, ơn gọi và làm chủ chính mình.
III. GIẢI PHÁP CHO NHỮNG THÁCH THỨC VỀ PHÂN ĐỊNH ƠN
GỌI TRONG GIAI ĐOẠN CHỦNG VIỆN
Phân định ơn gọi để đạt đến một sự
trưởng thành cần thiết về mặt tính dục là những thách thức lớn lao ngày hôm
nay. Vì thế, một số giải pháp cần thiết để đương đầu với những thách thức này
bao gồm:
- Đối diện với
văn hóa im lặng
- Phát huy sự
tin cậy và tính minh bạch
- Có đường lối
chủng viện rõ ràng và việc thực hiện các hướng dẫn cho sự trưởng thành tình cảm.
1. Đối diện với văn hóa im lặng
Lý do cho việc xem xét và không
tiếp nhận ứng sinh có xu hướng đồng tính (đó là vấn đề liên quan đến sự trưởng
thành tình cảm) có thể lúc đầu sẽ không được ứng sinh chấp nhận. Điều này có thể
ngăn cản ứng sinh tiết lộ và chia sẻ với nhà đào tạo về những xu hướng đồng
tính của mình (văn hóa im lặng)
Ứng sinh có thể sẽ chối và một
cách vô thức kìm nén ý thức của mình về xu hướng đồng tính.
2. Phát triển sự tin tưởng như một sự đối lại với
thách thức của văn hóa thinh lặng
Những người đào tạo cần có sự tôn
trọng và tình thương đối với ứng sinh. Vì đây là điều mà Chúa muốn chúng ta
làm. Nếu chúng ta không có cách tiếp cận mang tính mục vụ, thì ứng sinh sẽ khó
mà đến với chúng ta để tin tưởng và giãi bày tâm sự với chúng ta. Một khi sự
tôn trọng và niềm tín thác được thiết lập, hướng ơn gọi và hướng sống của ứng
sinh có thể được phân định một cách đúng đắn, cho dù tương lai sẽ là một linh mục
hay là một giáo dân hiến thân.
2.1. Cách tiếp cận mục vụ này dựa trên phương châm:
“Tôn trọng sâu sắc những người có xu hướng đồng tính,” và với tinh thần đó giáo
quyền bắt đầu bàn về các ứng viên có khuynh hướng đồng tính.
Giáo hội, trong khi hết sức tôn trọng những người đang được nói đến (tức
là những người có xu hướng đồng tính), không thể tiếp nhận vào chủng viện hoặc
vào hàng chức thánh những ai có sinh hoạt đồng tính, thể hiện mạnh mẽ những xu
hướng đồng tính hoặc cổ xúy cái gọi là “văn hóa đồng tính.”(Ratio, 199)
Lưu ý: trong những tài liệu chính thức của mình, Giáo hội không sử dụng cụm từ
“những người đồng tính” mà chỉ dùng cụm từ “những người có khuynh hướng đồng
tính.” Con người không thể bị đồng hóa bởi xu hướng đồng tính, mà trước hết phải
được nhìn nhận là con cái Thiên Chúa.
2.2. Cách tiếp cận mục vụ này phản ánh thái độ được
khuyến khích bởi “Thư gửi các Giám mục Giáo hội Công giáo về việc chăm sóc mục
vụ đối với những người đồng tính” của Bộ Giáo lý Đức tin, 1986.
Ngày nay, Giáo hội… khẳng định rằng mọi người đều có căn cước cơ bản:
thụ tạo của Thiên Chúa. Chúng tôi khuyến khích… chăm sóc mục vụ dành cho những
người đồng tính phù hợp với giáo huấn của Giáo hội. Một chương trình mục vụ
đích thực sẽ hỗ trợ người đồng tính ở mọi cấp độ của đời sống tâm linh (15,16)
Mục tiêu của tư vấn ơn gọi/linh
hướng không phải là buộc đương sự phải rời khỏi chủng viện, mà là giúp người ấy
có được sự phân định đúng đắn về việc anh ta có ơn gọi tiến tới chức linh mục hay
không, qua việc tìm hiểu các hướng dẫn của Giáo hội. Tuy nhiên, các chủng sinh
phải được nhắc nhở cũng như hiểu rõ rằng “ước muốn trở thành linh mục là không
đủ và không mang lại cho họ quyền lãnh nhận chức thánh.” Điều đó còn tùy thuộc
vào Giáo hội […] trong việc xem xét tính phù hợp khi ứng sinh ước muốn gia nhập
chủng viện (cũng như) đồng hành với anh ta trong những năm đào tạo. (Ratio,
201)
Và nếu chủng sinh phải rời chủng
viện, vị tư vấn mục vụ hay vị linh hướng phải giúp đương sự chuẩn bị cho cuộc sống
tương lai của mình, như một môn đệ trung thành của Chúa Kitô. Điều này cần có
thời gian, nghĩa là không nên vội vàng bắt chủng sinh rời khỏi chủng viện. Trừ
khi đương sự dấn vào mối quan hệ có hại trong chủng viện. (Nhưng dù có vậy, nếu
được, thì đương sự nên được tư vấn hay được giới thiệu tới tư vấn)
2.3. Điều gì sẽ xảy ra nếu ứng viên có hấp lực đồng
tính không thành thật về hấp lực, hành vi, v.v. đồng tính của mình?
Trước hết, chúng ta cần phải thận
trọng trong việc đưa ra những phán xét hay cho rằng những người đến xin trợ
giúp trong hành trình ơn gọi là không thành thực. Nhiều ứng viên tỏ ra thành thật
khi thấy mình được tôn trọng và tin tưởng. Chúng ta nên tin rằng Thiên Chúa sẽ
quan phòng để chúng ta tìm ra cách thức và phương tiện hầu nhận ra những ứng
viên phù hợp và không phù hợp với chức linh mục.
Đôi khi, các chủng sinh cùng lớp
là những người đầu tiên nhận ra những khuynh hướng / hành vi đồng tính nơi những
người họ sống cùng. Họ có thể nhận ra qua lời nói, hành vi, cách hành xử, đôi
khi qua sự quyến rũ và gạ gẫm của người có khuynh hướng đồng tính. Các chủng
sinh cần phải biết tầm quan trọng của việc chia sẻ thông tin này với nhà đào tạo,
dù chỉ là nghi ngờ. Và những chủng sinh đó cần được bảo đảm rằng danh tính của
họ sẽ được giữ kín.
2.4. Những cách khác để đối phó với thách thức của
hành vi phủ nhận và kìm nén:
Thay vì nhắm tới các chủng sinh
có khuynh hướng đồng tính, nhà đào tạo nên cung cấp chương trình “Trưởng thành
tình cảm” cho tất cả các chủng sinh. Việc áp dụng chương trình đào tạo “Trưởng
thành tình cảm” (hướng dẫn nhóm và tư vấn / hướng dẫn cá nhân) cho tất cả các
chủng sinh, sẽ cung cấp sự trợ giúp và phân định ơn gọi cho những người có
khuynh hướng đồng tính, như một phần của chương trình chủng viện.
Cần thiết lập một “phạm vi an
toàn” (tương tự như ‘tòa trong’). Trong tài liệu “Hướng dẫn dành cho việc phân
định ơn gọi của các ứng viên có khuynh hướng đồng tính” (2005, số 3), Bộ Giáo dục
Công giáo chỉ ra rằng vị linh hướng “buộc phải giữ bí mật” nhưng tài liệu cũng
chỉ ra rằng “nếu một ứng viên có sinh hoạt đồng tính hoặc thể hiện mạnh mẽ xu
hướng đồng tính, thì vị linh hướng cũng như cha giải tội của ứng viên phải có
trách nhiệm khuyên ngăn ứng viên tiến tới thụ phong.
Kiến tạo và duy trì một phạm vi an toàn trong chủng viện: Trong tài
liệu công bố năm 2016, số 194, Bộ Giáo sĩ nói rằng nếu có sự giúp đỡ của chuyên
gia đáng tin cậy về khoa học tâm lý để lượng giá ứng viên, thì chuyên gia này,
sau khi đã thực hiện việc lượng giá, và cùng với sự chỉ dẫn của nhà đào tạo, sẽ
phải trình bày nội dung bản lượng giá – nhưng chỉ khi có sự thỏa thuận bằng văn
bản trước đó của ứng viên; trong việc giúp hiểu tính cách của ứng viên và những
vấn đề mà ứng viên đang gặp phải hoặc phải đối mặt…, chuyên gia này cũng sẽ chỉ
ra những khả năng có thể thấy trước liên quan đến sự phát triển tính cách của ứng
viên.
3. Sự minh bạch về đường lối và thủ tục chủng viện
liên quan đến trưởng thành tình cảm
3.1. Đề cập tới vấn đề trưởng thành tình cảm:
Trong buổi định hướng cho các tân
chủng sinh, chủng viện cần phải đề cập tới tầm quan trọng của sự trưởng thành
tình cảm, theo cách thức rõ ràng, thực tế và gây thiện cảm. Và, đường hướng của
Giáo hội về vấn đề khuynh hướng tính dục cũng cần phải được trình bày vào thời
điểm thích hợp.
3.2. Tính minh bạch:
Vào những dịp huấn giáo thích hợp
(như linh hướng, lượng giá và hướng dẫn tâm linh/tâm lý) trong giai đoạn định
hướng và khai tâm, chủng viện cần phải trình bày cho chủng sinh về tầm quan trọng
của việc chia sẻ tiểu sử bản thân. Nhờ đó chương trình đào tạo chủng viện có thể
thực sự giúp các chủng sinh trong việc đào luyện bản thân hướng tới thiên chức
linh mục.
“Để việc đào tạo này (về mặt con
người) có kết quả, điều quan trọng là mỗi chủng sinh phải ý thức về tiểu sử của
mình, và sẵn sàng chia sẻ nó với các vị đào tạo.” (Ratio, số 94)
Cách đào tạo như vậy sẽ đề cao việc
“tự phân định và sống có trách nhiệm” của chủng sinh (Ratio, số 96)
3.3. Chia sẻ thông tin cá nhân:
Việc chia sẻ “tiểu sử bản thân”
có thể được thực hiện qua việc phỏng vấn cá nhân hoặc qua bản câu hỏi về tiểu sử,
gia đình hay nguồn gốc, giáo dục và các thông tin khách quan khác.
Những thông tin về cá nhân, về sự
thân mật và nhạy cảm, chẳng hạn như về tính dục, có thể được chia sẻ với vị
linh hướng/tư vấn. Khi lượng giá, vị linh hướng/tư vấn chỉ cần lọc ra những
giai đoạn chính yếu (như giai đoạn đón nhận các chức nhỏ, phó tế, linh mục), với
sự cho phép của ứng viên, để xét xem ứng viên này có đủ tiêu chuẩn tâm linh/tâm
lý cho giai đoạn tiếp theo hay không.
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 120 (Tháng
9 & 10 năm 2020)
WHĐ (25.03.2021)