Đức Thánh Cha
Bênêđictô XVI cử hành Thánh Lễ Nửa Đêm tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô.
Thành phố Vatican, 2008. (Ảnh của Grzegorz GalazkaArchivio Grzegorz GalazkaMondadori
qua Getty Images)
VỊ GIÁO HOÀNG CỦA LÝ TRÍ –
DI SẢN TRÍ TUỆ CỦA ĐỨC
BÊNÊĐICTÔ XVI SẼ TỒN TẠI LÂU DÀI
Samuel Gregg
WHĐ (27.4.2023) – Đức Bênêđictô XVI để lại sau ngài một
công trình trí tuệ to lớn đã nuôi dưỡng các thế hệ Kitô hữu và đã tạo điều kiện
cho những trao đổi hiệu quả với những người bên ngoài Giáo hội. Trong phần
tổng hợp các công trình này của Joseph Ratzinger, Samuel Gregg nhắc lại tầm
quan trọng của lý trí, của sự hiểu biết đúng đắn về thời kỳ Khai sáng, và của sự
ăn khớp giữa đức tin và chân lý.
Trong tất cả những vị
đã ngồi trên Ngai Tòa Phêrô, chắc chắn Đức Bênêđictô XVI là một trong những người
khổng lồ về trí thức. Ngay cả trước khi trở thành giáo hoàng vào năm 2005, ngài
đã nổi tiếng là một nhà tư tưởng. Cho dù chủ đề là tương lai của châu Âu hay mối
quan hệ giữa đạo đức và kinh tế, Joseph Ratzinger chắc chắn đã viết một điều gì
đó sâu sắc về các chủ đề này.
Học thuật này không
giới hạn trong học viện. Đã lâu rồi tôi không đếm được số người thuộc mọi tầng
lớp xã hội mà tôi gặp đã nói với tôi rằng sau khi đọc một hoặc nhiều hơn trong
số 86 cuốn sách và 471 bài báo của ngài, họ đã hiểu rõ hơn về Kitô giáo, một sự
hiểu biết sâu sắc hơn về Chúa Giêsu Nadarét. Trong nhiều trường hợp, kết quả cuối
cùng là trở lại đạo Công giáo.
Chân lý và những ý tưởng
Đối với Đức Bênêđictô
XVI, Kitô giáo không phải là một tập hợp các ý tưởng. Rốt cuộc, Kitô giáo nói về
sự thật về cuộc đời, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu Kitô và cách những
sự kiện đó mặc khải tình yêu sâu xa của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Tuy
nhiên, các ý tưởng rất quan trọng đối với Ratzinger, vì chính bằng câu chữ mà sự
thật này được truyền đạt và giải thích.
Đức Bênêđictô XVI
cũng đã chứng kiến trong suốt cuộc đời mình sức mạnh của ý tưởng, dù hoàn cảnh
nào đi nữa. Lớn lên dưới chế độ độc tài Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa ở Đức, ngài
đã tận mắt chứng kiến mức độ nguy hại có thể đến từ những ý tưởng sai lầm
nghiêm trọng. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ngài đã chứng kiến cách các ý
tưởng của chủ nghĩa Mác đã hợp pháp hóa các chế độ chuyên chế Cộng sản trên khắp
Trung và Đông Âu và cuối cùng dẫn đến sự điên rồ quét qua giới học thuật và văn
hóa phương Tây vào năm 1968, mà chúng ta vẫn đang phải trả giá.
Những sự kiện này
và những sự kiện khác liên quan đến chúng đã khiến Đức Bênêđictô XVI phải suy
nghĩ rất lâu và kỹ lưỡng về những sai lầm trong thế giới tư tưởng. Cách giải
thích thì nhiều, nhưng tác phẩm của ngài bao giờ cũng quay trở lại cuộc tranh
luận về bản chất và mục đích của lý trí.
Trong điều kiện của
thời hiện đại, lý trí luôn gắn liền với các thời kỳ Khai sáng khác nhau. Nhiều
người ngạc nhiên khi tôi nói với họ rằng Đức Bênêđictô XVI không phải là người chống Khai sáng. Một trong những sai lầm lớn nhất khi
phân tích Ratzinger là coi ngài là một kẻ chống Khai sáng. Chỉ cần đọc các bài
viết của ngài một giờ hoặc lâu hơn là đủ để xua tan chuyện hoang đường này.
Ngược lại, Đức
Bênêđictô XVI đã không ngần ngại công nhận những thành tựu của các nhà tư tưởng
khác nhau của phong trào Khai sáng. Các bài viết của ngài phản ánh sự đánh giá
sâu sắc về các mức độ khác biệt của các phong trào Khai sáng khác nhau. Trong một
số trường hợp, Đức Bênêđictô XVI đã cẩn thận phân biệt các phong trào Khai sáng gắn liền với, ví dụ như Cách mạng
Pháp, khác với những phong trào đặc trưng cho kinh nghiệm Khai sáng của người Anh-Mỹ. Ngài tin rằng những phong
trào Khai sáng của người Anh-Mỹ không có những xung năng chống Kitô giáo như phong
trào Khai sáng gắn liền với Cách mạng Pháp và đánh dấu sự đoạn tuyệt ít cực
đoan hơn nhiều với các truyền thống phương Tây cũ hơn. Về vấn đề này, Ratzinger
viết rằng tư tưởng của ngài rất gần với tư tưởng của nhà tư tưởng tự do người
Pháp thế kỷ 19, Alexis de Tocqueville, người mà ngài gọi là “nhà tư tưởng chính
trị vĩ đại”.
Vấn nạn về tính hiện đại
Đức Bênêđíctô XVI
nghĩ rằng vấn nạn về tính hiện đại là nó có nguy cơ đóng cửa lý trí đối với sự
hiểu biết về những điều vượt quá kinh nghiệm và đo lường được. Nói cách khác, bất
chấp tất cả những thành tựu của nó trong khoa học tự nhiên và xã hội, thế giới
hiện đại vẫn bị tấn công bởi một quan niệm quá hạn hẹp về lý trí.
Các ngành khoa học
hiện đại, như Đức Bênêđictô XVI thường chỉ ra, đã mang hình thức hiện đại của
chúng vào thời Trung Cổ, đã giúp nhân loại thực hiện quyền làm chủ vô song đối
với thế giới tự nhiên. Tuy nhiên, tính hợp lý theo kinh nghiệm đã không thể và hiện
nay vẫn không thể xác định công nghệ được sử dụng như thế nào mới là tốt hay xấu.
Điều này đòi hỏi những hình thức lập luận khác: những hình thức cho phép chúng
ta hiểu điều gì là tốt lành, và cách làm thế nào để chúng ta có thể tự do lựa
chọn điều tốt lành chứ không bao giờ chọn điều ác.
Theo Đức Bênêđictô
XVI, việc mất đi những chân trời vĩ đại của lý trí đã gây ra những hậu quả
nghiêm trọng cho các lãnh vực tôn giáo và thế tục. Ngài khẳng định, trong thế
giới tôn giáo, sự suy giảm của lý trí có xu hướng giản lược tình yêu Kitô giáo thành
chủ nghĩa nhân đạo đa cảm đơn thuần.
Trong Giáo hội Công
giáo thời hậu Vatican II, điều này dẫn đến việc nhiều nhà thần học và hơn một linh
mục, hơn một giám mục và hơn một hồng y đã giảm trừ Chúa Kitô thành một loại gấu
bông trị liệu từ trời cao: thứ gấu bông này không bao giờ sửa sai chúng ta và
chỉ tán thành chúng ta, bất kể hành động của chúng ta ngu ngốc hay xấu xa như
thế nào.
Thách thức của lý trí
Sau một thời gian,
không ai có thể coi một vị thần như vậy là quan trọng nữa. Quan điểm tương tự
cũng dẫn đến việc đạo đức bị giảm xuống thành việc nói về cảm xúc và kinh nghiệm
sống hoặc, thay vào đó, cố gắng xác định tính đạo đức của một hành vi bằng cách
đo lường tất cả các hậu quả tốt và xấu của hành động đó – như thể những điều
này bằng cách nào đó có thể định lượng được hoặc thậm chí hoàn toàn có thể nhận
biết trước được.
Về một vài phương
diện nào đó, kết quả của việc giảm sút lý trí thậm chí còn gây ra nhiều tai hại
hơn cho toàn xã hội. Ví dụ, nó tạo ra những học giả đề cao tầm quan trọng của
tính hợp lý khoa học, nhưng không thể nhận ra rằng các khoa học tự nhiên dựa
trên những tiên đề có bản chất phi khoa học - bao gồm cả nguyên lý logic phi
mâu thuẫn và sự thật hiển nhiên là sai lầm thì cần phải tránh, nhưng sự thật
thì cần phải được biết đến.
Như Đức Bênêđictô
XVI muốn nhấn mạnh, các xã hội đa nguyên tự do, vốn thiếu một quan niệm vững chắc
về lý trí triết học, thiếu phương tiện để xác định những chân lý phổ quát vượt
quá những ý thích thay đổi thất thường kiểu như “xinh xắn dễ thương”. Ngay cả ý
tưởng rằng có những quyền tự nhiên phổ quát (một khái niệm có từ thời Tôma
Aquinô) mà mọi người có thể nhận biết nhờ lý trí cũng trở nên không thể đứng vững
nếu không có cơ sở như vậy trong chính luật tự nhiên. Do đó, các vấn nạn về sự thiện
và điều ác bị giản lược vào ý chí của bất cứ ai có nhiều quyền lực hơn, cho dù
là do người ấy sẵn sàng sử dụng nắm đấm của mình hay do khả năng của người ấy tập
hợp được đa số phiếu bầu của những người dễ sai khiến vào thời điểm bầu cử.
Trong những hoàn cảnh như vậy, các thể chế như nhà nước pháp quyền và các giới
hạn hiến định đối với quyền lực nhà nước có vẻ như mê hoặc và rốt cuộc là đáng bị
vất đi.
Phần lớn tư tưởng của
Đức Bênêđíctô XVI - dù là với tư cách giáo hoàng, bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin
của Đức Gioan Phaolô II, hay nhà thần học - đã được
dành để suy tư về những vấn đề này. Chẳng hạn, tư tưởng ấy đã giúp làm nên một
trong những thông điệp quan trọng nhất của giáo hoàng trong thế kỷ 20, Veritatis
Splendor – Chân Lý Rạng Ngời - của Đức Gioan Phaolô II. Trong số những
điều khác, thông điệp này tái khẳng định một cách mạnh mẽ giáo huấn cổ xưa của
Giáo hội Công giáo rằng có một số hành vi (giết người, nói dối, trộm cắp, v.v.)
mà chính lý trí cho chúng ta biết không bao giờ được phép chọn chúng, bất kể
hoàn cảnh hay ý định của bất cứ ai chọn chúng. Cũng có một sự nhấn mạnh nhiều
hơn, trong đó nổi tiếng nhất là bài phát biểu năm 2005 của Ratzinger về “sự độc
đoán của thuyết tương đối”, theo đó niềm tin rằng tất cả những gì gọi là đạo đức
về cơ bản đều là tương đối, và niềm tin như thế mở đường cho sự chuyên chế của
kẻ mạnh đối với kẻ yếu.
Những nỗ lực của Đức
Bênêđictô XVI nhằm phục hồi trong lòng Giáo hội và xã hội quan niệm mở rộng hơn
này về lý trí cuối cùng xoay quanh một điểm trung tâm: một điểm mà Kitô giáo chính
truyền luôn nhấn mạnh, nhưng đôi khi lại bị lãng quên. Đó là về ý tưởng về
Thiên Chúa là Logos - Lý trí.
Đức Bênêđictô XVI
nhấn mạnh, việc sở hữu lý trí của chúng ta phản ánh sự kiện là con người, nam
và nữ, được tạo dựng, như sách Sáng thế nói, imago Dei, theo hình ảnh của
Thiên Chúa, là Đấng được xác định trong câu đầu tiên của Tin Mừng Gioan là
Logos - lý trí thần thiêng. Đối với Đức Bênêđictô XVI, Logos không phải là một
định đề siêu hình trừu tượng. Chúa Giêsu là Logos mặc lấy xác phàm đã chết cho
chúng ta: Thiên Chúa có lý tính đã hiện diện từ thuở ban đầu và trực tiếp đi
vào lịch sử nhân loại.
Điều này không chỉ
có nghĩa là Thiên Chúa của Kitô giáo không có liên quan gì đến những vị thần khó
chịu, hay thay đổi và ích kỷ của thế giới ngoại giáo, những vị thần lợi dụng và
ngược đãi người phàm theo ý muốn. Ngược lại, Thiên Chúa tình yêu cũng là Thiên
Chúa làm cho lý trí trở thành con người: Logos là Đấng “từ nguyên thủy” thổi trật
tự vào vũ trụ và ban cho tinh thần con người khả năng nhận biết phần lớn trật tự
này theo ý muốn của mình. Phẩm tính lý trí tự có của chính vị Thiên Chúa này
cũng có nghĩa là tình yêu thương của Ngài không bao giờ bị tính đa cảm làm hư hỏng.
Sự nhấn mạnh của Đức
Bênêđictô XVI về lý trí không nên được coi là gợi ý rằng ngài là một người theo
chủ nghĩa duy lý nào đó. Một mặt, ngài biết rõ rằng con người không phải là Thiên
Chúa; do đó, sức mạnh tinh thần của chúng ta không bao giờ có thể vượt quá sức
mạnh của Logos.
Nhưng Đức Bênêđictô
XVI cũng tự an ủi mình bằng đức tin của những người mà ngài gọi là những người
đơn sơ: những người có thể không có bằng tiến sĩ thần học, nhưng tin rằng Chúa
Giêsu thành Nadarét chính là Đấng mà ngài đã nói, những người đã tin vào những
nhân chứng đã làm chứng cho những hành vi và công trình của Chúa Kitô, và là những
người đã tìm thấy niềm vui và hy vọng trong sự hiểu biết này. Đức Bênêđictô XVI
đã chỉ ra rằng nhiều người trong số họ là những vị thánh bước đi giữa chúng ta,
không được công nhận và thường không được biết đến ở đây và bây giờ, nhưng ánh
sáng trọn vẹn của họ sẽ hiển hiện rõ ràng trong thế giới mai sau.
Trong các sách Tin
mừng của Kitô giáo, từ “ánh sáng” thường đồng nghĩa với sự thật, sự thông biết
và tính khả tri của Thiên Chúa. Đó là lời nhắc nhở về một điểm mà Đức Bênêđictô
XVI đã đưa ra trong Di chúc thiêng liêng, được xuất bản vào ngày ngài qua đời: rằng,
“ngoài mớ giả thuyết rối mù”, chúng ta có thể tin tưởng vào “tính hợp lý của đức
tin”.
Tôi tin rằng việc chúng
ta thực sự có thể có được niềm tin này sẽ là thông điệp quan trọng và lâu dài
nhất từ vị giáo hoàng của lý trí gửi đến một Giáo hội và một thế giới đang rất
cần đến thông điệp đó.
Phêrô Phạm Văn Trung
Chuyển ngữ từ: thedispatch.com
(01.01.2023)