TRONG GIÁO HỘI HIỆP THÔNG VÀ SỨ VỤ:
VAI TRÒ THIẾT YẾU CỦA GIÁO DÂN TRONG CÔNG CUỘC LOAN BÁO TIN MỪNG NGÀY
CÀNG SÁNG RÕ
Lm. Đaminh Hương Quất
Giáo phận Xuân Lộc
WHĐ (26.10.2021) - Giáo dân hiện diện cùng với Giáo hội
trong ngày khai sinh trước thế giới và luôn là thành phần đông đảo. Thánh sử
Luca cho biết, ngày Chúa Thánh Thần Hiện xuống trên Giáo hội sơ khai, ngoài
Nhóm Mười Hai, còn có Mẹ Maria, mấy phụ nữ, anh em bà con với Chúa Giêsu hiện
diện.... khoảng 120 người (x. Cv 1, 12- 2,12).
Có thể nói, trong dòng lịch sử thăng trầm của Giáo hội, Giáo
dân luôn đồng hành với Giáo hội trong sứ vụ Loan báo Tin mừng (Truyền giáo); nhất
là Giáo hội thời Tử đạo, Giáo dân chở che bao bọc Giáo sĩ, chung phận cùng các
Kitô hữu, kể cả việc Tử đạo để bảo vệ Đức tin... Tuy nhiên, đã có lúc - cả giai
đoạn thời Trung cổ thành phần Giáo dân chưa được trân trọng đúng mức, hầu như
không có vai trò tích cực nào trong Giáo hội, có chăng chỉ đơn giản là ‘Giáo hội thụ huấn' trước uy quyền (cả Thần
quyền lẫn Thế quyền) của một Giáo hội ‘Giáo sĩ trị' (!)
Nói thế thì cũng chưa hẳn thế! Giáo sử cho thấy, trong thành
phần Giáo dân, một thiểu số ‘đặc loại' nào đó (như Vua chúa - thế quyền) vẫn tích
cực cộng tác với hàng Giáo sĩ để củng cố Giáo hội, bành trướng Nước Chúa. Các
hoàng đế La Mã đã có sáng kiến và triệu tập những Công đồng chung đầu tiên của
Giáo hội (Công đồng Nicea (năm 325); Constantinopoli (381); Epheso (431).).
Trong công cuộc mở mang Nước Chúa (Truyền giáo) Giáo hội luôn thường được ủy
thác cho Vua chúa hay đặt dưới ‘chế độ bảo hộ' của họ[1]....
Sự ‘hợp tác' có lẽ chỉ chấm dứt khi Bộ
Truyền giáo của Giáo hội được thành lập (1622). Lúc này, Đức Thánh Cha qua
Bộ Truyền giáo trực tiếp chỉ đạo và tổ chức công cuộc Truyền giáo[2].
Trong quá trình ‘hợp tác' giữa Giáo sĩ - Giáo dân nói trên
không phải lúc nào cũng êm buồm xuôi gió, đã có lúc vì thiếu tôn trọng nhau nên
gây ra những căng thẳng, sóng gió. Thế quyền- Thần quyền đã không ít lần ‘đạp'
chân nhau đến nhói đau (!). Vua chúa, lúc đầu còn ‘dễ thương' nghe Giáo hội,
còn tôn trọng nhau thì sự hợp tác này phát huy tích cực, nhưng càng ngày Thế
quyền càng lấn át, chính trị hóa hoạt động Giáo hội, xâm hại quyền lợi Giáo hội,
chèn ép Đức Giáo hoàng... khiến Giáo sĩ và Giáo dân càng xa nhau, biệt lập, thậm
chí đối đầu nhau. Phải chăng trong Trọng sắc “Clericis laicos” (1296) Đức Boniface VIII (1294- 1303) nói quá: ‘Giáo dân và Giáo sĩ xưa nay vẫn chống đối
nhau' cũng phần nào phản ánh bức bối Giáo hội trước sự quá đáng của Vua
chúa trần gian[3]?.
Từ cuối thế kỷ 19 cho đến trước Công đồng Vaticanô II, Giáo
hội ít nhiều có chú ý vai trò Giáo dân trong Giáo hội. Giáo dân càng ngày càng
nhận thức trách nhiệm mình trong Giáo hội. Đã có các phong trào trong Giáo dân ở
đây đó (như Phong trào Công giáo Tiến
hành, phong trào Focolare - Tổ Ấm của chị Chiara Lubich; Legio Mariae...')
như những cổ võ một tinh thần Tông đồ mới, đồng thời làm cho Giáo dân ‘tin tưởng
cách chính đáng họ thuộc về Giáo hội nhiều hơn'[4].
Dưới góc độ Truyền giáo, việc Đức Thánh cha trao quyền Truyền
giáo cho vua chúa (rõ nhất thời ‘chế độ bảo hộ' (ở thế kỷ 15-16) dẫu còn nhiều
hạn chế song cũng cho thấy Đấng kế vị thánh Phêrô đã trao sứ vụ Truyền giáo của
Giáo hội cho người Giáo dân trực tiếp đảm trách. Quả thế, hầu hết trong các văn
kiện lớn của Giáo hội về Truyền giáo từ đầu thế kỷ 20 đến Công đồng Vaticanô II
người Giáo dân được nhắc đến vai trò ngày càng sáng rõ hơn, chẳng hạn:
+ Đức Benedict XV trong Tông thư Maximum Illud (ban hành 30.11.1919) nói
Công việc truyền giáo là của toàn Giáo hội. Vì thế, các Kitô hữu phải có trách nhiệm cộng tác bằng cách: Cầu nguyện, cổ
võ ơn gọi truyền giáo, giúp đỡ vật chất cho việc truyền giáo (x s.20-21).
+ Thông Điệp Rerum Ecclesiae của Đức Pio XI (28.2.1926) nhấn mạnh địa vị rất quan trọng của Giáo lý viên trong
công tác truyền bá Tin Mừng, bởi thế không chỉ cổ võ, khuyến khích họ mà
còn cần phải huấn luyện họ cẩn thận.
+ Thông điệp Evangelii Precones (Đức Pio XII, 02.6.1951) Nhấn mạnh vị thế truyền giáo của giáo dân. Nhìn qua lịch sử Truyền
giáo, Thông điệp nhận thấy thời kỳ Giáo hội bành trướng luôn là thời kỳ có sự cộng
tác tích cực của hàng Giáo dân với hàng Giáo phẩm trong công tác Tông đồ. Thông
điệp kêu mời Giáo dân tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp ấy, nhất là những
Giáo dân đang hoạt động trong phong trào Công
giáo Tiến Hành (x.số 13).
+ Thông Điệp Fidei Donum (Đức Piô XII, 21.4.1957) mời gọi mọi thành phần trong
Giáo hội cộng tác- giúp đỡ vào công việc truyền giáo ở Châu Phi với Tinh thần Hiệp thông trong một Nhiệm Thể
của Đức Kitô, giúp đỡ anh em Phi Châu là giúp chính mình. Đến đây, xuất hiện Hình thức ơn gọi Truyền giáo mới: Với
các Linh mục, sang truyền giáo một thời gian theo hạn định sau đó có thể quay
trở về giáo phận của mình. Với Giáo dân, Đức Thánh cha mời gọi họ sang Châu Phi
tham gia truyền giáo qua phục vụ trong ngành chuyên môn của mình với chứng tá bằng
đời sống Kitô đích thực (x.s.29).
+ Thông điệp Princeps Pastorum (Đức
Gioan XXIII, 28.11.1959) chú ý đến tầm
quan trọng của người Giáo dân sống đạo trưởng thành và dấn thân trong hoạt động
Tông đồ Truyền giáo trong các xứ Truyền giáo. Thông điệp lưu ý, công tác Truyền
giáo không được giới hạn trong việc kêu gọi trở lại đạo và chịu Rửa tội mà còn
lo đào tạo Giáo dân sao cho họ trưởng thành trong Đức tin, có khả năng làm chứng
đời sống Kitô hữu trong mọi hình thức cuộc sống, tích cực hoạt động trong công
tác Tông đồ (x.s. 25. 30-35.41.45)[5].
Nhìn chung, các văn kiện Giáo hội trước Vaticanô II ít nhiều
cho thấy vai trò tích cực Giáo dân trong hoạt động Truyền giáo song vẫn chỉ là
tùy phụ. Có thể nói, trong suốt hàng chục thế kỷ của mình (trước Công đồng
Vaticanô II) hầu như Giáo hội đã ‘lãng phí' rất lớn tiềm lực Truyền giáo nơi
thành phần Giáo dân, dẫu họ đã từng bừng sáng trong Giáo hội thời các Tông đồ[6]. Điều đó không có nghĩa chưa
bao giờ ý thức sự hiện diện mật thiết của Giáo dân trong Giáo hội[7], tuy nhiên xét trên bình diện
suy tư thần học Giáo dân một cách chính thức thì quả thật phải đợi đến Công đồng
Vaticanô II (1962-1965).
Công đồng Vaticanô II đã tạo ra bước ngoặt cho Giáo hội,
cách riêng đối với vai trò - sứ vụ của Giáo dân trong Giáo hội. “Đây là lần đầu
tiên trong lịch sử, một Công Đồng Chung đã quan tâm đặc biệt tới vấn đề Tông đồ
Giáo dân, cũng như đã dành nhiều nỗ lực cho việc xác định lại sứ mệnh của Giáo
dân trong Giáo hội và trong thế giới”. Quả thế, Công đồng dành riêng một chương
đặc biệt (chương 4) trong Hiến chế được coi là “then chốt” của Công đồng -
Hiến chế Tín lý về Giáo hội (Lumen
Gentium) để bàn về Giáo dân. Giáo dân còn xuất hiện trong nhiều văn kiện khác của
Công đồng, có riêng một Sắc lệnh bàn về tư thế và hoạt động của họ trong lòng
Giáo hội Hiệp thông: Sắc lệnh Tông đồ
Giáo dân (Apostolicam Actuositatem- TĐ).
Sau Vaticanô II, Giáo dân tiếp tục được suy tư, triển khai, đưa ra những chỉ dẫn cụ thể, hoàn thiện hơn trong các văn kiện bàn về sứ mạng chung của toàn thể Giáo hội. Cách riêng, Giáo dân còn được Giáo hội quan tâm cách đặc biệt, kết quả là Tông huấn Kitô hữu Giáo dân (Christifideles Laici) do Thánh Gioan Phaolô II ban hành. Nơi Tông huấn này, nền thần học Giáo dân có thể nói đã đầy đủ nhất, trong đó nổi bật vai trò Truyền giáo mọi lãnh vực trần thế.
(Đây là phần ‘Dẫn Nhập'
trong Bản thảo Luận Văn ra trường: ‘Người
Giáo dân và việc Truyền giáo theo Sắc Lệnh Tông đồ Giáo dân và Sắc Lệnh Truyền
giáo', 2010-2011)
Trích Bản tin Hiệp
Thông / HĐGM VN, Số 124
(Tháng 5 & 6 năm 2021)
[1] x. Lm. Bùi Đức Sinh, OP, Lịch Sử
Giáo hội, quyển 1, tr. 112tt; Lm. Felipe Gómez, Sj, chương II: Quá trình lịch sử công cuộc Truyền giáo trong
Truyền giáo học, tr.45tt
[2] x. Đức ông Giuse Đinh Đức Đạo, Truyền giáo học, giáo trình, ĐCV Thánh
Giuse Xuân Lộc (2010), tr.6.
[3] Trong chiến tranh Anh-Pháp hai bên đều sử dụng cùng một biện pháp là
đánh thuế tài sản Giáo hội. Giáo hoàng
Boniface bằng trọng sắc «Clericis
laicos” tìm cách ngăn ngừa việc đánh thuế hay chuyển giao tài sản Giáo hội
cho vua chúa ngoài đời. Giáo hoàng
Clément V (1305-1314) đã bãi bỏ lệnh cấm này. Đi xa hơn bối cảnh lịch sử cụ
thể, trọng sắc này còn cho thấy có một mối thù nghịch gần như thâm căn cố đế giữa
giáo sĩ và giáo dân (x. Peter Neuner, Giáo
hội học qua các tác giả, dẫn nhập và tuyển chọn trong bộ Texte Zur Dogmatik, Verlag Styria, Graz,
Wien, Koln, 1991, bản dịch Lm. Alberto Nguyễn Văn Hòa, số 78, tr.130).
[4] x. Hiến chế Tín lý về Giáo hội,
Lời giới thiệu trong bộ Thánh Công đồng
Chung Vaticanô II, bản dịch của GHHV Pio X- Đà Lạt (1972)
[6] x.Lm. Pio Ngô Phúc Hậu, Lòng khiêm tốn là chứng tá Tin Mừng trong Nhật Ký Truyền Giáo, tr.73-74.
[7] X. Sắc lệnh Tông đồ Giáo
dân, Lời giới thiệu trong bộ Thánh Công đồng Chung Vaticanô II - đtd.