TUỔI TRẺ CÔNG GIÁO VÀ HỘI NHẬP
VĂN HÓA TRONG THÁNH NHẠC
Lm. Ns. Joseph Nguyễn Xuân Thảo,
OFM
WHĐ (21.7.2022) - Bài viết này chúng tôi dành riêng cho Tuổi
trẻ Công giáo, không có nghĩa là không liên quan gì tới tín hữu Kitô giáo nói
chung, nhưng có nghĩa là nó quan trọng đối với tương lai nền Thánh nhạc Công
giáo tại Việt Nam, vì nếu giới trẻ (thanh niên và cả thiếu niên nam nữ) không ý
thức về trọng trách phải Hội nhập văn hóa trong Thánh nhạc ngay từ bây giờ, thì
không lâu sau sẽ có rất ít những bài thánh ca thấm đượm màu sắc Việt Nam như
Giáo hội hằng mong muốn.
I. YÊU CẦU HỘI NHẬP VĂN HÓA TRONG THÁNH NHẠC PHỤNG
VỤ
A. Trong các văn kiện từ Công đồng Vatican II: Hiến
chế về Phụng vụ và Huấn thị về Âm nhạc trong Phụng vụ thánh
Vậy, Hội nhập văn hóa trong Thánh nhạc là gì? Thuật ngữ “Hội
nhập văn hóa” (HNVH, inculturation)
tuy không được nêu rõ trong các Văn kiện của Công đồng Vatican II cũng như
trong các văn kiện chính thức khác vào thời diễn ra Công đồng, nhưng nó đã và
đang được thể hiện từ xưa mà Công đồng đã chính thức hóa trong Hiến chế về Phụng
vụ (HCPV [Sacrosanctum Concilium],
ĐGH Phaolô VI công bố 4-12-1963) với những từ như “canh tân”, “thích ứng”, “thích
nghi”.
Trong bài Diễn giải về
Hiến chế “Sacrosanctum Concilium”, giáo sư Nathan D. Mitchell (tiến sĩ,
giám đốc Trung tâm Phụng vụ, giáo sư thần học tại đại học Notre Dame, South
Bend, Indiana) đã đưa ra bản tóm lược những điểm cốt yếu trong Hiến chế về Phụng
vụ như sau:
“Nhiều người cho rằng văn kiện Sacrosanctum Concilium (tức Hiến chế về Phụng vụ) của Công đồng
Vatican II đã làm thay đổi tận gốc rễ cách thức thờ phượng của tín hữu Công
giáo khắp hoàn cầu. Thật ra, văn kiện này không sửa đổi một điều gì về phụng vụ.
Sacrosanctum Concilium không nhằm mục
đích hợp thức hóa những thay đổi hoặc để tuyên bố các tín điều, nhưng là để
phác hoạ các quy phạm mục vụ và các nguyên tắc thần học giúp cho Giáo hội canh
tân mọi phương diện của đời sống phụng vụ: cử hành các bí tích, nhất là bí tích
Thánh Thể (47-82); ca tụng Thiên Chúa hằng ngày bằng Phụng vụ các giờ kinh
(83-101); cảm nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa ở việc chay tịnh, trong các lễ
mừng kính và trong các mùa của năm phụng vụ (102-111); thánh nhạc và nghệ thuật
thánh (112- 130). Để “dân Kitô giáo” hiểu được các nghi lễ phụng vụ “cách dễ
dàng và có thể tham dự vào những nghi lễ ấy một cách trọn vẹn, tích cực và cộng
đồng” (21), Công đồng đòi hỏi phải “phục hồi” triệt để toàn diện nền phụng vụ
Rôma. Đáp ứng yêu cầu này của Công đồng, Đức Thánh Cha Phaolô VI với tự sắc Sacram Liturgiam ban hành ngày
25-01-1964 đã thành lập một consilium (ủy ban) có nhiệm vụ đưa Hiến chế vào hiệu
lực ngay để canh tân phụng vụ càng sớm càng tốt.
Ở trung tâm Hiến chế Sacrosanctum Concilium là hình ảnh một
dân thánh lữ hành được dẫn đến “tham dự các cuộc cử hành phụng vụ cách trọn vẹn,
ý thức và tích cực do chính bản chất phụng vụ đòi hỏi” (14). Trong công cuộc
canh tân phụng vụ, “mục đích hàng đầu phải quan tâm trước mọi mục đích khác” là
“sự tham dự trọn vẹn và tích cực của toàn dân” (14). Hiến chế nhấn mạnh thêm
nguyên tắc căn bản này bằng bốn hệ luận then chốt:
(1) Phụng vụ của Giáo hội ca ngợi nhiều cách thức hiện diện của
Chúa Kitô giữa dân của Người (trong phụng vụ Thánh Thể, nhất là trong hai hình
sắc Thánh Thể; trong các bí tích khác; nơi các thừa tác viên; trong Lời Chúa;
và bất cứ khi nào Giáo hội họp nhau lại để cầu nguyện và ca ngợi) (7);
(2) Phụng vụ không phải là những hoạt động riêng tư, vì thế mọi
thành viên của cộng đoàn phụng vụ đều có vai trò và tiếng nói trong việc chung
lời ngợi khen Thiên Chúa (26);
(3) Giáo hội trân trọng vẻ đẹp văn hóa của các dân nước khác nhau và, mỗi
khi có thể, Giáo hội hội nhập “những phẩm chất và tài năng” này vào phụng vụ
(37);
(4) Lời Chúa chính là bí tích, do đó phần Phụng vụ Lời Chúa và phần
Phụng vụ Thánh Thể “tạo thành một hành vi phượng tự duy nhất” (56)[1].
Đặc biệt về Thánh nhạc, Hiến chế về Phụng vụ (Ch. VI, số
112) nói rất rõ ràng về Nhạc dân tộc:
“Ở một vài miền, nhất
là các xứ Truyền Giáo, có những dân tộc sẵn có một truyền thống âm nhạc riêng;
nó đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tôn giáo và xã hội của họ. Tại những
nơi này, phải quý trọng âm nhạc ấy đúng mức, và dành cho nó một địa vị thích hợp,
trong khi đào tạo cảm thức tôn giáo của họ, cũng như thích ứng việc phụng tự
theo bản sắc của họ, theo tinh thần khoản 39 và 40. Do đó, trong khi huấn luyện
âm nhạc cho các vị thừa sai, phải hết sức lo lắng để họ có khả năng phát triển
truyền thống âm nhạc của các dân tộc này, được chừng nào hay chừng đó, trong
các trường học cũng như trong các hoạt động phụng vụ.”
Trong Huấn Thị về “Âm Nhạc trong Phụng Vụ Thánh” (Instructio
de Musica in Sacra Liturgia), ngày 5 tháng 3 năm 1967, Thánh Bộ Lễ Nghi, trong
mục về “Soạn thảo các cung điệu cho những
bản văn bằng tiếng bản quốc”, chương VII, số 54-55, đã dạy:
“Khi đưa ra những bản
dịch theo lối phổ thông để dệt nhạc, đặc biệt bản dịch các thánh vịnh, các
chuyên viên nên làm thế nào để vừa trung thành với bản văn la-tinh lại vừa thích
nghi được với bản văn viết bằng ngôn ngữ hiện đại. Phải tôn trọng đặc tính và
những quy luật của mỗi ngôn ngữ cũng như phải để ý đến đặc tính của mỗi dân tộc.
Khi soạn những cung điệu mới, các nhạc sĩ phải hết sức quan tâm đến những dữ kiện
trên cùng những quy luật của thánh nhạc.
Thẩm quyền địa phương
phải liệu sao cho trong ủy ban đảm trách việc soạn thảo những bản dịch phổ
thông, có những chuyên viên trong các bộ môn kể trên, cả về tiếng la-tinh lẫn
tiếng bản quốc, phải có sự cộng tác của những người này ngay từ lúc khởi đầu
công việc.
Thẩm quyền địa phương
được quyền quyết định xem một số bản văn bằng tiếng bản quốc đã có từ xưa và
nay đã phổ nhạc, còn được dùng nữa hay không, dù có một vài thay đổi khác với
những bản dịch phụng vụ chính thức bây giờ.”
“Sự thích nghi âm nhạc trong các miền đã có một truyền thống âm nhạc
riêng, nhất là trong các xứ truyền giáo, đòi hỏi các nhà chuyên môn phải được
chuẩn bị hết sức đặc biệt (40).
Thật vậy, phải kết hợp
ý thức về sự thiêng thánh với tinh thần, tập quán và cách diễn tả đặc biệt của
mỗi dân tộc. Những ai hiến thân làm công việc này, phải có một tầm hiểu biết
vừa đủ về phụng vụ và truyền thống âm nhạc của Hội Thánh, cũng
như của ngôn ngữ, ca khúc bình dân và những
cách diễn tả đặc trưng của dân tộc mà họ phục vụ. (HTANTPV, 61)
B. Thuật ngữ Hội nhập văn hóa (Inculturation)
Năm 1962, chỉ một thời gian ngắn trước ngày 4 tháng 12 năm
1963, là ngày mà 2.152 nghị phụ bỏ phiếu chấp nhận Hiến chế Phụng vụ (HCPV),
giáo sư J. Masson được coi là tác giả đầu tiên dùng từ “inculturé” bằng tiếng
Pháp trong cụm từ “un catholicisme inculturé” (một Giáo hội Công giáo hội nhập
văn hóa) trong bài viết của ông nhan đề “L'Eglise ouverte sur le monde” (Giáo hội
mở ra với thế giới)[2].
Năm 1974, Liên Hội đồng Giám mục Á châu cũng đã dùng thuật
ngữ đó trong lời tuyên bố chung kết của phiên họp toàn thể năm 1974. Đến năm
1977, Thượng Hội đồng Giám mục thế giới lần thứ 5 cũng đã dùng hạn từ đó trong
số 5 của “Sứ điệp gửi cho Dân Chúa” như sau:
“Chúng tôi có thể nói rằng huấn giáo là một công cụ của hội nhập văn hóa. Nghĩa là khi huấn
giáo phát triển, nó đồng thời soi sáng từ bên trong lối sống của những người
đang được huấn giáo. Qua huấn giáo, đức
tin Kitô giáo phải được nhập thể vào các nền văn hóa. Việc ‘nhập thể' đích
thực của đức tin qua huấn giáo giả thiết không chỉ một tiến trình cho đi (ban
phát), mà còn là một tiến trình đón nhận.”
Cuối cùng, năm 1979, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II dùng thuật
ngữ “Hội nhập văn hóa” trong các tài liệu chính thức của giáo hoàng, như trong
Tông huấn “Cathechesi Tradendae” (Huấn
giáo trong thời đại chúng ta). Năm 1985, Thượng Hội đồng Ngoại lệ các Giám mục
Công giáo Rôma với chủ đề: “Kỷ niệm 20 năm kết thúc Công đồng Vaticanô II”, đã
đưa ra một định nghĩa về Hội nhập văn hóa như sau:
“Vì Giáo hội là một hiệp thông, hiện diện trên khắp thế giới
và nối kết sự đa dạng với sự hiệp nhất, Giáo
hội đón nhận bất cứ điều gì mà Giáo hội thấy là tích cực trong các nền văn hóa.
Tuy nhiên, Hội nhập văn hóa khác
với việc chỉ thích nghi bề ngoài đơn thuần, vì nó có nghĩa là sự chuyển hóa bên trong các giá trị văn hóa
đích thực bằng cách tháp nhập các giá trị đó vào trong Kitô giáo và làm cho
Kitô giáo đâm rễ vào trong các nền văn hóa khác nhau.”[3]
Như vậy, xuất phát từ “thích nghi” (adaptation) trong Phụng
vụ, Giáo hội đi dần tới chỗ hội nhập văn
hóa trong Phụng vụ, bao gồm các lãnh vực như: ngôn ngữ địa phương trong các
bản văn Phụng vụ, nhất là các bản văn Kinh Thánh; âm nhạc; cử chỉ; nhà thờ; các
vật dụng thánh dùng trong Phụng vụ... Riêng hội nhập văn hóa trong âm nhạc phụng vụ, được coi như một lãnh vực
quan trọng nhằm cổ võ sự tham gia tích cực và đầy đủ của dân chúng vào các nghi
lễ phụng vụ, Công đồng đã dạy chúng ta “cần phải cổ xúy những lời tung hô của
dân chúng, những lời đối đáp, những bài ca vịnh, tiền khúc, thánh ca, và cả những
động tác hoặc cử chỉ, thái độ của thân xác”[4]
Để đạt được mục đích hội nhập văn hóa trong âm nhạc phụng vụ, chúng ta tìm cho
ra đâu là đặc trưng của ngôn ngữ Việt Nam, và đâu là đặc trưng của âm nhạc dân
tộc Việt Nam.
II. LÀM THẾ NÀO ĐỂ HỘI NHẬP VĂN HÓA TRONG LÃNH VỰC
ÂM NHẠC TRONG PHỤNG VỤ
Chúng tôi tạm giới hạn chỉ bàn về hội nhập văn hóa trong các
bài thánh ca trong Phụng vụ, gọi tắt là phụng ca.
Một bài phụng ca luôn bao gồm lời ca và âm nhạc. Lời ca trích từ các nguồn phụng vụ, nhất
là trích từ Kinh Thánh (đặc biệt thánh vịnh, thánh ca Cựu ước và Tân ước), hoặc
lấy ý (paraphrase) hay lấy cảm hứng (inspired from) từ Kinh Thánh (như các
thánh thi [hymn]), cùng lắm là do người sáng tác tự đặt ra đúng tinh thần phụng vụ và phù hợp với giáo lý Công giáo. Âm nhạc là
yếu tố thứ 2 làm cho lời ca (lời kinh) được phô diễn thấm thía hơn (suavius),
giúp người hát đồng tâm nhất trí hơn, cũng như tạo được bầu khí long trọng hơn.[5] Vậy đâu là (1) đặc
điểm của ngôn ngữ trong lời ca cần được bảo toàn để nhận ra đó đúng là lời tiếng
Việt, đúng phong cách diễn tả cũng như diễn xướng của tiếng nói dân tộc Việt?
Và đâu là (2) bản sắc đặc trưng của âm nhạc Việt Nam khiến người hát cũng như
người nghe dễ nhận ra bài hát mang âm hưởng của nền âm nhạc dân tộc? Đó là 2 vấn
đề mà chúng ta sẽ phải bàn tới dưới đây bằng cách tham khảo Dân ca Việt Nam,
như là ngọn nguồn của mọi hội nhập văn hóa trong ca hát bằng tiếng Việt.
A. Nét đặc trưng của ngôn ngữ Việt Nam trong Dân ca
Việt Nam
1. Ngôn ngữ là yếu tố
quan trọng nền tảng, đặc trưng nhất của từng nền văn hóa
Cố Giáo sư Tiến sĩ âm nhạc học Trần Văn Khê đã từng viết:
“Như là hậu quả của 10 thế kỷ bị Trung Hoa đô hộ (từ thế kỷ thứ nhất đến thế kỷ
thứ 10 SCN), văn hóa Việt Nam mang những dấu vết của ảnh hưởng Trung Hoa trong
mọi lãnh vực: triết học, tôn giáo, chữ viết, văn học, hội họa, kiến trúc và âm
nhạc. Tuy nhiên, người Việt Nam là một trong số ít dân tộc đã thành công trong
việc bảo toàn được một ngôn ngữ và một nền
văn học dân tộc, một cách sống và cách sáng tạo nghệ thuật độc đáo bất chấp
chính sách đồng hóa của người Trung Hoa.”[6]
Chúng ta không ngạc nhiên khi nghe học giả Phạm Quỳnh đã nói
chí lý: “Tiếng Việt còn, nước ta còn”[7]
Hay nhạc sĩ Phạm Duy, trong bài Tình ca, viết lời tỏ tình đầu tiên không phải
cho một người yêu, mà là lời tỏ tình yêu với tiếng Việt, bắt đầu với câu “Tôi
yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời...”, rồi diễn giải cái ‘tiếng nước tôi' đó
qua tiếng mẹ ru, câu hò, câu hát, tiếng ‘khóc cười theo mệnh nước nổi trôi'.”[8] Đó là vì ngôn ngữ của từng
dân tộc được coi là yếu tố đầu tiên mang nét văn hóa riêng của dân tộc đó.
Đối với ngôn ngữ Việt Nam, điều đó lại càng đúng vì tiếng Việt
là một ngôn ngữ đơn lập, nhưng đa thanh “phức tạp,” so với các ngôn ngữ đa
thanh đơn giản, nhất là các ngôn ngữ không có thanh điệu[9]:
Đơn lập (đơn âm), nói rời từng tiếng, viết rời từng chữ, từ chuyên môn gọi là
đơn âm tiết (monosyllabic), so sánh với nhiều ngôn ngữ đa âm tiết khác; Đa
thanh (nhiều thanh điệu) thể hiện qua 5 dấu 6 giọng: không dấu (dấu ngang), sắc,
huyền, hỏi, ngã và nặng.[10] Trong 6 giọng này, có 3 giọng
đơn mang dấu ngang, dấu sắc, và dấu huyền, chỉ cần một cao độ bổng hoặc trung
hoặc trầm là thể hiện được. Ba giọng còn lại, gọi là giọng kép, mang dấu nặng,
dấu hỏi, và dấu ngã thì cần ít nhất 2 cao độ khác nhau.[11]
Chính đặc điểm đơn âm tiết giúp tác
giả dân gian có thể thêm vào những tiếng đệm láy, để biến cải lời ca - lời thơ
thành ca từ. Và chính đặc điểm đa thanh
của ngôn ngữ Việt Nam khiến tác giả dân gian nắn lên được những giai điệu mượt
mà, luyến láy lên bổng xuống trầm. Hai đặc điểm đó của ngôn ngữ là điều kiện
giúp người Việt Nam sáng tác được những bài Dân ca rất đặc sắc trong ca từ cũng
như trong giai điệu.
2. Ngôn ngữ thi ca đã
thể hiện thanh điệu và được biến cải thành ca từ như thế nào trong
Dân ca Việt Nam
2.1. Là một ngôn ngữ đa thanh phức tạp, với 3 thanh
điệu đơn (ngang, sắc, huyền) và 3 thanh điệu kép (hỏi, ngã, nặng), giai điệu trong Dân ca Việt Nam thiên về
luyến láy (neumatic, mỗi chữ ngân luyến từ 2-5 cao độ trở lên), nhiều hơn
các loại giai điệu từng vần (syllabic, mỗi chữ một dấu nhạc).
Thí dụ 1 (Cò Lả): các
thanh điệu kép ‘lả, Cửa Phủ,” luyến láy từ 2-3 dấu nhạc.
Thí dụ 2 (Lý qua cầu):
các thanh diệu kép ‘cởi, nhẫn, Mẹ,’ luyến láy bằng 2 dấu nhạc.
Thí dụ 3 (Lý Qua Đèo):
các chữ có thanh kép ‘mẹ, hỡi, vượn' đều dùng 2-5 dấu nhạc, riêng chữ ‘vượn(n)'
được ghi như vậy để diễn âm dấu nặng “tắc giọng” thành 2 âm cùng cao độ.
Thí dụ 4 (Hò Đất Giồng):
các chữ có thanh kép được luyến láy: ‘hỡi, nữa, để, tủi, khỉ.
Thí dụ 5 (Lý Lu Là): các
chữ có thanh kép được luyến láy: ‘sậy, chịu, mẹ', ‘bỏ, lạnh, kẻo', ‘giữ, vậy.'
Thí dụ 6 (Hoa Bốn
Mùa): các chữ có thanh kép được luyến láy: ‘đủ, mọi, đổ.'
Nếu quan sát kỹ, chúng ta sẽ thấy các dấu kép “hỏi”, “ngã”,
và ‘nặng' (chữ ‘lả', ‘Cửa Phủ' trong TD 1; ‘cởi', ‘nhẫn', ‘Mẹ' trong TD 2; ‘mẹ,
hỡi, vượn' trong TD 3; ‘hỡi', ‘nữa', ‘để', ‘tủi', ‘khỉ' trong TD 4; ‘sậy, bỏ,
giữ, chịu, lạnh, vẫy, mẹ, lạnh, kẻo' trong TD 5; ‘đủ, mọi, đổ' trong TD 6) đều
được luyến ngân bằng ít nhất 2 dấu nhạc. Từ đó, một số chữ có thanh điệu đơn
(ngang, sắc, huyền) cũng được luyến láy theo để cho giai điệu hài hòa, uyển
chuyển, nhịp nhàng. So sánh với bài “À Lê - Chàng Đi Săn” (TD 7), Dân ca dân tộc
Khmer, trong lối viết từng vần, chữ ‘chẳng' thanh điệu kép mà ghi nhạc như
thanh điệu đơn ‘sắc'(may còn giữ được chữ ‘bảo' có luyến ngân, không biết trong
bản gốc tiếng Khmer có luyến không?)[12]:
Thí dụ 7 (À Lê -
Chàng Đi Săn)
2.2. Là một ngôn ngữ đơn lập, đơn âm tiết, tiếng Việt
có lợi thế biến cải Lời ca-Lời Thơ[13] thành ca từ. Người ta hầu như chỉ nói tới kỹ thuật phát triển nhạc
đề bằng biến cải âm nhạc (musical
variation)[14]. Nhưng trong Dân ca Việt
Nam, có thêm một kỹ thuật độc đáo đó là biến
cải kéo dài lời ca-lời thơ thành ca từ (textual variation by extension).
Xem lại bài Cò lả (TD 1) ở trên, ta thấy câu ca dao thể thơ
lục bát (14 âm tiết):
Con cò bay lả bay la
Bay ra Cửa Phủ, bay
vào Đồng Đăng.
đã được biến cải “kéo dài” thành ca từ (18 âm tiết):
Con cò [cò] bay lả [lả]
bay la
Bay ra [ra] Cửa Phủ,
bay vào [vào] Đồng Đăng.
bằng thủ pháp lặp lại
quen thuộc trong Dân ca. TD 4 (Hò Đất Giồng) cũng đã dùng thủ pháp này trong
các câu 1-4.
Trong bài Lý Qua Cầu (TD2), ta có câu ca dao lục bát:
Yêu nhau, cởi áo cho
nhau
Về nhà dối mẹ qua cầu
gió bay
đã được biến cải “kéo dài” thành ca từ:
Yêu nhau, cởi áo [ơi
a] cho nhau
Về nhà dối [rằng cha dối]
mẹ [ơ ơ]
[Rằng a ơi a ] qua cầu,
[rằng a ơi a ] qua cầu [Tình tình tình] gió bay, [tình tình tình] gió bay.
dùng thủ pháp thêm “tiếng
đưa hơi” (ơi a, ơ, a ơi a), thêm “tiếng
phụ nghĩa” (rằng, cha, tình tình tình), thêm '“tiếng lặp lại” (dối).
Trong bài Lý Lu Là (TD 5), ta có câu ca dao lục bát:
Ai về Giồng Dứa qua
Truông
Gió đưa bông sậy bỏ buồn
cho em
đã được biến cải thành ca từ:
Ai về Giồng Dứa [mà]
qua Truông
Gió đưa [lu là] bông sậy
[ơi chàng ơi]
Bỏ buồn [ơi chàng ơi
mà] cho em
Bỏ buồn [ơi chàng ơi
mà] cho em.
dùng thủ pháp thêm “tiếng
đệm lót” (mà, lu là), thêm “tiếng phụ
nghĩa” (ơi chàng ơi).
Trong bài Lý Qua Đèo (TD 3), ta có câu ca dao lục bát:
Chiều chiều dắt mẹ qua
đèo
Chim kêu bên nớ, vượn
trèo bên ni.
đã được biến cải “kéo dài” thành ca từ:
Chiều chiều dắt mẹ [dắt
mẹ] [ta la] [đèo] qua đèo, [ta la] [đèo] qua đèo
Chim kêu [chim
kêu][tình như] bên nớ [úy óa] [chi rứa, chi rứa] [ơi hỡi] [vượn trèo][15],
vượn trèo [ta la] [ni] bên ni, [ta la] [ni] bên ni, [ơi hỡi] [vượn trèo], [ta
la] [ni] bên ni.
dùng thủ pháp thêm “tiếng
lặp lại”(dắt mẹ, chim kêu, vượn trèo], thêm '“tiếng đệm lót” không có nghĩa (ta la, tình như), thêm "tiếng lặp đảo” (đèo, ni), thêm "tiếng phụ nghĩa” (úy óa, chi rứa,
ơi hỡi).
Trong bài Hoa Bốn Mùa (TD 6), một bài vãn dâng hoa mùa Mừng
trong đạo Công giáo, không những đã hội nhập đủ mọi đặc điểm của Dân ca, mà còn
tiếp biến, mở ra tiếp thu những cái hay từ các nền nhạc khác. Câu thơ lục bát:
Bốn mùa hoa đủ mọi mầu
Mân côi là chúa, đổ đầu
các hoa
đã được biến cải “kéo dài” thành ca từ:
[Hoa đủ [i] mọi mầu],
Bốn [i] mùa hoa đủ [i] mọi mầu.
Mân côi là chúa [i i]
đổ đầu các [i i i i i i i i i i i i i i] hoa.
dùng thủ pháp thêm “tiếng
lặp đảo” (hoa đủ mọi màu), thêm “tiếng
đưa hơi”(i). Ở đây cả cụm từ “hoa đủ (i) mọi mầu” được lặp đảo, nghĩa lặp lại
phần sau của câu lục, rồi đảo lên hát trước, sau đó mới diễn xướng nguyên câu lục.
Điều đáng nói ở đây là tác giả Công giáo không lặp lại nguyên xi giai điệu của
phần đầu như thường thấy trong các bài Dân ca, nhưng tác giả dùng thủ pháp mô
phỏng/phỏng diễn (imitation) trong môn đối âm để họa lại cụm từ đó ở một quãng
4 cao hơn. Ngoài ra, có lẽ do ảnh hưởng khi tiếp xúc với nhạc Bình ca la-tinh,
tác giả đã dùng lối luyến láy khá dài (melismatic) hầu như không hề gặp trong
Dân Ca Việt Nam.
Ta có thể tóm lại thủ
pháp biến cải lời ca-lời thơ bằng phương thức “kéo dài”, tức là thêm các tiếng đệm láy thường gặp trong
Dân ca Việt Nam. Có 4 loại tiếng đệm láy, trong đó có 2 loại tiếng đệm láy
không có nghĩa từ vựng và 2 loại tiếng đệm láy có nghĩa từ vựng:
2.2.1 Tiếng đệm láy
không có nghĩa:
(a) Tiếng đưa hơi: ơ, a, ơi a, ia, i...
(b) Tiếng đệm lót: là, a la, mà, ấy, bằng, rằng, ta la, lu
la, tình bằng, tình như,…
2.2.2. Tiếng đệm láy
có nghĩa:
(c) Tiếng phụ nghĩa: tất cả những tiếng có nghĩa, không có sẵn
trong lời ca-lời thơ gốc, được thêm vào cho cụ thể, làm rõ ý nghĩa lời ca hơn[16]. Tất cả những tiếng hô gọi,
tiếng bắt chước tiếng đàn,…
(d) Tiếng lặp lại:
(d1). Lặp xuôi: Tiếng lặp lại đi sau tiếng có sẵn trong lời
ca- lời thơ như: “con cò, [cò] bay lả, [lả] bay la…” Gặp rất nhiều trong Dân
ca.
(d2). Lặp đảo: Tiếng cuối hoặc cụm từ cuối câu, được đảo lên
trước, như:
- qua đèo => [đèo] qua đèo; bên ni => [ni] bên ni
- Bốn mùa hoa đủ mọi mọi mầu => [Hoa đủ mọi mầu], Bốn mùa
hoa đủ mọi mầu.
B. Nét đặc trưng của Âm nhạc Việt Nam trong Dân ca
Việt Nam
Xét về mặt âm nhạc trong Dân ca, chúng ta sẽ đề cập đến
thang âm điệu thức và những cách pha trộn điệu thức (mode mixture, chuyển điệu),
chuyển hơi (modal nuance) cũng như thay đổi vị trí của thang âm (chuyển vị), từ
đó sẽ lộ ra những điểm đặc trưng của thang âm điệu thức cũng như những thói
quen trong tiến hành giai điệu, và đề xuất.
1. Thang âm, điệu thức
và ‘hơi nhạc' đặc trưng trong Dân ca Việt Nam
1.1. Thang ngũ âm
thông thường (regular pentatonic scale), Vị trí của thang âm, và ngũ âm ngoại
thường (irregular pentatonic scale).
1.1.1. Ngũ âm thông thường:
Dân ca Việt Nam dùng thang ngũ âm thông thường hầu như ở đâu cũng có và thời đại
nào cũng có người dùng. Sở dĩ như vậy là vì đó là thang âm gồm 5 cung bậc được
phát sinh theo chu kỳ 4 quãng năm đúng đi lên liên tiếp. Cung bậc gốc từ đó
phát sinh thêm 4 cung bậc khác tạo thành thang ngũ âm thông thường, có quy luật
phát sinh ổn định. Cung bậc gốc ở VỊ TRÍ
(VT) cao độ nào, thì gọi tên thang ngũ âm ở vị trí đó. Thí dụ, nếu chúng ta
bắt đầu bằng cao độ Đô, ta sẽ có 4 bậc khác Xon-Rê-La-Mi theo chu kỳ quãng 5
đúng liên tiếp. Thu gọn lại trong 1 bát độ, ta sẽ có thang ngũ âm VT Đô: Đô-Rê-Mi—Xon-La—(Đô) (xem TD 8.1). Nếu phát
sinh từ Vị trí FA, ta sẽ có thêm 4 bậc: Đô-Xon-Rê-La, và thang ngũ âm VT Fa sẽ là: Fa-Xon-La—Đô-Rê--(Fa) (TD 8.2). Tương tự,
nếu bắt đầu phát sinh từ VT Xon, ta sẽ có thang
ngũ âm thông thường: Xon-La-Xi—Rê-Mi -(Xon) (TD 8.3). Nhóm 3 dấu đi gần
nhau nhất trong thang ngũ âm thông thường được gọi là “pycnon”. Căn cứ trên
pycnon, ta biết tên vị trí phát sinh của từng thang âm.
Thí dụ 8.1-3. Ngũ âm
thông thường VT Đô, VT Fa, và VT Xon.
1.1.2. Vị trí: Mỗi
thang âm bất kỳ đều có thể thay đổi vị
trí, gọi là chuyển vị (metabole)[17].
Thông thường từ 1 thang ngũ âm bất kỳ, ta có thể chuyển đến 4 vị trí khác
nhau, chuyển lên 2 vị trí và chuyển xuống 2 vị trí.
Thí dụ 9 (Chuyển vị
[Metabole]): khởi đi từ VT Fa [Fa-xon- la- -đô-rê-(Fa)], với 2 cặp
biến cung (dấu lạ, không nằm trong VT Fa) ‘xib & xi thường' và ‘mib &
mi thường', ta có thể chuyển lên 1 cỡ (tức 1 quãng 5 đúng) thành VT Đô, nhờ biến
cung ‘mi' tạo thành pycnon mới ‘đô-rê-mi': Đô-rê-mi- - xon-la- -(Đô).
Tương tự, nhờ biến cung xi (thường), ta có pycnon mới ‘xon-la-xi': và
ngũ âm thông thường VT Xon chuyển vị lên 2 cỡ: Xon-la-xi- -rê-mi-
-(Xon). Chuyển xuống 1 cỡ (1quãng 5 đúng), ta dùng biến cung ‘xib' tạo thành
pycnon mới ‘xib-đô-rê', dẫn ta xuống VT Bb: Xib-đô-rê- -fa- xon- -(Xib).
Và biến cung ‘mib' xuất hiện, tạo pycnon mới ‘mib-fa- xon' đưa ta xuống
VT Mib: Mib-fa-xon- -sib-đô- -(Mib) (TD 9)
Xem lại TD 3 (Lý Qua
Đèo), chúng ta thấy bài lý này khởi sự từ VT Fa, điệu Xang [FA-xon-LA-
-ĐÔ-rê- -(FA)]. Bài lý Chuyển vị (CV) lên VT Đô, điệu Xang [ĐÔ-rê-MI- -XON-la-
-(ĐÔ)] khi biến cung ‘mi' xuất hiện tạo nên pycnon mới ‘đô-rê-mi'. Bài lý trở lại
VT Fa, điệu Xang, với sự xuất hiện trở lại của cung ‘fa' trong pycnon
‘fa-xon-la'. Đến 2 ô nhịp cuối bài, có CV xuống VT Bb, điệu Xê [ĐÔ-rê- -(FA)-XON-
-(XIb)].
1.1.3. Thang ngũ âm ngoại
thường: Ngoài thang ngũ âm thông thường, phát sinh từ một vị trí cao độ nhất
định theo chu kỳ quãng 5 đúng đi lên liên tiếp, chúng ta còn gặp nhiều thang
ngũ âm khác, gọi là thang ngũ âm ngoại
thường (irregular pentatonic scale), như thang ngũ âm Tây Nguyên “Đô-
-mi-fa-xon- -xi-(Đô), thang ngũ âm Nhật Bản “La-xi-đô- -mi-fa- -(La), 5 thang
ngũ âm ngoại thường trong Hơi Oán Việt Nam mà chúng ta sẽ xem xét trong phần
sau.
1.2. Điệu thức (Mode)
trong Dân ca Việt Nam
Thang ngũ âm Vị trí Đô có 5 cung bậc thì có thể được liệt kê
ra thành 5 dạng khác nhau:
Dạng a: Đô-rê-mi- -xon-la- -(Đô)
Dạng b: Rê-mi- -xon-la- -đô-(Rê)
Dạng c: Mi- -xon-la- -đô-rê-(Mi)
Dạng d: Xon-la- -đô-rê-mi- -(Xon)
Dạng đ: La- -đô-rê-mi- -xon-(La)
Chúng ta tìm thấy trong Dân ca Việt Nam sử dụng chủ yếu 3 dạng:
a, b và đ. Ba dạng thức đó được tổ chức thành 3 Điệu thức[18],
với những cung bậc chính hoặc phụ khác nhau như sau:
1.2.1. Điệu Xang[19] (Điệu Bắc[20]/Hệ thống 1/Thể Vui) (Major
Pentatonic Mode): Từ VT Đô, chúng ta có điệu Xang: ĐÔ-rê-MI- -XON-la- -(ĐÔ).
ĐÔ-MI-XON(được viết hoa, tạo thành hợp âm ĐÔ trưởng[CM]) là 3 dấu chính/dấu trụ,
có tính ổn định, còn rê-la (viết chữ thường) là 2 dấu phụ. Tính cách vui tươi gần
như thể trưởng tự nhiên trong thất âm. Thí dụ bài Cò lả (xem lại TD 1), các dấu
trụ được đề cao bằng cách xuất hiện nhiều ở đầu ô nhịp, hoặc đầu phách, ở cuối
câu, nhất là cuối đoạn, cuối bài.
1.2.2. Điệu Xự (Điệu
[Nam] Ai/Hệ thống 2/Thể Thương) (Minor Pentatonic Mode): Từ VT Đô, ta có điệu Xự:
LA- -ĐÔ-rê- MI- -xon-(LA). LA-ĐÔ-MI (được viết hoa, tạo thành hợp âm LA thứ
[Am]) là 3 dấu chính/dấu trụ, còn rê-xon (viết chữ thường) là 2 dấu phụ. Tính
cách dịu buồn gần như thể thứ tự nhiên trong thất âm. Thí dụ bài Hò Đất Giồng
(xem lại TD 4), các dấu trụ được đề cao bằng cách xuất hiện nhiều ở đầu ô nhịp,
hoặc đầu phách, ở cuối câu, nhất là cuối đoạn, cuối bài.
1.2.3. Điệu Xê (Điệu
[Nam] Xuân/Hệ thống 3/Thể Mừng)[21] (supermajor
pentatonic mode)[22]: Từ VT Đô, ta có điệu Xê:
RÊ-mi- - XON-LA- -đô-(RÊ). RÊ-XON-LA (được viết hoa, không tạo được hợp âm ba
trưởng hoặc thứ thông thường, mà có thể tạo ra hợp âm RÊ treo: Dsus4 là chính,
Dsus2 là hợp âm phụ). Tính cách khải hoàn, hùng tráng, bi hùng... Điệu Xê là một điệu độc đáo trong Dân
ca Việt Nam, hoàn toàn không có trong Thất âm, có thể có trong ngũ âm của một số
nước như Trung Hoa.[23] Xem bài Lý Qua Cầu (TD 2),
chúng ta thấy pycnon ‘Đô-rê-mi' cho biết bài này là ngũ âm thông thường, Vị trí
Đô. Chúng ta thấy các dấu trụ thường xuất hiện là “RÊ-[xon]-LA”.
Xem Thí dụ 8 dưới đây (Lý Ngựa Ô), chúng ta thấy đó là thang
ngũ âm thông thường ở vị trí Fa (Fa-xon-la- -đô-rê- -(Fa), với pycnon
‘Fa-xon-la’, điệu Xê: XON-la- -ĐÔ-RÊ-
-fa-(XON), với các dấu trụ là XON-ĐÔ-RÊ (có thể tạo hợp âm XON treo 4: Gsus4). Gần cuối bài, chuyển vị (thay đổi
vị trí) sang Xib-đô-rê- -fa-xon- -(Xib), điệu Xê (ĐÔ-rê- -FA-XON-la- -(ĐÔ).
Chúng ta lưu ý rằng phần I (4 hàng nhạc đầu) bài Lý Ngựa Ô hát ở VT Fa, điệu Xê
(Xuân), truyền thống cho rằng đây là hơi
Bắc (tính cách sáng sủa, vui tươi, do cách diễn âm “chân phương”). Sang phần
II, gối đầu hàng nhạc cuối, bài lý chuyển sang hơi Xuân (tính cách rộn ràng, mừng rỡ hơn, do cách diễn âm “hoa
lá”, nhấn nhá, như “tắc giọng: vỗ/mổ” (ký hiệu bằng chữ ‘v’ trên các dấu trụ
XON, RÊ), và “rung đậm” (ký hiệu ‘ mm ' trên dấu phụ ‘fa'). Bài lý chuyển vị
sang VT Bb, điệu Xê, hơi Xuân (TD 8, hàng nhạc cuối bài))
Thí dụ 9 (Lý Ngựa Ô) (để
ý các thanh điệu kép, nhất là dấu nặng: ‘ngựa, bạc, lục lạc, giặm, nhuộm, bịt').
Trong cổ giáo nhạc Công giáo, bài vãn dâng hoa “Hoa Bốn Mùa”
được dùng trong mùa Mừng. Bài vãn ở VT Fa, điệu Xê (Mừng): XON-la- -ĐÔ-RÊ-
-fa-(XON), tính cách khải hoàn, rạng rỡ (TD 6 Hoa Bốn Mùa)
1.2.4. Công thức giai
điệu (CTGĐ) (Thói quen): Mỗi điệu có một số công thức giai điệu (thói quen
chuyển hành) đặc trưng:
Thí dụ 10 CTGĐ
trong điệu Xang, VT Fa: FA-xon-LA- - ĐÔ- rê-(FA)
Thí dụ 11 CTGĐ
trong điệu Xự, VT Fa: RÊ- -FA-xon-LA- -đô- (RÊ)
Thí dụ 12 CTGÐ
trong diệu Xê, VT Fa: XON-la- - ÐÔ-RÊ- -fa-(XON)
1.3. Khái niệm “Hơi nhạc” trong nhạc cổ truyền Việt Nam
Trong Dân ca Việt nam, chúng ta còn nghe nói tới “hơi nhạc”
(modal nuance), nhiều khi lẫn lộn với “điệu thức” (mode). Chúng tôi đề nghị điệu
thức là hệ thống các cung bậc khá ổn định trong một thang âm, có cơ cấu tổ chức
cung bậc ‘chính - phụ' cố định, xuyên suốt. Từ đó cho người nghe một cảm giác
VUI, BUỒN (Thương), và MỪNG nhất định. Thí dụ ở Vị trí Đô,
- điệu Xang gồm: ĐÔ-rê-MI- -XON-la- -(ĐÔ) [dấu trụ: ĐÔ-
MI-XON; dấu phụ: rê-la; quãng 5 đúng ĐÔ-XON]
- điệu Xê gồm: LA- -ĐÔ-rê-MI- -xon-(LA) [dấu trụ: LA-ĐÔ- MI;
dấu phụ: rê-xon; quãng 5 đúng LA-MI]
- điệu Xự gồm: RÊ-mi- -XON-LA- -đô-(RÊ) [dấu trụ: RÊ-
XON-LA; dấu phụ: mi-đô; quãng 5 đúng RÊ-LA].
Còn ‘Hơi nhạc',
tuy vẫn dựa trên các dấu trụ ổn định, nhưng (1) do cách diễn âm “hoa lá/hoa mỹ của một số cung bậc ‘non/già,
rung hoặc vỗ' khiến cho tính cách của điệu thức được đậm nét hơn, như thường thấy
trong các hơi Ai [Nam ai], hơi Xuân [Nam
xuân], hơi Oán (TD 13.2-4); hoặc (2)
do cách tổ chức cung bậc đặc biệt trong giai điệu, khiến người nghe nhận ra được
một nét đặc trưng của vùng miền nào đó, như có thể nhận ra trong hơi Ví dặm Nghệ Tĩnh (TD 14.4). Phân biệt điệu với hơi[24] (xem TD 13.1-4: Hơi nhạc):
Thí dụ 13.1-4 (Phân
biệt Điệu với Hơi nhạc):
- Điệu Xang/điệu Bắc, VT Fa: FA-xon-LA-ĐÔ- -rê-(FA)
- Hơi Bắc, VT Fa: diễn tấu tất cả các cung bậc, một cách chân phương, không nhấn nhá, nhất là
trong điệu Xang.(TD 13.1)
- Điệu Xê/ điệu (Nam) Xuân, VT Fa: XON-la- -ĐÔ-RÊ- -fa-
(XON)
- Hơi (Nam) Xuân, VT Fa: XON[vỗ]-la[rung]- -ĐÔ-RÊ[vỗ]- -fa[rung]-(XON[rung])
(TD 13.3)
- Điệu Xự_Xê, VT Fa, tạo nên các dấu trụ (RÊ-XON-LA) cho các
hơi Oán:RÊ-fa-XON-LA- -đô-(RÊ).
- Hơi Oán có 5 biến thể từ hai điệu XỰ_XÊ, VT Fa: RÊ[vỗ]-
fa_fa#[di động]-XON[rung]-LA[vỗ]- -xib_xi_đô[di động]-(RÊ[vỗ]) (TD 13.4):
- Hơi Oán 1,[25] VT Fa: RÊ- -fa-XON-LA--xi-
- (RÊ) (TD 11.7)
- Hơi Oán 2, VT Fa: RÊ- - fa#-XON-LA--xi- - (RÊ) (TD 11.8)
- Hơi Oán 3, VT Fa: RÊ- - fa-XON-LA-xib- - -(RÊ) (TD 11.9)
- Hơi Oán 4, VT Fa: RÊ- - fa#-XON-LA-xib- - -(RÊ) (TD 11.10)
- Hơi Oán 5, VT Fa: RÊ- - fa#-XON-LA- - -đô-(RÊ) (TD 11.11)
- Hơi Ví dặm (Nghệ Tĩnh), VT Đô: Điệu Xự được tổ chức lại
theo công thức giai điệu từ cung MI trầm lên MI trung: ‘MI LA- - ĐÔ // LA- - -
RÊ- MI'(TD14.4, VT Đô; TD 15, VT Fa)
Thí dụ 14 (1-11)
(Thang Ngũ Âm VT Đô): Tổng hợp các thang ngũ âm VT Đô, thông thường và ngoại
thường, các điệu thức, và các hơi khác nhau.
Thí dụ 15 (Giận Mà
Thương): VT Fa, điệu Xự, hơi Ví dặm:
‘La-rê-fa' lên ‘Rê-xon-la'
2. Nét đặc trưng của
giai điệu trong Dân ca Việt Nam:
(1) Điểm độc đáo nhất, hình như chưa thấy nước nào có[26], là cách biến cải lời thơ thành ca từ, phát xuất từ đặc trưng của ngôn
ngữ,
(2) Giai điệu thiên về lối viết luyến láy (neumatic style), do thanh
điệu kép của ngôn ngữ ảnh hưởng lên âm nhạc, thì chúng ta còn có thêm nhiều nét độc đáo khác phát sinh từ âm
nhạc:
(3) Giai điệu thiên về ngũ âm, cũng do ảnh hưởng của thanh điệu ngôn
ngữ. Rất đặc biệt đó là điệu thức Xê (hệ
thống 3/ Điệu/ Hơi Xuân/ Điệu Mừng) đem lại một sắc thái rất đặc trưng và độc
đáo của Dân ca tiếng Việt.
(4) Những công thức giai điệu đặc
biệt trở thành những “thói quen” đặc trưng, mà thiếu chúng, giai điệu Dân
ca Việt Nam cũng sẽ na ná như các giai điệu ngũ âm của các nước khác.
(5) 5 Hơi Oán, biến thể từ 2 điệu Xự_Xê, với các bậc già/non, rung/vỗ,
di động, không ổn định, góp phần làm giàu có thêm số lượng thang âm ngoại thường
độc đáo có một không hai trên thế giới.
(6) Ngoài ra, chúng ta còn thừa
hưởng sự góp mặt độc đáo của Hơi Tây
Nguyên từ dân tộc Jarai, biến thể từ điệu Xang, làm tăng thêm sắc màu thanh
âm cho nhạc Việt chúng ta. Thang ngũ âm Jarai giống như thang âm Okinawa của Nhật
Bản.[27]
***
Tạm kết: Trên đây
là một số nét đặc trưng và độc đáo, nhờ đó người nghe có thể nhận ra một bản nhạc
có tính Việt Nam, có bản sắc Việt, có âm hưởng truyền thống dân tộc. Chúng tôi
hy vọng sẽ bàn tiếp xem cha ông mình đã hội nhập văn hóa thanh âm Việt Nam từ
thời đầu đón nhận Tin Mừng cho đến nay như thế nào. Và từ đó đưa ra lời kêu gọi
các nhạc sĩ, ca viên và nhạc viên Công giáo, nhất là trong giới trẻ, nên tìm cách
để thể hiện việc hội nhập văn hóa xứng với công lao của tiền nhân.
[...] Như hội nghị thứ nhất của Hiệp hội Âm nhạc Mục vụ đã
phát biểu năm 1978, “âm nhạc trong phụng vụ là bắt buộc”, chứ không phải nhiệm
ý. Nói cụ thể hơn, chúng ta không thể cử hành phụng vụ cách tốt đẹp nếu thiếu
đi việc kết hiệp lời ca tiếng hát với bài ca mà Chúa Kitô “đã đưa vào cuộc lưu
đày ở trần gian này”. Bởi lẽ, trong mầu nhiệm Ngôi Lời thành xác phàm, Thiên
Chúa đã chọn việc nhập thể và thuộc về thế
giới loài người cùng lịch sử nhân loại bằng một cách thức đặc biệt - ấy là chấp nhận mọi đặc tính của không gian
và thời gian, của các tập tục và các nền văn hóa. Sacrosanctum Concilium
minh nhiên nhìn nhận điều này, đồng thời nhắc nhở chúng ta rằng các truyền thống âm nhạc địa phương của các
dân nước “phải được tôn trọng”, vì âm nhạc địa phương không những “hình thành
tâm tình đạo đức cho dân chúng” mà còn đòi hỏi âm nhạc phụng vụ phải thích nghi
với “đặc tính bản xứ của họ” (119).[28]
Trích Bản tin Hiệp
Thông / HĐGMVN, Số 126
(Tháng 9 & 10 năm 2021)
[1] Nathan D. Mitchell, Bản tóm lược
những điểm cốt yếu, trong The Song of the Assembly, OCP 2007, Ns Phanxicô
phiên dịch trong Tập san Thánh Nhạc Hương
Trầm số 7 (tháng 4/2008)
[2] Xem Jos. Nguyễn Xuân Thảo, ofm, Music Ministry: The Inculturation of
Liturgical Vocal Music in Vietnam, Chicago, 2008, tr. 185-6.
[6] Trần Văn Khê, “Việt Nam. South-East Asian Country” trong The New Grove Dictionary of Music and
Musicians (NGDMM 19), ed. Stanley Sadie, 20 vols. (London: Macmillan,
1980), 19:744.
[7] Xem Nguyên văn: “Truyện Kiều
còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”, trong bài “Lịch sử một câu
nói”, https://nguoidothi.net.vn/lich-su-mot-cau-
noi-25168.html.
[10] Chúng tôi chọn đầy đủ và đặc trưng 6 thanh điệu như trong chính tả.
Tuy có những cách diễn âm thanh điệu khác nhau theo vùng miền, nhưng ở đây xin
chọn cách phát âm phổ biến dễ diễn âm nhất cho nhiều vùng miền có thể thích
nghi làm tăng thêm tính thông đạt cho tiếng Việt.
[11] Dấu ngã từ cao độ trung lên cao độ bổng hơn, dấu hỏi khởi từ cao độ trầm
lên cao độ bổng hơn, và dấu nặng là dấu tắc giọng, có thể diễn âm với 2 cao độ
trầm bằng nhau, hoặc từ trầm lên bổng hơn một ít như thường thấy trong diễn âm
của Dân ca.
[12] Một số tác giả cho rằng thêm các dấu nhạc luyến láy làm rối bản nhạc,
cứ để cho ca sĩ và ca viên tự luyến láy lấy. Như vậy sẽ khá nguy hiểm khi để
cho mỗi người hát theo ý minh. Chi bằng hy sinh mất công một chút, mà giúp cho
người trình tấu thể hiện đúng giai điệu mình muốn. Thật ra nếu không ghi rõ ràng,
có nhiều chỗ có thể gây khó xử cho người nghe. Thí dụ khi hát 'Đoàn giải phóng
quân' mà không kép chữ ‘giải', thi nhiều người sẽ lắc đầu mỉm cười! Dĩ nhiên,
có một số hư từ, không quan trọng cho ý nghĩa, như ‘để, sẽ, đã, hãy, được,...'
khi hát nhanh, người sáng tác có thể không thể luyến được, nhưng đối với những
chữ quan trọng, thi rất nên ghi rõ luyến láy.
[13] Chúng tôi không cần chứng minh rằng Ca từ trong Dân ca Việt Nam tuyệt
đại đa số là những bài thơ (Lục bát, hoặc song thất lục bát), giống như các ca
khúc của nhiều nước trên thế giới đều nối kết Thơ-Nhạc để tạo nên tác phẩm
thanh nhạc.
[14] Trong âm nhạc, có 2 cách biến cải nhạc đề đối lập nhau: biến cải bằng
rút ngắn (musical variation by contraction) và biến cải bằng kéo dài (musical
variation by extension). Trong Dân ca Việt Nam, có thủ pháp biến cải lời ca-lời
thơ bằng cách thêm vào một số tiếng làm cho lời thơ được kéo dài thêm ra, tạm gọi
là biến cải kéo dài (textual variation by extension).
[15] [vượn trèo] ở cuối câu nhạc là tiếng lặp lại báo trước
cho 2 chữ ‘vượn trèo' đầu câu sau. Đây cũng là thủ pháp gặp nhiều trong Dân ca
Việt Nam.
[17] Từ “metabole” được GS Trần Văn Khê dùng trong bài “Is the Pentatonic
Universal? A Few Reflections on Pentatonism.” The World of Music 19, no. 1/2
(1977): 76-84. Accessed July 23, 2021. http://www.jstor.org/stable/43560446. GS
trích dẫn Constantin Brailoiu, “Un problème do Tonalité (La metabole
pentatonique)” trong sách “Mélanges offerts à Paul Marie Masson”, Paris, 1955,
Richard Masse, pp. 63-73.
[18] Nhạc sư Hải Linh gọi là hệ thống 1, hệ thống 2, và hệ thống 3. Chúng
tôi lấy lại kiểu gọi trong nhạc cổ truyền là Điệu hoặc Điệu thức (mode).
[19] Thay vì gọi bằng số, chúng tôi gọi bằng một tên của các cung bậc trong
nhạc cổ truyền Việt Nam: Cách trình bày thang ngũ âm cổ truyền theo thứ tự: Hò,
Xự, Xang, Xê, Cống, (Líu) tương ứng với Xon, La, Đô, Rê, Mi, (Xon). Do đó, điệu
thức bắt đầu dấu Đô là tương ứng với dấu “Xang” trong tên gọi cổ truyền. Cũng vậy,
điệu bắt đầu bằng La, sẽ được đặt tên là điệu Xự, và điệu bắt đầu bằng Xon, sẽ
được đặt tên là điệu Xê.
[20] Trong nhạc cổ truyền, hình như có sự lẫn lộn giữa Điệu (mode) và Hơi
(modal nuance), chúng tôi sẽ đề cập ở phần sau khi nói tới Hơi.
[21] Trong đạo Công giáo phân biệt đọc kinh, lần hạt mùa VUI (mùa Giáng
sinh, mùa quanh năm, mùa THƯƠNG (mùa Chay, nhất là tuần Thánh, tính cách buồn
thương), và mùa MỪNG (mùa Phục sinh, tính cách khải hoàn) có vẻ tương ứng với
điệu XANG (gọi là điệu Vui), điệu Xự (gọi là điệu Thương), và điệu XÊ (gọi là
điệu Mừng).
[24] Dựa theo lời GS.TS Trần Văn Khê, có tham khảo Ns đàn bầu Phạm Đức
Thành. Mong được ý kiến của các nhạc sĩ đàn dân tộc khác.
[25] Đánh số theo Ns Lư Nhất Vũ, Lê Giang trong Tìm Hiểu Dân Ca Nam Bộ, NXB
TpHCM, 1983, tr. 297. Các dấu nhạc có mũi tên chỉ lên thi diễn xướng cao/già
hơn; dấu có mũi tên chỉ xuống thi diễn xướng thấp/non hơn.
[26] Nguyên thủ pháp biến cải lời thơ này cũng đủ để cho người nghe cảm thấy
được bản sắc của nhạc Việt, chưa cần tới các yếu tố khác liên quan đến âm nhạc.
Chẳng hạn trong bài Cao Vời Khôn Ví của nhạc sĩ Hùng Lân, phần phiên khúc, tuy
làm trong thể thứ thất âm Tây phương, nhưng nghe ra vẫn đượm màu sắc dân tộc nhờ
Lời Ca được biến cải theo phong cách của Dân ca Việt Nam: “Thương con thuở rất
xa vời (là) vời, từ khi chưa có (i-a) mặt trời, [mặt trời] [trăng] mặt trăng.
Khi chưa tạo tác (í-a) gian trần, người luôn ấp ủ (í-a) một niềm, [một niềm]
[son] sắt son.”
[27] Nhật Bản còn có thang ngũ âm ngoại thường Hirajoshi (La-xi-đô- -mi-fa-
-La) hoặc Kumoijoshi (Mi-fa- -la-xi-đô- -Mi) cũng quý hiếm, dựa trên điệu Xự biến
thể thành Hơi Hirajoshi/Kumoijoshi.
[28] Nathan D. Mitchell trong bài Diễn giải về Hiến chế “Sacrosanctum
Concilium”, Người dịch: Phanxicô, Hương
Trầm số 9 (tháng 2/2009)