TIN MỪNG
TIÊN KHỞI (ST 3,15) – LỜI HỨA CỦA NIỀM HY VỌNG
Tác giả: Phương Tế
Các Lương. CSsR
WGPQN (6.12.2020) – Chúng ta đang sống trong một
xã hội tục hóa và vong thân, con người không còn ý thức sự hiện diện của Thiên
Chúa và cũng không còn biết mình là ai. Rất nhiều người đánh mất cảm thức về tội
lỗi, họ bị chìm trong sự dữ; họ cũng đánh mất cả niềm hy vọng về một cuộc sống
viên mãn mai sau. Tại sao sự dữ lại hoành hành đến như vậy? Chúng ta phải chiến
đấu chống lại sự dữ đến bao giờ? Phải chăng con người bất lực khi chống lại sự
dữ? … Chúng ta sẽ tìm giải đáp cho loạt câu hỏi này trong chính những đoạn đầu
tiên của cuốn Thánh Kinh. Bài viết mời gọi đọc và suy tư câu: “Ta sẽ gây mối
thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống
đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó" (St 3,15), để thắp lên một
niềm hy vọng cho một thế giới có vẻ bi quan này.
1. Bối cảnh, cấu trúc bản văn
1.1.
Bối cảnh
Câu Kinh Thánh này (St 3,15) nằm trong trình thuật
“sa ngã” (St 3,1-24). Nguyên đoạn này (St 3,1-24) trình bày việc ông bà nguyên
tổ bị con rắn dụ dỗ ăn trái cấm và sau đó bị Thiên Chúa thẩm vấn để rồi Ngài
nguyền rủa con rắn, kết tội ông bà và đuổi ông bà ra khỏi vườn Địa Đàng. Sau đoạn
này, Thánh Kinh Sáng Thế trình bày về hậu quả của tội lỗi mà ông bà nguyên tổ
đã gây nên, đó là tội đánh mất tương quan với nhau, dẫn đến huynh đệ tương tàn
(trình thuật Cain và Aben, chương 4).
Trở lại bối cảnh của câu Thánh Kinh St 3,15 và
trình thuật “sa ngã”, sau khi được Thiên Chúa “tạo dựng theo hình ảnh Thiên
Chúa”, ông bà nguyên tổ được Thiên Chúa đặt để nơi vườn Địa Đàng, sống sung túc
hạnh phúc. Tuy vậy, Thiên Chúa vẫn dành cho ông bà một chỗ của tự do. Trong tự
do, ông bà có một sự khao khát muốn biết và một sự cao ngạo của tham vọng muốn
bằng Thiên Chúa. Chính điều này đã bị con rắn lợi dụng để cám dỗ ông bà phạm tội
bất tuân Thiên Chúa. Trong sự dẫn dụ của con rắn, người đàn bà mà Thiên Chúa đã
tạo dựng từ xương sườn đàn ông đã ăn trái cấm và đưa cho chồng mình cùng ăn để
rồi cả hai phải chịu hậu quả cho hành động của mình. Chính ông bà nguyên tổ và
cả con rắn đều phải chịu sự trừng phạt nhưng con rắn còn chịu sự nguyền rủa của
Thiên Chúa. Câu 14 và 15 là hai câu nói về việc Thiên Chúa kết tội và nguyền rủa
con rắn sau khi nó dụ dỗ ông bà nguyên tổ phạm tội nghịch với Thiên Chúa. Trước
hai câu này (câu 14-15) là việc Thiên Chúa thẩm vấn ông bà nguyên tổ và sau câu
này (câu 15) là việc Thiên Chúa đưa ra hình phạt đối với ông bà nguyên tổ và đuổi
ra khỏi vườn Địa Đàng. Phần tiếp theo xét cấu trúc đoạn văn để nhận biết theo
vai trò của câu này (St 3,15).
1.2.
Cấu trúc
Xét theo cấu trúc đồng quy (quy tâm) hay cấu
trúc “chân đèn” thì câu St 3,15 nằm ở trung tâm của “trình thuật sa ngã”, cụ thể
như sau:
A (3,1-6) Ông bà sẽ giống như những vị thần biết
điều thiện điều ác (3,5)
B (3,7-8)
Họ kết lá vả làm khố che thân (3,7)
C (3,9-13)
Sự biện hộ của người nam và người nữ
D (3,14-15) Lời nguyền rủa trên con rắn
C
'(3,16-20) Hình phạt đối với người nam và người nữ
B' (3,21)
Thiên Chúa làm những chiếc áo bằng da và mặc cho họ
A' (3,22-24) “con người đã trở thành như một kẻ
trong chúng ta, biết điều thiện điều ác” (3,22)[1]
Vậy trung tâm của trình thuật sa ngã là lời nguyền
rủa trên con rắn, Satan, là đầu mối của sự dữ.[2] Câu
15 là một trong hai câu mà Thiên Chúa phán trên con rắn. Về mặt cấu trúc, có thể
chia câu này thành 3 phần như sau:
15a: ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà,
15b: giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy.
15c: dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ
cắn vào gót nó.
2. Một vài chú thích các chi tiết
Câu 15a nói về mối thù giữa chính con rắn và người
đàn bà, theo câu này thì việc đố kỵ, thù ghét nhau là cuộc đối đầu trực tiếp của
người phụ nữ (ha-’iš-šah) và con rắn như cá nhân với cá nhân. Tuy nhiên mối thù
này lại gây nên cuộc chiến chí tử và trường kỳ giữa hai bên.
Câu 15b tiếp nối câu 15a nói về mối thù giữa
miêu duệ (zar-‘ă-ka) con rắn (cũng có thể coi là bè lũ con rắn – những kẻ theo
đường lối của con rắn) và dòng giống (zar-‘ah) người đàn bà. Cả hai câu 15a và
15b nói về một cuộc chiến giữa một bên là con rắn và miêu duệ (cũng như bè lũ)
của nó và bên kia là người đàn bà và dòng giống của bà. Từ “dòng giống” được
dùng trong bản Hípri là zar-‘ah ở giống đực. Khi chuyển ngữ sang tiếng Hy lạp,
trong bản LXX, người ta sử dụng từ σπέρμα (σπέρματος) là từ ở giống trung để chỉ
về dòng giống người đàn bà.[3]
Câu 15c nói về việc dòng giống người đàn bà sẽ
chiến thắng chính con rắn (chứ không phải miêu duệ con rắn), ở đây là “dòng giống
của người đàn bà” chứ không phải “dòng giống đàn bà”[4].
Câu 15a, người đàn bà chống chọi với con rắn và câu 15b nói về dòng giống người
đàn bà (tức tập thể nhân loại) chống lại bè lũ con rắn (toàn thể lực lượng sự dữ
cùng hoạt động với Satan). Trong các bản dịch Việt ngữ thì ở câu 15c này, từ
“hu” ở giống đực (có nghĩa là “nó”, tiếng Hy Lạp là “αὐτός”, cũng ở giống đực;
bản Latin dùng từ “ipsa” ở giống cái lại được viết là “dòng giống đó” (theo bản
dịch của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ) hay “dòng giống nó” (bản dịch của
Lm. Nguyễn Thế Thuấn) như là một tập thể. Tuy nhiên ở cuối câu 15c từ “a-qêb”(αὐτοῦ
πτέρναν) thể hiện rõ là “gót nó” (chứ không phải “gót họ”) như là một cá nhân.
Như vậy, dòng giống người đàn bà đánh bại con rắn là một cá nhân; cuộc chiến thắng
cuối cùng là do một nhân vật xuất phát từ loài người mang lại.[5] Nhân vật này là ai sẽ
được trình bày ở phần tiếp theo.
3. Một vài suy tư và bài học Đức Tin
3.1.
Một cuộc chiến đấu cam go và dai dẳng chống lại sự dữ
“Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn
bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy” (St 3,15a-15b).
Lời nguyền rủa trên con rắn diễn ra sau khi
Thiên Chúa chất vấn ông bà nguyên tổ (St 3,11-13). Lời nguyền rủa cho thấy liên
minh giữa con rắn và Eva đã chấm dứt và thay vào đó là sự thù nghịch. Con người
vốn là thọ tạo được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài để làm bá chủ mọi
thụ tạo khác cũng là những thụ tạo được dựng nên trước đó bởi Người (St 1,26;
2,15-25); tất cả mọi thụ tạo đều chung sống hòa bình với nhau và với con người.
Thế mà, do bởi sự bất tuân của con người mà sự dữ xâm nhập vào thế gian, thế lực
thù nghịch với con người hình thành và tồn tại dai dẳng. Mối thù nghịch không
còn ở bình diện cá nhân giữa người đàn bà (Eva) và con rắn nhưng là một mối thù
truyền kiếp giữa dòng giống người đàn bà tức nhân loại và bè lũ của sự dữ. Hậu
quả của mối thù nghịch là cuộc chiến chí tử và trường kỳ giữa hai bên với những
cuộc tấn công vô cùng nguy hiểm.[6] Cả hai đều bị tàn phá
và tàn phá lẫn nhau bằng các hành động được diễn tả trong câu 15c là “đạp đầu,
táp lại gót chân” (bản dịch của Lm. Nguyễn Thế Thuấn) hay “đánh vào (đầu), cắn
vào gót” (theo bản dịch của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ). Đó là trình
bày của Thánh Kinh, còn trong cuộc sống của chúng ta thì sao?
Mỗi ngày, mọi người đều bước đi trong cuộc sống
với bao nhiêu thử thách chông gai và cả những cám dỗ của sự sa ngã. Chúng ta phải
chiến đấu liên tục với “ba thù” để sống xứng đáng là con cái Chúa. Cuộc sống lữ
hành không thể nào tránh khỏi cuộc chiến đấu dai dẳng này. Sự dữ vẫn có đó, cám
dỗ vẫn còn đó. Điều quan trọng mà mỗi người phải ý thức rằng ngay từ ban đầu
con người không hề là đồng minh của sự dữ và sự dữ cũng không phải là đồng minh
của con người. Bằng mọi giá, con người phải chiến đấu để vượt qua cám dỗ và chiến
thắng sự dữ. Liệu tự sức con người chúng ta có làm được điều này? Trong “dòng
giống người đàn bà” đã có một con người làm được điều ấy và đó là hy vọng của mỗi
người chúng ta.
3.2.
Cuộc chiến thắng khải hoàn – ơn Cứu Độ
“Dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn
vào gót nó.” (St 3,15c)
Như đã trình bày ở phần trên, mối thù giữa con rắn
và người đàn bà, giữa hậu duệ con rắn và dòng giống người đàn bà là một mối thù
truyền kiếp. Mối thù này gây nên một cuộc chiến chí tử và trường kỳ giữa hai
bên, cả hai đều làm tổn thương, làm đau nhau. Tuy nhiên, dòng giống người đàn
bà sẽ đạp nát đầu con rắn còn con rắn thì cắn vào gót chân của người đó. Cách
diễn tả này cho thấy “cái thế đứng của đối phương ở thế thượng phong chống lại
con rắn” và chính cái thế thượng phong này tiên báo “kết cục của cuộc giao
tranh không thuận lợi cho con rắn, và do đó tiên báo cuộc chiến thắng cuối cùng
của dòng giống người đàn bà.” Lời tiên báo này đã cho thấy ánh sáng đầu tiên về
ơn cứu độ mà Đức Giêsu Kitô thực hiện trong Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người. Chính
lẽ này mà St 3,15 được truyền thống gọi là “Tin Mừng tiên khởi”
(“Protévangile”).[7]
Như vậy, Đức Giêsu Kitô, một Thiên Chúa thật và
là một con người thật, đã hoàn toàn chiến thắng sự dữ, đánh bại Satan. Người
cũng đã từng vượt qua những cám dỗ của quỷ. Đây chính là niềm hy vọng của loài
người chúng ta. Chúng ta luôn phải chiến đấu với cám dỗ, chiến đấu với sự dữ
trong sự cậy dựa vào Đức Giêsu Kitô và trong Người, chúng ta vượt qua cám dỗ và
chiến thắng Satan, được hưởng Ơn Cứu Độ của Người. Trong loài người chúng ta đã
có một người làm được điều đó, Đức Maria.
3.3.
Người đàn bà – Ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Maria
“Dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn
vào gót nó.” (St 3,15c)
Ở mục “một vài chú thích các chi tiết” của bài
viết này đã trình bày về hạn từ “dòng giống nó” hay “nó” ở giống đực, giống cái
hay giống trung. Sở dĩ người viết bài chú thích về hạn từ này vì có một điều
khiến chúng ta phải suy tư là việc có phải câu St 3,15c có nhắc về một Eva mới
tức Đức Maria. Bản Thánh Kinh Việt ngữ chú thích như sau:
C.15a nói
đến mối thù giữa con rắn và người đàn bà. Mối thù đó gây nên cuộc chiến chí tử
và trường kỳ giữa hai bên. Theo bản Hipri, “dòng giống đó” (c.15c: “hu”
ở giống đực, dịch sát là “nó”) chắc chắn phải thay thế cho “dòng giống
người ấy” ở c.15b (zar-‘ah = “dòng giống” ở giống đực). Bản LXX và bản Phổ
Thông cũ lại có một cái nhìn khác nhau và khác với HR. Trong bản
LXX, sperma (= dòng giống) ở giống trung, và autos (= nó) ở
giống đực chỉ một người con (thuộc giới nam) của dòng giống người đàn bà. Theo
bản Phổ Thông cũ, semen (= dòng giống) ở giống trung;
còn ipsa ở giống cái, chỉ người đàn bà, mẹ của Đấng Mê-si-a là Đức
Ma-ri-a.[8]
Như vậy, người đàn bà trước hết là nhân loại này
đã từ đó được Thiên Chúa cho sinh ra Đấng đạp đầu con rắn. Dòng giống người đàn
bà đạp đầu con rắn, chiến thắng sự dữ, mang lại Ơn Cứu Độ cho nhân loại là Đức
Giêsu Kitô như đã trình bày ở trên. Tuy nhiên, theo chú thích vừa trích dẫn thì
dòng giống người đàn bà còn là Đức Maria và cho cả Hội Thánh sau này. Đức Giêsu
Nhập Thể làm người qua cung lòng của Đức Trinh Nữ Maria nhờ sự xin vâng của Đức
Mẹ, để từ đó Ngài lớn lên trong thân phận con người và cứu rỗi loài người. Vì
là Mẹ Đấng Cứu Thế và trọn đời sống trong nghĩa thiết với Thiên Chúa, Đức Maria
đã cộng tác một cách thiết thân vào Cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu Kitô, để rồi sự
dữ bị đánh bại. “Vì thế, ngay từ giây phút đầu đời, Mẹ đã được Thiên Chúa ban
ân sủng ở mức tối đa, sung mãn (“đầy ơn phúc”), và suốt đời Mẹ đã sống trọn
tình con thảo đối với Thiên Chúa. Sự biệt đãi, đặc ân mà Thiên Chúa ban cho Mẹ
đây, được gọi là ơn ‘chẳng hề mắc tội tổ tông’ hay ‘vô nhiễm nguyên tội’”.[9] Ngoài đặc ân là mẹ Đấng
Cứu Thế, Mẹ Thiên Chúa và đặc ân Vô Nhiễm Thai, Đức Maria còn là mẹ của những
ai đã được tái sinh trong mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu. “Trên Núi Sọ, vào
chính lúc chiến thắng Satan nhờ thập giá, Chúa Giêsu thưa với thân mẫu: ‘Thưa
Người Đàn Bà, đây là con của Bà’ (Ga 19,26). Với kiểu xưng hô độc đáo và lạ
lùng này, Chúa Kitô gợi lại hình ảnh bà Eva, người đàn bà trong Tin Mừng tiên
khởi, và là mẹ các sinh linh (St 3,20) để nói rằng Đức Maria là Eva mới và là mẹ
tất cả những ai đã được tái sinh trong mầu nhiệm Thập Giá.”[10]
Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật
đã chiến thắng sự dữ, Mẹ Maria là thụ tạo hoàn hảo được Thiên Chúa đặt giữa đám
tội nhân để phù trì nâng đỡ họ. Người phụ nữ này (Ga 2,4; 19,26) là khuôn mẫu
cho tất cả những ai sẽ lãnh nhận ơn cứu độ.[11] Mẹ
Maria là niềm cậy trông, niềm hy vọng an vui cho chúng ta, những người bước
trong cuộc lữ hành với những cơn cám dỗ thường trực, những cuộc chiến đấu với sự
dữ trường kỳ cho đến khi ta được nghỉ yên trong Chúa.
4. Kết luận
Ngay từ đầu của cuốn Thánh Kinh, sau khi con người
sa ngã phạm tội, trong việc kết tội kẻ gây ra tội lỗi, Thiên Chúa lại lồng vào
đó Tin Mừng tiên khởi. Với St 3,15 tác giả Sách Thánh đã nghĩ đến cuộc chiến thắng
cần nhiều thời gian của dân Thiên Chúa trên sự ác. Loài người phạm tội và bị tổn
thương nhưng vẫn được Thiên Chúa yêu thương, dẫn dắt đến những hoài bão mới mẻ.
Tin Mừng tiên khởi khơi lên một niềm hy vọng chiến thắng sự ác một lần dứt
khoát và là nguồn cảm hứng xuyên suốt lịch sử Cứu Độ. Chính niềm hy vọng này
“gìn giữ chúng ta tỉnh thức trong một thế giới mà đâu đâu cũng thấy những chuyện
gây thất vọng, hoặc là ru ngủ chúng ta, cho đến ngày cái chết sẽ đến để giải
quyết hết mọi sự.”[12]
Mỗi chúng ta phải sống niềm hy vọng như thế nào
để là những chứng nhân của Chúa Cứu Thế sống tinh thần liên đới vì sứ vụ cho một
thế giới bị tổn thương trong đức ái thừa sai? Chúa đã đến, Người “Miêu Duệ” đã
xuất hiện, đã “đạp nát đầu” Con Rắn, đã chiến thắng trên mọi quyền lực sự dữ.
Ơn Cứu Độ đã có đây rồi. Vấn đề của chúng ta là sống trọn vẹn và trào tràn niềm
hy vọng được hưởng Ơn Cứu Độ. Cậy dựa vào chính Chúa Giêsu Phục Sinh, bước đi
trong ánh sáng của Người, cùng với Đức Maria, chúng ta an vui bước đi và mạnh mẽ
chiến đấu cho niềm hy vọng mong chờ hưởng Ơn Cứu Độ viên mãn trong “Ngày Chúa lại
đến.”
Nguồn: gpquinhon.org
[1] http://bible.literarystructure.info/bible/01_Genesis_pericope_e.html#4 ,
trích trong Phạm Đình Trí, “Phần II: Đọc Và Chú Giải Các Bản Văn Trong Bộ Ngũ
Thư,” Ngũ Thư, Tài liệu môn học, 13.
[2] Phạm
Đình Trí, “Phần II: Đọc Và Chú Giải Các Bản Văn Trong Bộ Ngũ Thư,” Ngũ Thư, Tài
liệu môn học, 13.
[3] Kinh
Thánh Cựu Ước – Ngũ Thư, Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ chuyển dịch (Hà
Nội: NXB. Tôn Giáo, 2010), 69.
[4] Nguyễn
Ngọc Rao, Tìm Hiểu Sách Ngũ Thư, Giáo trình môn Kinh Thánh (Sài Gòn: Lớp bồi dưỡng
liên tu sĩ, 2000), 71.
[6] “Genesis 1-3 (Creation and Fall)”, https://bible.org/seriespage/1-genesis-1-3-creation-and-fall (truy cập ngày 8-12-2020).
[8] Kinh
Thánh, Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ chuyển dịch (Hà Nội: NXB. Tôn
Giáo, 2011), 36.
[9] Kinh
Thánh – Lời Chúa Cho Mọi Người, Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ chuyển dịch
(Hà Nội: NXB. Tôn Giáo, 2007), 38.
[12] Kinh
Thánh – Lời Chúa Cho Mọi Người, 40.