SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA

NHÂN NGÀY THẾ GIỚI TRUYỀN GIÁO NĂM 1984
Máu các vị tử đạo là hạt giống của các Kitô hữu

Anh chị em rất thân mến!

“Máu các vị tử đạo là hạt giống của các Kitô hữu” (Tertulliano, Apologeticus, 50: PL 1, 534).

Trong chuyến tông du gần đây của tôi tại Viễn Đông, tôi rất vui mừng phong thánh cho một trăm lẻ ba vị tuyên xưng đức tin Công giáo, rao giảng Tin Mừng tại Đại Hàn bằng việc công bố sứ điệp của Chúa Kitô, các ngài đã có một đặc ân để minh chứng sự hy sinh cao cả về đời sống của các ngài, một sự bảo đảm về đời sống vĩnh cửu trong Đấng sống lại.

Trường hợp này đã nảy sinh trong tôi vài ý tưởng mà tôi muốn nhấn mạnh đến sự quan tâm của mọi tín hữu nhân Ngày Thế giới Truyền giáo sắp tới.

1. Giá trị cứu độ của thập giá

Thực vậy, các thư và sách Tông đồ Công vụ khẳng định đó là một ân sủng đặc biệt để có thể chịu đựng “vì danh đức Giêsu”. Chẳng hạn chúng ta đọc thấy các tông đồ “vui mừng ra khỏi công nghị, vì thấy mình đáng được chịu sỉ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5, 41), bằng việc theo sát hoàn toàn những điều Đấng Cứu Độ đã công bố trong bài giảng trên núi: “Phúc cho anh em khi vì thầy mà người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa, anh em hãy vui mừng, hớn hở…” (Mt 5, 11).

Chính Chúa Kitô đã thực hiện công trình cứu độ của Ngài cho nhân loại trước hết bằng cuộc vượt qua đau khổ và cuộc tử đạo thật khủng khiếp, Ngài cũng chỉ ra một con đường cho các môn đệ của Ngài: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24). Vì thế, tình yêu vượt qua thập giá một cách chắc chắn, và trong tình yêu này, thập giá trở nên sáng tạo và là nguồn phát sinh sức mạnh cứu độ. Thánh Phaolô viết: “Anh em biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại. Nhưng anh em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn vô tì tích, là Đức Kitô” (1 Pr 1, 1819; x 2 Cor 6, 20).

Chúng ta đã suy gẫm sâu về thập giá, mầu nhiệm phi thường của tình yêu Thiên Chúa, trong năm thánh cứu độ mới vừa kết thúc. Hàng triệu tín hữu đã suy niệm và sống mầu nhiệm này cách sâu sa, nhiều người trong họ đã đổ xô tới Roma để lặp lại lời tuyên xưng đức tin của mình trước mộ các thánh tông đồ, là những người đầu tiên đã chia sẻ cuộc tử đạo của Thầy mình. Một đức tin mà người ta tìm thấy sự xác tín đầu tiên của nó dưới chân thập giá trong lời của viên bách quản và của những người lính canh giữ Chúa Giêsu: “Quả thật, ông này là Con Thiên Chúa” (Mt 27, 54).

Đối với lịch sử nhân loại, từ biến cố mấu chốt đó, các tông đồ và những người kế vị vẫn tiếp tục loan báo sự chết và sự phục sinh của Đức Kitô, Đấng cứu độ duy nhất của chúng ta qua mọi thời đại: “Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ”. (Cv 4,12). Nhưng Ngài đã trở thành chứng nhân một cách đặc biệt về sự đau khổ tột cùng, sự dâng hiến của Chúa Kitô cũng như của các môn đệ của Ngài đã mở tâm trí và con tim nhân loại tới sự hoán cải theo Tin Mừng: một chứng từ trổi vượt của tình yêu; thật vậy, “không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13).

Và đây là chứng từ mà đoàn tử đạo và những người tuyên xưng đức tin đã chịu đau khổ theo thời gian, nhờ hy sinh và hiến tế của họ có thể trổ sinh hoa trái trong các Giáo hội khác nhau - cũng như của Giáo hội Hàn Quốc mà tôi đã công bố từ đầu – và làm phong phú bằng máu của các ngài trên những miền đất mới để biến những vùng đất đó thành những cánh đồng phì nhiêu của Tin Mừng; thật vậy, “nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 24).

Các anh hùng đức tin này đã hiểu rõ và thực hiện tốt khái niệm nền tảng – mà tôi đã trình bày trong bức thư ý nghĩa Kitô giáo về sự đau khổ của con người – theo đó, Chúa Kitô đã thực hiện ơn cứu độ cho nhân loại bằng thập giá và đã chịu đau khổ thay cho con người và vì con người, mỗi người “được mời gọi tham dự vào sự đau khổ nhờ đó mọi khổ đau của con người cũng được cứu chuộc. Khi thực hiện ơn cứu độ bằng đau khổ, Đức Kitô đồng thời cũng nâng cao đau khổ của con người đến nỗi thông ban cho nó một giá trị cứu độ. Như vậy, qua đau khổ của mình, mọi người đều có thể tham dự vào đau khổ cứu độ của Đức Kitô” (Gioan Phaolô II, Tông thư Salvifici Doloris về ý nghĩa đau khổ, 19).

2. Đau khổ, công cụ quí giá để loan báo Tin Mừng.

Những kết quả truyền giáo xem ra rõ ràng về những gì tôi đã trình bày. Vì vậy, tôi mong rằng trong sứ điệp Ngày Thế giới Truyền giáo năm 1984, khuyến khích mạnh mẽ mọi tín hữu làm nổi bật giá trị đau khổ trong nhiều hình thức khác nhau, kết hợp với đau khổ của thập giá để loan báo Tin Mừng, nghĩa là vì sự cứu chuộc của biết bao người vẫn chưa được nhận biết Chúa Kitô.

Vẫn còn hàng triệu anh chị em chưa nhận biết Tin Mừng và chưa được hưởng kho tàng lớn lao từ tình yêu của Đấng cứu độ. Đối với họ, đau khổ không giải thích đủ; đau khổ là một nghịch lý rất nặng nề và không thể giải nghĩa được, nó tương phản cách thê thảm với khát vọng của con người mong đạt được hạnh phúc hoàn toàn.

Chỉ có thập giá Chúa Kitô mới tỏa sáng về mầu nhiệm này; chỉ nơi thập giá, con người mới có thể tìm thấy câu trả lời đúng nghĩa về sự đau khổ bí ẩn phát sinh từ kinh nghiệm đau khổ. Các thánh đã hiểu điều đó cách sâu sa và đã chấp nhập nó, có khi họ còn ao ước chịu đau khổ một cách cháy bỏng, để được liên kết với cuộc vượt qua của Chúa, để làm cho mình được nên giống như lời của thánh tông đồ: “Nay tôi vui sướng trong các nỗi thống khổ chịu vì anh em, và trong thân xác tôi, tôi bù đắp những gì còn thiếu nơi các nỗi quẫn bách Đức Kitô phải chịu vì thân mình Ngài, tức là Hội Thánh” (Col, 1, 24).

Vì thế, tôi mời gọi tất cả các tín hữu đang chịu đau khổ - và không ai được miễn khỏi đau khổ - hãy mang lại ý nghĩa tông đồ truyền giáo cho những đau khổ của họ.

Thánh Phanxicô Saverio, bổn mạng của các nhà truyền giáo, trong sự nhiệt tâm loan báo Tin Mừng, trực tiếp mang danh Đức Giêsu đến tận cùng trái đất, ngài đã không ngần ngại đối đầu với mọi khó khăn nảy sinh như: đói khát, rét mướt, đắm tàu, bắt bớ, ôn dịch; chỉ khi chết đi mới cắt đứt cuộc chạy đua của ngài.

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, bổn mạng của các xứ truyền giáo, người tù của tình yêu trong dòng Carmelo thành Lisieux, đã muốn chạy đi khắp thế giới để cắm cây thập giá Chúa Kitô khắp mọi nơi. Chị viết: “Em muốn là nhà truyền giáo không chỉ trong vài năm, nhưng em muốn là như vậy từ khi có vũ trụ này cho đến tận thế” (Thánh Têresa Hài Đồng Giêsu, Chuyện một tâm hồn, Manoscritto B, trang 3). Và chị đã thực hiện được tính phổ quát và tính tông đồ như lòng chị mong ước là xin Thiên Chúa cho chị được chịu đau khổ và sự dâng hiến cao quí của chính mình như một vị tử đạo tự nguyện cho tình yêu thương xót. Sự đau khổ đạt tới đỉnh cao đồng thời ở mức độ cao hơn nữa về sự phong phú tông đồ trong cuộc tử đạo của tinh thần, trong đau khổ của bóng tối đức tin, hiến dâng một cách anh hùng để đạt tới ánh sáng của đức tin tới các anh chị em vẫn còn nhận chìm trong bóng tối.

Giáo hội chỉ ra hai hình thức ánh sáng sau đây mời gọi chúng ta không chỉ suy tư nhưng còn bắt chước nữa.

Vì vậy chúng ta có thể cộng tác một cách tích cực cho việc mở rộng nước Chúa Kitô, và cho sự phát triển thân mình mầu nhiệm của Ngài theo ba hướng:

- Học hỏi để đưa đau khổ cá nhân của chúng ta một mục đích xác thực hơn, mà nó bắt nguồn từ sự tham dự năng động của Giáo hội vào công trình cứu chuộc của Chúa Kitô.

- Mời gọi các anh chị em đang đau khổ trong tinh thần và thể xác hiểu được chiều kích tông đồ này về sự đau khổ, và đánh giá những thử thách của họ, những nỗi đau của họ trong ý nghĩa truyền giáo;

- Hãy thực hiện nơi chúng ta, với một tình yêu vô biên, một sự đau khổ mà hàng ngày nó gây xúc phạm nhiều nơi trong nhân loại, gây rắc rối do bệnh tật, do đói khát, do bách hại, bị tước đoạt các quyền cơ bản như sự tự do; nhân loại đau khổ, trong đó người ta phải biện phân khuôn mặt của Chúa Kitô “một trong những người đau khổ”, và chúng ta phải tìm cách làm dịu đi cũng như làm điều gì đó tốt hơn khi có thể.

3. Giá trị của đau khổ: một kế hoạch cho các Hội Giáo hoàng Truyền giáo.

Chương trình này, rộng lớn và toàn diện, đòi hỏi tất cả các tín hữu một trách nhiệm quảng đại. Tôi mong ước đề nghị với tất cả các tín hữu, nhớ lại khi chúng ta mới lãnh nhận bí tích rửa tội là đã được sai đi truyền giáo, mặc dù ở các mức độ và hình thức khác nhau (x. AG số 36, GL 781).

Tôi phó thác một cách đặc biệt cho các Hội Truyền giáo, một công cụ đặc quyền về sự năng động truyền giáo của Giáo hội chứ không chỉ riêng trong Ngày Thế giới Truyền giáo, nhưng trong suốt năm, các Hội phải đẩy mạnh tinh thần truyền giáo, một yếu tố tuy không phải là chủ yếu nhưng cần thiết về bản chất của thân mình mầu nhiệm.

Hội Truyền Bá Đức Tin, Hội thánh Phêrô tông đồ dành cho các chủng viện và các ơn gọi Linh mục, Tu sĩ trong các vùng truyền giáo, Hội Thánh nhi, Hiệp Hội Truyền giáo của các Linh mục, Tu sĩ nam nữ và các Tu Hội đời, chúng tạo thành nhiều phương tiện, được thử nghiệm qua mười năm kinh nghiệm, để đẩy mạnh công cuộc truyền giáo trong các lãnh vực khác nhau.

Tôi biết rất rõ nhiều công việc đáng khen này, cũng như việc quyên góp vật chất tài chính được dâng cúng từ lòng quảng đại của các tín hữu – vật chất cần thiết để thực hiện cho các nhà thờ, các chủng viện, trường học, nhà trẻ, bệnh viện – thực hiện một công việc năng động truyền giáo. Kể cả giá trị về sự đau khổ nhằm mục đích truyền giáo mà tôi muốn đề nghị với sự quan tâm của toàn dân Chúa cho Ngày Thế giới Truyền giáo năm 1984, cũng là một trong những biểu hiện cao quí nhất về sứ vụ tông đồ của họ mà nó đã khơi lên một sự liên kết sẵn sàng giữa những người bệnh, người già, người bị bỏ rơi, người bị gạt bên lề xã hội, cũng như trong số các tù nhân.

Nhưng cần phải làm nhiều hơn nữa. Thật vậy, có rất nhiều đau khổ của con người mà vẫn chưa tìm được mục đích cao cả và lối thoát tông đồ, từ đó mới có thể rút ra một việc tốt lành rộng rãi nhằm phát triển việc loan báo Tin Mừng, mở rộng nhiệm thể Chúa Kitô.

Có thể đây chính là hình thức cộng tác truyền giáo cao nhất, vì nó đạt tới một hiệu quả tối đa trong sự hiệp thông các đau khổ của con người với hiến tế của Chúa Kitô trên đồi Calvario và không ngừng được đổi mới trên bàn thờ mỗi ngày.

Anh chị em rất thân mến, những người đau khổ về tâm hồn và thể xác, hãy biết rằng Giáo hội tin tưởng nơi anh chị em, Giáo Hoàng tin tưởng nơi anh chị em để danh Đức Giêsu được công bố cho đến tận cùng trái đất. Tôi cũng muốn nhắc lại điều mà tôi đã viết trong thư về ý nghĩa Kitô giáo về sự đau khổ của con người: “Tin Mừng của sự đau khổ đang được viết không ngừng, và không ngừng nói bằng những lời nghịch lý lạ lùng: suối nguồn về sức mạnh thần linh phát sinh nhờ sự yếu đuối của con người. Những ai tham dự vào sự đau khổ của Chúa Kitô, họ duy trì trong những đau khổ của mình hạt giống rất đặc biệt của kho tàng vô tận về sự cứu độ thế giới, và họ có thể chia sẻ kho tàng này cho những người khác. Con người càng bị đe doạ bởi tội lỗi, càng nặng nề hơn là những cơ cấu tội lỗi mang trong mình mang vào thế giới hôm nay, càng lớn hơn nữa là sự hùng biện mà sự đau khổ con người sở hữu. Và càng hơn nữa Giáo hội cảm thấy nhu cầu cậy nhờ đến giá trị của đau khổ con người để cứu độ thế giới” (Gioan Phaolo II, Salvifico Doloris, 27).

Xin mẹ Maira, “Nữ vương tử đạo” và “Nữ vương tông đồ”, đánh thức trong mọi người ước muốn được kết hợp với cuộc khổ nạn của Chúa Kitô Đấng cứu độ phổ quát.

Trong ngày Chúa Nhật Lễ Hiện xuống, ngày toàn thể Giáo hội sống tinh thần truyền giáo, tôi vui mừng ban Phép lành đặc biệt cho những ai, trực tiếp hay gián tiếp, những người đã dùng hết năng lực và những đau khổ của mình để truyền thông cho nhân loại ánh sáng Tin Mừng.

Vatican, ngày 10 tháng 06 năm 1984, lễ Hiện xuống, năm thứ 6 triều đại Giáo Hoàng.

GIOAN PHAOLÔ II

Chuyển ngữ: Ủy Ban Loan Báo Tin Mừng

WHĐ (10.06.1984)