WHĐ (14.06.2023) – Sáng
ngày 13.06, Phòng báo chí Toà Thánh đã công bố sứ điệp của Đức Thánh Cha
Phanxicô cho Ngày Thế giới Người nghèo lần thứ 7, sẽ được cử hành vào Chúa nhật
ngày 19.11.2023.
Sau đây là toàn văn Sứ
điệp của Đức Thánh Cha:
SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA
NHÂN NGÀY THẾ GIỚI NGƯỜI NGHÈO
LẦN THỨ 7 – CHÚA NHẬT 33 THƯỜNG NIÊN
NGÀY 19.11.2023
“Đừng ngoảnh mặt làm ngơ với bất cứ người nghèo khổ nào” (Tb 4,7)
1. Ngày Thế giới Người nghèo
thường niên lần thứ VII là một dấu chỉ phong phú về lòng thương xót của Chúa
Cha và sự hỗ trợ cho đời sống của các cộng đoàn chúng ta. Khi việc cử hành ngày
càng bén rễ sâu vào đời sống mục vụ của Giáo hội, ngày này giúp chúng ta khám
phá ra tâm điểm của Tin Mừng một cách mới mẻ. Những nỗ lực hàng ngày của chúng
ta để chào đón người nghèo thì vẫn chưa đủ. Một dòng sông nghèo đói lớn đang chảy
qua các thành phố của chúng ta và dâng lên đến mức tràn ngập; dòng sông ấy dường
như lấn át chúng ta, vì nhu cầu của những anh chị em đang cầu xin sự giúp đỡ, hỗ
trợ và liên đới của chúng ta càng lúc càng lớn hơn. Vì lý do này, vào Chúa Nhật
trước Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ, chúng ta quy tụ quanh Bàn Tiệc của Người để
một lần nữa lãnh nhận từ Người hồng ân và sức mạnh để sống cuộc sống khó nghèo
và phục vụ người nghèo.
“Đừng ngoảnh mặt làm
ngơ với bất cứ người nghèo khổ nào” (Tb 4, 7). Những lời này giúp chúng ta
hiểu được bản chất chứng tá của mình. Bằng việc suy niệm Sách Tobia, một bản
văn Cựu Ước ít được biết đến, nhưng là một bản văn hấp dẫn và đầy khôn ngoan, sẽ
giúp chúng ta thấm nhuần hơn sứ điệp mà tác giả thánh muốn truyền đạt. Một
khung cảnh của cuộc sống gia đình mở ra trước mắt chúng ta: một người cha,
Tobit, ôm lấy người con trai, Tobia, sắp bắt đầu một cuộc hành trình dài. Tobit
cha lo sợ rằng mình sẽ không bao giờ gặp lại con nữa nên đã để lại cho cậu “di chúc tinh thần” của mình. Tobit đã bị
trục xuất đến Ninivê và hiện bị mù,
và do đó, ông nghèo gấp đôi. Tuy nhiên, Tobit luôn có một niềm xác tín mạnh mẽ,
như được thể hiện qua chính tên gọi của ông: “Chúa đã là điều tốt lành của tôi”. Là người kính sợ Thiên Chúa và
là một người cha tốt, Tobit muốn để lại cho con trai mình không chỉ là sự giàu
có về vật chất, mà là chứng tá về con đường đúng đắn để bước đi trong cuộc đời.
Vì vậy, ông nói với con:
“Con ơi, con hãy tưởng nhớ Ðức Chúa mọi ngày, đừng có ưng phạm tội và làm trái mệnh lệnh của Người. Hãy thực thi công chính suốt mọi ngày đời con và đừng đi theo những nẻo đường bất chính” (4, 5).
2. Chúng ta thấy ngay rằng điều mà Tobit cha yêu cầu con
trai mình không chỉ đơn giản là nghĩ đến Thiên Chúa và kêu cầu Ngài trong lời cầu
nguyện, mà còn bao gồm những cử chỉ cụ thể là làm việc lành và sống công bằng.
Và lời khuyên càng trở nên rõ hơn, khi ông nói: “Con hãy dùng của cải bố thí cho tất cả những ai thực thi công chính, và
khi bố thí, mắt con đừng có so đo” (4, 7).
Những lời này của người cha khôn ngoan khiến chúng ta phải
suy nghĩ. Thật vậy, chúng ta đừng quên rằng Tobit đã bị mù ngay sau khi thực hiện
một hành động thương xót. Như chính ông kể lại, cuộc đời của ông ngay từ khi
còn trẻ đã tận tụy làm việc bác ái:
“Tôi cũng đã từng rộng tay bố thí cho anh em và đồng bào tôi, những người
cùng đi đày với tôi qua Ninivê, ở xứ Átsua [...] Cơm bánh của tôi, tôi cho người đói khát; quần áo của tôi, tôi cho kẻ
trần truồng; nếu thấy ai trong số đồng bào tôi chết và bị quăng thây ra phía
sau tường thành Ninivê, thì tôi chôn cất người đó” (1, 3.17).
Vì hành động bác ái này, nhà vua đã tước đoạt tất cả tài sản
của Tobit, khiến ông rơi vào cảnh nghèo khó cùng cực. Tuy nhiên, Chúa vẫn cần đến
Tobit; khi được hồi phục chức tước, Tobit đã can đảm tiếp tục làm những gì ông
đã từng làm. Chúng ta hãy lắng nghe câu chuyện của Tobit, một câu chuyện cũng
nói với chúng ta hôm nay.
“Ngày lễ Ngũ Tuần của chúng tôi, tức là ngày lễ thánh mừng các Tuần, người
ta dọn cho tôi một bữa ăn ngon, và tôi nghiêng người xuống để dùng bữa. Người
ta bày bàn, dọn cho tôi nhiều món. Tôi nói với Tôbia, con tôi: ‘Con ơi, con hãy
đi tìm trong số các anh em chúng ta bị đày ở Ninivê, một người nghèo hết lòng
tưởng nhớ Thiên Chúa, rồi dẫn người ấy về đây cùng dùng bữa với cha. Này, con
ơi, cha đợi con cho đến khi con về’” (2, 1-2).
Sẽ có ý nghĩa biết bao nếu vào Ngày Người Nghèo, mối quan
tâm này của Tobit cũng là của chính chúng ta! Nếu chúng ta mời ai đó dùng chung
bữa tối Chúa nhật với mình, sau khi đã chia sẻ bàn tiệc Thánh Thể, Thánh Thể mà
chúng ta cử hành sẽ thực sự trở thành biểu hiện của sự hiệp thông. Mặt khác, nếu
xung quanh bàn thờ Chúa, chúng ta ý thức rằng tất cả chúng ta đều là anh chị em
với nhau, thì tình huynh đệ này sẽ càng trở nên hữu hình biết bao khi chúng ta
chia sẻ bữa ăn ngày lễ của mình với những người túng thiếu!
Tobia làm theo lời cha dặn, nhưng khi trở về, cậu mang theo
thông tin rằng, có một người đàn ông đáng thương bị giết và quăng ngoài chợ. Không
chần chừ, Tobit cha đứng dậy khỏi bàn và đi chôn người đàn ông đó. Về đến nhà mệt
lử, Tobit ngủ quên ngoài hiên; phân chim rơi trúng mắt và ông bị mù (x. 2,
1-10). Một sự trớ trêu của số phận: người làm việc tốt và bất hạnh ập đến với họ!
Đây là điều chúng ta thường hay nghĩ, nhưng đức tin dạy chúng ta đi sâu hơn.
Chính việc bị mù đã trở thành sức mạnh giúp Tobit nhận thức rõ hơn về nhiều
hình thức nghèo khó xung quanh mình. Và Thiên Chúa, sẽ kịp thời để khôi phục thị
lực cho Tobit và vui mừng được gặp lại con trai mình là Tobia. Khi ngày đó đến,
chuyện kể lại rằng:
“Tobit ôm choàng lấy cổ cậu, vừa khóc vừa nói: "Con ơi, cha đã thấy con! Con là ánh sáng cho đôi mắt cha!" Rồi ông nói: "Chúc tụng Thiên Chúa! Chúc tụng Danh cao trọng của Người. Chúc tụng mọi thiên sứ thánh thiện của Người! Ước gì Danh cao trọng của Người che chở chúng ta! Chúc tụng mọi thiên sứ đến muôn đời! Vì tôi đã bị Người đánh phạt, nhưng nay lại được thấy Tôbia, con tôi!"” (11, 13-14).
3. Chúng ta có thể thắc mắc: Tobit đã tìm thấy can đảm và sức
mạnh nội tâm ở đâu để có thể phụng sự Thiên Chúa giữa một dân tộc ngoại giáo và
yêu thương người lân cận đến độ bất chấp tính mạng của mình như vậy. Câu chuyện
của Tobit là một ví dụ phi thường: Tobit là một người chồng chung thủy và một
người cha chu đáo, ông bị trục xuất khỏi quê hương, và chịu nhiều oan ức bất
công, bị nhà vua bắt bớ và bị hàng xóm ngược đãi. Mặc dù là một người tốt lành
nhưng Tobit vẫn bị thử thách. Như Kinh Thánh nhiều lần dạy chúng ta, Thiên Chúa
không tha cho người công chính khỏi những thử thách. Tại sao vậy? Thiên Chúa
làm điều đó không phải để ruồng bỏ chúng ta, nhưng để củng cố niềm tin vào Ngài
của chúng ta.
Trong thời gian bị thử thách, Tobit khám phá ra sự nghèo nàn của chính mình, và điều này giúp ông nhận ra những người nghèo khác. Tobit trung thành với Luật pháp của Thiên Chúa và tuân giữ các giới răn, nhưng đối với ông, như thế là chưa đủ. Tobit có thể cho thấy sự quan tâm thiết thực đến người nghèo vì chính bản thân ông đã từng trải qua cảnh nghèo khó. Vì thế, những lời khuyên của Tobit dành cho Tobia trở thành di chúc đích thực của ông: “Đừng ngoảnh mặt làm ngơ với bất cứ người nghèo khổ nào” (4, 7). Tóm lại, bất cứ khi nào gặp người nghèo, chúng ta không thể ngoảnh mặt làm ngơ, vì như vậy sẽ ngăn cản chúng ta gặp được dung nhan của Chúa Giêsu. Chúng ta hãy lưu ý kỹ lời của ông: “bất cứ người nghèo nào”. Mỗi người trong số họ đều là thân cận của chúng ta. Bất kể màu da, địa vị xã hội, xuất thân, nếu chính tôi là người nghèo, tôi mới có thể nhận ra ai là anh chị em đang cần đến sự giúp đỡ của mình. Chúng ta được kêu gọi để nhận ra mọi người nghèo và mọi hình thức nghèo, rũ bỏ sự thờ ơ và những lời bào chữa tầm thường mà chúng ta đưa ra để bảo vệ cho hạnh phúc hão huyền của mình.
4. Chúng ta đang sống trong thời đại thiếu nhạy bén trước những nhu cầu của người nghèo. Áp lực phải có một lối sống sung túc ngày càng tăng, trong khi tiếng nói của những người sống trong cảnh nghèo đói thường không được lắng nghe. Chúng ta có xu hướng bỏ qua tất cả những gì không phù hợp với mô hình sống được thiết kế trước hết cho thế hệ trẻ, những người dễ bị tổn thương nhất trước sự thay đổi văn hóa đang diễn ra. Chúng ta coi thường những gì khó chịu hoặc gây ra đau khổ, và đề cao những phẩm chất thể lý như thể chúng là mục tiêu chính của cuộc đời. Thực tế ảo đang lấn át cuộc sống thực và hai thế giới ngày càng hòa quyện làm một. Người nghèo trở thành một đoạn phim có thể lay động chúng ta trong chốc lát, nhưng khi gặp họ bằng xương bằng thịt trên đường phố, chúng ta liền khó chịu và ngoảnh mặt đi. Sự vội vàng, hiện là người bạn đồng hành trong cuộc sống hàng ngày, khiến chúng ta không thể dừng lại để giúp đỡ và quan tâm đến người khác. Dụ ngôn người Samari nhân hậu (x. Lc 10, 25-37) không đơn thuần là một câu chuyện của quá khứ; nhưng tiếp tục thách thức hiện tại của mỗi chúng ta. Thật dễ dàng để ủy thác việc làm từ thiện cho người khác, nhưng ơn gọi của mọi Kitô hữu là tham gia một cách cá vị.
5. Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì có biết bao người nam nữ đang tận tụy dấn thân cho người nghèo và người bị loại trừ; họ là những người thuộc mọi lứa tuổi, và địa vị xã hội, những người thể hiện sự cảm thông và sẵn sàng giúp đỡ những người bị gạt ra bên lề và những người đau khổ. Họ không phải là những siêu nhân, nhưng là những người “hàng xóm láng giềng” mà chúng ta gặp gỡ hàng ngày và âm thầm trở nên nghèo khó giữa người nghèo. Họ không chỉ bố thí, mà còn: lắng nghe, chuyện trò, cố gắng hiểu và đối phó với những tình huống và nguyên nhân của khó khăn. Họ không chỉ lưu tâm đến nhu cầu vật chất mà cả nhu cầu tinh thần; và họ hoạt động vì sự thăng tiến toàn diện của con người. Nước Thiên Chúa trở nên hiện thực và hữu hình trong việc phục vụ quảng đại và vô vị lợi của họ; giống như hạt giống rơi vào đất tốt, bén rễ trong đời sống của họ và sinh hoa kết trái dồi dào (x. Lc 8, 4-15). Lòng biết ơn của chúng ta đối với rất nhiều thiện nguyện viên cần được thể hiện qua lời cầu nguyện để chứng tá của họ ngày càng đơm hoa kết trái.
6. Nhân dịp kỷ niệm 60 năm Thông điệp Pacem in Terris, chúng ta cần ghi nhớ những lời sau đây của Thánh
Giáo hoàng Gioan XXIII: “Mọi người đều có
quyền được sống, được toàn vẹn về thân thể, và được hưởng những phương tiện cần
thiết cho sự phát triển xứng hợp, cụ thể là: thực phẩm, quần áo, nhà ở, chăm
sóc y tế, nghỉ ngơi và cuối cùng là các dịch vụ xã hội cần thiết. Do đó, mọi cá
nhân đều có quyền được chăm sóc trong trường hợp ốm đau; tàn tật do công việc;
góa bụa, và thất nghiệp bắt buộc; cũng như trong những trường hợp nào khác khi,
bị tước phương tiện kiếm sống mà không phải do lỗi của họ" (ed.
Carlen, No. 11).
Còn biết bao nhiêu việc cần phải làm để biến những lời này thành hiện thực, kể cả thông qua một cam kết nghiêm túc và hiệu quả từ phía các nhà lãnh đạo chính trị và các nhà lập pháp! Bất chấp những hạn chế, và đôi khi, những thất bại của quan điểm chính trị trong việc phân định và phục vụ công ích, mong sao tình liên đới và bổ trợ tiếp tục phát triển nơi nhiều công dân tin tưởng vào giá trị của sự dấn thân tự nguyện phục vụ người nghèo. Chắc chắn cần phải thúc giục, thậm chí gây sức ép để các cơ quan công quyền hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, nhưng thụ động chờ đợi để nhận mọi thứ “từ trên xuống” thì chẳng ích gì. Những người sống trong hoàn cảnh nghèo khó cũng cần tham gia và hỗ trợ trong tiến trình thay đổi và chịu trách nhiệm.
7. Ngoài ra, một lần nữa chúng ta phải thừa nhận những hình
thức nghèo đói mới, bổ sung vào những hình thức nghèo đói đã được mô tả ở trên.
Tôi đặc biệt nghĩ đến những người dân đang sống trong các vùng chiến sự, và nhất
là những trẻ em bị tước mất một hiện tại thanh bình và một tương lai xứng đáng.
Chẳng ai sẽ có thể quen với những tình huống như vậy. Chúng ta hãy kiên trì
trong mọi nỗ lực để cổ võ hòa bình như là quà tặng của Chúa phục sinh và là hoa
trái của sự dấn thân cho công lý và đối thoại.
Chúng ta cũng không thể bỏ qua những hình thức đầu cơ trong
nhiều lĩnh vực khác nhau, dẫn đến giá cả tăng chóng mặt, đẩy nhiều gia đình vào
cảnh túng quẫn hơn nữa. Thu nhập mau chóng cạn kiệt, việc buộc phải sống thiếu
thốn gây tổn hại đến phẩm giá của con người. Nếu một gia đình phải lựa chọn giữa
thực phẩm để nuôi sống bản thân và thuốc men để chữa bệnh, thì chúng ta cần chú
ý đến tiếng nói của những người ủng hộ quyền được hưởng đối với cả hai điều này
nhân danh phẩm giá con người.
Hơn nữa, làm sao chúng ta có thể không lưu tâm đến tình trạng rối loạn đạo đức đang hiện diện trong thế giới lao động? Nhiều nhân công nam nữ bị đối xử vô nhân đạo; nhận lương không cân xứng với công việc đã làm; tai họa của sự không an toàn việc làm; quá nhiều nạn nhân tử vong từ các vụ tai nạn, thường là kết quả của não trạng chọn lợi nhuận trước mắt thay vì nơi làm việc an toàn… Chúng ta được nhắc nhở về lời nhấn mạnh của Thánh Gioan Phaolô II rằng: “Nền tảng đầu tiên của giá trị lao động là chính con người… Tuy nhiên, đúng là con người được định sẵn và được mời gọi làm việc; nhưng trên hết, công việc là ‘vì con người’ chứ không phải con người ‘vì công việc’” (Thông điệp Laborem Exercens, 6).
8. Bản danh sách về tình trạng rối loạn đạo đức trong lao động
nói trên, tự nó đã là một phức tạp sâu sắc, chỉ mô tả được một phần tình trạng
nghèo đói hiện đang tồn tại trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Tôi không
thể không đề cập cách cụ thể đến một hình thức nghèo đói khác ngày càng rõ đang
ảnh hưởng đến những người trẻ. Biết bao cuộc đời thất vọng và thậm chí tự tử của
những người trẻ, bị mê hoặc bởi một nền văn hóa khiến họ cảm thấy rằng họ là
“những kẻ thất bại”, “chẳng ích lợi gì”. Chúng ta hãy giúp người trẻ phản ứng với
những tác động tai hại này và tìm cách giúp họ phát triển và trở thành những
người nam, nữ tự tin và quảng đại.
Khi nói đến người nghèo, người ta dễ rơi vào lối nói hoa mỹ.
Đây cũng là một cám dỗ ngấm ngầm để chỉ dừng lại ở thống kê và con số. Người
nghèo là những con người; họ có những khuôn mặt, những câu chuyện, trái tim và
tâm hồn. Họ là anh chị em của chúng ta, giống như tất cả chúng ta, họ cũng có
những điểm mạnh và điểm yếu, và điều quan trọng là phải thiết lập mối tương quan
cá vị với từng người trong số họ.
Sách Tobia dạy chúng ta hãy hành động cụ thể và thực tế với và vì người nghèo. Đây là một vấn đề của công lý; đòi chúng ta phải tìm kiếm và tìm thấy nhau, thúc đẩy sự hòa hợp cần thiết để một cộng đồng có thể tự nhận mình là như vậy. Do đó, quan tâm đến người nghèo không chỉ đơn thuần là một sự phát chẩn vội vàng; nó đòi hỏi phải khôi phục các mối tương quan liên vị đã bị tổn hại bởi nghèo đói. Bằng cách này, việc “không ngoảnh mặt làm ngơ với người nghèo” dẫn đến việc đạt được những lợi ích của lòng thương xót và bác ái hầu mang lại ý nghĩa và giá trị cho toàn bộ đời sống Kitô hữu.
9. Chớ gì mối quan tâm của chúng ta đối với người nghèo luôn
được đánh dấu bằng tính hiện thực của Tin Mừng. Sự chia sẻ của chúng ta phải tương
ứng với nhu cầu cụ thể của người khác, chứ không phải chỉ là một phương tiện để
chúng ta loại bỏ những thứ dư thừa. Ở đây cũng vậy, cần có sự phân định dưới sự
hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, để nhận ra nhu cầu đích thực của anh chị em
chúng ta chứ không phải những ước muốn và nguyện vọng cá nhân của chúng ta. Điều
mà người nghèo chắc chắn cần là tình người, là trái tim của chúng ta mở ra cho
tình yêu.
Đừng bao giờ quên rằng: “Chúng ta được kêu gọi tìm thấy Đức Kitô nơi họ, lên tiếng bênh vực mục đích của họ, nhưng đồng thời cũng là bạn của họ, nghe họ, nói với họ và ôm ấp sự khôn ngoan mầu nhiệm mà Thiên Chúa muốn chia sẻ với chúng ta thông qua họ” (Thông điệp Evangelii Gaudium, 198). Đức tin dạy chúng ta rằng mọi người nghèo đều là con cái Thiên Chúa và Đức Kitô hiện diện trong họ: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25, 40).
10. Năm nay đánh dấu kỷ niệm 150 năm ngày sinh của Thánh
Têrêsa Hài Đồng Giêsu. Trong một trang của cuốn tự truyện “Một tâm hồn”, thánh nữ viết như sau:
“Tôi nhận ra rằng lòng bác ái hoàn hảo hệ tại ở việc chịu đựng những
khuyết điểm của người khác, không chút nao núng trước những lỗi lầm của họ, ở
việc được soi sáng bằng những hành vi nhân đức nhỏ nhất mà chúng ta thấy họ thực
hiện. Nhưng trên hết, tôi nhận ra rằng lòng bác ái không nên bị khóa chặt trong
sâu thẳm trái tim mỗi người. Chúa Giêsu nói, 'Không ai thắp đèn rồi đặt dưới
thùng, nhưng đặt trên giá đèn để soi sáng cho mọi người trong nhà'. Đối với
tôi, ngọn đèn này tượng trưng cho lòng bác ái, vốn phải soi sáng và mang lại niềm
vui không chỉ cho những người thân yêu nhất của tôi mà còn cho mọi người trong
nhà, không trừ một ai” (Ms C, 12r°).
Trong ngôi nhà này của chúng ta là thế giới, mọi người đều
có quyền trải nghiệm ánh sáng của lòng bác ái; không ai có thể bị tước đoạt ánh
sáng đó. Ước gì tình yêu kiên định của Thánh Têrêsa đánh động tâm hồn chúng ta
trong Ngày Thế giới Người nghèo này, giúp chúng ta không “ngoảnh mặt làm ngơ với bất cứ người nghèo nào”, nhưng luôn hướng
ánh nhìn vào dung nhan nhân bản và thần linh của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng
ta.
PHANXICÔ
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: vatican.va (13.
06. 2023)