Pierre Teilhard de Chardin (1881-1955) và cảnh vực thần linh
PIERRE TEILHARD DE
CHARDIN (1881-1955) VÀ CẢNH VỰC THẦN LINH
Cao Viết Tuấn giới thiệu (*)
Mục lục |
WHĐ (19.8.2021) - Càng
nhìn sâu vào bên trong chính bản thân con, con càng ý thức rõ ràng hơn về chân
lý này là: không ai có thể đặt ngón tay bé nhỏ của mình để cố gắng thực thi một
nhiệm vụ dù nhỏ bé nhất, nếu người đó không được thúc đẩy bởi ít nhiều xác tín
rằng: theo một cách thức nào đó, người ấy đang đóng góp, thậm chí cách gián tiếp,
vào việc xây dựng một cái gì đó trường tồn - nói cách khác, xây dựng công trình
của Ngài, Lạy Chúa! (Bài ca Vũ trụ)
Lạy Chúa! Khi năm
tháng trôi qua, con càng nhận thấy rõ ràng hơn, trong chính bản thân con và nơi
những người xung quanh con, mối bận tâm thầm kín nhất của con người thời đại đó
là đấu tranh để sở hữu thế giới hơn là tìm các phương thế để thoát ra khỏi thế
giới. (Bài ca Vũ trụ)
Người ta không thể
không ngạc nhiên (khi quan chiêm bằng một tâm trí sáng suốt và không sáo mòn) về
sự quan phòng kì diệu của Đức Kitô trong việc thúc đẩy con người nhận ra tầm
quan trọng của việc yêu thương nhau. (Bài ca Vũ trụ)
... chúng ta phải cố gắng
hết sức vì Đức Kitô; chúng ta phải hy vọng hoàn toàn nhờ Đức Kitô. Nihil
intentatum: đó là thái độ Kitô hữu thực sự. Phân chia không có nghĩa là phá hủy
mà là tạo dựng vượt mức (supercreation). Chúng ta phải luôn biết rằng: Nhập thể
vẫn còn cần đến những tiềm năng của thế giới. Chúng ta phải luôn luôn hy vọng về
sự hiệp nhất ngày một gia tăng của nhân loại. (Bài ca Vũ trụ)
1. Dẫn nhập
Công việc là một
yếu tố thiết yếu trong kiếp nhân sinh. Khác với sự nhàn rỗi hoàn toàn, nghĩa là
tự phát và không có mục đích, công việc cần phải có kế hoạch, có mục đích, có
tính toán để đem lại kết quả. Nhưng, quả thật, không mấy dễ dàng để có được những
quan điểm đúng đắn và những thái độ lành mạnh đối với công việc. Những mâu thuẫn
trong nền văn hóa của chúng ta và sự hiểu lầm về các
giá trị tôn giáo, cùng với những khuynh hướng tiêu cực của chúng ta, có
thể dễ dàng bóp méo phương pháp tiếp cận của chúng ta đối với những hoạt động của
đời sống đã được lập kế hoạch và hứa hẹn nhiều triển vọng. Chẳng hạn, công việc
đôi khi có thể bị xem như là những hoạt động không quan trọng, nhưng đôi khi lại
được thần thánh hóa. Người Kitô hữu thường ra công gắng sức trong việc liên hệ
công việc của họ với đức tin, làm sao để dung hòa công việc với đức tin cũng
như tìm ra ý nghĩa của công việc trong đời sống đức tin. Khi đối diện với những
khó khăn, chúng ta cần một linh đạo cho công việc, điều này sẽ giúp chúng ta
hòa nhập một cách trọn vẹn công việc lao động hằng ngày với toàn bộ đời sống
con người.
Là nhà cổ sinh vật học, là tu sĩ dòng Tên và đồng thời cũng
là một người nhìn xa trông rộng, Pierre Teilhard de Chardin (1881-1955) đã viết
về những vấn đề này một cách rất sâu sắc. Các tác phẩm của ngài, đặc biệt là
tác phẩm kinh điển Cảnh vực Thần linh (Le
divin milieu), đã cung cấp cho chúng ta một thứ khuôn mẫu Kitô hữu. Những
tư tưởng lớn lao vốn đã có ảnh hưởng rất lớn trong việc phát triển một linh đạo
cho công việc toàn nhập của ngài được xem như phát xuất từ những cảm nghiệm tôn
giáo sâu sắc ngài đã trải qua.
Teilhard sinh năm 1881. Vào năm lên 5 hay 6 tuổi, Teilhard
đã trải qua một biến cố hãi hùng đẩy ngài tới gần kề cái chết, khi ngài vô ý để
mái tóc của mình gần lửa và mái tóc bắt lửa, bùng cháy. Trong cuộc sống, ngài
luôn thao thức tìm kiếm những giá trị trường tồn, và điều này đã dẫn ngài đến với
dòng Tên và chịu chức linh mục vào năm 1911. Trong suốt cuộc đời, ngài luôn làm
việc cật lực để xây dựng vương quốc vĩnh cửu. Trong thời gian diễn ra Thế chiến
I, khi ngài tham gia tải thương trên chiến trường, một loạt những cảm nghiệm thần
bí rất mãnh liệt đã đem lại cho Teilhard một ý nghĩa mang chiều kích vũ trụ về
sự duy nhất của toàn thế giới, điều này thấm nhuần trong các tác phẩm sau đó của
ngài.
Sau chiến tranh, ngài trở lại nghiên cứu và hoàn tất đề tài
luận án tiến sĩ chuyên ngành địa chất học vào năm 1922. Với văn bằng tiến sĩ địa
chất học này, ngài bước vào sự nghiệp khoa học, bao gồm: giảng dạy tại Học viện
Công giáo Paris từ năm 1920 đến năm 1923, khảo sát thực tế tại Trung Quốc từ
năm 1925-1946, và làm việc với tư cách cố vấn nghiên cứu tại Hoa Kì từ năm 1951
cho đến khi ngài qua đời vào Lễ Phục Sinh năm 1955. Ngoài rất nhiều bài viết
mang tính khoa học đã được xuất bản, Teilhard còn biên soạn nhiều tác phẩm khác
trình bày rõ ràng quan điểm tôn giáo của ngài về một vũ trụ toàn nhập và đang
tiến hóa.
Thật không may là một số công trình của ngài, như Hiện tượng Con người, được đánh giá là một
kiệt tác; Cảnh vực Thần linh, một tác
phẩm kinh điển, và các bài viết khác của ngài chỉ được xuất bản sau khi ngài
qua đời. Những khó khăn, hạn chế, thậm chí đau đớn ngài đã gặp phải trong việc
bảo vệ và xuất bản tư tưởng của mình đã giúp ngài có cơ hội chắt lọc, làm chín
muồi tư tưởng của ngài. Các tác phẩm của Teilhard sau này đều nổi tiếng, có ảnh
hưởng mạnh mẽ trên các thần học gia, khoa học gia, các tác giả và cả các nhà hoạt
động chính trị.
Một thần học gia và cũng là chuyên viên thần học nổi tiếng của
Công đồng chung Vatican II, Henri de Lubac, trong một bài tham luận có tựa đề
“Hai phận sự Hiến chế Gaudium et Spes
đặt ra cho các thần học gia”, đã dành một đoạn khá dài để nhắc đến tên tuổi và
tư tưởng của Teilhard de Chardin, và khẳng định “có lẽ chẳng táo bạo chút nào
khi nghĩ rằng cha đã có một ảnh hưởng, ít là gián tiếp và bàng bạc, trên một số
định hướng của Công đồng”. [...]. “Trong vấn đề trầm trọng chúng ta quan tâm,
Pierre Teilhard đã có công đặt ra với những từ ngữ có tính thôi thúc câu hỏi về
ý nghĩa của thế giới này, và qua đó, về ý nghĩa của hành động con người” (trong
Théologie d'aujourd'hui et de demain,
Ed. Du Cerf, 1967, trg. 57).
Ngày nay, có thể nhiều người cho rằng quan điểm của ngài về
thế giới quả quá lạc quan và tổng hợp về tôn giáo và khoa học của ngài còn nhiều
điểm chưa chín muồi, thậm chí khả nghi. Tuy nhiên, các đề nghị của nền linh đạo
đương đại chịu ảnh hưởng tư tưởng của ngài trong việc xây dựng thế giới, ngược
lại, cũng cho thấy tư tưởng của ngài vẫn còn đang được khám phá, hứa hẹn đem lại
nhiều hữu ích và giá trị. Chúng ta sẽ cố gắng tìm hiểu tư tưởng của ngài dưới
hai chủ đề: ý nghĩa khách quan công việc của chúng ta và ý nghĩa nhân vị trong
toàn bộ công việc lao động.
2. Công việc và thờ phượng
Nhiều người đã đặt câu hỏi: liệu rằng việc nấu ăn, bán hàng,
siết bu-lông, hay dạy học, vv., những việc làm nhàm chán và cứ lặp đi lặp lại một
cách dường như vô nghĩa, có ý nghĩa gì trong vũ trụ bao la này? Rồi còn những
trường hợp khá rắc rối như một thanh niên đã bỏ công việc buôn bán đầy hứa hẹn
mình đang làm, vì anh thấy nó chẳng còn mấy quan trọng khi anh bắt đầu quan tâm
đến vấn đề công bằng xã hội. Ngay cả những người đang làm những công việc có vẻ
hấp dẫn đôi khi cũng tự đặt câu hỏi: tất cả sức lực và thời gian bỏ ra cho công
việc liệu có đáng hay không?
Tiếc thay, một vài quan niệm về đạo đức của người Kitô hữu
cũng góp phần gây ra vấn nạn này. Việc quá chú trọng đến đời sống trên thiên
đàng có thể dẫn đến hậu quả là hoạt động con người trên trái đất này bị hạ giá.
Teilhard nghĩ rằng khoảng 90% các Kitô hữu trong thời đại của ngài xem công việc
như là một “gánh nặng thiêng liêng”, như một cái gì khiến họ tách ra khỏi mối
tương quan thân mật với Thiên Chúa. Ngài nhận thấy có sự xung đột mạnh mẽ trong
tâm hồn nhiều tín hữu, những người vốn nghi ngờ về đời sống này vì họ không hòa
nhập được niềm tin vào Thiên Chúa với sự quan tâm đến thế giới này. Họ không thể
tìm thấy được sự nối kết hữu cơ thực sự giữa việc thờ phượng của họ trong ngày
Chúa Nhật và các công việc khác trong những ngày còn lại. Theo quan điểm của
Teilhard, giải pháp truyền thống cho việc thánh hóa những nỗ lực trong đời sống
hằng ngày thông qua kinh nguyện và ý hướng ngay lành là hữu ích nhưng chưa đủ,
bởi vì giải pháp này vẫn còn xem công việc thường ngày như là một cái gì tự
thân là vô nghĩa và gây hại cho đời sống thiêng liêng.
Teilhard đã trải nghiệm trong tâm hồn ngài sự xung đột giữa
tình yêu Thiên Chúa và tình yêu thế giới với những nỗ lực của con người. Bởi
khí chất, ngài là người con của thế giới. Trong thời thơ ấu ở Auvergne (Pháp),
ngài đã phát triển một tình yêu to lớn đối với lịch sử tự nhiên và một vùng đất
đầy sỏi đá gần làng quê của ngài. Cha của ngài đã mang đến cho ngài niềm đam mê
ban đầu đối với các ngành khoa học, là điều mà ngài theo đuổi trong suốt quãng
đời học vấn của ngài. Bằng cách nối kết nghiên cứu khoa học với những trực cảm
thần bí của ngài, Teilhard đã có được cái nhìn toàn diện về thế giới mà ngài rất
yêu mến. Thông qua quá trình tiến hóa, vật chất dần dần được tổ chức thành những
cấu trúc ngày càng phức tạp hơn. Và theo quy luật phức tạp-ý thức (complexity-consciousness) được Teilhard
xây dựng, vật chất càng phức tạp, thì ý thức sẽ thể hiện ra.
Như vậy, đối với ngài, thế giới là một tổng thể hợp nhất, và
di chuyển, theo hướng không thể đảo ngược, đến sự thiêng liêng hơn và một ngày
nào đó sẽ đạt tới đỉnh điểm trong một trung tâm ý thức được cá vị hóa. Mục đích
của toàn bộ quá trình tiến hóa này, được Teilhard gọi là “điểm Omega”, điểm này
luôn hiện diện trong thế giới như là nguồn của năng lực yêu thương cung cấp
nhiên liệu cho toàn bộ quá trình. Là một người con rất tận tụy của thế giới,
Teilhard tin vào thế giới đang tiến hóa này và dấn thân quảng bá quan điểm này
về vẻ đẹp hữu cơ của nó.
Chịu ảnh hưởng rất lớn từ một gia đình Công giáo có niềm tin
vững mạnh, và từ đời sống đạo đức của cộng đoàn, Teilhard còn là một người con
của thiên đàng. Ngài đã quyết định trở thành một linh mục Dòng Tên, và không để
tình yêu thế giới và lòng đam mê khoa học của ngài hủy hoại niềm tin Kitô giáo
của mình. Ngài cần một trọng tâm hội tụ vũ trụ cá vị và một hệ thống biểu tượng
tôn giáo để hướng dẫn và làm phong phú đức tin của mình trong một thế giới đang
tiến hóa. Luận văn tuyệt vời của
ngài, Tôi tin như thế nào, nguyên bản
được viết vào năm 1934, mô tả cuộc đấu tranh của ngài để đạt được quan điểm
toàn nhập này.
Lúc đầu, ngài cảm thấy bị thôi thúc phải bác bỏ giáo lý Công
giáo cổ truyền như đang được giảng dạy trong các trường học và được thực hành bởi
người Kitô hữu bình dân. Trong khi giáo huấn Kitô giáo về thiên đàng và sự kết
hợp cá vị sau cùng với Thiên Chúa đã thu hút ngài, thì lòng đạo đức bình dân
xem nhẹ đời sống trong thế giới vật chất và coi khinh lao động của con người lại
hoàn toàn đối lập với quan điểm của ngài về “ý nghĩa của thế giới”. Ngài không
thể dung hòa những khát vọng sâu thẳm nhất của ngài với thứ linh đạo Kitô giáo
này.
Thất vọng về cái nhìn của thứ giáo lý cổ truyền này,
Teilhard tìm cách mở rộng nghiên cứu của mình về hệ thống biểu tượng các tôn
giáo Đông Phương. Ý nghĩa huyền bí của sự hiệp nhất tối hậu của vũ trụ xem ra
chiếm ưu thế lớn ở Đông Phương, và điều này, thoạt đầu đã có sức hấp dẫn rất mạnh
mẽ đối với ngài bởi vì nó phù hợp với ý nghĩa vũ trụ của chính ngài. Tuy nhiên,
sau những nghiên cứu sâu hơn, ngài nhận ra rằng không thể chấp nhận một giáo
thuyết chủ trương cá nhân sẽ hòa tan vào toàn thể, vì nếu như vậy thì mọi nỗ lực
cũng như toàn bộ đời sống của con người cuối cùng đều trở nên vô nghĩa.
Tiếp theo con đường tìm hiểu, ngài đi tới chủ nghĩa nhân bản
đương đại, trong đó có cả chủ nghĩa Marx. Ngài bị thu hút bởi mối quan tâm của
chủ nghĩa này đối với việc xây dựng thế giới thông qua nghiên cứu khoa học, và
nhân tính hóa thế giới bằng việc chinh phục không gian và thời gian. Nhưng rồi
ngài lại thất vọng trước việc các trường phái chủ nghĩa nhân bản phủ nhận chiều
kích thiêng liêng của đời sống con người, đặc biệt, sự hướng đến sự siêu việt
và bất tử của con người. Ngài không thể chấp nhận một thế giới quan chủ trương
đóng kín dự phóng con người trong chính nó.
3. Hướng đến điểm omega
Những giới hạn căn bản của những thế giới quan khác đã đưa
Teilhard trở về với cội rễ Kitô giáo và tới khoảnh khắc “eureka” vĩ đại trong đời sống của ngài. Khi đọc Thánh Kinh theo
quan điểm đức tin Kitô giáo về thế giới, ngài được tiếp xúc với những bản văn của
thánh Phaolô (Rm 8, 19-23, Cl 1, 15-20 và Ep 1, 9-23) nói về Đức Kitô của vũ trụ,
nghĩa là trung tâm của vũ trụ, mục đích của sự năng động của thế giới vật chất
và là Đấng giao hòa mọi thứ trong thế giới và trên trời. Chúa của vũ trụ, Đấng
hiện diện trong thế giới, đang nâng lên và lôi kéo tất cả để cuối cùng đi đến
chỗ kết hợp với chính Ngài. Tinh thần của Chúa Kitô Phục Sinh cho chúng ta có
quyền chia sẻ nhiệm vụ vĩ đại này trong việc xây dựng thế giới và mở rộng vương
quốc. Thật vậy, sẽ có một trời mới và đất mới, được xây dựng trong và nhờ Đức
Kitô của vũ trụ.
Trong điều mà chính Teilhard gọi là “biến cố vĩ đại” của cuộc
đời ngài, ngài hiểu được rằng Đức Kitô của vũ trụ được tuyên xưng bởi niềm tin
Kitô giáo có thể được đồng nhất với Điểm Omega theo như phân tích của ngài về
những gì quá trình tiến hóa gợi lên. Trọng tâm được cá vị hóa của vũ trụ hội tụ,
trong ý nghĩa chân thực sâu xa nhất, chính là Đức Giêsu Kitô, Chúa Phục Sinh.
Quan niệm khoa học của Teilhard về thế giới tương đồng với quan niệm xác thực về
Đức Kitô như được trình bày trong Tân Ước. Do đó, ngài vẫn có thể là người con
đầy nhiệt thành của trái đất và cũng là người con tận tụy của thiên đàng. Ngài
đã tìm ra chìa khóa để hòa hợp khoa học với tôn giáo. Một quan niệm năng động về
thế giới đang tiến hóa hướng về sự thiêng liêng hóa ở mức cao hơn có thể được
hòa nhập vào trong niềm tin về Chúa Kitô Phục Sinh, là Đấng đã lôi kéo mọi sự đến
với Ngài.
Sau khám phá vĩ đại này, Teilhard đã dành quãng đời còn lại
của mình để tái tinh luyện, áp dụng và quảng bá quan điểm tôn giáo của ngài về
thế giới. Ngài trình bày cách rõ ràng cái nhìn tích cực của ngài về nỗ lực của
con người trong thế giới, bao gồm các tư tưởng cốt yếu của linh đạo về lao động.
Công việc lao động hàng ngày của chúng ta đều có ý nghĩa và chứa đựng một giá
trị, một giá trị nội tại chứ không chỉ nhờ kinh nguyện và ý hướng ngay lành.
Thông qua tất cả những hành động tốt lành, chúng ta thực sự trở thành những khí
cụ, những cánh tay nối dài sống động của quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa.
Công trình tạo dựng không phải là một biến cố đã hoàn tất một lần cho tất cả và
bởi một mình Thiên Chúa, mà là một tiến trình đang diễn ra, trong đó chúng ta
được cộng tác với Thiên Chúa trong việc đưa thế giới này đi đến sự viên mãn của
nó. Do đó, mọi công việc chân chính đều có ý nghĩa nội tại và trường cửu, bởi
vì nó cộng tác vào hoạt động sáng tạo của Tạo Hóa.
Cách hiểu của Teilhard về Nhập Thể cũng đưa đến một cách hiểu
đầy đủ hơn về giá trị nội tại của công việc. Sự hiện diện của Ngôi Lời Nhập Thể
thấm nhập vào tận cốt lõi của thế giới vật chất. Như Teilhard đã nhấn mạnh
trong “Bài ca vật chất” rất đẹp của
ngài, thế giới vật chất không phải là một mớ hỗn độn những sức mạnh phàm tục,
nhưng là một cảnh vực thần linh, được vận hành với một năng lực sáng tạo và “được
thấm nhuần cuộc sống bởi Lời Nhập Thể” (Bài
ca vũ trụ, trang 69-70).
Như vậy, công việc của chúng ta trong thế giới không đơn thuần
là một trò chơi giải trí, mà là một nỗ lực để giải phóng tiềm năng thiêng liêng
của vật chất. Nhập Thể sẽ hoàn tất chỉ khi toàn bộ sức mạnh sáng tạo ở trong vật
chất được giải phóng và được kết hợp với Đức Kitô vũ trụ. Tất cả mọi hoạt động
của chúng ta, gồm cả những công việc tay chân thầm lặng nhất, đều góp phần xây
dựng Thân Thể Đức Kitô, công việc xây dựng này sẽ đạt tới đỉnh điểm viên mãn của
nó vào lúc tận thế. Có một sự kết nối hữu cơ giữa lao động của chúng ta với việc
xây dựng vương quốc Thiên Chúa mà Lời Nhập Thể đã đến để thiết lập. Tóm lại, lối
giải thích thần học về tạo dựng và nhập thể của Teilhard đã nhấn mạnh đến thiện
ích căn bản và giá trị tối hậu của mọi nỗ lực của con người.
Nhận thức được nhu cầu chuyển tải quan niệm tôn giáo của
mình sang một linh đạo thực tế hơn, Teilhard đã tập trung vào sự nối kết mật
thiết giữa phụng vụ và đời sống thường ngày. Theo ngài, các Kitô hữu cần phải
xem việc phục vụ Giáo hội, cũng như cuộc sống trong thế giới, là những cơ hội
liên tục để được chìm đắm trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Một đời sống cầu
nguyện lành mạnh tạo điều kiện cho mỗi tín hữu có được những nối kết rõ ràng giữa
công việc lao động hằng ngày của họ với công trình cứu độ của Đức Kitô. Đời sống
bí tích của Giáo hội giúp thần hóa người tín hữu, đồng thời cũng sai phái họ đi
thần hóa thế giới.
Trong một lần đi thực tế, Teilhard lâm vào hoàn cảnh một
mình trong một nơi hoang vắng, không có bánh, không có rượu để dâng Thánh Lễ. Ý
thức một cách đặc biệt về sự hiện diện của Đức Kitô trong vũ trụ, ngài đã dâng
“Thánh Lễ trên thế giới”, trong đó, trái đất là bàn thờ, và mọi lao công và đau
khổ của con người trên thế giới là bánh và rượu để thánh hiến. Từ hình ảnh này,
ngài khuyên các Kitô hữu hãy hiến dâng công việc của họ như Linh mục dâng hiến
bánh và rượu trong thánh lễ. Đối với ngài, sự nối kết nội tại này sẽ hình thành
nên thái độ của chúng ta: “Ngay đôi bàn tay nhào trộn bột, cũng là đôi bàn tay
thánh hiến bánh, Tấm Bánh vĩ đại và mang tầm vóc vũ trụ cần phải được chuẩn bị
và cầm lấy trong tinh thần thờ phượng” (trích dẫn theo bản tiếng Anh, The Divine Milieu, trang 67).
Teilhard nhận ra rằng khi các tín hữu tham gia chuẩn bị Bánh
vũ trụ bởi lao tác của họ, họ sẽ hiểu rõ hơn ai hết giá trị nội tại công việc của
họ và sẽ dấn thân vào việc thần hóa thế giới. Các tín hữu này có thể chứng minh
cho người khác hiểu rằng “nhờ Tạo dựng và hơn nữa, qua Nhập Thể, không có gì là
trần tục đối với những ai biết cách quan sát” (sđd., trang 66). Tóm lại, đóng góp hàng đầu của Teilhard vào một
linh đạo lao động là mời gọi mọi người nhận ra ý nghĩa nội tại của những nỗ lực
của con người bằng con mắt đức tin.
4. Công việc và lao nhọc
Công việc của con người có thể được phân tích, không chỉ từ
cái nhìn về ý nghĩa khách quan, nhưng còn từ cái nhìn về ý nghĩa chủ quan của
nó nữa. Một linh đạo về lao động phải phù hợp với sự phát triển cá nhân như là
việc xây dựng thế giới. Trong nền văn hóa của chúng ta, người lao động có những
phản ứng rất khác nhau về công việc hàng ngày của họ. Phần đông người lao động
mô tả công việc của họ như là một điều lặp đi lặp lại, nhàm chán, và tù túng. Họ
ngại làm việc và mong mau tới giờ tan sở. Nghề nghiệp của họ không kích thích
trí tưởng tượng, không gợi lên cảm xúc, và không đòi hỏi trí thông minh của họ.
Họ cảm thấy giống như một thứ mắt xích vô hồn trong một cỗ máy công nghiệp vĩ đại,
hay giống như những cơ quan trong bộ máy hành chính cồng kềnh. Họ cảm thấy ngày
nghỉ cuối tuần như là thời gian được giải thoát, và rất ngán ngẩm khi phải trở
lại với những công việc buồn tẻ vào ngày đầu tuần. Đối với họ, công việc không
khác hơn một gánh nặng chẳng đem lại một chút vui thích nào.
Đối lại, chúng ta cũng có thể bắt gặp những người yêu thích
công việc mình đang làm và bị công việc thu hút. Công việc đem lại cho họ sự thỏa
mãn, bởi vì nó có một ý nghĩa vượt lên trên việc kiếm tiền và được nối kết với
những mục đích của xã hội như một tổng thể. Công việc lao động hàng ngày của họ,
thường đầy những thách đố nhưng lại rất hào hứng, đóng vai trò của chất xúc tác
cho những phát triển khác. Đối với họ, công việc là một ơn gọi đòi hỏi một đời
sống cống hiến. Họ có thể là những công nhân tận tụy làm công việc của mình với
một quan điểm đúng đắn và vẫn duy trì những mối tương quan lành mạnh với gia
đình và bè bạn. Tuy nhiên, cũng có những con người tham công tiếc việc, quá say
mê công việc của họ đến nỗi bỏ mặc các khía cạnh khác trong đời sống kể cả các
mối tương quan giữa con người với con người.
Giữa hai thái cực này, nhiều người nhận thấy công việc của họ
là sự pha trộn giữa lao nhọc vất vả với những hoạt động có liên quan đến sự tự
do, trí thông minh và óc sáng tạo làm họ hài lòng. Những con người này, có lúc
vùi mình trong công việc, nhưng cũng có những lúc nhàn hạ, thoải mái.
Cá nhân, cũng như xã hội, sẽ hưởng lợi hơn nếu biết cách biến
những công việc nặng nhọc thành công việc đem lại sự thỏa mãn. Tiến trình hướng
đến mục đích này đòi hỏi những thay đổi mang tính cơ cấu xã hội và sự cải thiện
thái độ nền tảng từ phía người công nhân. Teilhard đã có một số lời khuyên thực
tế về việc cải cách xã hội, ngài cũng đưa ra những quan điểm hữu ích nhằm cải
thiện thái độ của chúng ta đối với công việc của mình.
Chúng ta có thể khám phá ra ý nghĩa nhân vị to lớn hơn trong
công việc của chúng ta bằng cách ý thức hơn về sự hiện diện của Thiên Chúa
trong mọi hoạt động của chúng ta. Các tác phẩm của Teilhard đặc biệt hữu ích
trong việc định hình nhận thức của chúng ta về sự hiện diện thần thiêng. Theo
quan điểm của ngài, Thiên Chúa không phải là một kiến trúc sư xây dựng một vũ
trụ tĩnh lặng, và Ngài đang ở một nơi xa xôi nào đó, nhưng đúng hơn, Ngài chính
là sức mạnh nội tại giúp duy trì và hướng dẫn thế giới đang tiến hóa này. Đức
Kitô vũ trụ không chỉ là mục tiêu sau cùng của vũ trụ hội tụ, nhưng còn là năng
lực luôn luôn hiện diện để tiếp năng lượng cho sự chuyển động của lịch sử đi đến
cùng đích tối hậu của nó. Tình yêu không phải là một quan niệm trừu tượng nhưng
là một năng lực vũ trụ lôi kéo chúng ta đi đến hiệp nhất với trung tâm của vũ
trụ. Ngọn lửa thần thiêng bùng cháy ở trung tâm trái đất, kết hợp, soi sáng và
sưởi ấm mọi khía cạnh của đời sống con người.
5. Bài ca của lòng tri ân
Từ quan điểm thần học này, rõ ràng chúng ta không lao động
đơn độc trong việc xây dựng thế giới, nhưng luôn luôn trong sự cộng tác với
Chúa vũ trụ. Trong khi làm việc, chúng ta khám phá “sự liên kết chặt chẽ giữa
Thiên Chúa và thế giới”. Thiên Chúa chờ đợi chúng ta trong mỗi giây phút của cuộc
sống hằng ngày. Ngài ở ngay đầu bút của tôi, nơi mỗi nhát cuốc, nơi mỗi mũi kim
của tôi, nơi trái tim của tôi, nơi suy nghĩ của tôi (The Divine Milieu, trang 64). Khi công việc khiến chúng ta đau đớn,
mệt mỏi, kiệt sức, chúng ta có thể đồng cảm với Đức Kitô chịu đóng đinh, Đấng
đã trung thành cho đến chết. Khi công việc đem lại niềm vui và sự vui thỏa cho
chúng ta, chúng ta có thể đồng cảm với Đức Kitô Phục Sinh, Đấng là nguồn của mọi
hồng ân thiện hảo. Đó là Tin Mừng, bởi vì sự hiện diện của Thiên Chúa không dập
tắt các hoạt động của chúng ta, nhưng theo cách nói của Teilhard, thổi bùng
sinh khí vào hoạt động của chúng ta, đem lại cho nó sự thánh thiện và ý nghĩa
trọn vẹn.
Kinh nguyện là phương pháp tốt nhất để nuôi dưỡng một nhận
thức sâu sắc về sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi hoạt động của chúng ta.
Vượt ra khỏi thực tại trần thế để đi vào thực tại thiên đàng, kinh nguyện làm
cho chúng ta đạt tới những chân lý được ẩn giấu và những quyền năng huyền nhiệm
giúp nâng đỡ sự sống trên trái đất này. Nếu công việc của chúng ta nhàm chán và
buồn tẻ, cầu nguyện trở nên một lời nguyện hiến tế và cầu xin ơn kiên nhẫn. Nếu
công việc làm chúng ta vui vẻ và hài lòng, cầu nguyện sẽ trở nên bài ca tri ân.
Trong cầu nguyện, chúng ta nhận biết cách sâu xa rằng Đức Giêsu Kitô thợ là người
tiếp tục soi sáng và tiếp thêm nghị lực cho công việc lao động hàng ngày của
chúng ta. Kinh nguyện làm cho chúng ta càng ý thức hơn sự hiện diện thần
thiêng, cung cấp tiêu điểm quy tụ cho thế giới với những công việc dao động giữa
hoạt động buồn chán và thác loạn. Teilhard còn nhấn mạnh thêm rằng việc suy niệm
Thánh Kinh sẽ nuôi dưỡng và hướng dẫn đời sống cầu nguyện của chúng ta. Ngài
tìm thấy nguồn phong phú đặc biệt trong các thư của thánh Phaolô, người đã dạy
chúng ta rằng mọi hoạt động của con người, bao gồm những hoạt động nhỏ bé nhất,
đều là những hành động làm vinh danh Chúa. Giáo thuyết này khuyến khích chúng
ta tiếp cận công việc của chúng ta trong tinh thần đức tin, xác tín rằng Thiên
Chúa có thể được tìm thấy trong mọi hoạt động chân chính của chúng ta.
Đối với Teilhard, đời sống Kitô hữu trong thế giới cũng đòi
hỏi sự gắn bó với tinh thần vô tư lợi. Điều này thôi thúc chúng ta hết lòng
chăm lo phát triển cá nhân cũng như toàn thế giới. Chúng ta có thể đóng góp phần
riêng của mình trong việc xây dựng Thân Thể Đức Kitô chỉ khi các tài năng của
chúng ta được phát triển và các kĩ năng được nâng cao. Khi đó, công việc của
chúng ta sẽ đóng vai trò là một chất xúc tác cho sự phát triển bản thân. Công việc
có thể lôi kéo chúng ta ra khỏi sự ích kỉ và lười biếng bằng cách đặt ra các mục
tiêu mới, những dự phóng mới. Nó có thể giải phóng các khả năng tiềm tàng và
thúc đẩy chúng ta đạt tới được những tri thức mới, những kĩ năng mới. Lao động
chân chính có thể dạy chúng ta biết chấp nhận những hạn chế của mình và đem lại
cho chúng ta những niềm vui thỏa trong đời sống. Sự gắn bó thích đáng với công
việc bao gồm việc quan tâm đến nghề nghiệp cũng như đến hoa trái cá nhân và xã
hội từ công việc của chúng ta. Công Đồng Vatican II xem ra gián tiếp tán thành
quan điểm này của Teilhard khi kêu gọi người Kitô hữu “hãy nỗ lực để trung thành chu toàn những bổn phận trần thế, và luôn
luôn hành động theo tinh thần Tin Mừng” (Hiến Chế Mục Vụ, Gaudium et Spes, số 43).
Theo Teilhard, sự gắn bó với công việc đích thực là thành phần
của một tổng hợp to lớn hơn, bao gồm sự từ bỏ và tinh thần vô tư. Công việc, bởi
chính bản chất của nó, tách chúng ta ra khỏi sự nghỉ ngơi thoải mái ù lì của sự
quy chiếu về bản thân mình và đặt chúng ta trước những thách đố của các hoạt động.
Công nhân, những người nỗ lực để đạt tới những tiêu chuẩn cao phải từ bỏ sự lười
biếng và cẩu thả. Người dấn thân vào một công việc quan trọng phải sẵn sàng tự
hiến chính mình. Những người lao động nặng nhọc thường không có cơ hội phát triển
bản thân. Những người không nhận ra ý nghĩa từ nghề nghiệp của mình thường cảm
thấy bị hạ giá bởi sự đánh mất lòng tự trọng. Công việc luôn đòi hỏi sự từ bỏ
chính mình. Trong khi người Kitô hữu được kêu gọi chiến đấu chống lại tất cả những
khuynh hướng phi nhân bản liên quan đến công việc, chúng ta cũng nhận thức được
rằng công việc vẫn là công việc và thập giá là yếu tố không thể tránh được
trong hoạt động của con người.
Theo quan điểm của Teilhard, sự vô tư và sự gắn bó không loại
trừ lẫn nhau, chúng cũng không đơn giản là đứng bên cạnh nhau. Đúng hơn, chúng
có tương quan biện chứng với nhau giống như hai nhịp trong hơi thở của chúng
ta. Trong nỗ lực của con người lành mạnh, sự đối lập bên ngoài giữa tự hiến và
tự hoàn thiện mình biến mất cách lạ lùng. Trong mọi nỗ lực của mình, chúng ta
được tự do nỗ lực hết mình để tự hiện thực chính mình cùng với toàn bộ nỗ lực
được thay thế để phục vụ Thiên Chúa, Đấng đem lại ý nghĩa sâu sắc hơn cho mọi
công việc của chúng ta. Sự từ bỏ không phải là kết thúc trong chính nó, nhưng
là phương tiện để thanh luyện bản thân chúng ta để chúng ta có thể làm việc như
những công nhân linh hoạt, nhiệt thành xây dựng vương quốc Thiên Chúa. Người
Kitô hữu phải làm việc với sự quan tâm và đam mê để xây dựng trần gian, trong
khi luôn mở ra với công việc to lớn hơn được thực hiện bởi Thiên Chúa. Thập giá
Đức Kitô mạc khải cho thấy rằng sự biến đổi tối hậu bản thân và công việc của
chúng ta nằm ngoài thời gian và lịch sử. Chân lý căn bản này không hạ thấp giá
trị những nỗ lực trên trần gian của chúng ta, nhưng đem lại cho chúng ý nghĩa tối
hậu bằng cách liên kết chúng với công việc của Đức Kitô vũ trụ, Đấng không bị cản
trở bởi cái chết. Đối với Teilhard, thập giá không phải là biểu tượng về sự giới
hạn và sự kìm hãm, nhưng là lời mời gọi mạo hiểu “cố gắng hết sức - để hoàn tất”,
để làm việc với sự nhiệt thành và tình yêu thương để xây dựng trần thế và Thân
thể Đức Kitô.
6. Công nhân, người cải cách, đồng-sáng tạo
Nhiều người Kitô hữu, ý thức về sự áp bức và bất công trên
thế giới, cho rằng quan niệm của Teilhard là quá lạc quan và đặt ra nghi vấn về
sự thỏa đáng của những phân tích của ngài về công việc. Thật vậy, hầu hết con
người ở các nước đang phát triển không thể nhận ra chính họ trong những trình
bày lạc quan của Teilhard. Những người thất nghiệp, và những ai đấu tranh cho cải
cách xã hội sẽ khó tìm thấy những trợ giúp thực tiễn trong các tác phẩm của
ngài. Đối với những người theo chủ nghĩa duy thực khách quan, những tuyên bố
hùng hồn của Teilhard về công việc có vẻ như không tưởng, thiếu thực tế.
Tuy nhiên, Teilhard cũng đã đưa ra những lời khuyên và những
quan niệm có giá trị cho những cá nhân nào đang nỗ lực tìm ra ý nghĩa cho công
việc của họ. Ngài nhắc nhở những người lao động vất vả cần phải nhận ra rằng
công việc của họ có giá trị thực sự, bởi vì nó cùng đóng góp vào việc xây dựng
Thân Thể Đức Kitô. Nhãn quan của ngài gợi ra những chỉ dẫn trực tiếp cho những
ai cảm thấy rằng công việc của họ nặng nhọc: hãy cố gắng biến lao nhọc của bạn
bằng cách có được thái độ tích cực về nó; qua đó, hãy học biết giá trị của sự
trung tín, kiên nhẫn và chịu đựng, hãy cầu nguyện để bạn có thể nhận ra Thiên
Chúa ở giữa những nhiệm vụ buồn chán của bạn; hãy kết hợp lao nhọc của bạn với
thập giá Đức Kitô, là người biến đổi đau khổ của cuộc đời.
Hơn nữa, chính những cuộc
chiến đấu trong cuộc đời của Teilhard cũng nhắc nhở các Kitô đang cố gắng dung
hòa tình yêu Thiên Chúa và niềm hăng say với công việc rằng tất cả mọi lao động
chân thành giúp tạo ra cảnh vực thần linh và như vậy đem họ đến gần Thiên Chúa
hơn. Ngài kêu gọi những người quá say mê công việc tiêu diệt các ngẫu tượng mà
họ đã tạo ra bằng cách đặt công việc của họ vào trong bối cảnh tình yêu Thiên
Chúa và người thân cận. Cuối cùng, Teilhard de Chardin mời gọi tất cả chúng ta
cùng trợ giúp trong việc kiến tạo một linh đạo làm việc cụ thể. Đối với nhiệm vụ
này, ngài cung cấp một nhãn quan rộng lớn và được trình bày trong những hình ảnh
ấn tượng: Điểm Omega và Đức Kitô vũ trụ, thánh lễ trên [bàn thờ] thế giới và
Bánh vũ trụ, Thiên Chúa ở nơi đầu xẻng, nơi đầu bút, thập giá biến đổi đau khổ
và giải phóng năng lực. Trên hết, con người nổi tiếng đầy can đảm và đức tin
can trường này đã đem lại cho chúng ta sự khích lệ và hy vọng với việc khẳng định
đầy thuyết phục rằng: mọi nỗ lực của chúng ta sẽ nhân tính hóa công việc lao động
của chúng ta, chúng có ý nghĩa, giá trị và tầm quan trọng nội tại và trường tồn.
(*): Chủ yếu dựa vào
bài: Pierre Teilhard de Chardin —
Developing a Spirituality of Work của James J. Bacik, đăng trong
Contemporary Theologians, The Mercier xuất bản năm 1992, trang 209-219
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 83 (Tháng 7 &
8 năm 2014)
- Nền thần học bình dân ( 29/11/2023)
- Bộ Giáo lý Đức tin: Người Công giáo vẫn bị cấm tham gia hội Tam điểm ( 15/11/2023)
- Người chuyển giới có thể lãnh nhận Bí tích Rửa tội ( 10/11/2023)
- Giải đáp thắc mắc cho người trẻ: Bài 106 - Tình yêu Thiên Chúa và sự dữ trong thế giới con người ( 07/11/2023)
- Ý nghĩa và những thắc mắc về Halloween, Ngày Lễ Các Thánh và Lễ Các Đẳng Linh Hồn ( 31/10/2023)
- Các bước trong tiến trình tuyên phúc và tuyên thánh ( 19/10/2023)
- Đức Giê-su Ki-tô – Đường hiệp nhất nên một ( 08/10/2023)
- Đức Thánh Cha Phanxicô trả lời các nghi vấn của 5 Hồng y ( 03/10/2023)
- Trung thành và sáng tạo ( 18/09/2023)
- Ở Mông Cổ, Đức Phanxicô đã gặp Giáo hội lý tưởng của mình ( 04/09/2023)