NHỮNG ĐƯỜNG HƯỚNG MỤC VỤ CỦA TÔNG HUẤN AMORIS LAETITIA
Lm. Agostino
Nguyễn Văn Dụ
WHĐ (7.1.2020) –
Hai Tông Huấn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô: Evangelii
Gaudium và Amoris Laetitia, mở ra
cho Giáo Hội một số đường hướng mục vụ cần thiết trong thời đại chúng ta để có
được một việc làm mang tính Giáo Hội cho việc loan báo Tin Mừng và có thể thực
hiện được ước mơ Đức Giáo Hoàng Phanxicô gợi lên cho chúng ta: “Tôi mơ ước một
lựa chọn truyền giáo có sức biến đổi mọi sự, để những thói quen, những phong
cách, thời gian, ngôn ngữ, và tất cả các cơ cấu Hội Thánh trở thành một kênh
thích hợp với việc truyền giáo cho thế giới ngày nay,… tạo nên trong những người
làm mục vụ một thái độ liên tục “đi ra”, và như thế thúc đẩy một đáp ứng tích cực
từ tất cả những người mà Chúa Giêsu ban cho tình bằng hữu của Người”[1].
Trong những
trang sau đây chúng ta tìm đưa ra một vài đường hướng mục vụ của Giáo Hội sau
hai Thượng Hội Đồng Giám Mục về Gia Đình:
1. Canh tân việc mục vụ hôn nhân và gia đình
Tông Huấn Amoris Laetitia kêu gọi Giáo Hội cần có
một cuộc canh tân mục vụ thật sự về hôn nhân và gia đình. Nội dung phong phú của
Tông Huấn đã được Đức Giáo Hoàng trao gởi và đó cũng là kết quả của hai Thượng
Hội Đồng Giám Mục muốn đồng hành trực tiếp với nhiều khía cạnh của ơn gọi và sứ
mạng của hôn nhân và gia đình. Những khía cạnh này đòi hỏi chúng ta phải suy tư
và hoán cải tâm thức mục vụ. Công việc mà Tông Huấn để lại cho chúng ta quả là
một công việc đầy khó khăn, vì nhiều hoàn cảnh hiện nay của hôn nhân và gia
đình trên toàn thế giới đòi phải có một sự cam kết được đổi mới từ phía những
người hoạt động mục vụ mới có thể mang lại những sửa đổi cần thiết cho việc
canh tân này. Tuy nhiên, hôn nhân và gia đình không phải là hai thực tại tách rời
khỏi cuộc sống, vì chúng liên quan đến nhau cách sâu sắc với vô số khía cạnh mục
vụ nói chung.
Giáo Hội phải
giúp đỡ hôn nhân và gia đình để đời sống của họ có thể thực hiện được trong Tin
Mừng Gia Đình. Mục vụ hôn nhân và gia đình là một nhiệm vụ ưu tiên và rất khẩn
thiết trong các Giáo Hội địa phương. “Người chịu trách nhiệm đầu tiên về mục vụ
gia đình trong giáo phận chính là Giám mục. Như một người cha và chủ chăn ngài
phải đặc biệt lo lắng cho ngành này, chắc chắn là ngành ưu tiên của mục vụ”[2] Thực tại và những hoàn cảnh
của gia đình, như được nhìn nhận trong công việc của hai Thượng Hội Đồng, cho
chúng ta thấy sự cần thiết phải tăng cường và canh tân việc mục vụ trong lãnh vực
này.
Cách riêng, ngày
càng có nhiều vụ li thân và li dị gây đau khổ cho những người phối ngẫu và đặc
biệt là con cái. Điều đó nói lên sự cần thiết phải chuẩn bị nhiều hơn cho những
người đính hôn để họ có thể sống một cuộc hôn nhân trung thành, bất khả phân
li, mang lại thành quả và hạnh phúc trọn vẹn.
Tông Huấn dành
cho việc mục vụ này các số 205-216. Các Nghị Phụ đã đồng ý và Đức Giáo Hoàng đã
xác nhận “sự góp phần chính yếu cho mục vụ gia đình từ nơi giáo xứ, như một gia
đình của các gia đình, giáo xứ kết hợp hài hòa các đóng góp của các cộng đoàn
nhỏ, các phong trào và các hiệp hội của Hội thánh”[3].
Chúng ta thử nghĩ đến các phong trào hôn nhân và gia đình, một số
trong họ dành cho việc chuẩn bị cho những ai sẵn sàng cử hành bí tích hôn phối
và một số khác giúp đỡ cho các cuộc hôn nhân đang gặp khủng hoảng. Không ai
nghi ngờ gì về hôn nhân và gia đình Kitô hữu thường thực hiện một việc phục vụ
thật sự cần thiết và rất hiệu quả trong mục vụ gia đình và chúng ta cần phải kể
đến họ.
Việc chuẩn bị
hôn nhân đích thực cần khởi sự từ những năm đầu trong tuổi thơ của đôi vợ chồng
tương lai. Từ đó việc quan trọng là làm sao tìm được một gia đình trở nên như một
phản ảnh của một cộng đồng thân mật của cuộc sống và của tình yêu. Việc chuẩn bị
tiếp theo là vào giai đoạn vị thành niên và thanh thiếu niên, một giai đoạn rất
quan trọng và nếu không làm được vào lúc này thì thật khó có thể thực hiện được
về sau. Đức Giáo Hoàng cũng nhận thấy rằng “các Nghị phụ Thượng Hội đồng đã khẳng
định bằng nhiều cách khác nhau rằng cần giúp các bạn trẻ khám phá giá trị và sự
phong phú của hôn nhân. Họ phải nhận ra được sự hấp dẫn của một kết hợp trọn vẹn,
một kết hợp nâng cao và kiện toàn chiều kích xã hội của cuộc sống, mang lại cho
tính dục ý nghĩa cao trọng nhất của nó, và đồng thời cổ võ thiện ích của con
cái và tạo cho chúng hoàn cảnh tốt nhất để được trưởng thành và giáo dục”[4].
Chuẩn bị gần cho
hôn nhân nhằm mục đích huấn luyện cho thanh thiếu niên trong những đức tính và
trong các giá trị của tình yêu, dấn thân, cam kết, trung thành, tha thứ, v.v… để
giúp họ thực hiện trong đời sống của mình nội dung của Tin Mừng gia đình.
Chúng ta cũng phải
canh tân tầm quan trọng của việc chuẩn bị ngay trước khi cử hành bí tích hôn phối
như một sự kiện duy nhất sống trong bối cảnh của gia đình và của cộng đoàn Kitô
hữu, vì “Bí tích Hôn Phối không phải là một quy ước xã hội, một nghi thức trống
rỗng, hay chỉ là dấu hiệu bên ngoài của một cam kết. Bí tích này là một ơn ban
nhằm thánh hóa và cứu độ đôi vợ chồng”[5].
Bởi vậy, Phụng vụ này cần phải chuẩn bị đôi bạn bằng một giáo lý sâu sắc, nghĩa
là phải giúp cho họ lớn lên trong đức tin và hiểu được rằng giao ước của họ phải
được thực hiện thật sự “trong Chúa”.
Tông Huấn cũng
nói đến việc đồng hành với các cuộc hôn nhân từ phía cộng đoàn Kitô hữu, nhất
là trong những năm đầu sau ngày cưới và mỗi khi họ gặp khủng hoảng. Chỉ cần đọc
lại một nhận xét của Tông Huấn để thấy sự cần thiết của việc đồng hành này:
“Chúng ta phải nhìn nhận có một giá trị lớn lao mà người ta vẫn hiểu hôn nhân vốn
là một vấn đề của tình yêu, và người ta chỉ có thể kết hôn với người mình tự do
lựa chọn và yêu thương. Thế nhưng, khi tình yêu chỉ hệ tại ở nét hấp dẫn thể lý
hay một tình cảm mơ hồ, thì cũng có nghĩa là vợ chồng sẽ phải chịu một cảnh ngộ
hết sức mong manh khi tình cảm ấy rơi vào khủng hoảng hoặc khi nét hấp dẫn thể
lý tàn tạ đi. Vì những nhầm lẫn này thường xảy ra, nên việc đồng hành với các
đôi vợ chồng trong những năm đầu tiên của cuộc sống hôn nhân lại càng cần thiết,
để làm cho quyết định có ý thức và tự do thuộc về nhau và yêu nhau cho đến cùng
được phong phú và sâu sắc hơn. Nhiều khi thời gian đính hôn không đủ dài, quyết
định cưới nhau vội vàng vì nhiều lý do, trong khi có điều đáng ngại hơn nữa, là
tình trạng những người trẻ chậm trưởng thành. Vì thế, các đôi bạn mới cưới có bổn
phận phải bổ túc tiến trình đáng lẽ đã phải thực hiện trong thời kì đính hôn”[6]
Tất nhiên, các Hội
Đồng Giám Mục và các Giám Mục giáo phận cần chu toàn một công việc rất quan trọng
để tăng cường và đặt chương trình mục vụ đích thực và hiệu quả về hôn nhân và
gia đình nhằm đáp ứng nội dung tổng quát của Tông Huấn, nhưng cụ thể hơn là
trong chương thứ sáu nói về một số quan điểm mục vụ.
2. Đặc tính hiện thực trong mục vụ
Trong việc mục vụ
Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đặt nặng tầm quan trọng cho tính hiện thực, nghĩa là
thấy thực tại giáo hội cách cụ thể và thực tại cụ thể của thế giới hôm nay và của
định chế hôn nhân cũng như gia đình. Giáo Hội cần đến gần với con người và những
thực tại của xã hội chúng ta để nhận biết cách cụ thể và dấn thân, đồng hành và
giúp đỡ theo gương người Samaria nhân hậu. Người Samaria của Tin Mừng tiến lại
gần người đang bị thương nằm bên vệ đường. Và khi tiến lại gần, vừa nhìn thấy bị
nạn, ông động lòng thương và ra tay cứu giúp, khác với vị tư tế và thầy Lêvi của
dụ ngôn Tin Mừng cũng đi qua nơi ấy nhưng tránh qua một bên mà đi. Mục vụ hệ tại
ở chỗ biết lưu ý đến những con người cụ thể, hôn nhân và gia đình cụ thể.
Đối với việc mục
vụ, chiều kích con người rất quan trọng trong cộng đoàn Kitô hữu. Chúa Giêsu nhấn
mạnh khía cạnh này trong Tin Mừng, bằng cách giữ một mối tương quan cá nhân với
những người chung quanh Ngài. Sự cứu rỗi của Chúa Giêsu mà việc mục vụ của Giáo
Hội ao ước cống hiến thì phổ quát, và cũng là sự cứu rỗi của mỗi con người cụ
thể. Tông Huấn Amoris Laetitia liên tục
quy chiếu về thái độ này để nhận biết những hoàn cảnh trong đó chính con người,
hôn nhân và gia đình đang sống.
Tính hiện thực
này chính Đức Giáo Hoàng diễn tả bằng cách nói rằng “mỗi cuộc hôn nhân là một
“lịch sử cứu độ”, và điều đó giả thiết rằng chúng ta khởi đầu từ một tình trạng
mong manh, nhờ ơn Chúa và nhờ sự đáp trả sáng tạo và quảng đại từ phía chúng
ta, hôn nhân sẽ dần dần trở nên một thực tại ngày càng bền vững và quý giá hơn”[7]. Amoris Laetitia nhấn mạnh nhiều đến sự cần thiết của tính hiện thực
mục vụ đòi hỏi việc “phân định mục vụ về hoàn cảnh của nhiều người không còn sống
thực tại ấy”, để “đi vào đối thoại mục vụ với những người này nhằm xác định rõ
ràng các yếu tố của đời sống họ có thể dẫn đến một sự cởi mở hơn với Tin mừng về
hôn nhân ở mức trọn vẹn của nó”[8].
3. Đời sống Kitô hữu là một tiến trình
Trong Tông Huấn
là cả một sự liên tục trình bày đời sống con người và đời sống Kitô hữu như một
tiến trình thực hiện và phấn đấu để đạt đến lí tưởng của mình. Thánh Gioan
Phaolô II đã đề nghị “luật tiệm tiến” với ý thức rằng con người “hiểu biết, yêu
mến và chu toàn sự thiện luân lý bằng cách theo sát các giai đoạn tăng trưởng”[9]. Thực tại này có thể thấy được
trong xã hội. Có một sự khác biệt lớn về các hoàn cảnh và tiến trình của đời sống
Kitô hữu. Con người lớn lên cách tiệm tiến bằng tiến trình hội nhập của ơn Chúa
và những đòi hỏi của tình yêu dứt khoát và tuyệt đối của mình trong toàn bộ cuộc
sống cá nhân và xã hội.
Điều đó có nghĩa
là mục vụ phải chú trọng rất nhiều đến luật tiệm tiến, những câu trả lời khác
nhau mà trong lương tâm con người có thể có đối với Chúa và Giáo Hội. Thực tại
của tiến trình này trong đời sống của người Kitô hữu đòi hỏi các mục tử cống hiến
một sự đồng hành với các tín hữu, huấn luyện cách xứng hợp lương tâm của họ và
biết thẩm định những gì là thiện hảo trong đời sống của họ.
Cần phải hiểu dưới
ánh sáng của nguyên tắc “thời gian thì lớn hơn không gian”. Nguyên tắc này đã
được loan báo và giải thích trong Evangelii
Gaudium nhằm nhấn mạnh rằng điều quan trọng là phải lo đến việc bắt đầu quá
trình hơn để chiếm lấy không gian[10].
Trong một hoàn cảnh
nhất định nào đó, con người gặp khó khăn hành động một cách khác, thì việc phân
định mục vụ dù có lưu ý đến lương tâm của con người đã được huấn luyện cách
ngay thẳng, cũng phải chấp nhận về những hạn chế [11].
Lương tâm có thể
nhận biết không chỉ một hoàn cảnh không đáp trả cách khách quan đề nghị chung của
Tin Mừng, nhưng nó cũng có thể nhận ra với sự chân thành và trung thực những gì
mà bây giờ là sự đáp trả quảng đại có thể được dâng lên Thiên Chúa và khám phá
với một sự chắc chắn luân lí rằng đây là việc mà Thiên Chúa đòi hỏi giữa sự phức
tạp cụ thể trong những giới hạn của mình. Nhưng người mục tử cũng nên biết rằng
sự phân định này thì sinh động và phải luôn mở ra cho những giai đoạn tăng trưởng
mới trong tiến trình của đời sống Kitô hữu và cho những quyết định mới để thực
hiện lý tưởng một cách trọn vẹn.
4. Thẩm định lại lương tâm cá nhân trong đời sống Kitô
hữu
Huấn quyền của Đức
Giáo Hoàng Phanxicô dẫn đến việc khám phá ra tầm quan trọng của lương tâm cá
nhân trong đời sống Kitô hữu và trong đời sống của Giáo Hội. Trong hai cuộc họp
Thượng Hội Đồng Giám Mục có rất nhiều bài phát biểu nói đến vai trò của lương
tâm. Người ta không thể quên rằng lương tâm đóng một vai trò rất quan trọng
trong việc thẩm định luân lí của lối sống nhân bản và Kitô. Đây là một ân ban của
Thiên Chúa vì như Công Đồng Vaticanô II đã nói với chúng ta “lương tâm là tâm
điểm sâu kín nhất và là cung thánh của con người, nơi đây con người chỉ hiện diện
một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Ngài vang dội trong thâm tâm họ”[12]. Và chính Công Đồng cũng
nói thêm rằng “Bởi vậy lương tâm ngay thẳng càng thắng thế thì những cá nhân và
cộng đoàn càng tránh được độc đoán mù quáng và càng nỗ lực tuân phục những tiêu
chuẩn khách quan của luân lý”[13].
Chúng ta cũng cần
nhìn nhận rằng cách chung lương tâm ít được lưu ý nói đến, ngay cả trong việc
giảng dạy giáo lí. Xem ra dễ dàng và chắc chắn hơn việc áp dụng lề luật vào
trong đời sống mà không cần cố gắng để xét trong lương tâm về hoàn cảnh riêng của
mình như thế nào.
Tông Huấn Amoris Laetitia nhấn mạnh đến tầm quan
trọng của lương tâm. Trong tài liệu này lương tâm được nói đến rất nhiều, ít nữa
là hai mươi chín lần. Như Đức Giáo Hoàng khẳng định “từ khá lâu rồi, chúng ta vẫn
cứ tin rằng chỉ cần nhấn mạnh những vấn đề đạo lí, đạo đức sinh học và luân lí,
mà không cần khuyến khích người ta mở lòng ra với ân sủng, cũng đã đủ nâng đỡ
các gia đình”[14]. Chúng ta gặp khó khăn
trong việc trình bày hôn nhân như một hành trình sinh động của việc tăng trưởng
và thực hiện hiện hơn là như một sức nặng phải gánh vác suốt cả cuộc đời. Và
chính Đức Giáo Hoàng cũng nhìn nhận rằng “chúng ta cũng cảm thấy khó khăn khi
muốn dành chỗ cho lương tâm của các tín hữu, là những người rất thường đáp lại
lời mời gọi của Tin mừng cách tốt nhất ngay giữa những giới hạn của họ”[15]. Từ đó ngài khẳng định rằng
“chúng ta được mời gọi để đào tạo các lương tâm chứ không thay thế các lương
tâm”[16].
5. Mục vụ đồng hành và phân định
Việc mục vụ luôn
cần được các vị Mục tử và những thành viên khác của cộng đoàn Kitô hữu thực hiện
nhiều hơn cả là việc đồng hành đối với mỗi người, mỗi hôn nhân, mỗi gia đình và
mỗi nhóm. Bằng chính chủ thuyết nhân vị của đời sống Kitô hữu và vì tính khác
biệt của các hoàn cảnh mà con người và các nhóm đang sống.
Đồng hành cho
phép nhận biết và phân định những hoàn cảnh cụ thể nơi con người đang sống
trong lương tâm của họ và trước mặt Thiên Chúa và cũng cho phép đưa ra một câu
trả lời mục vụ khách quan và phù hợp. Người mục tử thực hiện việc đồng hành này
có thể đi đến kết luận rằng một người hoặc một đôi bạn có thể có được một đòi hỏi
chính đáng và người khác hoặc đôi bạn khác, mà hoàn cảnh khách quan có vẻ là
như nhau, nhưng lại không thể có được đòi hỏi giống nhau. Mặc dù những hoàn cảnh
của hai người một cách khách quan có thể xem ra giống nhau, tuy nhiên trong khi
tìm hiểu cách sâu sắc hơn thì chúng có thể khác nhau. Ở đây xuất hiện thập giá
của người mục tử, có thể bị hiểu lầm trong quyết định của mình.
Sự phân định là
một từ khóa trong Amoris Laetitia.
Theo Tông Huấn việc phân định làm cho người Kitô hữu không chỉ đơn giản là một
phân tích xã hội học hay tâm lý về thực tế, cũng không phải nhắm đến một cách
làm việc văn hóa được xây dựng trên quan điểm thuần túy nhân loại học. Việc
phân định của Amoris Laetitia luôn
quy chiếu cách đặc biệt vào ý muốn của Thiên Chúa để thực hành được tại đây và
ngay bây giờ trong chủ đề cụ thể và tích cực. Việc phân định còn hơn là một
hành động, nó là một tiến trình rộng mở. Tông Huấn khẳng định rằng trong việc
phân định mục vụ này cần “nhận diện các yếu tố có thể thúc đẩy việc Phúc Âm hóa
và phát triển nhân bản cũng như thiêng liêng”[17].
Việc này đòi hỏi việc loan báo tiên khởi và giảng dạy giáo lý.
6. Hội nhập của người Kitô hữu vào trong cộng đoàn
Ngay từ trong
Tông Huấn Evangelii Gaudium, Đức Giáo
Hoàng đã nói rằng “Hội Thánh “đi ra” là một Hội Thánh với những cánh cửa mở rộng...
Hội Thánh được mời gọi để luôn luôn là ngôi nhà mở cửa của Chúa Cha... Tất cả mọi
người có thể tham gia vào đời sống Hội Thánh một cách nào đó, tất cả mọi người
có thể là một phần tử của cộng đoàn, và ngay cả các cửa của các Bí Tích cũng
không được đóng lại vì bất cứ lý do nào… Chúng ta thường hành xử như những người
ban phát ân sủng chứ không như những người giúp người khác dễ dàng lãnh nhận ân
sủng. Nhưng Hội Thánh không phải là một hải quan, mà là ngôi nhà của Chúa Cha, ở
đó có chỗ cho tất cả mọi người, với tất cả những khó khăn trong cuộc sống của họ”[18].
Thái độ này hài
hòa cách hoàn toàn với sứ mạng loan báo Tin Mừng của Giáo Hội. Đức Phaolô VI
tuyên bố rõ ràng rằng “Giáo Hội hiện hữu để rao giảng Tin Mừng”[19]. Cũng vậy, Tông Huấn Amoris Laetitia, đặc biệt trong chương
tám, có một điểm chính là sự hội nhập của các Kitô hữu trong cộng đoàn Kitô hữu,
của tất cả mọi người, ngay cả những người sống trong những hoàn cảnh gia đình
“trái quy tắc”.
Đức Giáo Hoàng
Phanxicô trong Tông Huấn của ngài, nói với chúng ta rằng ngài đã thu thập được
những nhận xét của nhiều Nghị Phụ. Các ngài muốn bày tỏ rằng “những người đã được
rửa tội mà li dị và tái hôn về mặt dân sự cần phải được hòa nhập nhiều hơn vào cộng
đoàn Kitô hữu theo nhiều cách khác nhau, trong khi tránh mọi dịp gây gương xấu”[20].
Về sự hòa nhập
này, Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã nói: “Tôi nồng nhiệt kêu mời các
chủ chăn và toàn thể cộng đoàn tín hữu hãy giúp đỡ những người ly dị bằng tình
bác ái để họ không cảm thấy bị lìa xa Hội Thánh, vì là những người đã được rửa
tội, không những họ có thể mà còn phải dự phần vào đời sống của Hội Thánh. Người
ta sẽ mời họ lắng nghe Lời Thiên Chúa, tham dự Hy tế thánh lễ, kiên trì cầu
nguyện, góp phần vào các công cuộc bác ái và vào các sáng kiến của Hội Thánh để
phụng sự công lý, giáo dục con cái họ trong đức tin Kitô giáo, vun trồng tinh
thần đền tội và làm các việc đền tội để ngày qua ngày thành khẩn nài xin ơn
thánh của Thiên Chúa. Ước gì Hội Thánh cầu nguyện cho họ, khích lệ họ và tỏ ra
là một người mẹ nhân từ đối với họ, và nhờ đó giữ họ trong đức tin đức cậy”[21].
Bộ Giáo Luật
1983 xác định rằng có thể chấp nhận làm người đỡ đầu những ai “không mắc một
hình phạt của giáo luật đã được tuyên kết hay tuyên bố cách hợp pháp”[22]. Về hội đồng mục vụ, Giáo
Luật cũng tiên liệu chỉ có thể chọn “những Kitô hữu trổi vượt về đức tin vững
vàng, về hạnh kiểm tốt và về sự khôn ngoan”[23].
GLHTCG lấy lại nội
dung của Tông Huấn Familiaris Consortio và
thêm rằng “họ không thể đảm nhận một số trách nhiệm trong Hội Thánh” [24]. Đức Hồng Y Ratzinger, với
tư cách là Bộ trưởng Thánh Bộ Đức Tin, trong bài dẫn nhập vào Tập sách về mục vụ
cho những người li dị tái hôn (1998) đã đưa ra một danh sách đầy đủ như sau: 1)
việc đỡ đầu; 2) đọc sách; 3) thừa tác viên cho rước lễ; 4) giáo viên môn tôn
giáo; 5) giáo lí viên cho việc rước lễ lần đầu và thêm sức; 6) thành viên của hội
đồng mục vụ giáo phận và giáo xứ; 7) chứng hôn[25].
Để thực hành việc
cống hiến cho những người đã được rửa tội một sự hội nhập hơn vào trong cộng
đoàn Kitô hữu thì cần làm những gì mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói: “do đó, cần
phân định xem có thể vượt qua những hình thức loại trừ nào đang được thi hành
trong lãnh vực phụng vụ, mục vụ, giáo dục và cơ chế”[26].
Và Đức Giáo Hoàng nói rằng việc hội nhập hơn này cũng nên lưu ý đến lợi ích cho
việc “chăm sóc và giáo dục đức tin Kitô giáo cho con cái họ, là những đối tượng
phải được xem là quan trọng nhất”[27].
7. Vui mừng về sự hội nhập nhiều hơn của những người
đã được rửa tội vào trong cộng đoàn
Trong đời sống của
Giáo Hội mỗi ngày có thể có những Kitô hữu mang lại thái độ và hành vi của người
con trai trưởng trong dụ ngôn tin mừng về đứa con hoang đàng. Khi người em trở
về nhà cha sau khi tiêu hoang hết của cải, thì người anh đã giận dữ về sự tiếp
đón mà người cha đã dành cho người em, trong khi ông ôm lấy con, tha thứ cho
con và chuẩn bị một bữa tiệc để ăn mừng. Người anh cả lại không muốn tham gia
vào bữa tiệc mừng.
Tông Huấn Amoris Laetitia mong muốn rằng những người
li dị tái hôn cách dân sự có thể được hội nhập nhiều hơn vào trong cộng đoàn
Kitô hữu. Họ không trở về nhà cha của Giáo Hội, không phải họ bị dứt phép thông
công, nhưng vì sự hội nhập nhiều hơn này có thể ít được cảm thông hoặc có thể
gây nên sự tức giận hoặc không được một số thành viên trong cộng đoàn chấp nhận.
Ở đây, tốt hơn chúng ta nên hiểu rằng tất cả những người Kitô hữu chúng ta đều
là những người tội lỗi, như người em và người anh cả, tất cả chúng ta đều phải
hoán cải và có lòng thương xót.
8. Linh mục để đồng hành tiến trình phân định
Tông Huấn dạy rằng
tiến trình phân định của những người li dị tái hôn cách dân sự cần được thực hiện
với sự trợ giúp của một linh mục. Tài liệu này cũng “nhận định rằng các thừa
tác viên có chức thánh thường được đào tạo thiếu phù hợp để đối phó với các vấn
đề phức tạp hiện nay của gia đình”[28].
Ngoài sự nhận định này còn có vấn đề thiếu linh mục và nhiều công việc mục vụ
khác. Tất cả điều đó còn thêm khó khăn cho người tín hữu giáo dân tìm gặp các
linh mục đã được huấn luyện cách xứng hợp và có thời gian để thực hiện tiến
trình phân định này.
Việc lí tưởng là
làm sao cho các linh mục có thể thực hiện được việc làm này và chính các linh mục
biết những ai mong muốn thực hiện việc phân định này, nếu xét cần thì Đức Giám
Mục giáo phận có thể bổ nhiệm một vài linh mục làm công việc này. Tất cả phải
được thực hiện nhằm mưu ích cho công việc này, nhất là các linh mục phải luôn sẵn
sàng đối với những ai đang cần đến. Nội dung của Tông Huấn, đặc biệt trong
chương tám, có thể góp phần khai triển những đường hướng nhằm giúp cho các linh
mục thực hiện tốt hơn cho việc phục vụ này[29].
9. Hướng dẫn để phân định khả năng có thể tuyên bố hôn
nhân vô hiệu
Những vấn đề của
lương tâm đang có nơi những người ly dị và tái hôn dân sự hoặc đơn giản chỉ sống
với nhau mà họ ao ước cách mãnh liệt sống đời sống Kitô hữu, thúc đẩy các giáo
phận nên tổ chức một việc phục vụ miễn phí để giúp cho những người này xem lại khả
năng có thể tuyên bố vô hiệu hôn nhân trước đây của họ. Công việc này đã có
trong nhiều giáo phận và đã mang lại kết quả tích cực giúp đỡ nhiều Kitô hữu phải
gánh chịu hậu quả của ly hôn hoặc ly dị. Điều đó được nhiều người hoan nghênh
và nếu còn thêm những lời khuyên có thể nộp đơn yêu cầu tuyên bố vô hiệu. Và nếu
cuộc hôn nhân được tuyên bố là vô hiệu thì có thể cử hành một cuộc hôn nhân mới,
tất nhiên, nó sẽ mang lại sự bình an lương tâm và sự hài lòng cho các đôi vợ chồng,
cũng như cho con cái và gia đình của họ.
Trong Thượng Hội
Đồng vào tháng 10 năm 2014 nhiều Nghị Phụ đã yêu cầu phải có một phục vụ trong
giáo các phận để tạo dễ dàng cho các tín hữu và chăm sóc họ trong những khó
khăn của đời sống vợ chồng hoặc li hôn hay li dị. Đức Giáo hoàng Phanxicô với
Motu Proprio Mitis iudex Dominus Iesus,
15 tháng tám 2015, đã đưa ra một số công cụ để giúp cho các tòa án giáo hội có
thể trả lời những đòi hỏi của của các tín hữu yêu cầu xét lại sự tồn tại của
dây hôn phối đã thất bại của họ. Do đó, các giám mục giáo phận được kêu gọi để
thành lập một dịch vụ thông tin, hòa giải và tư vấn liên quan đến mục vụ gia
đình cho những người đã ly thân hoặc các đôi vợ chồng đang gặp khủng hoảng. Việc
mục vụ đồng hành này có thể giúp họ vượt qua được những cuộc khủng hoảng vợ chồng
cách thỏa đáng, nhưng cũng được mời gọi để xem xét những trường hợp cụ thể, sự
thật về tính hợp pháp hoặc hôn nhân và “có thể tiếp nhận những người này trong
việc điều tra sơ bộ cho tiến trình liên quan đến hôn nhân”[30].
Cần có một văn phòng trợ giúp pháp lí trong giáo phận hay nhiều giáo phận liên
kết với nhau để làm việc này.
Các linh mục khi
gặp các Kitô hữu đã ly dị và kết hôn dân sự hoặc chỉ sống chung với nhau, các
ngài nên thông báo cho họ biết về khả năng cứu xét hôn nhân vô hiệu nếu có và dịch
vụ tư vấn trong Giáo Hội.
Phải dùng đến việc
thực thi công lý là một quyền mà mọi Kitô hữu trong Giáo Hội đều có. Các người
ly dị và tái hôn dân sự hoặc chỉ sống chung với nhau được quyền đến với tòa án
của Giáo Hội để được phán quyết về tính vô hiệu hay là thành sự của hôn nhân của
họ. Với sự cải cách được Đức Giáo Hoàng Phanxicô thực hiện về những quy trình
tuyên bố sự vô hiệu, bằng tài liệu Mitis
iudex Dominus Iesus[31]
ai cũng chờ đợi nơi Giáo Hội thái độ của lòng thương xót qua việc đơn giản hóa thủ
tục và làm nổi bật tính “nhưng không” của sự hỗ trợ pháp lý nơi Tòa án của Giáo
hội. Chính Đức Giáo Hoàng mới đây đã nhắc lại Tự sắc này trong buổi tiếp kiến
ngày 25.11.2017 dành cho các tham dự viên khóa học do Tòa Thượng Thẩm Rota tổ
chức, và quy định thủ tục vắn tắt việc “giải” hôn phối do giám mục giáo phận
thi hành.
10. Tránh mọi quy định
Tông Huấn Amoris Laetitia nhấn mạnh sự đa dạng của
các hoàn cảnh mà bạn có thể gặp những vợ chồng ly dị, bởi vì tài liệu nói rằng
“nếu chúng ta xét đến rất nhiều hoàn cảnh cụ thể khác nhau, như những hoàn cảnh
mà chúng tôi đã đề cập ở trên, thì có thể hiểu được rằng không nên mong đợi từ
Thượng Hội đồng hoặc từ Tông Huấn này một khoản luật chung mới về Giáo luật, có
thể áp dụng cho tất cả các trường hợp”.[32]
Có thể để áp dụng
chương thứ tám của Tông Huấn, các Hội Đồng Giám Mục xét thấy thuận tiện để thiết
lập một quy định về giảm nhẹ và miễn chuẩn chẳng hạn, hoặc các vấn đề khác.
Thái độ khôn ngoan của Thượng Hội Đồng và của Tông Huấn, bởi vì thực tế trước mắt
chúng ta trong lãnh vực này rất đa dạng, và bất kỳ quy định nào cũng không thể
bao gồm tất cả mọi hoàn cảnh gọi là “trái quy tắc”. Một cách khôn ngoan Tông Huấn
nói đến sự chỉ đạo của Giám Mục giáo phận. Đây chỉ là hướng dẫn của giám mục,
mà không nói gì đến Hội Đồng Giám Mục.
11. Lòng Thương Xót phải là thái độ liên tục của Giáo
Hội
Năm Thánh về
Lòng Thương Xót Chúa đã kết thúc, nhưng không bao giờ kết thúc trong Giáo Hội
việc thực hành lòng thương xót và công trình thể xác và tinh thần. Đó là những
gì mà thế giới hôm nay đang cần đến.
Như Đức Giáo
Hoàng Phanxicô nói với chúng ta “lòng thương xót không chỉ là hành động của
Chúa Cha, nhưng trở thành tiêu chuẩn để hiểu những ai là con cái thật của Người”[33]. Ngài còn nói thêm: “chúng
ta được mời gọi để sống lòng thương xót, bởi vì chúng ta là những người đầu
tiên lãnh nhận được lòng thương xót”[34].
Áp dụng lòng
thương xót trong việc thực hiện các nội dung của Tông Huấn Amoris laetitia là một việc làm rất quan trọng và đặc biệt đối với
chương thứ tám. Bởi vậy, không lạ gì khi Đức Giáo Hoàng muốn liên kết việc cử
hành hai Thượng Hội Đồng về hôn nhân và Năm Thánh đặc biệt về Lòng Thương Xót.
Đây là một thái
độ phải được đưa vào trong toàn sứ vụ của Giáo Hội. Và Đức Giáo Hoàng Phanxicô
cảnh báo rằng đôi khi chúng ta phải dành nhiều công sức trong việc mục vụ cho
tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa. Ngài nói: “Chúng ta đặt quá nhiều điều kiện
cho lòng thương xót đến nỗi làm mất đi cảm thức cụ thể và ý nghĩa thật sự của
nó”[35]. Và Tông Huấn nhắc đến Ủy
ban thần học quốc tế đã tuyên bố rằng luôn phải xem là không xứng hợp bất cứ
khái niệm thần học nào mà nghi ngờ sự toàn năng của Thiên Chúa và đặc biệt là
lòng thương xót của Người”[36].
Thái độ này đặt
chúng ta trong bối cảnh của một Giáo Hội quan tâm đến việc phân định mục vụ đầy
lòng thương xót, để hiểu biết, tha thứ, đồng hành, chờ đợi và nhất là để hội nhập.
Tông Huấn nói đến via caritatis, con
đường của đức ái, là con đường gây được tiếng vang trong mọi hoàn cảnh, nơi những
người đang gặp khó khăn trong việc sống cách trọn vẹn lề luật của Thiên Chúa .
Bác ái là luật đầu tiên của Kitô hữu[37].
Chúng ta cũng không thể quên lời hứa của Thư Thánh Phêrô: “Trước hết anh em hãy
hết tình yêu thương nhau, vì lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi” (1Pr 4,8)[38].
Trong Tông Huấn Amoris Laetitia, Đức Giáo Hoàng Phanxicô
hướng đến những người đang sống và chịu đau khổ vì một hoàn cảnh mỏng giòn, hoặc
“trái quy tắc” trong cuộc hôn nhân của họ và ngài nói với họ: “Tôi mời gọi các
tín hữu đang sống trong những hoàn cảnh phức tạp hãy đến gặp gỡ trao đổi với
các mục tử của mình trong tin tưởng hoặc đến với những người giáo dân sống tận
hiến cho Chúa. Không phải luôn luôn các bạn tìm thấy nơi họ một sự xác nhận về
các ý tưởng và ước muốn của mình, nhưng chắc chắn các bạn sẽ nhận được một ánh
sáng giúp hiểu rõ hơn về những gì đang xảy ra và có thể khám phá ra một lộ
trình cho sự trưởng thành cá nhân”[39].
Và, lặp lại một văn bản đã được trích dẫn ở trên, Đức Giáo Hoàng tiếp tục nói với
những các mục tử bằng những lời này như để kết thúc chương tám: “Tôi kêu mời
các mục tử hãy lắng nghe với tình thương yêu và sự bình tâm, với ước muốn chân
thành đi vào trọng tâm của bi kịch của con người và hiểu được quan điểm của họ,
nhằm giúp họ sống tốt hơn và nhận ra vị trí của họ trong Hội thánh”[40].
Lời kết
Dưới ánh sáng của
công việc của hai Thượng Hội Đồng với bản văn kết thúc và Tông Huấn Amoris Laetitia, chúng ta tin rằng tất cả
những điều đó đã thực hiện được những gì đã được Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói
trong phiên họp cuối cùng của Thượng Hội Đồng năm 2015 và những gì ngài đã nói
về việc làm của hai Thượng Hội Đồng tất nhiên là hoàn toàn có giá trị và càng
giá trị hơn đối với Tông Huấn hậu Thượng Hội Đồng.
Đức Thánh Cha bắt
đầu bằng câu hỏi này: Việc kết thúc Thượng Hội Đồng này dành cho gia đình mang
ý nghĩa gì đối với Giáo Hội? Và ngài đã tự trả lời:
“1) đã cố gắng để
soi chiếu với ánh sáng của Tin Mừng, của Truyền thống và của lịch sử hai ngàn
năm của Giáo Hội tất cả các vấn đề liên quan đến gia đình;
2) đã suy xét kỹ
lưỡng và không sợ hãi tất cả những nghi ngờ và khó khăn đang đe dọa gia đình;
3) đã kêu gọi mọi
người hiểu được tầm quan trọng của định chế gia đình và hôn nhân giữa một người
nam và một người phụ nữ, được thành lập trên sự hiệp nhất và bất khả phân ly,
được hiểu như nền tảng của xã hội;
4) đã lắng nghe
tiếng nói của gia đình và của các mục tử đến từ khắp nơi trên thế giới mang
trên vai gánh nặng và hy vọng của gia đình;
5) đã đưa ra bằng
chứng về tính năng động của Giáo hội Công giáo không sợ mắc phải đánh thức
lương tâm đang bị gây mê hoặc sợ bàn tay của mình bị bẩn trong khi bàn đến chuyện
gia đình;
6) đã tìm cách đọc
thực tế ngày hôm nay với con mắt của Thiên Chúa để thắp lên và soi chiếu trái
tim của con người với ngọn lửa đức tin;
7) đã làm chứng
cho tất cả rằng Tin Mừng tiếp tục đối với Giáo Hội là một nguồn sống mới lạ đời
đời, chống lại những ai muốn “nhồi sọ” thành những viên đá chết ném vào người
khác;
8) đã khẳng định
rằng Giáo Hội là Giáo Hội của người nghèo trong tinh thần và là Giáo Hội của những
người tội lỗi luôn tìm tha thứ, chứ không chỉ là Giáo Hội của các thánh và những
người công chính”.
Như các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã viết lên trong bản đúc kết rằng
“lòng khao khát kết hôn và tạo lập một gia đình vẫn luôn sống động, nhất là nơi
người trẻ, và điều đó thúc đẩy Giáo Hội”[41].
Và các ngài cũng đã đáp trả lòng khao khát này bằng xác quyết rằng “sứ điệp
Kitô giáo liên quan đến gia đình thật sự là một tin mừng”[42].
Cũng vậy, Tông Huấn Amoris Laetitia của
Đức Giáo Hoàng Phanxicô là một tin mừng. Bởi vậy, chúng ta có thể kết luận rằng
hai Tông Huấn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô - Evangelii
Gaudium và Amoris Laetitia – đã
mang lại cho Giáo Hội một sự quan tâm được đổi mới. Sau khi Năm Thánh Lòng
Thương Xót bế mạc, chúng ta có thể đặt câu hỏi: điều gì sẽ còn lại của Năm
Thánh này? Sẽ là một giai đoạn mới trong việc tiếp nhận Công Đồng Vatican II của
thời đại chúng ta và được một sự thúc đẩy cải cách bắt đầu từ lòng thương xót
như một nhân đức chủ lực. Điều này có thể mang lại một vị thế mới cho Giáo Hội
trong thế giới, bằng cách thế hiện diện và sống sứ mạng loan báo Tin Mừng của
mình.
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 105 (Tháng 3
& 4 năm 2018)
[25] Xem M. Gronchi, Amoris Laetitia. Una lettura dell’Esortazione Apostolica sull’amore
della Famiglia, Vaticano 2016, 169-174. Tác giả đã phân tích và lượng định
về những cấm cản này.
[36] La speranza della salvezza per I bambini che muoiono senza
battesimo, del
19 Aprile 2007, 2; Misericordiae vultus,
15.
[42] Relazione finale 2015, 3.