NHÂN ĐỨC TÔN GIÁO (VERTU
DE RELIGION)[1]
THEO THÁNH TÔMA AQUINÔ
VÀ VIỆC GIÁO DỤC LÒNG TÔN TRỌNG
TRONG MỘT THẾ GIỚI THẾ TỤC HÓA
(cf. Tổng luận
Thần học IIaIIae, 80-101; 121)
Cha Gilles Berceville, OP
III. Tôn giáo, nguồn phát sinh sự tôn trọng |
I. Tôn giáo và lý tính
Trong thần học luân lý cũng như
thần học tín lý, Tôma Aquinô cung cấp cho chúng ta một số chìa khóa quan trọng
để vượt lên trên sự đoạn giao giữa lý trí, văn hóa và đức tin, hệ quả của sự kiện
thế tục hóa. Theo vị “Tiến sĩ chung” (“docteur commun”) của Giáo Hội, các lãnh
vực này phân biệt với nhau chứ không tách rời nhau. Lãnh vực “tôn giáo”, trong
tư tưởng của Tôma, đích xác là nơi chuyển tiếp -về mặt lý thuyết và thực hành-
giữa lý trí và đức tin. Về điểm này, Tôma giúp cho chúng ta không nhượng bộ trước
khẳng định rất phổ biến, theo đó tôn giáo là không hữu lý (irrationel), do đó bị
loại ra khỏi cuộc tranh luận công cộng, (và tôn giáo) là vô bổ và là nguồn gốc
sinh ra bạo động. Thực ra tôn giáo, trái lại, theo nguyên tắc, là một yếu tố
trong nỗ lực của lý trí [effort rationel]) nhằm hiểu thế giới và cư ngụ trong
đó. Theo Tôma, tôn giáo tất phải là đỉnh cao của hoạt động có lý tính (activité
rationel)[2], qua việc gây dựng con người
và thế giới nơi họ ở, trong hòa bình, đồng thời mở tâm trí họ ra với những mặc
khải và những lời hứa ban ân sủng.
Từ “tôn giáo” nói lên tương quan
mà con người có với Thiên Chúa, những xác tín được diễn tả trong mối tương quan
này, những nghi lễ, những bổn phận. Tôn giáo -xét như nhân đức, là một thái độ
(disposition) nội tâm, vững vàng và bền lâu- cho phép con người thực hiện đầy đủ
những yêu sách của lý trí trong những gì nó tin, việc thờ phượng của họ, phong
hóa của họ. Tôn giáo giúp họ tránh khỏi mê tín[3]
cũng như không ngã vào sự chểnh mảng, dửng dưng hoặc chối từ Thiên Chúa cách có
ý thức và tự nguyện.[4]
Nhân đức tôn giáo là một hình thức
của công bằng. Sự công bằng này, cách chung, cốt ở việc duy trì -với những người
khác- những tương quan xứng hợp với cái họ là và với cái chúng ta là, nói khác
đi, là trả lại cho mỗi người cái thuộc về họ. Như thế, nhân đức tôn giáo xuất
hiện như một trường hợp hoàn toàn đặc thù về công bằng. Quả vậy, có những món nợ
không thể trả: quà tặng sự sống và giáo dục. Ta không thể tự cho là mình hết nợ
nần với một chủ nợ, nhưng không bao giờ ta có thể tự cho là xong nợ với các bậc
thân sinh, với những người giáo dục ta, với những người cứu sống ta. Tuy nhiên,
việc không thể trả lại cho các ngài những gì các ngài đã cho chúng ta không khiến
ta dửng dưng và thụ động đối với các ngài: trái lại chúng ta ước muốn tỏ lòng
biết ơn, tôn kính và tận tụy hết lòng. Kinh nghiệm nhân sinh phải có thể dẫn ta
đến việc khẳng định rằng sự sống con người và thế giới xuất phát từ một nguyên
nhân đệ nhất và tiếp tục được nguyên nhân này điều khiển.[5]
Các truyền thống minh triết của nhân loại có thể quả quyết sự hiện hữu của một
Đấng Tạo Hóa và chủ tể tối thượng. Nhân đức tôn giáo nâng đỡ con người trong nỗ
lực tỏ bày -đối với Thiên Chúa, Đấng sáng tạo, chủ tể và là Đấng cứu vớt mọi
con người- sự tri ân, sự kính trọng, sự sùng kính, là bổn phận mà họ có đối với
Người, trong đời sống cá nhân và cộng đồng.
Việc thực hành nhân đức tôn giáo
trước tiên là hoạt động của ý chí. Hành vi chính yếu của việc thờ phượng là sự nhiệt tâm (devotio),
nghĩa là sự mau mắn đáp ứng những đòi hỏi nảy sinh từ việc nhìn nhận Thiên Chúa
là Đức Chúa, Đấng Tạo Hóa và là Chủ tể. Tôn giáo cũng thấm nhuần lý
trí thực tiễn (raison pratique), lý trí hướng về hành động: nhân đức
tôn giáo mời gọi lý trí cầu nguyện
(oratio). Sự ý thức đầy đủ về nhu cầu liên lỉ của con người -nhu cầu được
Thiên Chúa nâng đỡ trong hữu thể và trong hành động của mình, nhu cầu đón nhận
từ Người hết điều lành này đến điều lành khác- giữ vững con người tôn giáo
(homme religieux) trong tâm tình chúc tụng, xin ơn và tạ ơn. Con người diễn tả
cách công khai sự nhiệt tâm (devotio) và kinh nguyện (oratio) của mình qua việc
thờ phượng dành cho Thiên Chúa, việc thờ phượng đạt tới đỉnh điểm trong việc
dâng hy lễ,[6] tức dâng lại cho Thiên Chúa
lễ vật thuộc về chỉ một mình Người và hoàn tất sự kết hiệp mọi con người và các
xã hội nhân loại với Đấng Tạo Hóa và Chủ Tể tối cao của họ. Đó là lý tưởng phù
hợp với lý trí (rationel) và mang tính phổ quát của tôn giáo.
II. Tôn giáo và niềm tin Kitô
Luật mới mà Đức Kitô lập ra thực
hiện các hành vi tôn giáo dưới hình thức bố thí, cầu nguyện và ăn chay, theo ý
của “Chúa Cha, Đấng thấu suốt những gì kín ẩn”, trái với ước muốn “phô trương
cho thiên hạ thấy”.[7] Lời cầu nguyện của Người là
Kinh Lạy Cha, “mẫu mực cho mọi khẩn nguyện của chúng ta”, mà lời cầu xin đầu
tiên là “Nguyện Danh Cha cả sáng”: “Chúng con nguyện xin Thiên Chúa được vinh
danh”.[8]
Định nghĩa và phân tích năng hướng
(disposition) tôn giáo nơi con người có lý trí (homme rationel) cho thấy năng
hướng này bảo đảm, nơi người Kitô hữu, mối liên hệ ăn khớp với nhau giữa đời sống
đối thần và đời sống luân lý, giữa đức Cậy và đức Mến, và tất cả những gì hình
thành nên nhân loại chúng ta, dấn thân trong những bất trắc của cuộc hiện hữu
và những mức độ khác nhau của đời sống xã hội. Nhân đức tôn giáo gắn liền với
nhân đức khôn ngoan nhằm giúp người tín hữu thể hiện đức tin và làm cho đức tin
ăn sâu trong đời sống xã hội của họ. Nhân đức tôn giáo sẽ trợ lực khiến họ tận
tụy đến mức hy sinh, nó sẽ giữ họ -qua kinh nguyện- luôn mở ra với sự hiện diện
và sự trợ giúp của Thiên Chúa, và sẽ dẫn họ đến mức sẵn lòng thực hiện những gì
họ phân định là thánh ý Thiên Chúa.
“Thưa anh em, vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người [của lễ này, theo từ ngữ của Tôma, là một hành vi “nhiệt tâm” (“dévotion”) thiêng liêng]. Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo [sự phân định này, theo từ ngữ của Tôma, là hành vi của nhân đức “khôn ngoan” siêu nhiên].[9]
III. Tôn giáo, nguồn phát sinh sự tôn trọng
Tôn giáo là một nhân đức tự nhiên
nơi con người, nhưng được ân sủng Đức Kitô biến đổi và thăng hoa (“siêu nhiên
hóa”). Nó làm phát sinh những hành vi ý chí (devotio,
nhiệt tâm) và lý trí (oratio, cầu
nguyện), là những hành vi kết hợp với nhau trong những ứng xử luân lý và những
thực hành nghi lễ, chủ yếu là việc dâng hy lễ. Ngày nay, tôi cho là dường như đặc
biệt quan trọng việc đào sâu một thái độ, gắn chặt với nhân đức tôn giáo và với
những hoa trái của nó (thái độ này nối kết năng hướng sâu xa với tâm hồn vững
chãi, hoạt động ý chí với tính cảm thụ); đó là thái độ tôn trọng (respect).
Có hai từ La-tinh tương ứng với từ
respect trong tiếng Pháp: reverentia, tức năng hướng bên trong đối
với người được tôn trọng (sự tôn trọng ở đây được hiểu như tình cảm), nó đến từ
động từ “revereor”, nghĩa là sợ và
tôn kính; và honor, việc diễn tả ra
bên ngoài sự tôn trọng bên trong (sự tôn trọng ở đây được hiểu như bằng chứng,
như sự tỏ bày lòng sùng kính). Reverentia
là động cơ và honor là mục đích: tôi
tôn trọng (honore) một người bởi vì tôi tôn kính (révère) họ và do họ đáng được
tôn kính.[10] Ta gọi danh dự là tán tụng
khi nó được diễn tả ra bằng lời. Vinh danh là hệ quả của danh dự.
Nhân đức tôn giáo tác động cách cụ
thể, nó làm phát sinh sự nhiệt tâm đối với Thiên Chúa. Nó chúc tụng và tôn vinh
Người. Kín múc sức mạnh từ lòng tôn trọng đối với Thiên Chúa, từ sự quý mến và
tri ân đối với Người, nhân đức tôn giáo tỏ bày hình thức nhiệt tâm cụ thể phải
có đối với Thiên Chúa, dưới ánh sáng của lý trí được đức tin soi sáng, bằng
cách hướng tới những phân định khôn ngoan tự nhiên và siêu nhiên. Tôma coi nhân
đức tôn giáo là nguồn phát sinh sự tôn trọng trong đời sống con người. Tôn trọng
đối với chính Thiên Chúa, và theo nghĩa rộng, tôn trọng đối với hình ảnh của
Người nơi mọi thụ tạo có tinh thần (créature spirituelle). Sự tôn trọng này được
đồng nhất hóa và trở thành tinh tế hơn dưới tác động của Thần Khí: lúc đó, nó
tương ứng với các ơn kính sợ và ơn sùng hiếu (dons de crainte et de piété).[11]
Tôma Aquinô cung cấp những nét
chính của một khoa tâm lý về sự tôn trọng bắt rễ trong cảm thức về Thiên
Chúa. Cảm thức này trước tiên là sự ý thức
cái khoảng cách vô hạn giữa sự viên mãn của hữu thể Thiên Chúa với các giới hạn
của loài thụ tạo. Việc ý thức được sự bất cân xứng này khơi gợi -nơi phía loài
thụ tạo có lý trí- một sự quay về với chính mình, một “cú nhảy về lại thân phận
nhỏ bé của mình” resilito in propriam
parvitatem[12]. Nó cũng làm phát sinh một sự thán phục, ngỡ ngàng đến say mê khi
đứng trước sự cao cả khôn tả của Thiên Chúa, và sự bất khả đạt thấu của Người.[13]
Thiên Chúa là nguồn sự sống, nên
sự tôn trọng Thiên Chúa và sự tôn trọng sự sống gắn liền với nhau. Mối liên hệ
này được diễn tả bằng việc rảy máu trong các cuộc cúng hiến của lễ. Sự tôn trọng
đối với Thiên Chúa cũng là nguyên nhân của sự tôn trọng đối với những ai thông
truyền sự sống: cha mẹ, tổ tiên, các nhà giáo dục; đối với những ai bảo vệ và
có quyền trên sự sống: các thẩm quyền dân sự hoặc tôn giáo.
Khi Thiên Chúa lập giao ước với
Dân của Người, khi trong Đức Kitô, Người thắt mối liên hệ bạn hữu, thân tình và
mật thiết lạ thường với người tín hữu thì cảm thức tôn giáo không biến mất,
nhưng được củng cố.[14] Có một sự đào sâu hỗ tương
giữa các cảm thức tôn giáo và các cảm thức đức tin. Sự hiện diện khắp mọi nơi của
Thiên Chúa trong tâm hồn (Đấng dựng nên tôi trong từng phút giây là nguồn gốc
sâu xa cuộc hiện hữu của tôi; trong từng phút giây, Người sinh tôi ra trong cuộc
hiện hữu) là điều kiện nền tảng của ân sủng nơi tâm hồn, là căn nguyên của đời
sống Tin, Cậy và Mến, là nơi mà Thiên Chúa “Đấng thân thiết với tôi hơn cả
chính tôi” tự tỏ mình ra như một người Cha đầy yêu thương; người Cha đó thông
hiệp với từng người tận nơi sâu kín của họ. Việc suy niệm hai chân lý về sự hiện
diện ở khắp mọi nơi và sự hiện diện bằng ân sủng là cơ sở cho đời sống kinh
nguyện.
IV. Kết luận
Sự kiện thế tục hóa và việc đào tạo tâm linh
Sự lo ngại do các hiện tượng thế
tục hóa gây nên, trong những gì sâu xa nhất và chính đáng nhất, là sự thoái hóa
về phẩm chất tâm linh (qualité d’âme) và về tương quan. Trước tiên, đó không phải
là tiếc nuối sự tan rã của một thẩm quyền, của hàng giáo sĩ, của chính trị hoặc
của bố mẹ, nhưng là buồn lòng trước sự kiện con người và xã hội dường như từng
bước đánh mất yếu tố cốt yếu trong nét đẹp của họ: cảm thức tôn trọng bị suy yếu
dưới nhiều hình thức, từ phép lịch sự sơ đẳng nhất cho đến sự kính trọng những
thẩm quyền cao nhất. Chính phần nội tâm và tính giao tế của con người bị đe dọa;
chúng mất đi sự quân bình và chiều sâu.
Ý thức được sự xuống cấp của cảm thức và của các mối tương quan không phải là vô ích: nó là một phương sách thuận lợi cho công cuộc Phúc Âm hóa. Bởi lẽ, theo tự nhiên, mọi người đều mong mỏi được tôn trọng, đều đau khổ vì không được tôn trọng, tất sẽ tán thành những gì được thực hiện để tái lập sự tôn trọng, và tìm kiếm cái nguồn sâu xa của lòng tự trọng và tôn trọng người khác. Các xã hội bị thế tục hóa đã dẫn đến một cuộc khủng hoảng nhân học sâu xa và chúng trở nên mâu thuẫn với chính mình khi ra công bảo vệ những giá trị dân chủ, nhân danh các quyền cá nhân nhưng lại không bảo vệ những gì tác thành nhân vị trong phẩm giá của nó, những gì làm cho nó trở thành một hữu thể rất mực đáng kính trọng. Vấn đề sự tôn trọng và các nguồn của nó có thể giúp những đầu óc của thời hiện đại mở ra với vấn đề tôn giáo.[15] Trong việc đào tạo các ứng sinh cho tác vụ tông đồ, việc vun trồng cách khôn ngoan[16] “nhân đức tôn giáo” sẽ làm cho họ gắn bó hơn với Đức Kitô và sẽ làm cho họ lớn lên trong sự tôn trọng chính mình và tôn trọng những ai mà họ được kêu gọi phục vụ.
(Trích Tài liệu Khóa thường huấn các nhà đào tạo ứng sinh linh mục tại Việt Nam lần IV, từ ngày 06 - 18/7/2014, với chủ đề: “Thế tục hoá và việc đào tạo linh mục tại Việt Nam”)
[1] Xưa nay, vertu
de religion được dịch là “nhân đức thờ phượng”. Kiểu nói này thật ra không
chính xác lắm. Để có thể diễn tả cách thỏa đáng những điều mà tác giả muốn
trình bày trong bài viết này, vertu de
religion được chúng tôi dịch sát là “nhân đức tôn giáo”.
[2] Tôma trích dẫn Aristote để chứng minh rằng cầu nguyện
là một hoạt động có lý tính “đối với các thực tại cao nhất, lý trí đưa con người
lên tới đó chính khi cầu nguyện”. Ad
optima deprecatur ratio. I Éthique
13, được lấy lại trong Tổng luận Thần học,
IIaIIae, 83,1. Trong bản văn của Aristote, khi cầu
nguyện, lý trí không ngỏ với Thiên Chúa, nhưng với con người: lý trí không ép
buộc con người sống đức độ, nhưng như thể nó can thiệp để họ sống như thế. Tuy
nhiên, điều mà ta có thể hiểu được từ bản văn này đó là thái độ cầu nguyện, khẩn
nài, một trong những hành vi chính yếu của đức thờ phượng, tức là việc lý trí ý
thức được những giới hạn và trách nhiệm của nó (ibid. article 10). Tuy nhiên, con người, do mải mê với công việc,
luôn bị cám dỗ nói: “phụng thờ Thiên Chúa là chuyện tầm phào” (Ma-la-ki 2,13,
trích dẫn trong Tổng luận Thần học, IIaIIae,
83,2).
[3] “Mê tín là một tật xấu nghịch lại với nhân đức tôn
giáo. Nó tương ứng với sự thái quá: thái quá không phải ở chỗ thực hiện việc thờ
phượng Thiên Chúa quá mức so với việc thờ phượng đúng thực của một tôn giáo,
nhưng là thờ phượng kẻ mà ta không được thờ phượng hoặc bằng cách thế mà ta
không được làm”.
[4] Như thế, việc lượng giá hiện tượng thế tục hóa sẽ cân
bằng nhờ nhân đức tôn giáo, là nhân đức sẽ cho giúp ta không đi lệch khỏi đỉnh
cao trung dung (không thiên vị bên nào). Cf. Gaudium et spes, 7, §3: “Những hoàn cảnh mới cũng ảnh hưởng tới đời
sống tôn giáo. Một đàng, khả năng phán đoán sâu sắc hơn đã giúp thanh lọc khỏi
đời sống tôn giáo quan niệm ma thuật về thế giới và những điều mê tín vẫn còn
đang lan tràn, điều ấy đòi hỏi càng ngày càng phải sống gắn bó với đức tin nơi
chính bản thân mỗi người cách sinh động hơn; nhờ đó nhiều người đã có được cảm
nghiệm về Thiên Chúa cách sống động hơn. Đàng khác, số người từ bỏ thực hành đời
sống tôn giáo ngày càng đông. Khác với thời xưa, việc chối bỏ hoặc thái độ dửng
dưng đối với Thiên Chúa hay tôn giáo không còn là một hành vi bất thường và có
tính cách cá nhân nữa…”.
[6] Tổng luận Thần
học, IIaIIae, 85, Tôma phân biệt hy lễ bên trong
(sacrifice intérieur), của lễ cuộc đời ta dâng cho Thiên Chúa, là của lễ quan
trọng nhất, là hy lễ bên ngoài theo nghi lễ, với hy lễ luân lý bên ngoài (làm một
việc tốt để bày tỏ lòng biết ơn Thiên Chúa) (ibid., article 4).
[11] Cf. Tổng luận
Thần học, IIaIIae, 22 về ơn kính sợ là đỉnh cao của đức
Cậy Kitô giáo; khoản 101, về ơn sùng hiếu như nhân đức tự nhiên; và khoản 121,
về ơn sùng hiếu như ân huệ Thánh Thần, là đỉnh cao của đức công bình.
[12] Commentaire des
Sentences de Pierre de Lombard, livre 3, distinction 34, question 2,
article 3, question 4.
[13] Ở đây, ta gặp lại hai động thái: kinh sợ khi đứng trước
mysterium tremendum (huyền nhiệm đáng sợ)
và bị hấp dẫn khi đứng trước mysterium
fascinosum (huyền nghiệm hấp dẫn), là hai cấu tố của cảm thức thụ tạo
(“sentiment de créature”), theo R. Otto. Tuy nhiên, theo triết gia và thần học
gia người Đức này, chỉ nhờ cảm tính (sentiment), ta mới có thể chạm đến được đối
tượng huyền nhiệm -nằm ở phía bên kia các phạm trù của trí năng; trong khi đó,
theo Tôma, đối tượng này trước tiên là đối tượng của một suy tư phù hợp với lý
trí (rationnel) được đức tin soi sáng.
[14] “Tâm hồn vững tin nhất, ít bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi vị
Thẩm phán Tối cao nhất thì có thể và phải có tràn đầy “lòng tôn trọng”, “nhân đức
tôn giáo”, “awe” [từ tiếng Anh không có từ tương đương tiếng Pháp]”, Henri
Brémond viết trong cuốn Histoire
littéraire du sentiment religieux, tome 3, p. 37. “Phụng thờ Thiên Chúa như
một người Cha thì tuyệt vời hơn là phụng thờ Người như Đấng Tạo Hóa và Chúa của
chúng ta”, Tổng luận Thần học, IIaIIae,
121,1, ad 2.
[15] Từ thời Đức Gioan-Phaolô II, Huấn Quyền khai triển ý
tưởng theo đó tự do tôn giáo ngày nay là “viên đá thử vàng” đo lường sự tôn trọng
các quyền con người.
[16] Nỗ lực nhằm hiểu cách đúng nhất và sâu sắc nhất có thể
về cái năng hướng “tôn giáo” thầm kín, đạo hạnh nơi con người sẽ giúp ta nghĩ
ra nhưng phương tiện tối ưu để vun đắp nơi bản thân và làm lớn lên nơi những
người khác thái độ nền tảng này; thái độ đó phải thấm nhuần tất cả cuộc sống của
con người và của người Kitô hữu, cuộc sống với Thiên Chúa và với tha nhân. Rõ
ràng là sự tích lũy và việc đơn thuần lặp lại các thực hành cho dẫu xa xưa và
đáng trân trọng sẽ không tất yếu góp phần vào đó. Cần phải phát triển tinh thần
mà các nghi lễ và các truyền thống vận dụng đến (ST IaIIae,
108,1). Đó là “làm cho con người ra khỏi chính mình để họ phục vụ Thiên Chúa”
(ST IIaIIae, 82,4). Tôma lưu ý đến tầm quan trọng của việc
không ngừng chú ý đến Mầu nhiệm Thiên Chúa, được nuôi dưỡng bằng việc chiêm ngắm
“tính người” của Đức Kitô, đến việc thấm nhuần sự tốt lành của Thiên Chúa và những
yếu kém của con người, để ta sống trong tâm tình tạ ơn mà không tự mãn và như
thế luôn ý thức về những lý lẽ khiến ta phục vụ Thiên Chúa (ST IIaIIae,
82,3).