NGƯỜI TRẺ SỐNG ĐIỀU KỲ DIỆU CỦA PHÁI TÍNH
LÀ NAM, LÀ NỮ NHẬN ĐỊNH LÝ THUYẾT VỀ GIỚI (Gender Theory)
BS Trần Như Ý Lan, Dòng Đức Bà
1. Thân xác con người: một tặng phẩm của Thiên
Chúa Tình Yêu
Kinh Thánh là câu
chuyện tình yêu mà Thiên Chúa, Đấng Tạo Thành muốn gửi đến cho mọi người và từng
người, và riêng cho bạn, thụ tạo cao quý của Ngài. Thiên Chúa đã làm cho mầu
nhiệm của Ngài trở nên hữu hình khi tạo dựng con người là nam, là nữ, theo
“hình ảnh và họa ảnh” của Thiên Chúa (x. St 1, 27). Trách nhiệm của con người
phải phản chiếu được dung mạo Thiên Chúa, Thiên Chúa Ba Ngôi với sự hiệp thông
sâu thẳm khôn dò giữa các Ngôi vị.[1]
Trong nhiều dịp
khác nhau, Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II diễn giải trình thuật tạo dựng rằng
ngay từ thuở ban đầu, Ađam, người nam, đã tìm được chỉ mình Eva, người nữ, là đối
tác có thể lấp đầy nỗi cô đơn trong ông, bổ túc hỗ tương trong chính bản thể
ông. Theo Đức Gioan Phaolô II, thân xác có “ý nghĩa hôn phối”, nghĩa là thân
xác được tạo dựng để sống tương giao tình yêu. Đó chính là ơn gọi của người
nam, người nữ trở nên món quà tình yêu cho nhau, món quà được trao ban trọn vẹn
trong sự kết hợp nên “một xương, một thịt” trong hôn nhân. Tặng phẩm tình yêu
này cũng là nguồn lực sung mãn cho con người.[2] Tính luân
lý của tính dục là đặt nền trên tình yêu đích thực giữa người nam và người nữ,
và mở ngỏ cho sự hiệp thông ngôi vị.
Giáo hội luôn
trân trọng thân xác bạn, và đó cũng chính là con người bạn, vì con người là hồn
và xác, một tổng thể duy nhất. Thân xác ấy với trọn vẹn giới tính, cảm xúc,
xung lực, và ngay cả khi khiếm khuyết vẫn là tặng phẩm tuyệt vời của Thiên
Chúa! Khi chúng ta sống trọn vẹn với bản tính nam, nữ ấy chúng ta sẽ tạo lập được
mối tương quan tốt đẹp với con người và với Thiên Chúa. Chính lúc đó chúng ta
đã trọn vẹn được phẩm tính nhân vị của mình. Đây chính là điều kỳ diệu của phái
tính mang lại. Mặt khác, phái tính cũng có thể dẫn đến bi kịch, khi con người
không sống đúng với trật tự khác biệt phái tính của mình. Khi đó, con người sẽ
làm xáo trộn mối tương quan nhân vị tốt đẹp, xa rời Thiên Chúa, đánh mất tha
nhân, và cả chính mình nữa.[3]
2. Lý thuyết về Giới[4]
Thông thường, người
ta phân biệt: Sex (tiếng pháp: sexe): nghĩa đầu tiên, để nói về tình dục.
Nghĩa thứ hai, sex – giới tính, nhận biết dựa vào cấu trúc thể lý, các cơ quan
sinh sản (reproductive organs) trên cơ thể người đó khi họ được sinh ra.
Đó là cách phổ biến
để chúng ta chia xã hội thành hai nhóm, nam giới và nữ giới; mặc dù có trường hợp
bệnh lý, những người lưỡng tính (intersex) được sinh ra với cơ thể mang cơ quan
sinh sản của cả nam và nữ.
Gender Một mặt, gender/genre “giống” (đực hay
cái) chỉ là một quy ước của ngôn ngữ. Chẳng hạn trong tiếng Pháp, danh từ la cuisine = cái nhà bếp là giống cái,
còn danh từ le car = cái xe là giống
đực.
Ngày nay, khái niệm
Gender – Giới vượt ra ngoài ý nghĩa
chỉ các cơ quan sinh sản. Gender bao gồm cả nhận thức, hiểu biết và kinh nghiệm
của bản thân một người và vai trò của mình trong xã hội. Giới – Gender là cảm
giác bên trong của một người về mình là ai và cách người ấy muốn tương tác với
thế giới. Giới (gender) của một người linh hoạt hơn giới tính sinh học (sex) dựa
trên cách họ nhận diện bản thân họ. Nếu bản sắc về giới (gender) của ai đó phù
hợp với giới tính sinh học (sex) của họ, gọi là cisgender –Tạm dịch là đồng nhất
giới và giới tính. Tiền tố (tiếp đầu
ngữ, prefix) cis- có nghĩa là cùng một phía.
Lý thuyết về Giới
xuất hiện tại Hoa Kỳ trong thập niên 70 thế kỷ trước, dưới ảnh hưởng của các
nhà tư tưởng Pháp như Michel Foucault và Jacques Derrida. Thuyết này phủ nhận sự
khác biệt giới tính tự nhiên giữa nam và nữ dựa vào sự khác biệt sinh học, và
cho rằng sự khác biệt nam nữ chỉ là kết quả của văn hoá, nó là một cấu trúc xã
hội. Nam giới và nữ giới chỉ là những vai trò (rôles) xã hội – văn hoá khác nhau mà xã hội tùy nghi đề ra (rồi được
đưa vào trong ngôn ngữ), và do đó có thể thay đổi. Thiên nhiên (hay tự nhiên)
không liên quan gì tới đây cả. Thuyết này bác bỏ hấp lực tự nhiên giữa người
nam và người nữ.
Dù thế nào, những
người chủ trương thuyết mới lạ này không thể chối bỏ tận căn tính giới tính
sinh học; họ phải nhìn nhận về mặt di truyền học, người nam và người nữ có nhiễm
sắc thể giới tính khác nhau (nữ XX và nam XY), cấu trúc cơ thể khác nhau, nội
tiết tố khác nhau. Theo thuyết về giới, sự khác biệt này không có vai trò nào
trong việc hình thành “căn tính giới tính” (sexual
identity) của mỗi người. Làm người nam hay làm người nữ tuỳ thuộc vào một
chọn lựa chủ quan của từng cá nhân. Một người nhìn căn tính giới tính của mình
thế nào, xu hướng tính dục (sexual
orientation) của mình như thế nào – ví dụ đồng tính luyến ái (homosexuals),
khác phái tính luyến ái (heterosexuals) hay luyến ái cả hai phái (bisexuals) –
thì là thế ấy. Không có quy chiếu khách quan nào làm chuẩn cả.
Lý thuyết về Giới
hiện nay, khi nói về con người, người ta đã tiến tới chỗ chỉ còn sử dụng danh từ
“giới” (gender/genre) và loại bỏ mọi quy chiếu về phạm trù giới tính (liên quan
đến sex). Nó coi những khác biệt giữa
nam và nữ chỉ là do văn hoá và xã hội tạo ra mà thôi.
Học thuyết này
thoạt đầu được đưa ra để phục vụ phong trào đấu tranh cho nữ quyền, nhằm chống
lại sự bất bình đẳng nam nữ. Nhân danh việc cấm phân biệt đối xử giữa nam và nữ
giới, người ta đi đến chỗ phủ nhận luôn nền tảng sinh học của giới tính. Trong
lịch sử, sự bất bình đẳng nam nữ phát sinh chủ yếu từ văn hoá, tập tục quốc
gia. Nhưng chắc chắn ở đây văn hoá một phần nào đó cũng đã dựa trên sự khác biệt
sinh học giữa nam và nữ, như sức mạnh thể lý, cơ bắp, giọng nói, cấu trúc cơ thể…
Và nếu thế thì, theo họ, cơ sở cho bất bình đẳng và kỳ thị sẽ vẫn luôn luôn tồn
tại. Chắc hẳn vì thế mà lý thuyết mới về giới chối bỏ luôn cả những sự khác biệt
vốn được coi là tự nhiên đó.
Lý thuyết này
nhìn mối liên hệ giữa nam và nữ như một liên hệ đối kháng: người đàn ông đã
luôn thống trị người đàn bà. Thuyết này phủ nhận tính liên đới, tính bổ sung
cho nhau giữa hai phái tính. Do ảnh hưởng của nó, có nơi nhà cầm quyền đã loại
ra khỏi bộ Luật dân sự cách gọi truyền thống: cha, mẹ và thay vào đó cách gọi kỳ quái là “người cung cấp những
năng lực di truyền học” (pourvoyeur de
forces génétiques), hay cha mẹ 1 và cha mẹ 2. Như Thánh Giáo hoàng Gioan
Phaolô II đã từng nhận định, con người đã đẩy tự do đến tuyệt đối khi rời xa
chân lý. Con người tự cho mình quyền quyết định điều đúng điều sai!
Hậu quả của Lý thuyết về Giới trên cá nhân và xã
hội
Vài điều trên đây
cho thấy Lý thuyết về Giới này không mang tính khoa học mà chỉ là một ý thức hệ,
chủ yếu gắn liền vào những chọn lựa, những chủ trương nào đó nhằm phục vụ những
lợi ích nhóm. Xuất phát từ những chọn lựa ấy, nó phủ nhận những điều khách quan
hiển nhiên về giới tính. Chối bỏ căn tính khách quan nam hay nữ như một thực tại
nội tại của mỗi người, là chối bỏ một nền tảng quan trọng từ đó mỗi người xây dựng
căn tính và nhân cách riêng của mình. Sự chối bỏ đó còn tấn công vào định chế
hôn nhân, gia đình, vào thiên chức làm cha, làm mẹ và sự truyền sinh. Khi một
xã hội phủ nhận sự khác biệt giới tính trong luật lệ của mình, nó mặc nhiên đặt
ngang hàng hôn nhân giữa một người nam và một người nữ (vốn là nền tảng khách
quan của xã hội) với cuộc sống chung giữa hai người đồng tính, đồng thời nó xem
các khuynh hướng tính dục (khuynh hướng đồng tính luyến ái, khác phái tính luyến
ái, hay luyến ái cả hai phái tính) là có giá trị như nhau. Nhưng thật trái nghịch
lẽ tự nhiên khi đặt các khuynh hướng tính dục trên ngang hàng với nhau, vì chỉ
có sự phối hợp nam nữ mới sinh sản con cái, lưu truyền nòi giống!
Ngoài ra Lý thuyết
về Giới này hẳn nhiên ủng hộ việc chuyển đổi giới tính, hôn nhân đồng tính. Lý
thuyết về Giới chủ trương cho rằng bản sắc con người, trong yếu tính, vốn “co
dãn” (plastic): co dãn theo nghĩa ta xác định ta là ai dựa trên các cảm xúc
(feelings) của mình và một ý chí quyết bác bỏ hay làm ngơ các tầm nhìn thông suốt
không những của Mạc Khải mà của cả lý trí tự nhiên nữa[5]. “Nhìn quả
biết cây!” chỉ mới nhìn một xã hội mà có những người thoạt là nam, rồi thoạt lại
là nữ, hay ngược lại, những gia đình có hai người cha hay hai người mẹ… thật hỗn
loạn và cũng không an toàn xã hội!
Đức Giáo hoàng Bênêđictô
XVI nhiều lần nói đến tính độc đoán của
chủ nghĩa tương đối hiện đại. Có điều mâu thuẫn là một mặt người ta xác quyết
không có chân lý nào khách quan phổ quát cho mọi người (tương đối!), mặt khác
là cho rằng chỉ có mình là đúng và tìm cách áp đặt ý kiến của mình cho kẻ khác,
nhất là khi mình nắm quyền hành trong tay!
Căn cứ luật tự
nhiên, con người có lý trí vẫn có thể hành động đúng và tốt, và hoàn thiện
chính mình được. Luật Chúa kiện toàn chứ không mâu thuẫn hay hủy bỏ luật tự
nhiên. Điều bi đát là con người hiện đại nhiều khi phủ nhận ngay cả luật tự
nhiên – Thuyết về Giới là một ví dụ – dường như họ sợ rằng vâng theo tự nhiên,
là nghe theo Tạo Hoá, mình sẽ không còn là chủ của mình nữa. Nhưng chính vì thế
mà thế giới ngày nay như bị mất phương hướng, rơi vào khủng hoảng về ý nghĩa, về
giá trị và về đạo đức. Ngày nay những ý niệm như nhân phẩm, nhân quyền cũng
không còn được đặt trên cơ sở “khách quan” nào vững chắc nữa. Ngày nay, chẳng hạn
Thuyết về Giới, nhân danh nguyên tắc không được kỳ thị, người ta có khuynh hướng
coi lợi ích hay nhu cầu của bất cứ nhóm nào đều là “quyền” cả. Nhưng khi cái gì
cũng là quyền cả, tùy theo cảm xúc con người, thì chẳng có gì là quyền nữa;
khái niệm quyền trở nên trống rỗng, mất giá!
Từ nền tảng của
các loại thuyết như thế này, dường như có một ý muốn chống lại Thiên Chúa và chống
lại Kitô giáo!
3. Tính bổ túc nam nữ cần thiết cho người trẻ trưởng
thành nhân cách[6]
Tại hội luận liên
tôn về tính bổ túc nam nữ tại Vatican trong các ngày 17-19/11/2014, Đức Giáo
Hoàng Phanxicô nói với 350 nhà lãnh đạo liên tôn rằng trẻ em có “quyền được lớn
lên trong một gia đình có cha có mẹ có khả năng tạo nên một môi trường thích
đáng cho đứa trẻ phát triển và trưởng thành về xúc cảm”. “Gia đình là nền tảng
của việc sống chung và là phương thuốc chữa căn bệnh phân mảnh xã hội.”
Đức Phanxicô
trích dẫn chính tông huấn Niềm Vui Tin Mừng của ngài: “Việc đóng góp của hôn
nhân cho xã hội là điều “không thể thiếu”… gia đình “vượt lên trên mọi cảm xúc
và mọi nhu cầu tạm bợ của vợ chồng. Và đó là lý do tại sao tôi biết ơn quý vị
vì hội luận của quý vị đã nhấn mạnh tới các phúc lợi do hôn nhân mang tới cho
con cái, cho chính các cặp vợ chồng và cho xã hội.”
“Trong những ngày
này, khi quý vị khởi sự suy tư về vẻ đẹp của tính bổ túc nam nữ trong hôn nhân,
tôi khẩn khoản xin quý vị đề cao hơn nữa một chân lý khác về hôn nhân: đó là chỉ
có sự cam kết vĩnh viễn đối với tình liên đới, lòng trung thành và tình yêu
sinh hoa trái mới đáp ứng được các khát vọng sâu xa nhất của trái tim con người
mà thôi”.
“Tôi khẩn khoản
xin quý vị đặc biệt nhớ tới người trẻ là những người đại diện cho tương lai ta.
Quý vị hãy cam kết sao cho giới trẻ của ta không nhường bước đối với thứ môi
sinh tạm bợ đầy độc dược, nhưng đúng hơn trở thành những nhà cách mạng dám can
đảm lên đường tìm kiếm tình yêu chân thực và lâu bền, chống lại kiểu mẫu thông
thường”.
Gốc rễ của tính bổ túc: tạo dựng, tính được ban
cho (given-ness) và việc hoàn tất
Trong năm bắt đầu
trách nhiệm kế vị Thánh Phêrô (16/10/1978), Thánh Gioan Phaolô II bắt đầu loạt
bài diễn văn lúc tiếp kiến chung về sự bổ túc nam nữ đã được mạc khải trong
Sáng Thế. Ngài phân tích Thiên Chúa dựng nên người đàn ông và người đàn bà bình
đẳng với nhau như những con người nhân bản và bình đẳng với nhau như những nhân
vị, đây là nguyên tắc đầu tiên của tính bổ túc toàn bộ.
Và nguyên tắc bổ
túc thứ hai là người đàn ông và người đàn bà là hai cách thế làm người theo
cách khác nhau. Và, chiều kích ơn gọi trong tính bổ túc toàn bộ này là một người
đàn ông và một người đàn bà đã được Thiên Chúa mời gọi kết hợp yêu thương trong
hôn nhân.[7]
Nhân quyền căn bản
của đứa trẻ là được dưỡng dục bởi cả cha lẫn mẹ, Đức Giáo hoàng Phanxicô nhận định:
tính bổ túc là một ý niệm phong phú về ý nghĩa liên quan tới các vai trò tự
nhiên, đan kết với nhau và rất cần thiết của vợ và chồng trong việc xây dựng
các gia đình hạnh phúc và lành mạnh. Họ “làm việc với nhau vì lợi ích của toàn
thể; các tài năng của mọi người có thể cùng nhau làm việc vì ích lợi của mỗi
người”. Đối với ngài, tính bổ túc “không là gì khác ngoài việc cân nhắc các hòa
hợp đầy năng động tại tâm điểm của Tạo Dựng”.
Cũng trong hội luận
liên tôn về tính bổ túc nam nữ tại Vatican nói trên, Peter Kreeft, một giáo sư
triết học tại Cao Đẳng Boston, giải thích: “Nam và nữ có tính sinh học. Chúng
đòi một thân xác, chúng đòi các yếu tố di truyền. Đực hay cái có tính vũ trụ học”.
“Mọi xã hội trong lịch sử thế giới đều đã thấy rằng âm và dương, đực và cái,
không phải chỉ con người mới có, hay chỉ con vật mới có. Mọi ngôn ngữ mà tôi biết,
trừ tiếng Anh, đều có danh từ giống đực giống cái. Mặt trời luôn ở giống đực
(chàng), mặt trăng luôn ở giống cái (nàng)”.
Theo Kreeft,
không nên giản lược vẻ đẹp và sự mầu nhiệm của giống đực giống cái trong ngôn
ngữ, “Thiên Chúa, Đấng sáng tạo ra tính dục con người cũng đã sáng tạo ra vũ trụ.
Hai giống (đực và cái) rất thích đáng. Nó là một triết lý hạnh phúc hơn nhiều.
Ta thích ứng với bản nhiên sự vật”.
Jonathan Sacks,
nguyên Giáo Sĩ Trưởng Do Thái Giáo của Vương Quốc Thống Nhất (Anh) và Khối Thịnh
Vượng Chung, cho thấy trong Do Thái Giáo, “ta chỉ là một nửa. Ta phải mở cửa
chào đón một nửa khác nếu ta muốn trở nên toàn bộ”.
Samuel Gregg,
giám đốc nghiên cứu của Viện Acton có trụ sở tại Michigan, nói rằng: Cốt lõi nền
nhân học Kitô giáo, là niềm tin cho rằng điều đã “được ban” cho ta trong trật tự
tự nhiên là một trật tự do Thiên Chúa sáng lập. Đó là nền nhân học dẫn ta tới
việc hiểu được con người nhân bản dựa trên các sự thật khách quan. Con người
nhân bản như những hữu thể “được ban” cho theo nghĩa ta là ai. Bản sắc ta và trọn
bộ vấn đề tính dục đều là những điều đã được ban cho, và ta biết được nó nhờ Mạc
Khải và luật tự nhiên.
Tiến sĩ Gregg nhận
định rằng Lý thuyết về Giới không những tương đối hóa ý nghĩa tính thể lý của
con người và tính bổ túc nam nữ mà còn tương đối hóa cả “tính được ban cho (hồng
phúc)” như là nam hoặc nữ nữa, một “tính hồng phúc bắt nguồn từ chính trật tự tạo
dựng, vốn được phác thảo cách sâu sắc trong Thánh Kinh Do Thái và được chính
Chúa Kitô xác nhận”.
Đức Hồng y
Gerhard Müller, tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin lúc bấy giờ cho rằng điều hết sức
tự nhiên là “mỗi người chúng ta đều cảm thấy thiếu thốn và thiếu sót cần được
hoàn tất. Sự kiện không thể nào xóa nhòa khỏi bản nhiên con người này cho thấy
sự lệ thuộc căn bản của ta: ta không tự hoàn tất được mình bằng chính bản ngã
mình, ta hoàn toàn không tự mình đầy đủ được”.
Tạm kết
Quan điểm Công
Giáo, với nền tảng siêu hình và hữu thể học, mới đưa ra được một tầm nhìn quân
bình giữa bình đẳng và khác biệt giới tính, tính bổ túc cần thiết giữa phái
tính nam và phái tính nữ. Trong thông điệp Deus
Caritas Est (Thiên Chúa Là Tình Yêu), trong việc khai triển cách chi tiết
các khác biệt và sự thống nhất giữa các ngôi vị qua ba hình thức của tình yêu eros, filia và agape, Đức Bênêđictô XVI đã cung cấp thước đo có tính năng động đối
với các lực lượng trên thế giới đang tiếp tục tạo áp lực để các tương quan giới
tính mất thế quân bình của chúng bằng cách hạ giá cả phẩm giá lẫn giá trị nền tảng
hay việc khác biệt có ý nghĩa giữa đàn ông và đàn bà. Người trẻ, sống trọn vẹn
giới tính là nam, là nữ, và ngay cả khi khiếm khuyết sẽ tạo lập được mối tương
quan tốt đẹp với con người và với Thiên Chúa.[8] Giống như
chất men, con người sống với sự bổ túc tính nam và tính nữ, trong các hình thức
đa dạng của nó, có thể xây dựng Nước Trời ngay trên trái đất nên giống như sự
hiệp thông tình yêu giữa Ba Ngôi Thiên Chúa.
Có lẽ các bạn trẻ
phát hiện ra mình đồng tính luyến ái hay muốn chuyển giới sẽ thấy thất vọng, buồn,
nặng trĩu… khi đọc các điều trên. Hẹn nói chuyện với các bạn trong bài viết
khác nhé! Chỉ xin nói trước một điều, các bạn luôn là một thụ tạo đáng yêu,
đáng trân trọng của Thiên Chúa. Ngài luôn luôn yêu bạn, vì Ngài chính là Tình
Yêu. Nhưng bạn có hạnh phúc hay không, điều đó còn tùy thuộc vào chọn lựa của bạn
trong đời sống.
WHĐ (26.8.2020)
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, số 118 (tháng 5 & 6 năm 2020)
[1] Gioan Phaolô II, Thần Học về Thân Xác, Tình Yêu Phàm Nhân trong Kế Hoạch Thần Linh,
Nguyễn Anh Tuấn chuyển ngữ, (Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, 2016), tr. 14-15.
[3] Nguyễn Văn Quý, “Phái Tính Điều Kì Diệu và Bi Kịch” <http://daminhvn.net/suy-tu-nghien-cuu/phai-tinh-dieu-ky-dieu-va-bi-kich-6844.html>
[4] Chủ yếu trích trong Nguyễn Hồng Giáo, “Lý Thuyết Về Giống (Gender Theory) - Một Học Thuyết Kỳ Lạ Về
Giới Tính”, <https://catechesis.net/ly-thuyet-ve-giong-gender-theory-mot-hoc-thuyet-ky-la-ve-gioi-tinh/>
[5] Trích trong Vũ Văn An, “Tổng
kết hội luận liên tôn về tính bổ túc nam nữ”,
<http://www.vietcatholicnews.net/News/Home/Article/131792>(11/21/2014)
[7] Trích trong Vũ Văn An, “Nhân
hội luận liên tôn tại Vatican, tìm hiểu truyền thống Công Giáo về tính bổ túc
nam nữ (2) <http://www.vietcatholicnews.net/News/Home/Article/221119>(18/11/2014)
[8] Vũ Văn An, “Nhân hội luận
liên tôn tại Vatican, tìm hiểu truyền thống Công Giáo về tính bổ túc nam nữ (2) <http://www.vietcatholicnews.net/News/Home/Article/221119> (18/11/2014)