Giê-ru-sa-lem, ngày 19 tháng 10 năm 2020
Linh mục Giu-se Nguyễn Công Đoan, S.J.
WHĐ (22.10.2020)
– Trong Tin Mừng theo thánh Lu-ca, một chi tiết thường kéo sự chú ý của tôi là
nhiều lần nói đến “hôm nay”, “hàng ngày”, hai lần “hôm nay đã”, một lần “hôm nay sẽ”
và một lần “ngay đêm nay”. Trong bài
này, tôi muốn chia sẻ vài suy nghĩ về điểm này, bắt đầu với “ngay đêm nay”.
Ngay đêm nay (Lc
12,16-21)
Dụ ngôn này Chúa
kể nhân khi có người xin Chúa can thiệp để người anh chia gia tài cho mình,
Chúa bảo coi chừng lòng tham lam…
Sau đó Người nói với họ dụ ngôn này: “Có
một nhà phú hộ kia, ruộng nương sinh nhiều hoa lợi, 17mới nghĩ
bụng rằng: ‘Mình phải làm gì đây? Vì còn chỗ đâu mà tích trữ hoa mầu!’ 18Rồi
ông ta tự bảo: ‘Mình sẽ làm thế này: phá những cái kho kia đi, xây những cái lớn
hơn, rồi tích trữ tất cả thóc lúa và của cải mình vào đó. 19Lúc
ấy ta sẽ nhủ lòng : hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều
năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!’ 20Nhưng
Thiên Chúa bảo ông ta: ‘Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng
ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?’ 21 Ấy
kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa,
thì số phận cũng như thế đó.
Trước hết, cần trở
lại bài giảng sau khi Chúa Giê-su lên núi cầu nguyện thâu đêm, rồi
“đến sáng, Người kêu
các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ.”
Đức Giê-su đi xuống cùng với
các ông, Người dừng lại ở một chỗ đất bằng. Tại đó, đông đảo môn đệ của Người,
và đoàn lũ dân chúng từ khắp miền Giu-đê, Giê-ru-sa-lem cũng như
từ miền duyên hải Tia và Xi-đôn 18đến để nghe Người
giảng và để được chữa lành bệnh tật. Những kẻ bị các thần ô uế quấy nhiễu cũng
được chữa lành. 19Tất cả đám đông tìm cách sờ vào Người,
vì có một năng lực tự nơi Người phát ra, chữa lành hết mọi người.
20Đức Giê-su ngước
mắt lên nhìn các môn đệ và nói:
“Phúc cho anh em là những kẻ nghèo
khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em.
21“Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang
phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng.
“Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang
phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười.
22“Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị
người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. 23Ngày
đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở
trên trời thật lớn lao. Bởi lẽ các ngôn sứ cũng đã từng bị cha ông họ đối xử
như thế.
24“Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ
giàu có, vì các ngươi đã được phần an ủi của mình rồi.
25“Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ
đang được no nê, vì các ngươi sẽ phải đói.
“Khốn cho các ngươi, hỡi những kẻ bây giờ
đang được vui cười, vì các ngươi sẽ phải sầu khổ khóc than.
26“Khốn cho các ngươi khi được mọi người ca
tụng, vì các ngôn sứ giả cũng đã từng được cha ông họ đối xử như thế. (Lc
6,16-26).
Nối mối phúc thứ
nhất với mối họa thứ nhất, chúng ta thấy nổi lên một thắc mắc mà sau này người
nghe sẽ nói lên ở chương 18.
Một người thủ
lãnh giàu có đến hỏi: 18 “Thưa
Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”
Chúa Giê-su trả lời:
giữ các điều răn. Ông xác nhận đã giữ các điều răn từ thuở nhỏ, Chúa Giê-su đề
nghị: 22 Nghe vậy, Đức Giê-su bảo
ông: “Ông chỉ còn thiếu có một điều, là hãy bán tất cả những gì ông có mà
phân phát cho người nghèo, và ông sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi
hãy đến theo tôi.”
Phản ứng của ông
ta: 23Nghe vậy, ông ta
buồn lắm, vì ông rất giàu.
Phản ứng của Chúa
Giê-su: Đức Giê-su nhìn ông ta
và nói: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao! 25Quả
vậy, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên
Chúa.”
Phản ứng của người
nghe: 26Những người nghe Đức Giê-su nói
liền hỏi: “Thế thì ai có thể được cứu?
Với dụ ngôn người
phú hộ ngu ngốc này, Chúa Giê-su bắt đầu trả lời nỗi thắc mắc kia bằng cách
phơi bày gốc rễ của vấn đề.
Sự ngu ngốc
Sau khi kể sự thành công và tính toán có vẻ thật
khôn ngoan theo người đời, Chúa Giê-su tung ra cho lời phán xét của Thiên Chúa
như cho “nổ bom”: Nhưng Thiên Chúa bảo
ông ta: “Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì
những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?”
Tại sao Thiên
Chúa lại phán xét ông ta như vậy? Ông ta tính toán như thể ông ta làm chủ cả mạng
sống mình. Cái ngu của ông ta đã được nói đến trong câu mở đầu của hai thánh vịnh 13/14 và 52/53: “Kẻ ngu si tự nhủ[1]:
“Làm chi có Chúa Trời!” Thánh vịnh tiếp tục kể ra lối sống của kẻ ngu si. Ở
đây Chúa Giê-su chỉ sử dụng hai chữ “đồ ngốc” [“ngu si”], vạch cho thấy cái ngu
ở chỗ nào, và hệ quả cái ngu: ngươi tính toán để hưởng thụ nhiều năm, nhưng
ngươi quên điều thiết yếu là mạng sống không thuộc về ngươi: Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng
ngươi [2]. “Người ta” ở đây là cách nói về Thiên
Chúa, Đấng làm chủ mạng sống, có quyền cho mượn và đòi lại bất cứ lúc nào, kể cả
“ngay đêm nay”. Chỉ cần một chút suy
nghĩ là thấy hệ quả: những gì ngươi sắm sẵn
đó sẽ về tay ai? Câu trả lời hiển nhiên: chắc chắn không thuộc về tay
ngươi, ngươi đâu còn sống trên mặt đất này.
Điều này lại gợi
lên thánh vịnh 48/49, mà đọc lên thì
ta thấy như thể Chúa Giê-su đang minh họa thánh vịnh này:
6Ngày vận hạn cớ chi phải sợ, lúc bọn gian
manh theo sát bủa vây tôi?
7Chúng cậy vào của cải, lại vênh vang bởi
lắm bạc tiền.
8Nhưng nào có ai tự chuộc nổi mình và trả
được giá thục hồi cho Thiên Chúa? 9Mạng người dù giá cao mấy nữa,
thì rồi ra cũng chấm dứt đời đời.
10Nào phàm nhân sống mãi được sao mà chẳng
phải đến ngày tận số?
11Kìa thiên hạ thấy người khôn cũng chết, kẻ
ngu đần dại dột cũng tiêu vong,
bỏ lại tài sản mình cho người khác.
Tuy họ lấy tên mình mà đặt cho miền này xứ
nọ,
nhưng ba tấc đất mới thật là nhà, nơi họ ở
muôn đời muôn kiếp.
13Dù sống trong danh vọng, con người cũng
không thể trường tồn ;
thật nó chẳng khác chi con vật một ngày
kia phải chết.
14Phường tự mãn tự kiêu, số phận là thế đó,
bọn ỷ tài khéo nói, hậu vận chính là đây.
15Như đoàn vật nhốt trong âm phủ, chính tử
thần canh giữ chăn nuôi,
chúng nhào thẳng xuống nơi huyệt mả, sẽ
tiêu tan cả đến hình hài,
chốn âm phủ thành nơi cư ngụ.
16Nhưng Chúa Trời sẽ chuộc mạng tôi, gỡ tôi
ra khỏi quyền lực âm phủ.
17Đừng sợ chi khi có kẻ phát tài, hoặc cửa
nhà tăng thêm vẻ phong lưu,
18vì khi chết, nó đâu mang được cả, kiếp
vinh hoa chẳng theo xuống mộ phần.
19Lúc sinh thời, nó tự hào tự đắc: “Mình
làm nên, thiên hạ tán dương mình!”
20Nhưng rồi nó cùng tổ tiên về chung kiếp,
chẳng bao giờ còn được thấy ánh dương!
21Dù sống trong danh vọng, con người cũng
không hiểu biết gì ;
thật nó chẳng khác chi con vật một ngày kia phải chết.
Lời phán xét trong thánh vịnh này còn nặng hơn hai thánh vịnh trước: nó chẳng khác chi con vật một ngày kia phải chết.
Sách Giảng viên (Qohelet) dành phân nửa (6/12
chương) suy niệm về điều này, thật thấm thía; nửa sau (6 chương) tiếp tục suy gẫm
về một số khía cạnh khác trong thân phận con người. Chương cuối cho một lời
khuyên:
1Giữa tuổi thanh xuân, bạn hãy tưởng nhớ Đấng đã dựng nên mình. Đừng chờ đến ngày tai ương ập tới, đừng chờ cho năm tháng qua đi, những năm tháng mà rồi bạn sẽ phải nói: “Tôi chẳng có được một niềm vui nào trong thời gian đó cả!”
Niềm vui thật ở
đâu? Chương thứ hai đã vạch cho thấy mọi thú vui mà người ta gọi là hạnh phúc
trên đời đều không bền. Thánh vịnh
42/43,3-4 cho câu trả lời:
3Xin Ngài thương sai phái ánh sáng và chân lý của Ngài, để soi đường dẫn lối con đi về núi thánh, lên đền Ngài ngự. 4Con sẽ bước tới bàn thờ Thiên Chúa, tới gặp Thiên Chúa, nguồn vui của lòng con. Con gảy đàn dâng câu cảm tạ, lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ.
Kết thúc dụ ngôn,
Chúa Giê-su cũng đã mời gọi suy nghĩ và rút bài học cho mình theo hướng này: 21”Ấy kẻ nào thu tích của cải cho mình, mà
không lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế đó.”
Sự đối lập số phận
tùy ở hai cách làm giàu: “Thu tích của cải
cho mình” và “làm giàu trước mặt
Thiên Chúa”. Ta lại hỏi làm giàu trước mặt Thiên Chúa là gì? Làm thế nào?
Chúa Giê-su nói về Thiên Chúa là Cha trên trời ban sự sống được thì cũng lo cho
mạng sống của chúng ta, gợi lời trong thánh vịnh 103/104:
10Chúa khơi nguồn: suối tuôn thác đổ, giữa núi đồi, lượn khúc quanh co, 11đem nước uống cho loài dã thú, bầy ngựa hoang đang khát được thoả thuê. 12Bên dòng suối, chim trời làm tổ, dưới lá cành cất giọng líu lo. 13Từ cao thẳm, Chúa đổ mưa xuống núi, đất chứa chan phước lộc của Ngài. 14Ngài khiến mọc cỏ xanh nuôi sống đàn gia súc, làm tốt tươi thảo mộc cho người thế hưởng dùng. Từ ruộng đất, họ kiếm ra cơm bánh, 15chế rượu ngon cho phấn khởi lòng người, xức dầu thơm cho gương mặt sáng tươi, nhờ cơm bánh mà no lòng chắc dạ.
Thiên Chúa quảng đại, không chỉ cho lúa mì và gạo cho no lòng chắc dạ, mà còn cho cả rượu làm phấn khởi và dầu thơm làm cho gương mặt sáng tươi.
Vậy thì sự đối chọi giữa tích lũy của cải cho mình và làm giàu trước mặt Thiên Chúa nằm ở vế sau: cho mình và trước mặt Thiên Chúa. Tích lũy của cải mà mình coi là sự giàu có như ông phú hộ ngốc kia, còn làm giàu trước mặt Thiên Chúa là tích lũy những gì Thiên Chúa coi là của cải thật, sự giàu có thật, không bao giờ mất. “Mình” chết thì không đem theo được, còn những gì làm cho mình giàu có trước mặt Thiên Chúa thì sẽ đi theo mình ra trước mặt Thiên Chúa.
Chúa Giê-su sẽ tiếp
tục giải nghĩa ở dụ ngôn người quản lý bất lương: “Nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác,
thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?
13“Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ,
vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể
chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được.”
(Lc 16,12-13)
“Của cải của người
khác”, vì mọi của cải thế gian này luôn chuyển từ tay người này sang tay người
khác, chẳng ai ôm theo được vào cõi chết. Việt Nam cũng có câu: “Của đồng lần thiên hạ tiêu chung” của cải
thế gian từ tay người này sang tay người khác, nên hoặc bị ăn trộm hoặc người
này chết thì người khác sẽ tiêu xài…
Của cải Thiên Chúa dành riêng cho chúng ta là của cải thật ở trên trời, như Chúa Giê-su đã kết luận sau dụ ngôn người phú hộ ngu ngốc:
Phần anh em, đừng tìm xem mình sẽ ăn gì,
uống gì, và đừng bận tâm. 30Vì tất cả những thứ đó, dân ngoại
trên thế gian vẫn tìm kiếm ; nhưng Cha của anh em thừa biết anh em cần những thứ
đó. 31Vậy hãy lo tìm Nước của Người, còn các
thứ kia, Người sẽ thêm cho.
32“Hỡi đoàn chiên nhỏ bé, đừng sợ, vì
Cha anh em đã vui lòng ban Nước của Người cho anh em.
33“Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá. 34Vì kho tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó. (Lc 12,30-34)
Chúa Giê-su trả lời
câu hỏi, người giàu có thể vào Nước Thiên Chúa bằng cách nào? Chuyện thông thường
ở nước ta ngày nay là người giàu, nhất là bằng con đường tắt của tham nhũng,
thường chuyển tiền qua Mỹ, qua Âu Châu để cất và rửa tiền, hoặc gởi con đi học
và mua nhà cho con ở bên Mỹ, mua xe hạng sang cho con xài, có biến thì bay qua
Mỹ là an toàn cả của lẫn người! Cùng lắm thì “hy sinh đời bố, củng cố đời con”.
Ảo tưởng nữa![3] Chúa
Giê-su dạy con đường đầu tư an toàn nhất: biến nó thành kho tàng trên trời
nhờ cỗ máy kỳ diệu là cái bao tử của người nghèo. Và lòng mình cũng hướng về
nơi cất giấu kho tàng, sẵn sàng vào hưởng khi Chúa đến gọi.
Chúa Giê-su sẽ minh họa thêm bằng dụ ngôn người phú hộ và người nghèo La-da-rô (Lc 16,19-30; bằng gương của các môn đệ (18,28-30) và gương của ông Da-kêu (19,1-10).
Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này
Sau khi
vào Giê-ri-khô, Đức Giê-su đi ngang qua thành phố ấy. 2Ở
đó có một người tên là Da-kêu; ông đứng đầu những người thu thuế, và là
người giàu có. 3Ông ta tìm cách để xem cho biết Đức Giê-su là
ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. 4Ông
liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giê-su, vì Người
sắp đi qua đó. 5Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người
nhìn lên và nói với ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải
ở lại nhà ông!” 6Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước
Người. 7Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: “Nhà người tội lỗi
mà ông ấy cũng vào trọ!” 8Ông Da-kêu đứng đó thưa với
Chúa rằng: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo ; và nếu
tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn.” 9Đức Giê-su mới
nói về ông ta rằng: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người
này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. 10Vì Con Người đến
để tìm và cứu những gì đã mất.” (Lc 19,1-10).
Lần đầu Lu-ca nói
đến “hôm nay” là trong lời thiên sứ báo tin cho những người chăn chiên sau khi
Chúa Giê-su sinh ra tại Be-lem (2,8-11):
Trong vùng ấy, có
những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. 9Bỗng
sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh,
khiến họ kinh khiếp hãi hùng. 10Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng
sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn
dân: 11Hôm nay, một
Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em
trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa.
Trên đường lên
Giê-ru-sa-lem để được cất lên trời (Lc
9,51) qua cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh, tới Giê-ri-cô là chặng dừng chân cuối
cùng, ông Da-kêu “tìm cách để xem cho biết
Đức Giê-su là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta
lại lùn. 4Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để
xem Đức Giê-su, vì Người sắp đi qua đó.” Nghe như ông chỉ muốn thỏa
mãn sự tò mò, nhưng ông chẳng nghĩ đến thế giá của một giám đốc sở thuế, không
ngại phô cái thân hình lùn tịt của ông trước đám đông bằng cách le te chạy tới
phía trước, leo lên cây sung bên đường[4]. “5Khi Đức Giê-su tới chỗ
ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” Chúa
thật là quảng đại, cho ông gấp ngàn lần điều ông mong ước. Ông vội chạy lên trước,
leo lên cây, tìm vị trí để thấy Chúa đi ngang. Nhưng chính Chúa đi tìm
ông. Chúa như thấy rõ ông đang tìm Chúa, Chúa nhìn lên và gọi ông, mời ông
xuống mau để gặp Chúa. Sự chuyển động ngược chiều rất có ý nghĩa. Ông leo
lên cao tìm Chúa. Chúa ngước lên nhìn ông và kêu ông xuống mau để lãnh món quà
Chúa đã gói sẵn “dành cho ông Da-kêu”:
“Hôm nay tôi phải ở nhà ông.”
Tại sao lại “phải” ở nhà
ông? Đêm Chúa sinh ra tại Be-lem thì thiên sứ báo tin cho những người chăn
chiên: “11Hôm nay,
một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức
Chúa.”
Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn
chiên để về trời, những người này bảo nhau: “Nào chúng ta sang Bê-lem, để
xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết.” 16Họ liền
hối hả ra đi. (Lc 2,15-16).
Hôm nay được
chính Đấng Cứu Độ gọi ông, ông “6Ông
vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người.” Và ông dâng quà ngay tại
chỗ. Như để đáp lại tiếng xầm xì của đám đông, Đấng Cứu Độ công bố: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này,
bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. 10Vì Con
Người đến để tìm và cứu những gì đã mất.”
Đấng Cứu Độ sinh ra để đi tìm và cứu những gì đã mất chứ không phải để
đi chơi với những kẻ tưởng mình không cần đến Đấng Cứu Độ. Đây là kế hoạch của
Thiên Chúa, nên “hôm nay tôi phải ở
nhà ông”, không phải vì tôi cần chỗ trọ.
Một lần “hôm nay Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho các ngươi trong thành vua Đa-vít”. Từ nay Đấng Cứu Độ đi tìm và cứu chứ không ngồi một chỗ mà chờ. Mỗi người sẵn sàng đón nhận, đều được phúc có “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này”.
Tôi bảo thật anh, hôm nay anh sẽ được
Người đã được
nghe Đấng Cứu Độ long trọng cam kết: “Tôi
bảo thật anh, hôm nay…”
Đó là người chịu
đóng đinh trên thập giá bên cạnh Đấng Cứu Độ. Anh ta nhận ra mình là kẻ có tội,
chịu như thế này là đúng, là đáng; còn Người thì chịu cùng một khổ hình như hai
kẻ gian ác hai bên, nhưng Người chẳng làm gì trái. Anh ta bỗng như được ánh
sáng rọi vào tim, hiểu ra ý nghĩa bản án treo trên thập giá của Người, mở miệng
thưa:
“Ông Giê-su ơi, khi ông
vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!”
Anh được Người
long trọng cam kết:
43Và Người nói với anh ta: “Tôi bảo thật
anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng.”
Quả như Chúa
Giê-su đã hứa: “Anh em cứ xin thì sẽ được,
cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. 10Vì hễ ai xin thì
nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11,9-10). Một
thánh vịnh cũng đã diễn tả niềm xác tín: “Vừa
mở miệng kêu lên cùng Chúa, tấc lưỡi tán dương tôi đã sẵn sàng” (Tv 65/66, 17).
Những người chăn
chiên được nghe: “Hôm nay một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho các
ngươi”. Ông Da-kêu được nghe: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này”. Còn người gian phi
trên thập giá bên cạnh Người được nghe: “Hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”. Đích thân anh sẽ được
hưởng kết quả của ơn cứu độ ngay hôm nay, là ở trên thiên đàng với Đấng
Cứu Độ. Người đến tìm anh bằng cách chung thân phận với anh trên thập giá, để
cho anh chung phần vinh quang với Người trên thiên đàng, như mục tử tốt lành đi
tìm cho kỳ được con chiên bị mất, tìm được thì vui mừng vác lên vai đem về
nhà, mời bạn bè chung niềm vui. (x. Lc 15,4-7)[5]. Chúa
Giê-su và anh đang bị treo trên thập giá chờ tắt thở, nên thực tế của lời hứa
là chắc chắn và NGAY HÔM NAY.
Sẵn sàng
Muốn được nghe “Hôm nay anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với
tôi”, thì chỉ cần hé mở lòng mình bằng một chút ao ước, một chút chờ đợi, một
chút sẵn sàng như ông Da-kêu, như người gian phi trên thập giá bên cạnh Chúa
Giê-su.
Quy luật an toàn
cho các tòa nhà lớn là phải niêm yết “tín hiệu báo động”, cách thức đáp ứng và
sơ đồ di tản. Cụm từ “ngay đêm nay”
trong dụ ngôn “người phú hộ ngu ngốc” chuyển tải một tín hiệu khẩn cấp. Chúa
Giê-su kể tiếp ba dụ ngôn để xác định ý nghĩa của tính khẩn cấp và cho biết
cách ứng xử.
Dụ ngôn người tôi
tớ giữ cửa chờ chủ đi dự tiệc cưới về và dụ ngôn kẻ trộm lồng vào đó (Lc 12,35-40) nói về sự sẵn sàng và phần
thưởng bất ngờ của ông chủ. Người giữ cửa phải thắt lưng cho gọn, cầm đèn sáng
trong tay và tỉnh thức đợi chờ, sẵn sàng để chủ về gõ cửa thì mở ngay, vì một
đàng thì chắc chắn chủ sẽ về nội trong đêm nay, đàng khác, lại không biết giờ
nào chủ về. Dụ ngôn kẻ trộm như xen kẽ vào đó, lại dùng hình ảnh chủ nhà và kẻ
trộm với một giả thiết: nếu ông chủ biết giờ nào kẻ trộm đến thì sẽ không để nó
đào ngạch khoét vách nhà mình. Ngôi nhà của Chúa cũng chính là mỗi người. Sự phối
hợp hai dụ ngôn ngắn mở rộng nội dung sự tỉnh thức: sẵn sàng bằng sự tỉnh thức
để mở cửa bao hàm sự canh chừng kẻ trộm nữa, để ngôi nhà của chủ nguyên vẹn.
Thánh Phê-rô sẽ cho thấy, kẻ trộm luôn rảo quanh tìm cơ hội:
Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì
ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn
xé. 9Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự (1Pr 5,8-9).
Phần thưởng khi
chủ về mà thấy tỉnh thức
Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh
thức, thì thật là phúc cho họ. Thầy bảo thật anh em: Chủ sẽ thắt lưng, đưa họ
vào bàn ăn, và đến bên từng người mà phục vụ. 38Nếu canh hai hoặc
canh ba ông chủ mới về, mà còn thấy họ tỉnh thức như vậy, thì thật là phúc cho
họ. (Lc 12,37-38).
Dụ ngôn kể một
người tôi tớ sẵn sàng để mở cửa, khi kể phần thưởng thì nói đến các tôi tớ ấy,
và phần thưởng thì hoàn toàn vượt khỏi trần gian. Ông chủ đi ăn cưới ban đêm mà
còn về tới cửa là khá lắm rồi, tôi tớ trong nhà gọi nhau ra mà khiêng ông chủ
lên giường thì có… Ông chủ này quả là không thuộc cõi trần. Vậy là phần ứng dụng
thì mở rộng tới hết các tôi tớ và vượt khỏi trần gian, vì áp dụng vào Nước
Thiên Chúa, ông Chủ ở đây là chính Chúa Giê-su. Sách Khải Huyền sẽ mở về hướng đó:
Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai
nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với
người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta. 21Ai thắng,
Ta sẽ cho ngự bên Ta trên ngai của Ta, cũng như Ta đã thắng và ngự
bên Cha Ta trên ngai của Người. (Kh
3,20-21).
Dụ ngôn này dành cho ai?
Ông Phê-rô, người
dân chài ở Biển Hồ, chân chất, thật thà, nghĩ sao nói vậy, nhưng lại đứng đầu
danh sách nhóm Mười Hai. Ông đã mường tượng vai trò của nhóm Mười Hai có gì
khác với các môn đệ khác, ông lên tiếng hỏi:
“Lạy Chúa, Chúa nói dụ ngôn này cho chúng
con hay cho tất cả mọi người?”
Chúa Giê-su không
trả lời trực tiếp nhưng kể thêm một dụ ngôn như để nói riêng với nhóm Mười Hai:
Vậy thì ai là người quản gia trung
tín, khôn ngoan, mà ông chủ sẽ đặt lên coi sóc kẻ ăn người ở, để cấp phát phần
thóc gạo đúng giờ đúng lúc? 43Khi chủ về mà thấy đầy tớ ấy
đang làm như vậy, thì thật là phúc cho anh ta. 44Thầy bảo thật
anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình.
Sách Công Vụ sẽ cho thấy đó là vai trò quản
gia là của nhóm Mười Hai do Chúa lập và nhóm Bảy do các Tông Đồ lập để chia bớt
gánh nặng, do thực tế dạy, một mình nhóm Mười Hai làm không xuể khiến xảy ra
khó khăn trong cộng đoàn. Vì lương thực cho cộng đoàn gồm hai thứ, Lời Chúa và
của ăn phần xác.
“Chúng tôi mà bỏ việc rao giảng Lời
Thiên Chúa để lo việc ăn uống, là điều không phải. 3Vậy,
thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt,
đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ cắt đặt họ làm công việc đó. 4Còn
chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa” (Cv
6,2-4).
Câu kết luận sẽ vạch
ra điểm chung cho mọi tôi tớ, dù nhiệm vụ có khác biệt nhau nhưng Chúa chờ đợi
một điều ở mọi người: thi hành ý muốn của chủ.
“Đầy tớ nào đã biết ý chủ mà không chuẩn
bị sẵn sàng, hoặc không làm theo ý chủ, thì sẽ bị đòn nhiều. 48Còn
kẻ không biết ý chủ mà làm những chuyện đáng phạt, thì sẽ bị đòn ít. Hễ ai đã được
cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều
hơn.
Thánh Phao-lô sẽ
ví Hội Thánh như một thân thể gồm nhiều bộ phận khác nhau, không thay thế, kiêm
nhiệm, bao thầu được. Mỗi vai trò đều là ơn ban của Chúa Thánh Thần:
Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng
chỉ có một Thần Khí. 5Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ
có một Chúa. 6Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một
Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. 7Thần Khí tỏ mình ra
nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. 11Nhưng chính Thần
Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi
cách, tuỳ theo ý của Người.
12Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là
một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều,
nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Ki-tô cũng vậy. 13Thật
thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta
đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất
cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất.
14Thật vậy, thân thể gồm nhiều bộ phận, chứ
không phải chỉ có một mà thôi. 15Giả như chân có nói: “Tôi
không phải là tay, nên tôi không thuộc về thân thể”, thì cũng chẳng vì thế mà
nó không thuộc về thân thể. 16Giả như tai có nói: “Tôi không phải
là mắt, vậy tôi không thuộc về thân thể”, thì cũng chẳng vì thế mà nó không thuộc
về thân thể. 17Giả như toàn thân chỉ là mắt, thì lấy gì mà
nghe? Giả như toàn thân chỉ là tai, thì lấy gì mà ngửi?
27Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Ki-tô,
và mỗi người là một bộ phận. (1Cr 12,5-7.11-17.27).
Mỗi người được ơn
khác nhau, nhưng chung một mục đích là phục vụ toàn thân, chung một đòi hỏi là
thi hành ý muốn của Thiên Chúa. Thiên Chúa không đòi phải theo khẩu hiệu tăng
gia sản xuất: “Làm ngày không đủ, bỏ ngủ làm đêm, làm thêm ngày Chúa Nhật”, vì
Thiên Chúa rất giàu có. Anh quản gia thì cứ lo phân phát đúng giờ, đúng lúc,
đúng phần; anh canh cổng thì cứ cầm đèn ngồi đó chờ, lắng tai nghe để chủ về gõ
cửa là mở ngay.
Đó là bí quyết
làm cho “ngay đêm nay sẽ bị đòi mạng”
thành “ngay hôm nay sẽ được ở trên thiên
đàng với tôi”.
Trang đầu Sách
Thánh bắt đầu tính: “Một buổi chiều và một
buổi sáng, đó là ngày thứ nhất” (St
1,5). Ngày theo Kinh Thánh bắt đầu từ chiều, chuyển vào đêm rồi qua sáng:
đi từ tối qua sáng. Đêm tối thì ta không thấy gì, nên mọi sự xảy ra ban đêm đều
bất ngờ. Đêm Chúa sinh ra thì ánh sáng đã vào thế gian. Đêm Chúa nằm trong cõi
chết thì ánh sáng đã tiêu diệt tối tăm để làm cho ngày bừng lên rực rỡ huy
hoàng.
Ngay đêm nay chuyện bất ngờ có thể xảy ra làm cho người phú hộ
ngu ngốc phải ngơ ngác vì “bừng con mắt dậy
thấy mình tay không”. Chúa Giê-su dạy bí quyết làm cho cái bất ngờ đáng sợ
kia trở thành điều ta trông đợi như rạng đông của ngày vĩnh cửu trong Nước
Thiên Chúa: 1/ chuyển của cải trần gian
lên kho tàng trên trời, nhờ cỗ máy kỳ diệu không cần điện, không cần các thứ
công ty kỹ thuật truyền thông, đâu đâu cũng có đặt sẵn: ngay bên cạnh, ngay đầu
ngõ, ngay cổng chợ nhà quê, ngay vỉa hè trước cửa nhà thành phố… hoạt động 24
giờ một ngày, 365/366 ngày một năm, và 2/ cầm
đèn sáng trong tay tỉnh thức đợi chờ; lúc nào cũng thi hành đúng ý muốn của
Thiên Chúa.
[2] Bản văn Hy lạp có một sự “chơi chữ”, không thể diễn dịch:
dùng ba lần cùng một từ “psyche”
[tương ứng với từ nephes trong tiếng
Híp-ri] trong câu 19-20, mà tiếng Việt phải diễn bằng ba từ khác nhau “Lúc ấy ta sẽ nhủ lòng: ‘Hồn ta hỡi,
mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui
chơi cho đã!’ 20Nhưng Thiên Chúa bảo ông ta: ‘Đồ ngốc! Nội đêm nay,
người ta sẽ đòi lại mạng ngươi.’”
[3] Cần biết lịch sử và biết đọc lịch sử. Chưa kể những đế quốc
thời xa xưa: Hy-lạp, Rô-ma… xa vời. Các đế quốc đến từ phương Bắc, phương Tây
hay từ bên kia Thái Bình Dương từng xâm lược nước ta đều đã thất bại, tan rã.
Các đế quốc như Bồ Đào Nha tự hãnh diện là “mặt
trời không bao giờ lặn trên nước Bồ Đào Nha”, vì bao trùm từ “Mỹ la-tinh”,
vòng qua Phi Châu và tới Đông Timor. Nay còn lại gì? Nhỏ và nghèo nhất ở nam
châu Âu ; đế quốc Anh, Tây Ban Nha, Bỉ nay còn lại gì? Ta vẫn tự hào đánh bại đế
quốc Mỹ, lại nghĩ rằng sau ta không có ai khác cũng sẽ đánh bại được nó. Còn đế
quốc Mỹ là một “hợp chủng quốc”, sức mạnh của nó ở đó và tử huyệt của nó cũng ở
đó. Ngày nay sự kỳ thị chủng tộc bừng dạy bằng bạo lực, do chính những người
lãnh đạo sử dụng làm công cụ giành quyền lực, quyền lợi đảng phái. Mời đọc lại sách Đa-ni-en chương 2, pho tượng trong giấc
mơ của Na-bu-co-đo-no-xo và lời giải thích của Đa-ni-en sẽ thấy.
[4] Ngày nay giữa thành phố Giê-ri-cô còn một cây sung cổ thụ
được bảo vệ kỹ. Nó cũng mấy trăm tuổi, vẫn ra trái, nhưng trái chỉ to bằng đầu
ngón tay thôi. Khách hành hương tới đây thích đứng gần hàng rào chụp hình kỷ niệm.
[5] Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã nhấn mạnh về một Hội Thánh “đi ra”, “đi đến vùng biên cương”