LINH ĐẠO CHO GIÁO DÂN
Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Hội Thừa Sai Việt Nam
I. QUA LINH ĐẠO KITÔ GIÁO XÂY DỰNG
MỘT NỀN LINH ĐẠO CHO
GIÁO DÂN
1. Linh đạo Kitô giáo
Linh đạo Kitô giáo là sự diễn tả kinh nghiệm của một con người về Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô trong Chúa Thánh Thần, trong một lối sống, cầu nguyện và làm tông đồ riêng. Nó là con đường theo Đức Giêsu Kitô với những hình thức từ bỏ riêng. Vì thế Linh đạo Kitô giáo chứa đựng nhiều yếu tố: Kinh nghiệm đặc biệt về Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô, một lối cầu nguyện và làm tông đồ theo cách thức riêng, luôn vâng phục Chúa Thánh Thần, từ bỏ và khổ hạnh, được trình bày theo tư cách một môn đệ, hợp với tính khí, cá tính và khát vọng thiêng liêng của họ. Tất cả những điều này dẫn đưa đến sự trưởng thành và thánh thiện của Kitô giáo. Đây là điều mà công đồng Vatican II nói về Linh đạo Kitô giáo: “Mỗi người không được do dự đáp lại ân huệ và bổn phận với một đức tin sống động, nó sẽ làm phát sinh niềm hy vọng và việc làm qua bác ái” [Hiến chế Tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium (LG), số 41].Vì thế linh đạo của Kitô giáo không gì khác hơn là đời sống của một Kitô hữu đã kinh qua và đã sống trong một lối sống riêng. Theo nghĩa này, người ta có thể nói về nhiều linh đạo khác nhau của Kitô giáo, nhấn mạnh đến những khía cạnh con người của Đức Giêsu Kitô và mầu nhiệm của Thiên Chúa.[1]
2. Xây dựng một nền linh đạo cho
giáo dân
Qua Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân [Apostolicam
Actuositatem] chúng ta thấy đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một Công đồng
chung đã quan tâm đặc biệt tới vấn đề tông đồ của giáo dân, cũng như đã dành
nhiều nỗ lực cho sự xác định lại sứ mệnh của giáo dân trong Giáo Hội và trong
thế giới.
Nhưng điều đó không có nghĩa là Giáo Hội
chưa bao giờ ý thức sự hiện diện mật thiết của giáo dân trong Giáo Hội. Bởi,
Giáo Hội được thiết lập vì các tín hữu là con cái mình; và ngay từ ban đầu thời
Giáo Hội sơ khai, giáo dân không những là đối tượng cho hoạt động của các Tông
Đồ, mà còn là những cộng tác viên đắc lực của các ngài. Và như phần mở đầu của
sắc lệnh có nhắc đến, những hoạt động Tông đồ Giáo dân xuất hiện tự nhiên từ
giai đoạn đầu của Giáo Hội và đem lại những kết quả phong phú. Rồi qua dòng lịch
sử, chúng ta thấy có nhiều tu hội và hiệp hội tông đồ phát sinh do cảm hứng của
giáo dân hay do họ điều khiển.
Tuy nhiên phải công nhận rằng cho tới
Vatican II [1965] địa vị của người giáo dân vẫn chỉ được xem như một ngoại lệ
do ân sủng đặc biệt hay riêng tư nào đó; và như vậy sự có mặt của họ chưa bao
giờ được nhìn nhận như một phạm trù riêng biệt. Hơn nữa, với ý niệm hầu như
hoàn toàn tiêu cực, hình như Giáo luật đã không quan tâm tới việc đề cao và
công nhận giá trị của người giáo dân.
Đàng khác, tình trạng của giáo dân luôn lệ
thuộc vào hàng giáo phẩm và giáo sĩ. Chúng ta có thể nói rằng quan niệm thế quyền
từ nhiều thế kỷ về dây liên lạc giữa chính quyền với công dân được đưa áp dụng
vào trong Giáo Hội khi quyết định mối tương quan giữa giáo sĩ và giáo dân. Lại
nữa trong số các hình ảnh dùng diễn tả bản tính Giáo Hội, hình như người ta vẫn
còn giữ lại hình ảnh có chiều hướng Trung Cổ: mục tử và đoàn chiên. Quyền bính
và trách nhiệm hướng dẫn là việc của mục tử; đoàn chiên giáo dân chỉ việc vâng
theo những chỉ dẫn của chủ chăn.
Công đồng Vatican II đã nỗ lực xét lại toàn
bộ quan niệm tổng quát về sự liên lạc giữa Giáo Hội và các tín hữu. Và Công đồng
xác nhận rằng người giáo dân phải được đánh giá như cộng tác viên đích thực
trong sứ mệnh duy nhất của Giáo Hội là cứu độ mọi người.
Người giáo dân sống trong thế giới và những
thực tại trần thế, nên ơn gọi của họ là thánh hóa những gì là trần tục. Chính
ơn gọi này với hoàn cảnh riêng biệt của mỗi người sẽ định hướng cho đời sống
giáo dân của họ, bởi thế, đời sống đạo đức cá nhân của người giáo dân sẽ nhận
được cảm hứng từ đời sống hoạt động của họ giữa người khác và giữa cuộc đời;
như vậy, do những yếu tố của những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống, của đời vợ
chồng, gia đình, nghề nghiệp, và xã hội, họ sẽ tạo cho mình một khoa tu đức hữu
hiệu cho bậc sống của mình.[2]
II. ƠN GỌI VÀ NHIỆM VỤ CỦA GIÁO DÂN
1. Ơn gọi của giáo dân
Danh hiệu giáo dân ở đây được hiểu là tất cả
những Kitô hữu không thuộc hàng giáo sĩ và bậc tu trì được Giáo Hội công nhận;
nghĩa là những Kitô hữu đã được tháp nhập vào Thân Thể Chúa Kitô nhờ Phép Rửa Tội
đã trở nên Dân Thiên Chúa, và tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và vương giả của
Chúa Kitô theo cách thức của họ; họ là những người đang thực hiện sứ mệnh của tất
cả các Kitô hữu trong Giáo Hội và trên trần gian theo phận vụ riêng của mình
[LG 31].
Tính cách trần thế là tính cách riêng biệt
và đặc thù của giáo dân. Thực vậy các phần tử trong hàng giáo sĩ dù đôi khi có
thể lo những việc trần thế, hoặc hơn nữa, hành nghề giữa đời, nhưng vì ơn kêu gọi
đặc biệt, sứ mệnh chính yếu rõ rệt của họ vẫn là tác vụ thánh. Phần tu sĩ, do bậc
sống của họ, làm chứng cách hùng hồn và cao quí rằng người ta không thể cải tạo
thế giới và cung hiến nó cho Thiên Chúa được, nếu không có tinh thần các mối
phúc thật. Vì ơn gọi riêng, giáo dân có bổn phận tìm kiếm Nước thiên Chúa bằng
cách làm các việc trần thế và sắp xếp chúng theo ý Thiên Chúa. Họ sống giữa trần
gian, nghĩa là giữa tất cả cũng như từng công việc và bổn phận của trần thế, giữa
những cảnh sống thường ngày trong gia đình và ngoài xã hội; tất cả những điều
đó như dệt thành cuộc sống của họ. Đó là nơi Thiên Chúa gọi họ, để dưới sự hướng
dẫn của tinh thần Phúc Âm, như men, họ thánh hóa thế giới bằng việc thi hành những
nhiệm vụ gia đình; và như thế, với lòng tin cậy mến sáng ngời, và nhất là bằng
đời sống, họ tỏ lộ Chúa Kitô cho người khác, vì thế, họ có nhiệm vụ đặc biệt
soi sáng và sắp đặt những thực tại trần thế có liên hệ mật thiết với họ, để
chúng không ngừng phát triển và bành trướng theo thánh ý Chúa Kitô, hầu ca tụng
Đấng Tạo Hóa và Đấng Cứu Độ [LG 31] và giáo dân cũng được đặc biệt kêu mời làm
cho Giáo Hội hiện diện và hoạt động nơi và trong những hoàn cảnh mà nếu không
có họ, Giáo Hội sẽ không trở thành muối của thế gian. Như thế, vì những ân huệ
đã lãnh nhận, mọi giáo dân vừa là chứng nhân vừa là dụng cụ sống động cho chính
sứ mệnh Giáo Hội, “tùy theo độ ân sủng Chúa Kitô ban cho” [Eph 4,7] [LG 33].
2. Giáo dân phải ý thức nhiệm vụ
cao cả của mình đối với Thiên Chúa và Giáo hội
Nhiệm vụ cao cả của mọi giáo dân là làm cho
ý định cứu độ của Thiên Chúa ngày càng lan tỏa tới tất cả mọi người ở mọi nơi
và mọi thời đại. Vì thế, khắp nơi phải mở đường cho họ tích cực tham gia vào
công cuộc cứu độ của Giáo Hội, tùy sức họ và tùy nhu cầu của thời đại [LG 33].
Quả vậy, càng ngày dân số càng gia tăng, khoa học và kỹ thuật càng tiến triển,
những mối tương quan mật thiết hơn giữa con người không những mở rộng môi trường
hoạt động Tông đồ Giáo dân đến vô tận, môi trường mà phần lớn chỉ dành riêng
cho họ, mà còn tạo nên nhiều vấn đề mới đòi họ phải quan tâm học hỏi. Việc tông
đồ này lại càng trở nên khẩn trương hơn, vì sự biệt lập trên nhiều phương diện
của cuộc sống con người như thường thấy, càng gia tăng, đôi khi gây nên một sự
tách biệt với trật tự luân lý và tôn giáo, cũng như tạo ra một sự nguy hiểm trầm
trọng cho đời sống Kitô giáo. Hơn nữa, trong những miền thiếu linh mục hay khi
các ngài không được tự do thi hành chức vụ, thì Giáo Hội không thể hiện diện và
hoạt động hữu hiệu nếu không nhờ giáo dân cộng tác. Dấu hiệu cho thấy nhu cầu
muôn mặt và khẩn trương ấy chính là hoạt động tỏ tường của Chúa Thánh Thần đang
làm cho giáo dân ngày hôm nay mỗi ngày một ý thức hơn phần trách nhiệm riêng của
mình và thúc bách giáo dân mọi nơi phục vụ Chúa Kitô và Giáo Hội [Sắc lệnh về
Tông đồ Giáo dân, Apostolicam Actuositatem (AA), số 1].
3. Bổn phận của giáo dân đối với thực
tại trần thế
Công đồng khuyến khích các Kitô hữu, công
dân của cả hai đô thị [trần thế và Nước trời], hãy nỗ lực và trung thành chu
toàn những bổn phận trần thế của họ dưới sự hướng dẫn của tinh thần Phúc Âm. Thực
sai lầm khi nghĩ rằng chúng ta không có một quê hương trường tồn ở trần thế và
phải kiếm tìm một quê hương mai hậu, nên tưởng rằng mình có thể xao lãng các bổn
phận trần gian. Nghĩ như thế là không thấy một cách chính xác rằng đức tin buộc
người tín hữu phải chu toàn các bổn phận trần gian này mỗi ngày mỗi hoàn hảo
hơn và mỗi người tùy theo ơn gọi của mình. Ngược lại, cũng sai lầm không kém
khi nghĩ rằng người tín hữu có thể dấn thân trọn vẹn vào các sinh hoạt trần thế
như thể các sinh hoạt này chẳng dính dáng gì tới đời sống đức tin, vì cho rằng
đời sống đức tin chỉ gói gọn trong những hành vi phụng tự và một số bổn phận
luân lý phải chu toàn. Việc tách biệt giữa đức tin và cuộc sống thường ngày như
có thể thấy nơi không ít người tín hữu hiện nay là một trong số những sai lầm
trầm trọng nhất của thời đại chúng ta. Và gương mù này, ngay trong Cựu Ước, các
Tiên Tri đã mạnh mẽ tố cáo và trong Tân Ước chính Đức Giêsu Kitô còn ngăm đe
nhiều hơn nữa bằng những hình phạt nặng nề. Vậy, không được tạo ra những đối
nghịch giả tạo giữa sinh hoạt nghề nghiệp và xã hội với đời sống tôn giáo. Đối
với Kitô hữu, xao lãng bổn phận trần thế tức là xao lãng bổn phận đối với tha
nhân và hơn nữa đối với chính Thiên Chúa, khiến phần rỗi đời đời của họ bị đe dọa.
Những phận vụ và sinh hoạt trần thế thuộc
lãnh vực riêng của giáo dân và tốt hơn là chính họ, được đức khôn ngoan Kitô
giáo soi dẫn và cẩn thận chú ý các giáo huấn của Giáo Hội, hãy nhận lấy trách
nhiệm của mình...Người giáo dân có những phận vụ tích cực phải chu toàn trong
toàn thể đời sống Giáo Hội. Không những họ phải đem tinh thần Kitô giáo thấm
nhuần thế giới nhưng còn được kêu gọi làm chứng cho Chúa Kitô trong mọi hoàn cảnh,
ngay giữa lòng cộng đồng nhân loại [Hiến chế về Giáo Hội trong thế giới ngày
nay, Gaudium et Spes (GS), số 43].
III. NỀN TẢNG ƠN GỌI CỦA GIÁO DÂN
Giáo dân là người đã lãnh nhận bí tích Rửa
Tội, trở thành Dân Thiên Chúa, và được tham dự vào chức vụ tư tế, ngôn sứ và
vương giả của Chúa Kitô theo cách thức của họ [LG 31].
1. Tham dự vào chức vụ tư tế của Đức
Kitô
Chúa Giêsu Kitô, vị Thượng tế vĩnh cửu, vì
cũng muốn giáo dân tiếp tục công việc chứng tá và phục vụ của mình, nên đã nhờ
Thánh Thần ban cho họ sự sống, và không ngừng thôi thúc họ thực hành những điều
thiện hảo.
Thực vậy, những kẻ mà Người đã cho tham dự
mật thiết vào sự sống và sứ mệnh Người, Người cũng cho họ dự phần vào chức vụ
tư tế, để họ thực hành việc phụng tự thiêng liêng hầu tôn vinh Thiên Chúa và cứu
rỗi loài người. Bởi thế, giáo dân, vì đã được thánh hiến cho Chúa Kitô và được
Thánh Thần xức dầu, nên cũng được mời gọi và được Thánh Thần ban ơn cách lạ
lùng để sinh hoa kết trái ngày càng phong phú hơn. Thực vậy mọi hoạt động, kinh
nguyện và công việc tông đồ, đời sống hôn nhân và gia đình, công ăn việc làm
thường ngày, việc nghỉ ngơi thể xác và tinh thần, đến cả những thử thách của cuộc
sống, khi được chu toàn trong Thánh Thần, và được kiên trì đón nhận, tất cả đều
sẽ trở nên hiến lễ thiêng liêng đẹp lòng Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô [1P
2,5], được thành kính dâng lên Chúa Cha cùng với Mình Thánh Chúa khi cử hành
phép Thánh Thể.
Như thế, giáo dân thánh hiến thế giới này
cho Thiên Chúa nhờ biết phụng thờ Ngài khắp nơi bằng hành động thánh thiện [LG
34]. Nếu không có nhận thức đúng đắn về chức tư tế phổ quát, người giáo dân khó
có thể đào sâu linh đạo đặc thù của mình. Chúng ta nêu tính cách này ra không
phải vì nó là độc quyền của linh đạo giáo dân nhưng bởi vì nó thường bị lãng
quên hoặc thường không được ta quan tâm. Với tư cách là người tham dự vào chức
tư tế của Đức Kitô qua bí tích Thánh Tẩy, trong đời sống thường ngày của mình,
người giáo dân cần phải lưu tâm đến vai trò trung gian đặc biệt của mình, chuyển
cầu tế lễ [bàn giấy của ta là bàn thờ], đền tội, ngợi khen, nâng đỡ, giao hòa,
bằng cách hiệp nhất với hàng giáo sĩ và với toàn thể Giáo Hội.[3]
2. Tham dự vào chức vụ ngôn sứ của
Đức Kitô
Chúa Kitô, vị ngôn sứ cao cả, Đấng đã dùng
chứng tá đời sống và sức mạnh của lời nói để công bố vương quốc của Chúa Cha;
Người chu toàn sứ vụ tiên tri, cho đến lúc vinh hiển Người được biểu lộ trọn vẹn;
Người chu toàn chức vụ đó không những nhờ hàng giáo phẩm, là những người nhân
danh và lấy quyền Người mà giảng dạy nhưng cũng nhờ giáo dân; sở dĩ Người đã đặt
họ làm chứng nhân, đồng thời ban cho họ cảm thức đức tin và ơn dùng ngôn từ nữa
[Cv 2, 17-18; Kh 19,10] là để sức mạnh Phúc Âm sáng ngời trong đời sống thường
ngày, trong gia đình và ngoài xã hội. Nếu giáo dân vững lòng tin cậy mà lợi dụng
thời gian hiện tại [Eph 5,16; Col 4,5] và kiên trì trông đợi vinh quang một
ngày kia sẽ đến [Rm 8,25], họ sẽ tỏ ra là con cái của lời hứa; nhưng niềm hy vọng
đó, họ không nên giấu kín, trái lại họ phải biểu lộ qua cuộc sống trần thế, bằng
cách hoán cải không ngừng và chiến đấu chống lại “bá chủ của thế gian tăm tối
và tà thần” [Eph 6,12].
Như những bí tích của luật mới, là của ăn
nuôi dưỡng đời sống và hoạt động tông đồ của tín hữu, tiên báo trời mới đất mới
thế nào [Kh 21,1] thì giáo dân cũng mạnh mẽ loan báo lòng tin vào điều mình
trông đợi như thế [Dth 11,1], nếu họ không ngần ngại nối kết đời sống đức tin với
việc tuyên xưng đức tin làm một. Công cuộc rao giảng Phúc Âm đó, nghĩa là sự
loan báo Chúa Kitô bằng đời sống, chứng tá và lời nói, mang một sắc thái và hiệu
quả đặc biệt vì được thể hiện trong những hoàn cảnh chung của trần thế [LG 35].
3. Tham dự vào chức vụ vương giả của
Đức Kitô
Chúa Kitô đã vâng lời cho đến chết, và vì
thế Người được Chúa Cha tôn vinh [Ph 2,8-9], và đã vào trong vinh quang nước
Người. Mọi vật đều qui phục Người, cho đến khi Người cùng mọi tạo vật suy phục
Chúa Cha, để Thiên Chúa nên tất cả trong mọi người [1Cr 15,27-28]. Người cũng
thông ban cho các môn đệ quyền bính đó để họ được hưởng sự tự do vương giả, và
chiến thắng ách thống trị của tội lỗi nơi họ, bằng đời sống từ bỏ và thánh thiện
[Rm 6,12], hơn nữa để, khi phụng sự Chúa Kitô nơi tha nhân, họ khiêm nhường và
kiên nhẫn dẫn đưa anh em mình đến Đức Vua, Đấng mà phụng sự Người là thống trị.
Thực thế, Chúa cũng muốn nhờ cả giáo dân để mở rộng nước Người, nước của chân
lý và sự sống, của ân sủng và thánh thiện, của công lý, tình yêu và hòa bình;
trong nước này, chính tạo vật cũng được giải thoát khỏi thân phận làm nô lệ sự
hư đốn, để được hưởng tự do rạng ngời của con cái Thiên Chúa [Rm 8,21]. Lời
Chúa hứa thật trọng đại và lệnh Người truyền cho các môn đệ thật lớn lao: “Thực
vậy, tất cả mọi sự đều thuộc về anh em, còn anh em thuộc về Chúa Kitô và Chúa
Kitô thuộc về Thiên Chúa” [1Cr 3,23] [LG 36].
IV. CON ĐƯỜNG NÊN THÁNH CỦA GIÁO
DÂN TRONG THỰC TẠI TRẦN THẾ
1. Sống mật thiết với Chúa Kitô
Nguồn mạch và nguyên nhân việc tông đồ của
Giáo Hội: thánh hóa đời sống gia đình; thánh hóa những lo âu trần thế hay phàm
tục. Mọi sự đều có giá trị riêng của nó và đời sống đạo đức của giáo dân đòi họ
không được kinh chê bất cứ cái gì: Vì Chúa Kitô, Đấng được Chúa Cha sai đến, là
nguồn mạch nguyên ủy của mọi việc tông đồ trong Giáo Hội, nên hiển nhiên là kết
quả phong phú của việc Tông đồ Giáo dân tùy thuộc ở sự kết hiệp sống động của
chính họ với Chúa Kitô, Đấng phán rằng: “Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong kẻ ấy,
như vậy mới sinh được nhiều hoa trái vì ngoài Thầy ra các con chẳng làm được
gì” [Jn 15,5]. Đời sống kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô trong Giáo Hội được
nuôi dưỡng bằng sự phù giúp thiêng liêng chung cho mọi tín hữu, nhất là bằng sự
tham dự tích cực vào phụng vụ. Người giáo dân phải làm thế nào để nhờ những
phương tiện ấy mà chu toàn nhiệm vụ trần thế trong những hoàn cảnh thường xuyên
của cuộc sống mà vẫn không tách khỏi đời sống mình sự kết hiệp với Chúa Kitô,
nhưng càng kết hiệp mật thiết hơn chính khi thi hành công việc của mình theo ý
Thiên Chúa. Bằng phương thức này, người giáo dân phải hăng say và vui vẻ tiến
bước trên đường thánh thiện, với sự khôn ngoan và nhẫn nại, họ cố gắng thắng vượt
những khó khăn. Những việc trong gia đình cũng như những việc ngoài xã hội
không được tách rời khỏi động lực siêu nhiên của cuộc sống, theo lời thánh Tông
Đồ: “Hết thảy công việc anh em làm trong lời nói hay việc làm, hãy nhân danh
Chúa Giêsu Kitô mà thực hành, nhờ Người để cảm tạ Chúa Cha là Thiên Chúa” [Col
3,17]. Đời sống như thế đòi hỏi việc thực hành liên tục đức tin, đức cậy và đức
mến [AA 4].
2. Suy gẫm Lời Chúa và thực hành
các mối phúc
Chỉ nhờ ánh sáng đức tin và nhờ suy niệm Lời
Chúa mỗi người mới có thể nhận ra Chúa trong mọi nơi và mọi lúc, vì trong Ngài
“ta sống, ta hoạt động, ta hiện hữu” [Cv 17,28].
Tìm ý Chúa trong mọi biến cố, thấy Chúa
Kitô trong mọi người, dù là người thân hay kẻ lạ, phê phán đúng đắn về ý nghĩa
đích thực và giá trị của sự vật trần thế, xét nơi chính nó và xét theo tương
quan với cứu cánh của con người.
Những người có đức tin này, trong khi tưởng
niệm Thánh Giá và sự Phục Sinh của Chúa, họ sống trong niềm hy vọng mặc khải của
con cái Thiên Chúa.
Trong cuộc lữ hành này, họ được dấu ẩn
trong Thiên Chúa cùng với Chúa Kitô và được giải thoát khỏi nô lệ của cải trần
thế, đang khi họ tìm kiếm của cải tồn tại vĩnh viễn, với lòng quảng đại họ sẽ
hoàn toàn hiến mình để mở rộng Nước Thiên Chúa và đem tinh thần Phúc Âm thấm nhập
và cải tạo lãnh vực thực tại trần thế. Giữa những cơn thử thách đời này họ tìm
thấy sức mạnh trong niềm hy vọng vì họ nghĩ rằng: “Những đau khổ hiện thời chẳng
thấm vào đâu so với vinh quang sắp tới sẽ được giãi bày cho chúng ta” [Rm 8,18].
Lòng yêu thương phát xuất từ Thiên Chúa
thúc đẩy họ làm việc thiện cho hết mọi người, nhất là cho những người có cùng một
niềm tin [Gal 6,10]. Từ bỏ “mọi gian ác, mọi lường gạt, giả trá, lòng ghen ghét
và mọi nói hành” [1Pet 2,1] và như vậy họ lôi kéo mọi người đến với Chúa Kitô.
Hơn nữa tình yêu của Chúa “giải khắp lòng ta do Chúa Thánh Thần đã ban cho ta”
[Rm 5,5] làm cho giáo dân có sức biểu lộ thực sự trong đời sống mình tinh thần
các mối phúc thật. Theo Chúa Giêsu khó nghèo, họ không tuyệt vọng khi thiếu thốn,
cũng không kiêu căng khi dư dật. Bắt chước Chúa Kitô khiêm hạ, họ không háo
danh [Gal 5,26] nhưng chuyên lo làm đẹp lòng Thiên Chúa hơn làm đẹp lòng người
ta. Họ luôn sẵn sàng bỏ mọi sự vì Chúa Kitô [Lc 14,26], và chịu bách hại vì lẽ
công chính [Mt 5,10] vì nhớ Lời Chúa: “Nếu ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình,
vác thập giá mình mà theo Ta” [Mt 16,24]. Sống với nhau trong tình thân hữu của
Chúa Kitô, họ sẵn sàng giúp đỡ nhau khi cần thiết [AA 4].
3. Thực hành một số nhân đức tùy
hoàn cảnh mỗi người
Đời sống thiêng liêng của mỗi người giáo
dân phải mang sắc thái đặc biệt tùy theo bậc sống : Đời sống hôn nhân và đời sống
gia đình, đời sống độc thân hay góa bụa, trong tình trạng đau yếu, tùy sinh hoạt
nghề nghiệp và xã hội [AA 4].
4. Đặc biệt trong đời sống hôn nhân
gia đình
Gia đình là môi trường hoạt động và trường
học tuyệt diệu cho việc Tông đồ Giáo dân. Từ gia đình, Kitô giáo thấm nhập vào
tất cả các tổ chức cuộc sống và dần dần biến đổi các tổ chức ấy; nơi gia đình,
vợ chồng tìm thấy ơn gọi riêng của mình là làm chứng cho nhau và cho con cái
lòng tin và tình yêu Chúa Kitô. Gia đình Kitô giáo lớn tiếng loan truyền sức mạnh
của Nước Thiên Chúa và niềm cậy trông vào một đời sống hạnh phúc. Như thế bằng
gương lành và chứng tá, gia đình Kitô giáo thuyết phục thế gian đảm nhận tội lỗi
mình, đồng thời sáng soi những kẻ đang tìm kiếm chân lý[LG 35].
Bậc vợ chồng và cha mẹ Kitô giáo, khi theo
đuổi lối sống riêng của mình, nhờ ơn Chúa, họ phải suốt đời nâng đỡ và trung
thành yêu thương nhau; đối với con cái mà trong yêu thương họ đã nhận từ Thiên
Chúa, họ phải làm cho chúng hấp thụ những học thuyết Kitô giáo và những nhân đức
của Phúc Âm. Nhờ đó họ nêu gương cho mọi người về mặt tình thương bền vững và
quảng đại, xây dựng bác ái huynh đệ, làm chứng và cộng tác vào việc sinh sản của
Giáo Hội, Mẹ chúng ta, trở nên dấu chỉ và thông phần vào tình yêu Chúa Kitô đối
với hiền thê Người : bởi yêu thương Người hiến mạng sống vì Hiền Thê [LG 41].
5. Đời sống độc thân và góa bụa
Dưới hình thức khác, bậc quả phụ và độc
thân cũng nêu gương tương tự: họ có thể góp phần không ít vào sự thánh thiện và
hoạt động của Giáo Hội [LG 41].
6. Đời sống xã hội, nghề nghiệp
Còn những người thường làm lụng vất vả,
công việc của con người phải là phương thế để đào tạo chính mình, trợ giúp đồng
loại, thăng tiến toàn thể xã hội và tạo vật; và sau cùng, hân hoan trong niềm
hy vọng và kiên nhẫn chịu đựng lẫn nhau, với đức ái sống động, họ phải noi
gương Chúa Kitô, Đấng đã làm việc tay chân và không ngừng cùng với Chúa Cha đem
ơn cứu độ cho mọi người; và nhờ công ăn việc làm, họ phải tiến xa hơn trên đường
thánh thiện, một sự thánh thiện còn có tính cách tông đồ [LG 41]. Họ cũng nên
kính trọng nghề nghiệp chuyên môn, ý nghĩa gia đình và ý nghĩa công dân cũng
như những đức tính liên quan tới đời sống xã hội, chẳng hạn sự liêm khiết, tinh
thần công bình, lòng trung thực, lòng nhân hậu, lòng quả cảm; không có những đức
tính đó, không thể có đời sống Kitô hữu đích thực [AA 4].
7. Hoàn cảnh yếu đau, bệnh tật, đau
khổ
Ước gì những người chịu đau khổ vì nghèo
đói, tật nguyền, đau yếu và những thử thách khác, hay bị bách hại vì sự công
chính cũng biết kết hợp cách đặc biệt với Chúa Kitô, Đấng đã chịu đau khổ để cứu
chuộc thế giới, vì trong Phúc Âm Chúa đã tuyên bố họ là những người có phúc, và
vì “Thiên Chúa của mọi ơn phúc, Đấng đã gọi chúng ta đến sự vinh hiển muôn đời
trong Chúa Giêsu Kitô, sau khi chúng ta chịu đau khổ trong một thời gian ngắn,
chính Người sẽ làm chúng ta hoàn hảo, vững chắc và mạnh mẽ” [1Pet 5,10] [LG
41].
8. Mỗi người cố gắng từng ngày hoàn
thiện cuộc sống của mình
Vì thế, trong và nhờ những trạng huống, chức
nghiệp hay hoàn cảnh của cuộc sống, tất cả mọi Kitô hữu ngày càng được thánh
thiện hơn, nếu họ biết tin tưởng lãnh nhận tất cả mọi sự từ tay Cha trên trời
và biết cộng tác với thánh ý Thiên Chúa đối với thế giới trong chính việc họ phục
vụ trần thế [LG 41]. Vậy mỗi người phải phát triển không ngừng những đức tính
và tài năng ban cho mình, thích ứng với hoàn cảnh của mỗi đời sống, và biết lợi
dụng những ơn huệ Chúa Thánh Thần ban riêng cho mình [AA 4].
9. Nên giống Chúa Kitô đau khổ để
đem ơn cứu độ đến cho người khác
Sau cùng giáo dân làm cho đời mình sống động
bằng đức ái và tùy sức biểu lộ đời sống đó bằng chính hoạt động của mình. Mọi
người phải nhớ rằng nhờ việc phụng tự công cộng và cầu nguyện, nhờ sám hối và tự
ý chấp nhận công việc cũng như khổ cực của cuộc đời làm cho họ nên giống Chúa
Kitô đau khổ [2Cr 4,10; Col 1,24] họ mới có thể ảnh hưởng tới mọi người và đem
ơn cứu độ cho toàn thế giới [AA 13].
V. CÁC ĐƯỜNG LỐI HOẠT ĐỘNG TÔNG ĐỒ
1. Hai hình thức làm việc tông đồ
Giáo dân có thể thực hiện việc tông đồ hoặc
từng người hoặc liên kết thành cộng đoàn hay hiệp hội [AA 1].
2. Sống chứng nhân
Việc tông đồ mà mỗi người phải thực hiện bắt
nguồn từ mạch sống phong phú đích thực Kitô giáo [Jn 4,14]. Đó là căn bản và điều
kiện của mọi hoạt động Tông đồ Giáo dân, kể cả việc Tông đồ Giáo dân tập thể và
không có thể thay thế việc đó được.
Việc tông đồ cá nhân này rất hiệu quả ở bất
cứ nơi nào và thời nào. Hơn nữa, trong một số hoàn cảnh chỉ có hoạt động tông đồ
này mới thích hợp và mới có thể thực hiện được. Mọi người giáo dân, dù thuộc
thành phần nào, dù không có cơ hội hay khả năng để cộng tác trong các hội đoàn
đều được kêu gọi và hơn nữa phải làm việc tông đồ cá nhân.
Có nhiều hình thức tông đồ mà người giáo
dân dùng để xây dựng Giáo Hội, thánh hóa và làm sinh động thế gian trong Chúa
Kitô. Hình thức đặc biệt của hoạt động tông đồ cá nhân là giúp giáo dân làm chứng
bằng cả đời sống phát xuất từ đức tin, đức cậy, đức mến. Đó là dấu chỉ rất
thích hợp trong thời đại chúng ta để biểu lộ Chúa Kitô sống động trong các tín
hữu của Người [AA 16].
3. Sống bác ái huynh đệ trong tinh
thần đức tin
Người giáo dân chu toàn sứ mệnh này của
Giáo Hội nơi trần gian: trước tiên bằng đời sống hòa hợp với đức tin, để nhờ đó
họ trở thành ánh sáng thế gian; bằng đời sống lương thiện trong bất cứ công ăn
việc làm nào để làm cho mọi người yêu mến sự thật, sự thiện và cuối cùng đưa họ
tới Chúa Kitô và Giáo Hội; bằng đời sống bác ái huynh đệ qua việc họ thực sự
chia sẻ với anh em trong hoàn cảnh sống, trong đau khổ cũng như trong mọi ước vọng,
và như thế họ âm thầm chuẩn bị cho ơn cứu rỗi hoạt động trong tâm hồn mọi người;
bằng cuộc sống ý thức đầy đủ về vai trò của mình trong việc xây dựng xã hội, họ
cố gắng chu toàn hoạt động nơi gia đình , ngoài xã hội, trong nghề nghiệp với
lòng quảng đại của Kitô giáo; như thế phương thức hành động của họ dần dần thấm
nhập vào môi trường sống và cả môi trường làm việc [AA 13]
4. Rao giảng Lời Chúa trong môi trường
của mình
Việc tông đồ này phải nhắm tới hết mọi người
trong môi trường hoạt động và không được loại bỏ bất cứ lợi ích thiêng liêng
hay vật chất nào có thể làm cho họ. Nhưng người tông đồ đích thực không chỉ hài
lòng với hoạt động này, mà họ còn phải quan tâm đến việc rao giảng Chúa Kitô
cho anh em bằng cả lời nói nữa. Bởi vì nhiều người chỉ có thể nghe Phúc Âm và
nhận biết Chúa Kitô nhờ những người giáo dân sống gần họ [AA 13]. Hơn nữa,
trong một số hoàn cảnh lại rất cần thiết người giáo dân rao giảng Chúa Kitô, cắt
nghĩa và phổ biến giáo lý của Người theo hoàn cảnh và tài năng của mỗi người, đồng
thời họ cũng trung thành tuyên xưng giáo lý của Người nữa [AA 16]. Vì thế, giáo
dân có thể và phải có một hoạt động cao quí là truyền bá Phúc Âm cho thế giới,
cả lúc họ bận tâm lo lắng những việc trần thế. Dù khi thiếu thừa tác viên có chức
thánh hoặc khi các ngài bị ngăn trở vì bách hại, có những giáo dân thay thế các
ngài thi hành một số phận vụ thánh tùy khả năng của họ; dù có một số giáo dân
đã dốc toàn lực vào việc tông đồ, tất cả vẫn phải cộng tác vào việc mở mang và
phát triển Nước Chúa Kitô trên trần gian. Vì vậy giáo dân phải chú tâm tìm hiểu
sâu xa hơn chân lý mặc khải và tha thiết nài xin Thiên Chúa ban ơn khôn ngoan
cho mình [LG 35].
5. Làm thấm nhuần tinh thần Phúc âm
vào thực tại trần thế
Các tín hữu phải nhận biết bản tính sâu xa
của tạo vật, giá trị của chúng, và cùng đích của chúng ta là ca tụng Thiên
Chúa; đồng thời phải giúp nhau sống đời thánh thiện, nhờ những việc trần thế, để
thế gian thấm nhuần tinh thần Chúa Kitô và đạt đến cùng đích một cách hữu hiệu
hơn trong công lý, bác ái và hòa bình. Giáo dân giữ lấy vai trò chính yếu trong
việc chu toàn nhiệm vụ phổ quát đó. Nhờ khả năng chuyên môn trong những việc trần
thế, nhờ các hoạt động của họ, những hoạt động được ân sủng Chúa Kitô nâng lên
bậc siêu nhiên, giáo dân hãy đem toàn lực hợp tác để lao công con người, kỹ thuật
và văn hóa nhân loại khai thác những của cải được tạo dựng hầu mưu ích cho mọi
người và phân chia cân xứng hơn giữa họ theo ý định của Đấng Tạo Hóa và sự soi
sáng của Ngôi Lời Ngài; và tùy cách thức riêng của chúng, chúng giúp phát triển
toàn diện sự tự do của con người và tự do của Kitô hữu. Như thế, nhờ các phần tử
của Giáo Hội, Chúa Kitô sẽ đem ánh sáng cứu độ của Người chiếu soi toàn thể
nhân loại mỗi ngày một hơn [LG 36].
6. Đấu tranh chống lại sự ác
Khi các thể chế và cảnh sống của thế giới
gây nên dịp tội, giáo dân phải góp sức làm cho các thể chế và cảnh sống đó trở
nên lành mạnh, để chúng phù hợp với các tiêu chuẩn của đức công bình, và giúp
phát huy việc luyện tập các nhân đức hơn là ngăn cản chúng. Hành động như thế,
giáo dân sẽ làm cho những giá trị luân lý thấm nhập vào văn hóa và các công
trình của loài người. Và nhờ vậy, cánh đồng thế giới mới được chuẩn bị kỹ càng
hơn để đón nhận hạt giống Lời Chúa, và nhiều cửa được mở rộng thêm hơn cho Giáo
Hội để sứ điệp hòa bình thấm nhập vào thế gian [LG 36]
7. Lương tâm Kitô giáo hướng dẫn mọi
tín hữu trong cuộc sống trần thế
Chính công cuộc cứu độ đòi hỏi tín hữu phải
lưu tâm phân biệt đâu là quyền lợi và nghĩa vụ của họ với tư cách một phần tử của
Giáo Hội, đâu là quyền lợi và nghĩa vụ với tư cách một phần tử trong xã hội
loài người. Họ phải cố gắng hòa hợp cả hai loại nghĩa vụ và bổn phận đó với
nhau, và hãy nhớ rằng trong mọi lãnh vực trần thế, lương tâm Kitô giáo phải
luôn hướng dẫn họ, vì không một hoạt động nào của con người, dù thuộc phạm vi
trần thế, có thể vượt khỏi quyền thống trị của Thiên Chúa. Vì thế, trong thời đại
chúng ta, hơn bao giờ hết, người tín hữu cũng phải làm sáng tỏ sự phân biệt và
hòa hợp các nghĩa vụ và bổn phận này trong phương thức hành động của họ, để sứ
mệnh của Giáo Hội có thể đáp ứng những hoàn cảnh đặc biệt của thế giới hôm nay
cách trọn vẹn hơn. Thực vậy, nếu phải công nhận rằng xã hội trần gian, vì lo lắng
việc trần thế cách hợp pháp nên có quyền điều hành theo những qui tắc riêng biệt,
thì cũng phải loại bỏ cách chính đáng tà thuyết chủ trương xây dựng xã hội bất
cần đạo lý... [LG 36]
8. Một nhiệm vụ không ai thay thế
được
Hơn nữa, là những người công dân trong thế
giới này, người công giáo khi cộng tác vào những việc liên quan tới việc xây dựng
và quản trị trật tự trần thế, họ phải thấu triệt dưới ánh sáng đức tin những lý
do cao cả để hành động trong đời sống gia đình, nghề nghiệp, văn hóa và xã hội,
và tùy dịp bày tỏ cho người khác nữa [AA 16], bằng cách cố gắng đem tinh thần
Kitô giáo thấm nhuần não trạng, phong tục, luật lệ và cơ cấu của cộng đoàn nơi
họ sống: đó là bổn phận và trách nhiệm của người giáo dân có thể làm tông đồ
cho người đồng cảnh ngộ với mình. Ở đó họ lấy lời nói bổ túc cho bằng chứng của
đời sống. Cũng ở đó, họ dễ dàng giúp đỡ anh em trong môi trường làm việc hay
nghề nghiệp, môi trường học vấn, cư ngụ, giải trí cũng như trong sinh hoạt địa
phương [AA 13].
9. Cố gắng hoàn thành nhiệm vụ
trong những hoàn cảnh khó khăn
Việc tông đồ cá nhân này rất cần thiết và cấp
bách trong những miền mà tự do của Giáo Hội bị cản trở trầm trọng. Trong những
hoàn cảnh khó khăn đó, giáo dân tùy khả năng thay thế linh mục, họ liều mất tự
do của mình và đôi khi ngay cả mạng sống để dạy giáo lý công giáo cho những người
chung quanh, huấn luyện cho những người ấy biết sống đạo và khuyến khích họ
năng lãnh nhận các bí tích và đặc biệt tôn sùng phép Thánh Thể. Thánh Công Đồng
hết lòng tạ ơn Thiên Chúa đã không ngừng cho xuất hiện ngay cả trong thời đại
chúng ta những người giáo dân can đảm phi thường giữa những cơn bách hại. Thánh
Công đồng lấy tình người cha yêu thương và tri ân họ [AA 17].
10. Cố gắng qui tụ thành nhóm nhỏ để
khích lệ nhau
Việc tông đồ cá nhân có môi trường hoạt động
đặc biệt trong những miền người công giáo ít ỏi và tản mác. Ở những nơi đó,
giáo dân chỉ hoạt động tông đồ từng người hoặc vì những lý do nói trên hoặc vì
những lý do đặc biệt do sinh hoạt nghề nghiệp. Nên để dễ dàng gặp gỡ nhau, họ hợp
lại thành từng tổ nhỏ không cần đến hình thức tổ chức hay hệ thống chặt chẽ, miễn
sao người khác thấy được dấu hiệu của cộng đoàn Giáo Hội như bằng chứng đích thực
của tình thương. Như thế, trong khi giúp nhau trên bình diện thiêng liêng nhờ
tình bằng hữu và kinh nghiệm, họ được mạnh sức để thắng lướt những khó khăn của
cuộc sống và sự hoạt động quá lẻ loi cũng như để việc tông đồ đạt được kết quả
phong phú hơn [AA 17].
11. Một Kitô hữu đích thực
Trước mặt nhân loại, mỗi giáo dân phải là
chứng nhân của sự phục sinh và sống lại của Chúa Giêsu, đồng thời là dấu hiệu của
Thiên Chúa hằng sống. Tất cả và mỗi người góp phần nuôi dưỡng thế giới bằng những
hoa trái thiêng liêng [Gal 5,22] và truyền bá cho thế gian tinh thần của những
người nghèo khó, hiền lành và hiếu hòa, những người mà Phúc Âm Chúa đã tuyên bố
là những người có phúc [Mt 5, 3-9]. Tóm lại “người Kitô hữu hãy làm cho thế giới
sống như linh hồn làm cho thân xác sống” [LG 38].
VI. NHỮNG MẪU GƯƠNG TUYỆT HẢO
1. Đức Giêsu
Trong cộng đồng Do Thái, Đức Giêsu chỉ là một
giáo dân thuần túy. Người không thuộc về giai cấp tư tế về bất cứ phương diện
nào, và giai cấp tư tế lúc bấy giờ nằm trong tay một số gia tộc với những chức
vụ đặc biệt trong Đền thờ. Đức Giêsu cũng không tham gia bất cứ một nhóm tôn
giáo đặc biệt nào đương thời, như các tu sĩ Qumran là những người rút lui khỏi
đời sống thế tục để sống nhiệm nhặt trong cộng đoàn. Đức Giêsu đã lớn lên như
chàng trai nhà quê mộc mạc trong một xóm hẻo lánh miền quê Galilê. Sau đó, Người
là một thầy giảng lang thang, công bố sứ điệp của mình mà không được phê chuẩn
hay nâng đỡ nào có tính cách cơ chế, mà chỉ dựa vào sức mạnh của chính sứ mạng
ngôn sứ của mình. Nguồn nâng đỡ duy nhất của Người là Chúa Cha trên trời.
Là một giáo dân, Đức Giêsu sống gần gũi dân
chúng. Người dự các lễ hội của họ, gắn bó với người nghèo, nhưng cũng hoạt động
giữa các tầng lớp thượng lưu và chế nhạo cách xử sự giữa họ với nhau khi dự tiệc
tùng [Lc 14, 7-14]. Người xót xa với những thống khổ của đồng bào, sự áp bức của
người La Mã, hệ thống thuế má khắc nghiệt, sự bất lực của con người trước những
hoạn nạn của gia đình như khi một bà góa cô độc nọ phải mất đứa con trai duy nhất
của mình hoặc một người cha khốn khổ kia đành nhìn đứa con trai thứ của mình bỏ
nhà lao vào chốn thị thành lừa đảo, Người cũng cảm nhận sâu sắc tình cảnh bị bỏ
bơ vơ của đám đông dân chúng.
Đành rằng vẫn có đó những khuôn vàng thước
ngọc và vẫn còn đó những cơ cấu tôn giáo được thiết lập trong Đền thờ và Hội đường.
Người vẫn cảm thấy dân chúng như những con chiên không người chăn [Mt 9, 36]. Đức
Giêsu nói bằng tiếng nói của dân tộc. Người không dám diễn thuyết bằng những diễn
từ trau chuốt, nhưng kể những câu chuyện mà hầu như ai cũng hiểu được. Đức
Giêsu đã chết như một người giáo dân, đây là điều chắc chắn, bởi vì Người là một
giáo dân. Giáo huấn của Người không được phê chuẩn bởi giới chức có thẩm quyền,
không có sự công nhận chính thức của các nhà lãnh đạo tôn giáo. Làm thế nào một
“giáo dân trơn” lại có thể nhận rằng mình hiểu biết và giải thích lề luật? Làm
thế nào một người như thế lại dám cầm roi đánh đuổi con buôn ra khỏi Đền thờ mà
không hề có ủy nhiệm của ban bảo vệ Đền thờ, những người có trách nhiệm gìn giữ
trật tự ở nơi thánh? Thế mà Đức Giêsu vẫn có cái quyền đó, một uy quyền không
ai cưỡng lại được, một uy quyền hoàn toàn phát xuất từ bên trong Người và do đó
những nhà đương cục phải “ngán” Người. Người là mối đe dọa cho chỗ đứng đã ổn định
của họ. Thiên Chúa đã chẳng ban quyền cho họ sao? Họ cho rằng bổn phận của giáo
dân là phải im lặng. Với cả giới lãnh đạo Do Thái bấy giờ chống lại mình, không
được một ủng hộ chính thức nào, Đức Giêsu phải lâm vào ngõ cụt. Người đã bị tố
cáo và bị kết án tử hình.[4]
2. Đức Maria
Đức Maria là mẫu gương của một người phụ nữ
độc thân, một người vợ, một người mẹ và một người góa bụa, nhất là một gương mẫu
hoàn hảo về đời sống thiêng liêng và đời sống tông đồ: Khi sống ở trần gian, Mẹ
đã sống cuộc đời như mọi người, vất vả lo lắng cho gia đình, nhưng luôn luôn kết
hợp mật thiết với Con mình và đã cộng tác vào công việc của Đấng Cứu Thế một
cách đặc biệt; còn bây giờ, sau khi đã được đưa lên trời, “với tình yêu thương
của người mẹ, Người săn sóc những đứa em của Con Mẹ, đang trên đường lữ thứ trần
gian, gặp nhiều nguy hiểm và thử thách, Người lo lắng cho tới khi họ về tới quê
hương hạnh phúc”. Mọi người hãy hết lòng tôn sùng Mẹ và phó thác đời sống và cả
việc tông đồ của mình cho Mẹ coi sóc [AA 4].
3. Thánh Giuse
Thánh Giuse, một người yêu có trách nhiệm,
một người chồng chung thủy, một người lao động đầy tinh thần xả kỷ và hy sinh,
một người cha và một người công dân chu toàn lề luật. Thánh Giuse không phải là
một người tuẫn đạo, cũng không phải là một tư tế, một ngôn sứ, một nhà tư tưởng
lớn, cũng không phải là một tông đồ cột trụ. Tuy nhiên, chắc chắn là ngài đã sống
một đời sống kết hiệp thâm sâu với Thiên Chúa. Sự vĩ đại của ngài nằm ở chỗ
ngài trung thành với nghề nghiệp, gia đình, chính quyền, tôn giáo và với Thiên
Chúa. Như vậy linh đạo của thánh Giuse đang trở thành mô hình cho linh đạo của
người Kitô hữu giáo dân hôm nay.[5]
Trích Bản tin Hiệp
Thông / HĐGM VN, Số 80
(Tháng 1 & 2 năm 2014)