CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH
NĂM B
LM Antôn
Nguyễn Cao Siêu SJ
PHÚC ÂM: Ga 20, 19-31
19 Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ
ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa
các ông và nói : "Bình an cho anh em !" 20 Nói xong, Người cho các
ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. 21 Người lại
nói với các ông : "Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy
cũng sai anh em." 22 Nói xong, Người
thổi hơi vào các ông và bảo : "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. 23 Anh em
tha tội cho ai, thì người ấy được tha ; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm
giữ."
24 Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là
Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. 25 Các môn đệ khác nói với
ông : "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tô-ma đáp : "Nếu tôi
không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không
đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin." 26 Tám ngày sau, các
môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa
đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói : "Bình an cho anh
em." 27 Rồi Người bảo ông Tô-ma : "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn
xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng
hãy tin." 28 Ông Tô-ma thưa Người : "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa
của con !" 29 Đức Giê-su bảo : "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc
thay những người không thấy mà tin !"
30 Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn
đệ ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. 31 Còn những điều
đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên
Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.
CÂU HỎI TÌM HIỂU
1.Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ
mấy lần, khi nào?
2.Đức Giêsu có báo trước việc mình sẽ đến với các môn
đệ không? Đọc Ga 14,18.28.
3.Tại sao Chúa Giêsu phục sinh lại cho các ông xem hai bàn
tay và cạnh sườn (x. 19,34)?
4.Đọc Ga 20, 18-29. Ai là những người đã được thấy
Chúa trong đoạn này?
5.Tại sao Chúa Giêsu phục sinh sai các môn đệ lên đường?
Đọc Mác-cô 16,15.20; Mát-thêu 28,19-20; Luca 24,47-48; Gioan 20,21. Hai câu Ga
20,21 và Ga 17,18 có gì đặc biệt?
6.Đức Giêsu phục sinh thổi hơi vào các ông (Ga 20,22),
cử chỉ đó cho thấy điều gì? Tại sao Đấng phục sinh trao ban Thánh Thần cho các
môn đệ? Đọc Ga 14,26; 15,26; 20,21.23.
7.Bạn nghĩ gì về thái độ của Đức Giêsu đối với ông Tôma được
diễn tả trong Ga 20,26-27?
8.Đọc Ga 20,28. Lời tuyên xưng đức tin trên đây của Tôma có
gì đặc biệt? Đọc Ga 1,1.
9.Gioan 20,29 là mối phúc dành cho ai?
GỢI Ý SUY NIỆM: Theo bạn, thái độ đòi hỏi của ông Tôma trong
Ga 20,25 có quá đáng không? Có khi nào bạn gặp một người giống Tôma ở trong
nhóm hay họ đạo của bạn không? Khi gặp một Tôma như thế, bạn muốn bắt chước Đức
Giêsu ở điểm nào trong cách đối xử với người ấy?
PHẦN TRẢ LỜI
1.Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu sống lại hiện ra hai lần.
Lần đầu vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, tức là chiều Chúa nhật phục
sinh, lần này không có Tôma (Ga 20,19). Lần thứ hai có mặt ông Tôma, xảy ra vào
tám ngày sau (Ga 20,26), tức là một tuần sau, cũng vào ngày Chúa nhật, tuy
không rõ sáng hay chiều.
2.Trong Tin Mừng Gioan, Đức Giêsu coi cuộc Khổ nạn và cái Chết
sắp đến của mình là cuộc trở về với Chúa Cha (Ga 13,1.3). “Thầy phát xuất từ
Chúa Cha, và Thầy đã đến trong thế gian. Nay Thầy lại bỏ thế gian mà đi đến
cùng Chúa Cha” (Ga 16,28). Tuy nhiên, Ngài cũng nhiều lần nói đến việc mình sẽ đến
với các môn đệ. “Thầy ra đi và Thầy đến với anh em” (x. Ga 14,18.28). “Thầy
sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng” (Ga 16,22). Khi hiện ra với các
ông, Chúa phục sinh đến và gặp lại các ông như lời Ngài đã hứa.
3.Chúa Giêsu chủ động cho các môn đệ xem hai bàn tay và cạnh
sườn của mình để họ thấy những vết thương do việc Ngài bị đóng đinh và bị đâm.
Từ đó Ngài muốn cho các môn đệ biết rằng Đấng đang sống và đứng giữa họ cũng
chính là Đấng đã chịu đóng đinh và chết trước đây mấy ngày. Ngài cho họ xem cạnh
sườn vì riêng trong Tin Mừng Gioan có kể chuyện Ngài bị đâm vào cạnh sườn (x.
Ga 19,34). Như thế Đấng phục sinh vẫn mang trên thân xác phục sinh của mình những
dấu tích của cuộc Khổ nạn, dù hẳn những vết thương ấy nay đã lành.
4.Trong Ga 20,18-29, động từ thấy (horaô) được thánh sử
của Phúc Âm thứ Tư dùng nhiều lần. Những người đã được thấy Chúa phục
sinh trong đoạn văn trên đây là: chị Maria Mác-đa-la (Ga 20,18), mười môn đệ
trong Nhóm Mười Hai (Ga 20,20.25), rồi đến ông Tôma (Ga 20,29). Thấy
Chúa phục sinh hiện ra là một kinh nghiệm quan trọng. Từ kinh nghiệm gặp gỡ có
tính cá vị này mà các môn đệ có thể làm chứng về sự phục sinh của Thầy Giêsu,
và dám chết để loan báo sự phục sinh ấy cho mọi người. Ông Tôma đòi thấy
các dấu đinh như một điều kiện để ông tin (Ga 20,25). Nhưng Chúa Giêsu khẳng định
rằng người không thấy cũng có thể tin, và đó là một mối phúc cho chúng
ta hôm nay (Ga 20,29).
5.Chúa Giêsu phục sinh hiện ra cho các môn đệ để nối lại tình
Thầy-trò, và để nâng đỡ đức tin của họ sau những yếu đuối và vấp ngã. Hơn nữa,
Ngài hiện ra để mặc khải trọn vẹn cho các môn đệ biết Ngài là ai: Ngài là người
được Thiên Chúa Cha sai đến trần gian để đem Tin Mừng, đã chịu khổ nạn và chịu
chết để cứu nhân loại, nhưng Ngài đã được Cha phục sinh và đưa về với Cha. Ngài
đã hoàn tất sứ mạng cứu độ Cha giao, nhưng Ngài cần các môn đệ đem ơn cứu độ đó
đến cho dân Ítraen và cho mọi dân tộc trên mặt đất. Chính vì thế cả bốn sách
Tin Mừng đều kể chuyện Chúa Giêsu phục sinh sai các môn đệ lên đường (Mc
16,15.20; Mt 28,19-20; Lc 24,47-48; Ga 20,21). Chúa Giêsu ý thức Chúa Cha là Đấng
đã sai mình vào thế gian, nên trước khi về với Chúa Cha, Ngài cũng sai các môn
đệ vào thế gian để tiếp tục sứ vụ (Ga 17,18; 20,21). Như thế chỉ có một
sứ vụ đến từ Cha, được Cha trao cho Đức Giêsu, và Ngài trao lại cho các môn đệ,
rồi các ông cứ tiếp tục trao đi cho các thế hệ môn đệ tương lai, mãi cho đến tận
thế.
6.Trong Cựu Ước, sau khi nặn ra con người từ bùn đất, Thiên
Chúa đã thổi hơi vào mũi con người, để nó trở thành một sinh vật có sự sống (St
2,7). Khi hiện ra với các môn đệ, sau khi sai phái họ đi, Chúa Giêsu phục sinh
cũng thổi hơi trên họ, để ban cho họ sức sống mới là Thánh Thần của Ngài (Ga
20,22). Thánh Thần rất cần cho những người được Ngài sai đi (Ga 20,21), vì
Thánh Thần sẽ trở nên vị Thầy dạy cho họ mọi điều, giúp họ nhớ lại lời Đức
Giêsu đã dạy (Ga 14,26) và giúp họ làm chứng cho Đức Giêsu (Ga 15,26). Ngoài
ra, Thánh Thần còn cho họ có khả năng tha tội, khả năng quan trọng để đem lại sự
sống thiêng liêng cho các tín hữu (Ga 20,23).
7.Một tuần sau, Chúa Giêsu phục sinh trở lại như thể để gặp
riêng ông Tôma. Ngài không hỏi ông tại sao đã không có mặt với anh em vào Chúa
nhật tuần trước (Ga 20,24). Ngài cũng không trách ông vì đã đòi hỏi quá đáng và
không tin vào anh em (Ga 20,25). Ngược lại, Ngài muốn đáp ứng mọi yêu cầu cụ thể
của ông (Ga 20,27). Rõ ràng Ngài không muốn mất ông, như đã mất Giuđa (Ga
17,12). Ngài muốn ông đi cùng một nhịp với các ông khác, và có cùng một đức tin
như họ. Ở đây chúng ta có thể thấy sự khiêm nhượng của Đấng phục sinh.
8.Có thể coi lời tuyên xưng đức tin của Tôma ở Ga 20,28 là đỉnh
cao trong Tin Mừng Gioan. Ông tuyên xưng Thầy Giêsu phục sinh là “Thiên Chúa của
con”. Điều này gợi cho ta nhớ đến câu đầu tiên của Tin Mừng Gioan, trong đó
Ngôi Lời đã được gọi là Thiên Chúa (Ga 1,1). Ngôi Lời ấy đã thành người nơi Đức
Giêsu Kitô (Ga 1,14.17). Ngài là Thiên Chúa Con Một (Ga 1,18). Như vậy ở đầu và
ở cuối Tin Mừng Gioan, ta thấy tác giả khẳng định rõ thiên tính của Chúa Giêsu
Kitô.
9.Mối phúc ở Ga 20,29 dành cho chúng ta, những người đã tin,
tuy không được thấy tận mắt, chạm tận tay vào vết thương của Đấng Phục sinh như
các môn đệ xưa. Tôma chỉ tin sau khi được Đấng phục sinh hiện ra và mời ông kiểm
chứng. Chúng ta tin dù không được Chúa hiện ra, nhưng nhờ lời chứng của các môn
đệ, nhất là lời chứng của một người cứng lòng tin như Tôma. Chính sự cứng lòng
của Tôma lại là một bảo đảm cho niềm tin của chúng ta.