GÓC NHÌN VỀ "ĐẠI BÀNG THẦN BÍ"
- ĐỨC CHA LAMBERT DE LA MOTTEMARIA
Nt. Maria Trần Thị Bích Hồng
Hội Dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm
WGPPD (11.01.2022) - Nhắc tới
một trong số những người giàu nổi tiếng nhất thế giới, người ta thường
kể đến tỷ phú Bill Gates; nhắc tới vị Giáo Hoàng có tầm ảnh hưởng
lớn nhất trên thế giới, người ta thường nhắc đến Đức Thánh Giáo hoàng
Gioan Phaolô II. Nhưng nếu nhắc tới vị thừa sai hải ngoại tại vùng Á
Châu có ơn thần bí sâu sắc nhất, có lẽ phải kể đến Đức cha Pierre
Lambert de La Motte - người được ví như “đại
bàng thần bí”.
Lịch
sử tôn giáo Pháp hầu như không để ý tới người mang danh: “Pierre
Lambert de La Motte”. Bởi thế, không lạ gì mà nữ sử gia Buzelin
sau một khoảng thời gian dài nghiên cứu về các nhà thừa sai hải
ngoại đã cho ra đời cuốn sách: “Người Cha bị lãng quên của công cuộc
truyền giáo hiện đại”[1]. Thoạt
đầu nghe tựa đề cuốn sách, người viết có chút cảm giác ngỡ ngàng,
hụt hẫng lẫn xót xa: “Người
Cha - BỊ - LÃNG - QUÊN!’’
Tuy nhiên, khi xem lại tựa đề nguyên bản bằng tiếng Pháp, tôi thấy tác giả
Buzelin không dùng từ “bị lãng quên” (oublié), mà dùng phân từ inconnu (không được biết, chưa được biết, xa lạ).
Vậy, phải chăng đời sống chiêm niệm và hoạt động âm
thầm “gắn liền và bám chặt vào Chúa Kitô chịu đóng đinh” đã
giúp cho ngài có ánh nhìn tựa như “đại
bàng thần bí” để có thể nhìn ngắm mặt trời thần linh?
Tuổi thơ và thiên hướng thiêng liêng
Pierre
Lambert chào đời ngày 28.01.1624 (khoảng
thời gian mà các nhà thần học gọi là “thế kỷ các thánh”) tại
Giáo phận Lisieux, vùng Normandie nước Pháp. Pierre Lambert được sinh
dưỡng trong một gia đình quý tộc đạo đức. Với nền giáo dục bậc
nhất về mặt nhân bản, tri thức và tôn giáo của xã hội Pháp thời
bấy giờ, đã sớm hình thành trong Lambert một “sức mạnh thiên tài kết hợp với vẻ đẹp một bản tính hiền
lành và kiên trì”[2]. Từ nhỏ cậu đã
thích đọc sách Gương Chúa Giêsu,
luồng tư tưởng đạo đức đó đã thổi sâu vào trong tâm trí cậu khiến
cậu say mê tìm kiếm Thiên Chúa. Và quả thực, như sách Huấn Ca viết: “Những ai từ sáng sớm đã kiếm tìm
Người, sẽ được đoái thương” (Hc 32,14). Sau này chính cậu khẳng
định: “Khi tâm hồn tìm kiếm
Thiên Chúa trong thần khí và chân lí thì chắc chắn sẽ gặp được
Ngài”[3].
Năm 09 tuổi, sau khi rước lễ
lần đầu, cậu đã có chí hướng dâng mình cho Chúa cách trọn vẹn.
Nhưng trong cơn rối ren sôi sục đang diễn ra trong Giáo hội Pháp thời
đó, cậu không tìm thấy nơi nào đáp ứng được những nguyện vọng của
mình. Rồi trong tâm trí cậu nổi lên một mẫu Những Người Yêu Mến Thánh Giá. Cậu thuật lại: “Nảy ra trong tâm tư tôi ý tưởng về một hạng
người rất hợp với tôi vô cùng. Bị cuốn hút vào đó, tôi muốn theo cuộc sống của
họ. Họ mang tên là Những Người Mến Thánh Giá. Cuộc sống của họ đối với tôi thật
là tuyệt diệu đến nỗi nếu tôi gặp được ở đâu đó, tôi sẽ cố gắng hết sức của tôi
và bằng bất kỳ giá nào, để được vào hiệp hội đó. [Nhưng] hiệp hội đó chẳng hề gặp
được trên trần gian này, nên từ đó, tôi chẳng bao giờ thấy được cuốn hút vào một
nhà dòng nào, cho dù tôi luôn luôn giữ nhiều tâm tình kính mến đối với các nhà
dòng sống trong sự tinh tuyền của hội dòng mình, mà tôi coi tựa như những vườn
ươm cây của Thiên Đàng”[4]. Từ đó cậu sống đạo đức và bác ái nhiều hơn nữa.
Dưới một hình thức đơn sơ, trẻ thơ, chúng ta thấy hiện ra dấu chỉ
của lòng nhiệt thành truyền giáo sẽ đưa cậu tới tận cùng thế giới.
Đôi mắt thần bí ấy luôn
hướng về Thiên Chúa nên tâm hồn Pierre Lambert cũng tinh tế và nhạy
bén trước Thánh ý Chúa. Bị ảnh hưởng bởi các tranh vẽ thời đó, vốn
thường vẽ cảnh Thánh Phaolô ngã ngựa được ơn trở lại nhờ thấy Chúa,
Pierre Lambert gán cho chuyện nhỏ nhặt xảy ra với mình một ý nghĩa siêu
nhiên, coi đó như một dấu chỉ của Chúa. Sự kiện ấy sẽ ghi dấu ấn
sâu đậm trên cuộc tiến triển thiêng liêng của vị thừa sai tương lai. Sau
này, Lambert đã quyết định từ bỏ chức vụ thẩm phán tại tòa án thuế
vụ và bước theo ơn gọi truyền giáo. Năm 1658, cha Lambert được bổ nhiệm
làm Giám mục hiệu tòa Béryte. Khi mới 34 tuổi đời nhưng Người cũng cho thấy sự
trưởng thành trong đời sống thiêng liêng: “…dường như Thiên Chúa toàn năng làm chủ nội tâm và các hoạt
động nội tâm của chúng ta. Cách người tác động trong chúng ta thật
là tuyệt đối, không còn có vấn đề vận dụng ý chí để muốn, nhưng
một khi linh hồn thấy, hoặc cảm nghiệm được thánh ý Thiên Chúa thì
hướng ngay về đó, chẳng những không cần suy nghĩ gì cả, mà còn cảm
thấy thích thú một cách khôn tả nữa"[5]. Năm 1664, tại Ayuthia, ngài chia sẻ: “Nếu phải hoạt động, linh hồn sẽ bàn hỏi với Thần Khí của Chúa Giêsu
Kitô đang ở trong linh hồn để biết điều Thần Khí muốn và linh hồn sẽ hoạt động
do bởi Thần Khí. Qua đó, người ta có thể thấy niềm hạnh phúc thật của một thụ tạo
khi tùy thuộc vào Thiên Chúa”[6].
Đôi mắt "đại bàng thần bí": chiêm niệm và hoạt động.
Vì
luôn hướng về Chúa nên “đại bàng” Lambert cũng có “mỏ” và “móng” để
bảo vệ các xứ truyền giáo, có “đôi cánh” rộng mở là nơi trú ẩn cho
các tín hữu và các thừa sai khi cần. Đó là sức mạnh nội lực được
kết luyện từ Thánh Giá Chúa Kitô. Nếu như bậc đáng kính, Đức Hồng Y
Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận cho rằng: “Khí giới của con là nguyện ngắm, hy sinh, các nhiệm tích, chuỗi Mân Côi, tĩnh tâm…”[7] thì với Đức
cha Lambert : “…tất cả khí giới của
các nhà thừa sai là hãm mình và cầu nguyện”[8]. Như vậy, những
vị thánh đều chìm đắm trong nguyện ngắm để kín múc sức mạnh từ
một nguồn mạch duy nhất là Đức Kitô.
Trong
việc bay nhảy thiêng liêng, Đức cha Lambert luôn biết kết hợp giữa chiêm
niệm và hoạt động - một lý tưởng mà ở thế kỷ XVII người ta cho
rằng không thể tồn tại. Thời đó, các nhà thần bí trở nên đáng nghi
ngờ và không có quyền sống trong thế gian, còn những người tông đồ
không có quyền được là nhà thần bí. Chính Đức cha Lambert đã trả
giá cho xu hướng trên. Ngài vẫn luôn giữ vị thế quân bình giữa “hoạt
động Dòng Tên” cần để thi hành các chức vụ - mà ngài đã được đào
tạo - và “sự say mê Dòng Cát Minh” nằm trong bản chất của ngài. Đối
với ngài, chỗ dựa duy nhất của ngài là Chúa Kitô trên Thánh Giá,
nguyên tắc cơ bản, động lực và sự biện minh cho mọi công cuộc truyền
giáo:“Khoa học sâu sắc nhất và thú
vui chân thật nhất là hiểu biết và yêu mến Chúa Giêsu Kitô bằng một
tình yêu thực nghiệm”[9]. Đó là điều mà
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II sau này đã phác họa cho thời đại
chúng ta trong thông điệp Redemptoris
Missio - Sứ vụ Chúa Cứu Thế: “Các
thừa sai phải là những nhà chiêm niệm trong hành động”.
Có thể nói, việc khai sinh
Dòng Mến Thánh Giá là một trong những thành quả nhãn tiền của sự
kết hợp tinh tế giữa chiêm niệm và hoạt động, là cuộc gặp gỡ thiêng
liêng ân tình giữa Đức Cha Lambert với Đức Kitô Chịu Đóng Đinh “Tôi đã rất ao ước chứng tỏ được một tình
yêu phi thường đối với Chúa Giêsu Kitô. Thế nên, tôi đã xin Ngài cho tôi biết
làm cách nào để có thể biểu lộ tình
yêu ấy”[10]. Và ngài xác
tín rằng: “Một trong những ý định chính yếu
của Thiên Chúa là thành lập một hội dòng gồm những người tông đồ…để tưởng niệm
Chúa Giêsu chịu thương khó và chết trên thập giá; và vì lí do này, dòng có thể
mệnh danh cách chính đáng là Dòng Những Người Yêu Mến Thánh Giá ”[11]. “Mục đích chính yếu đã đề ra khi thành lập
hiệp hội này, là phổ biến khắp nơi tình yêu thực tiễn đối với Thánh Giá Con
Thiên Chúa, và làm sao cho các thành phố cũng như xóm làng đều có một số tín hữu
chẳng những hằng ngày suy niệm, mà còn thực sự thông phần các đau khổ của Chúa
Giêsu Kitô bằng việc chế ngự thân xác”[12]. Trong bức tâm
thư gửi cho “Dòng Chị Em Mến Câu Rút Đức
Chúa Jêsu” (Dòng Mến Thánh Giá) tại Đàng Ngoài năm 1670, ngài viết : “… âu là bởi Đức Chúa Trời thấy trong lòng
thầy ước ao cho được lập dòng nào ở khắp mọi nơi, Đức thánh Papa dạy ta giữ, gọi
là dòng Kẻ Mến Câu Rút Đức Chúa Jêsu là kẻ mọi ngày mọi ngắm sự thương khó Đức
Chúa Trời, cùng mọi ngày mọi chịu lấy phần nào trong sự thương khó ấy, là làm
việc lành về nhân đức hãm mình. Những bổn đạo nữ đã lâu ở nước Annam đã khấn
cùng Đức Chúa Trời giữ mình sạch sẽ. Ta mang tin ấy, muốn cám đội ơn Đức Chúa
Trời mở lòng cho khấn những sự trọng ấy, cho nên lại xin cho được vào dòng ấy,cùng
hỏi vì lẽ nào cho được phó cả và mình mà thờ phượng Đức Chúa Trời cho nên. Ấy
là đàng Đức Chúa Trời đã mở ra cho nên phải lập dòng chị em tu hành ở nước
Annam, dòng này đặt tên là dòng chị em Mến Câu Rút Đức Chúa Jêsu”[13]. Với Đức cha
Lambert, những chị em Mến Thánh Giá cũng như các linh mục, dù là
người Châu Âu hay Châu Á, đều là thừa sai đúng nghĩa, họ đều có đôi
chân để đi, có tay để phục vụ, có mắt để nhìn, có trái tim để yêu
thương, có miệng để rao giảng Phúc Âm và có tâm hồn để cầu nguyện.
Cả những giáo dân thuộc mọi giới tính, mọi hoàn cảnh, mọi quốc gia,
theo ngài đều có thể thông phần vào việc tông đồ của Giáo hội trên
toàn thế giới, miễn là kết hợp bằng cách dấn thân thực sự hay trong
tinh thần, vào các ý nguyện và các thực hành của Những Người Yêu Mến
Thánh Giá, nhờ đó họ trở nên thừa sai trên toàn thế giới. Đó chính
là “hiệp hành” đích
thực.
Thương tích thập giá: minh chứng tình yêu
Cả cuộc đời Đức cha Pierre
Lambert là trang Tin Mừng sống động về tình yêu nhưng có lẽ những minh chứng
về tình yêu sống động nhất là trái tim “đại bàng” bị rỉ máu bởi những
mũi tên ác ý nhắm vào ngài. Không chọn an phận hay nhắm mắt làm ngơ
trước trào lưu tục hóa nơi giới tu sĩ truyền giáo đang nổi cộm thời
bấy giờ, ngài đã thẳng thắn lên án, gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh
trong Giáo hội. Quả nhiên, “thật
thà thẳng thắn thường thua
thiệt”, ngài nhận về sự vu khống, chống đối mãnh liệt từ
phía những người đang buông mình sống theo dục vọng thế gian. Ngài
cũng “lãnh đủ” như Thánh Phaolô: đắm tàu, bắt bớ, vu khống, hạ
độc…nhưng điều gì có thể tách ngài ra khỏi tình yêu Thiên Chúa? “Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói
rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8,35). Cùng với Thánh
Phaolô, ngài có thể tuyên xưng: “Chúng
ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8,37) và tự
hào:“Tôi cảm thấy vui sướng khi mình
yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức
Kitô” (2Cr 12,10), “tình yêu của nhà thừa sai Tông tòa đích thực không
bao giờ để bị dập tắt,vì chất liệu làm món ăn [tinh thần] không thể thiếu hụt…”[14]
Trái
tim đầy thương tích của Đức cha Pierre Lambert vẫn thiết tha duy
trì sự hiệp nhất, mong ước sự hòa giải để hướng đến hiệp thông
trọn vẹn trong Hội Thánh. Để xóa bỏ mọi hiềm khích với các cha
Dòng Tên, khi lập chúc thư đề ngày 22.7.1675, ngài để lại toàn bộ
tài sản của mình cho công cuộc truyền giáo. Ngài viết trong chúc thư:
“Tôi biếu cho nhà thờ các cha Dòng
Tên ở Macao cây Thánh giá mà em tôi đã để lại cho tôi ít ngày trước
khi mất, để chứng tỏ tình thân hữu của tôi với các cha”[15]. Cử
chỉ tượng trưng này đủ để tóm lại tính triệt để của con người thần
bí Thập Giá vĩ đại này. Khi trối lại cho “các địch thủ” lợi hại
nhất của ngài một kỷ vật có ý nghĩa thiêng liêng, có lẽ là vật duy
nhất ngài tha thiết muốn giữ, hơn nữa lại là hình ảnh tình yêu duy
nhất của ngài, Đức Giám mục Bérythe (Lambert) đã xóa bỏ mọi hận
thù và đặt các cha Dòng Tên vào chỗ đứng họ phải có, là những
người anh em trong Chúa Kitô. Một cách hãnh diện và đượm chất tha thứ
của Tin Mừng, ngài đã làm vinh danh Thiên Chúa qua việc thực hành đức
ái hoàn hảo.
Sau
cùng, sức mạnh của tình yêu phi thường trong “chim đại bàng” ấy được
tỏ lộ lần cuối qua cách kết thúc cuộc đời trần gian với tâm hồn
chìm đắm trong đêm tối nội tâm và thân xác bị dày vò trong cơn hấp
hối kinh hoàng. Con đường thập giá kéo dài cho cả thể xác lẫn tinh
thần của ngài là những năm tháng cuối đời trên giường bệnh. Người ta
thường nghe ngài rên la thật thảm thương nhưng ngài bảo: đau đớn đó
chưa là gì so với cay đắng tràn ngập trong tâm hồn ngài, vì Chúa đã
cất đi mọi an ủi nội tâm và chỉ để lại một tia sáng le lói ngăn cản
ngài tuyệt vọng. Trong những cơn đau khủng khiếp lúc hấp hối, ngài
không ngớt kêu lên: “Lạy Chúa, xin gia
tăng sự đau đớn, xin ban thêm sức chịu đựng cho con”[16]. Đó cũng
là giây phút minh chứng những tâm tình ngài từng có: “Đây là một bí mật tuyệt vời: yêu mến
Chúa Giêsu Kitô trong những cơn tăm tối, đau khổ và hy sinh của chúng ta và
trong phần chén đắng Ngài ban cho chúng ta được uống,cũng như khi Ngài ban tràn
đầy những âu yếm thắm thiết cho chúng ta. Vào những lúc đó... chúng ta phải hoạt
động theo những hy sinh mà linh hồn đã được Thiên Chúa mời gọi tham dự vào”[17]. Ngài trở nên
giống tổ phụ Apraham, như Thánh Phaolô từng nói: “Mặc dù không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững
tin.” ( Rm 4, 18).
Tạm kết
Nếu chim đại bàng là biểu tượng cho sức mạnh, lòng can đảm, tầm nhìn xa và sự bất tử thì cha Jean de Courtaulin hẳn có lí khi nhận định: “Đức Giám mục de Bérythe là một con đại bàng bay trên mây. Ngài không ngừng sống trong cầu nguyện và cô tịch, tuy vậy, ngài vẫn có sự cảnh giác đáng khâm phục, ngài không bỏ qua một việc nhỏ nào có thể làm ích và giúp cho các thừa sai của ngài”[18]. Trong đời sống phong nhiêu lạ lùng với ơn thần bí cao trọng và óc sáng tạo trổi vượt vì Tin Mừng, linh đạo của Đức cha Lambert như một kho tàng cần tái khám phá và là mẫu gương cần tái hiện trong đường lối truyền giáo của thời đại chúng ta.
[1] Françoise
Fauconnet-Buzelin, Người Cha Bị Lãng Quên của Công Cuộc Truyền Giáo
Hiện Đại, Pierre Lambert de la Motte, Nxb Phương Đông,
2014, bản dịch của Sư huynh Lucien Hoàng Gia Quảng. Tựa đề nguyên bản: Françoi se
Fauconnet-Buzelin, Le père inconnu de la Mission moderne, Pierre
Lambert de la Motte, premier vicaire apostolique de Cochinchine,
(1624-1679).
[4] Đào
Quang Toản, Bài Viết Của Đức Cha Lambert-Tường thuật buổi tĩnh tâm ngày
3.11.1963, LHNB,Tp.HCM, 2012,tr.32.
[5] Nhóm Nghiên cứu Linh đạo Mến Thánh Giá, Tuyển Tập Bút Tích - Thư gửi Cha Halle ngày 15.3.1661, tr.108.
[8] Đào Quang Toản, Bài Viết Của Đức Cha Lambert - Tác động của tình yêu tinh tuyền, LHNB,Tp.HCM,
2012, tr.43.
[9] Nhóm
Nghiên cứu Linh đạo Mến Thánh Giá, Tuyển Tập Bút Tích - Thư gửi Cha Halle
ngày 15.3.1661, tr.109.
[14] Đào
Quang Toản, Bài Viết Của Đức Cha Lambert - Tác động của tình
yêu tinh tuyền, LHNB,Tp.HCM, 2012, tr.38.
[16] Francoise
Fauconnet-Buzelin, Tìm về nguồn gốc Hội Thừa Sai Hải Ngoại, Nxb
Phương Đông, 2015, bản dịch của Sư huynh Lucien Hoàng Gia Quảng, tr.295.
[17] Đào
Quang Toản, Bài Viết Của Đức Cha Lambert - Tác động của tình
yêu tinh tuyền, LHNB,Tp.HCM, 2012, tr.38-39.
[18] Adrien
Launay, Histoire de la Mission de Siam 1662-1811, Paris, Téqui, 1920, trang 36.