GIỚI THIỆU CHI TIẾT 14 BỨC HOẠ THỜI TỬ ĐẠO
Tác giả: Kim Ân
Mùa hè năm 2009
WGPHN (23.11.2014)
– 14 bức hoạ thời tử đạo hiện được lưu giữ tại Hội Thừa Sai Paris (MEP). Vì thời
gian, bối cảnh lịch sử, tôn giáo và xã hội mà các bức hoạ diễn tả đã trở nên
khá xa lạ với phần đông khán giả của thế kỉ 21, chúng tôi mạo muội tra cứu và
dùng đôi chút hiểu biết ít ỏi của mình để tường giải, nhằm giúp những ai quan
tâm có thêm thông tin về một giai đoạn đau thương nhưng hào hùng của Hội Thánh
tại Việt Nam. Chúng tôi xin lần lượt giới thiệu các bức hoạ theo trình tự thời
gian diễn ra các vụ án. Chúng tôi cũng sẽ cố gắng, trong khả năng và điều kiện
tư liệu cho phép, đọc những chữ Hán được ghi trên các bức hoạ.
1. Bức họa cuộc tử đạo của cha Phêrô Lê Tuỳ, ngày
11-10-1833 tại Nghệ An
Bức hoạ cao 1,660 m, rộng 0,942 m, được vẽ trên giấy bồi trên vải mỏng. Bức họa chủ yếu được vẽ theo luật đồng hiện. Nét vẽ trong bức họa này khá sắc sảo. Chúng tôi tạm chia bố cục bức hoạ làm bốn phần: bị bắt – bị giam cầm – giải ra pháp trường – hành quyết.
Bị bắt: Góc phải, phần dưới của bức họa vẽ cảnh thánh nhân bị
bắt. Trước tiên là hình ảnh một xóm nhỏ, phía trước xóm có cổng và con đường với
dòng chữ Hán “Thanh Trác (?[1]) thôn” (lương dân thôn Thanh
Trác đã bắt cha Phêrô Lê Tuỳ trên đường ngài đi kẻ liệt vào ngày 25-6-1833[2]). Con đường trước thôn Thanh
Trác hướng về phía một khu nhà có tường bao quanh. Liền phía trên khu nhà này
có dòng chữ Hán “Thanh Chương huyện”[3].
Ở góc dưới cùng của bức hoạ là hình một chòi canh, gần đó có dòng chữ Hán “Sa
Nam đồn”. Cổng huyện lị Thanh Chương có con đường dẫn tới bến đò. Bên kia sông
là đoàn người áp giải cha Phêrô Lê Tùy, người đeo gông, có một viên quan dẫn đầu
và một nhóm lính vác gươm và gậy đi theo, đoàn người tiến về phía một tòa thành
nhỏ, phía trên có dòng chữ Hán “Anh (?) Sơn phủ”. Chếch về phía trái, góc dưới
có một số ngôi nhà, phía trên là dòng chữ Hán “Vân Đồn xã”.
Bị giam: Phía trên cùng, góc phải là một toà thành với dòng
chữ Hán “Nghệ An tỉnh”, hai cổng một bên là “Nam môn”, một bên là “chính Đông
môn”. Trong thành, tại một căn nhà, cha Phêrô Lê Tùy đeo gong, nơi ngôi nhà có
chữ “ngục thất”.
Giải ra pháp trường: Phía ngoài tòa thành là đoàn quân gươm
giáo tuốt trần áp giải thánh nhân ra pháp trường, có một viên quan cưỡi voi chỉ
huy đoàn quân, trên đầu viên quan là dòng chữ “giám sát quan”. Chếch về phía
trái là dòng chữ Hán “tống chí luận hình” – dẫn ra pháp trường. Một tên lính đi
trước thánh nhân, trên vai vác bản luận tội với hàng chữ “Minh Mạng thập tứ
niên bát nguyệt…”
Hành quyết: Cảnh hành quyết chiếm phần trung tâm trên bức hoạ
và được vẽ khá sinh động. Một đội quân cầm giáo tạo thành vòng tròn quanh pháp
trường, bên ngoài có đám dân chúng với tư thế và y phục khá đa dạng; viên quan
cưỡi voi cũng ở vòng này, phía trên đầu ông ta có mấy chữ “giám trảm quan”.
Ngay sát nơi hành quyết, một viên quan mặc áo the đang đứng, tay cầm cuộn giấy,
phía trên đầu ông ta là chữ “thị sát”. Đứng đối diện viên quan này, viên trưởng
nhóm đao phủ mặc áo đỏ, đeo gươm và cầm roi. Bốn viên đao phủ với tư thế khác
nhau vây quanh thánh nhân. Một thanh gỗ ghi bản án được cắm ngay tại nơi hành
hình với nội dung bằng chữ Hán ở mặt trước: “NHẤT ĐẲNG danh Tùy Lê Tùy quán Hà
Nội tỉnh Thường Tín phủ Thanh Trì huyện Ninh Xá tổng Bằng Sở xã cai phạm hệ bản
quốc nhân cửu tập dị đoan tự xưng đạo trưởng tiềm hướng dân gia tứ hành phiến dụ
nã liệp (?) tra tần khâm án xử trứ trảm lập quyết dĩ giới”; mặt sau: “Minh Mạng
thập tứ niên bát nguyệt nhị thập bát nhật – thìn thời”[4].
Chếch về phía dưới là chiếc gông vừa được gỡ khỏi cổ thánh nhân. Sau một hồi
chiêng lệnh, viên đao phủ chém đầu thánh nhân bằng một nhát gươm duy nhất, sau
đó hắn tung cho đầu rơi xuống đất. Máu phun lênh láng trên chiếu và trên đất.
Liền phía dưới chiếc gông, một đám người tay cầm giấy đang chạy về phía vị tử đạo
vừa bị hành quyết để thấm máu. Xác thánh nhân nằm sấp trên chiếu, tay bị trói
giặt ra phía sau.
Chếch về góc phải ngang với pháp trường có vài ba căn nhà,
phía trên có ba chữ Hán. Hai chữ đầu đã quá mờ, chữ sau cùng hẳn là chữ xã.
Theo chúng tôi, đây rất có thể là họ đạo Trang Mìa (Trang Nứa?), nơi thánh nhân
được an táng[5].
2. Bức họa cuộc tử đạo của cha Marchand Du, ngày
30-11-1835 tại Huế
Bức hoạ cao 1,500 m, rộng 0,836 m, được vẽ trên giấy bồi
trên vải mỏng. Họa sĩ đã ít nhiều áp dụng nghệ thuật hội họa Tây phương với
phong cách tả thực và luật cận – viễn. Hai cảnh nhỏ ở phía trên bức họa, theo
chúng tôi, có thể tạm coi như một cách áp dụng luật đồng hiện. Chúng tôi tạm
chia bố cục bức hoạ làm ba phần: thẩm vấn lần thứ hai[6] –
hành quyết – kết thúc cuộc hành quyết.
Thẩm vấn lần thứ hai: Ở phía trên, góc trái của bức hoạ là cảnh
cha Marchand Du bị thẩm vấn lần thứ hai tại Huế. Bị bắt tại Sài Gòn, bị đóng
cũi và giải tới Huế ngày 15-10-1835, ngay ngày hôm sau, cha bị đem ra thẩm vấn
lần thứ nhất, nhưng chưa bị hành hạ nhiều. Đêm 17-10-1835, do bị vu oan là tham
gia cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi, cha bị thẩm vấn lần thứ hai và bị hành hạ bằng
các loại kìm, kẹp nung đỏ. Bức hoạ cho ta thấy những vết thương ở tay và chân
thánh nhân.
Hành quyết: Cảnh hành quyết ở trung tâm và chiếm phần lớn diện
tích bức hoạ. Thánh nhân bị xử lăng trì, cũng còn gọi là bá đao hay tùng xẻo.
Sáng 30-11-1835, thánh nhân bị dẫn đến họ đạo Thợ Đúc cùng với bốn người khác
thuộc đảng Lê Văn Khôi cùng chịu án lăng trì với thánh nhân. Trên bức họa, xa
xa là đội quân cầm giáo vây quanh nơi hành hình. Phía ngoài vòng vây quân lính
là đám dân chúng, kẻ đứng người ngồi. Ở trung tâm bức họa, thánh nhân bị trói
vào cột[7], bốn đao phủ vây quanh thánh
nhân, một tên quì tay cầm rìu, ba tên còn lại cầm dao, kìm, móc để cắt từng miếng
thịt trên người thánh nhân. Vì đã trải qua những nhục hình khủng khiếp buổi
sáng hôm đó – không dưới ba lần thẩm vấn, sau mỗi lần là năm chiếc kìm nung đỏ
kẹp vào da thịt cho tới khi những chiếc kìm nguội hẳn – thánh nhân trút hơi thở
sau khoảng sáu vết xẻo[8].
Kết thúc cuộc hành quyết: Phía trên, góc phải của bức hoả tả
lại đoạn kết của cuộc hành quyết. Khi thánh nhân trút hơi thở, các đao phủ chặt
đầu thánh nhân, tháo xác khỏi cột hành hình, đặt nằm sấp trên đất, rồi dùng rìu
chẻ xác làm bốn mảnh.
3. Bức hoạ cuộc tử đạo của cha Jean-Charles Cornay
Tân, ngày 20-09-1837 tại Sơn Tây
Bức hoạ cao 1,660 m, rộng 1,213 m. Ngoài một số chi tiết phụ,
bức họa hầu như chỉ miêu tả cuộc hành quyết theo góc nhìn phi điểu. Bức họa
cũng được vẽ theo luật cường điệu với nhiều vòng tròn khác nhau, càng gần trung
tâm, các chi tiết càng được vẽ lớn và kĩ lưỡng hơn. Chúng tôi tạm chia bố cục bức
hoạ làm hai phần: những chi tiết phụ – cảnh hành quyết.
Những chi tiết phụ: Ở phía dưới, góc trái bức họa là mô hình
một tòa thành với dòng chữ Hán “Sơn Tây tỉnh” (thánh nhân đã bị giam giữ tại
tòa thành này cùng với ba thày giảng). Pháp trường diễn ra vụ hành quyết thánh
nhân cũng ở gần tòa thành này. Ở những góc còn lại của bức họa, có những đám
dân chúng đứng hoặc ngồi chứng kiến vụ hành quyết[9].
Bên trong đám dân chúng là đội quân cầm giáo đứng vòng quanh nơi hành hình.
Viên quan giám trảm cưỡi ngựa có lọng che, đang cầm loa cũng đứng ở vòng này.
Cảnh hành quyết: Cuộc hành quyết được miêu tả khá chi tiết. Góc trái là chiếc cũi[10], phía bên phải chiếc cũi là hai viên quan đang cầm bản án trong tay, có vẻ như họ đang đọc bản án. Bản án này cũng được viết trên một thanh gỗ sơn vôi cắm ngay tại nơi hành hình, như chúng ta thấy trong bức họa[11]. Tiếp theo về phía bên phải là xiềng xích[12], búa tháo xiềng, và vài chiếc cọc (những chiếc cọc vốn được đóng xuống nền đất để cột chặt chân tay tử tội)[13].
Thân thể thánh nhân nằm sấp[14] và
được đặt trên một chiếc chiếu điều, cũng chính là chiếc chiếu trải chân bàn thờ
đã theo thánh nhân suốt những ngày bị giam giữ[15],
và vừa bị sáu viên đao phủ (ba viên dùng gươm, hai viên dùng búa nhỏ, một viên
dùng búa lớn) chặt ra từng mảnh. Hai chân và hai tay bị chặt ở các khớp gối.
Viên đao phủ vừa chặt đầu thánh nhân xách đầu thánh nhân bằng tay phải – chiếc
mũ sọ màu đen (calotte) mà thánh nhân đã đội trong cuộc hành hình vừa văng ra
khỏi đầu – tay trái hắn đưa lưỡi gươm đầy máu lên miệng và dùng lưỡi liếm máu.
Viên đao phủ đứng liền bên hắn đang nghiêng người moi gan thánh nhân để ăn[16], dưới chân hắn là hai chiếc
cọc và sợi dây đã dùng để giữ chặt đầu thánh nhân ở vị trí hai bên thái dương[17]. Những viên đao phủ khác vẫn
đang xẻ xác thánh nhân, một phần áo vẫn còn cột vào tay thánh nhân. Một chi tiết
đặc biệt trong cuộc hành quyết này: viên quan giám trảm đã không theo trình tự
thông thường của một vụ xử lăng trì, sau tiếng chiêng đầu tiên, ông đã ra lệnh
cho đao phủ chặt đầu thánh nhân trước, sau đó mới cắt các khớp tay và khớp chân[18]. Viên đao phủ chính đã chặt
đầu thánh nhân bằng một nhát gươm duy nhất.
4. Bức hoạ cuộc tử đạo của thầy Phanxicô Xaviê
Nguyễn Cần, ngày 20-11-1837 tại Hà Nội
Bức họa cao 1,675 m, rộng 1,196 m, được vẽ trên giấy bồi
trên vải mỏng và được vẽ theo luật đồng hiện. Nét vẽ trong bức họa này kém sắc
sảo so với các bức họa khác. Chúng tôi tạm chia bố cục bức hoạ làm bốn phần: thẩm
vấn 1 – thẩm vấn 2 – dẫn ra pháp trường – cảnh hành quyết.
Thẩm vấn 1: Ở góc trái, phía dưới, bức họa giới thiệu cảnh một
tội nhân đeo gông và bị căng ra trước thềm một căn nhà. Một người mặc áo xanh,
quần điều, đang ngồi trong nhà, xung quanh có những nhóm người đang đứng hoặc
ngồi. Phía trên, góc phải của căn nhà là hai chữ Hán “huyện nha”. Ở đây, chúng
tôi thiển nghĩ cần giải thích thêm rằng trên đường chuyển thư của Đức Cha
Retord Liêu cho cha Tuần, ngày 19-04-1836, thầy Nguyễn Cần bị bắt tại làng
Ke-Vac (Kẻ Vác), bị đánh đòn rồi vài ngày sau bị giải tới huyện đường Thanh
Trì. Hẳn phần này của bức họa này đã vẽ cảnh diễn ra tại huyện nha Thanh Trì.
Thẩm vấn 2: Phần này chiếm gần trọn nửa trên của bức họa với
một tòa thành lớn, có kì đài cao. Ở tường thành, ngay phía chân kì đài là dòng
chữ Hán “Hà Nội tỉnh thành”, cổng bên trái có chữ “đông môn” và cổng bên phải
có chữ “bắc môn”. Phía trong tòa thành có hai khu nhà với tường bao quanh. Phía
trên khu nhà bên phải có dòng chữ “tổng đốc quan”. Sau khi bị bắt và giải tới
Thanh Trì, thánh nhân bị giải tới Hà Nội và bị điệu ra trước mặt quan tổng đốc,
bị đánh đòn và ép buộc bước qua thập giá. Trong bức họa, trước mặt quan tổng đốc,
hai tên lính đang cầm hai đầu gông để kéo thánh nhân bước qua thập giá. Thánh
nhân co chân lên để không chạm chân lên biểu tượng thiêng thánh. Ở cổng khu nhà
bên trái có hai chữ “ngục môn” – cổng nhà ngục, phía trong là cảnh thánh nhân
đeo gông, bị cùm chân, với nhiều tù nhân khác xung quanh[19].
Dẫn ra pháp trường: Ngày 20-11-1837, một đội quân đông đảo
áp giải[20] thánh nhân qua cửa bắc
đi ra pháp trường Ô Cầu Giấy. Bức họa giới thiệu một phần đoàn người đi ra pháp
trường. Thánh nhân đeo gông, mặc áo đỏ, tay chỉ lên trời. Khi ra khỏi cổng
thành, đoàn người dừng lại để chờ sáu tử tội khác cùng bị hành quyết hôm đó. Thánh
nhân đã tận dụng cơ hội này để giảng, trong khoảng một giờ, một bài ứng khẩu
cho đám quan lại, quân lính và đông đảo dân chúng đi theo về sự chết. Một tên
lính đứng phía trước thánh nhân vác một phiến gỗ có những chữ Hán “nhất bài
Nguyễn Tiến Truật…”[21].
Cảnh hành quyết: Cảnh hành quyết được vẽ theo góc nhìn phi
điểu. Một đội quân cầm giáo đứng vòng quanh pháp trường. Phía góc trái pháp trường
là ba viên quan cưỡi voi, một viên quan mặc áo đỏ đang quát loa. Xa xa, những
đám dân chúng đang túm tụm đứng xem cuộc xử án. Bên trong vòng quân cầm giáo, một
người phụ nữ đứng chắp tay quay về phía viên quan cầm loa, phía đầu bà ta có những
chữ “… hồi mai tang thổ”. Gần nơi hành quyết, cách người phụ nữ đó không xa là
một người phụ nữ khác đang bưng khay. Bà ta và một nhóm giáo dân đã chuẩn bị một
bữa tiệc với chút rượu cho thánh nhân ăn trước khi chịu hành hình. Gần chỗ bà
ta đứng là bốn phụ nữ, kẻ đứng người ngồi, một bà đang cầm trong tay xấp vải[22]. Trong số sáu tử tội cùng
chịu án với thánh nhân, bốn người đã bị chém đầu, một người khác đang bị tên
đao phủ kề gươm vào cổ, một người vẫn còn quì giữa pháp trường. Gần nơi hành
quyết thánh nhân, gông và xiềng vừa được gỡ ra. Thánh nhân vừa bị xử giảo, tức
siết cổ. Hai toán lính hai bên vẫn đang cầm sợi xích tròng qua cổ thánh nhân, một
tên lính mặc áo xanh đang nghiêng người về phía thánh nhân[23].
Một tên đao phủ đang dùng gươm cắt cổ thánh nhân[24].
Bản án thánh nhân cũng được ghi trên một phiến gỗ sơn vôi và cắm gần bên nơi
hành quyết. Nội dung bản án bằng chữ Hán như sau: “Nguyễn Tiến Truật quán Thường
Tín phủ Sơn Miêng xã cai phạm bản [quốc?] tòng Gia Tô đạo hựu bất khẳng khoá
quá thập tự thẩm án xử cấp lập quyết tư bài. Minh Mạng thập bát niên cửu nguyệt
thập bát nhật”[25].
5. Bức họa cuộc bắt bớ và giải thầy Phêrô Nguyễn Khắc
Tự, cha Vinhsơn Nguyễn Thế Điểm và Đức cha Pierre Dumoulin Borie Cao tới Quảng
Bình, ngày 27-07 và 31-07-1838
Bức họa cao 1,709 m, rộng 0,890 m, được vẽ trên giấy bồi
trên vải mỏng và được vẽ theo luật đồng hiện. Nét vẽ trong bức họa này khá sắc
sảo. Chúng tôi tạm chia bố cục bức hoạ làm ba phần: lùng sục và bắt bớ – giải
đi – giam cầm và thẩm vấn.
Lùng sục và bắt bớ: Phía dưới bức họa là hình ảnh vài ngôi
làng, có những nhóm quân lính và hai người đang quì. Nơi vài ngôi nhà ở góc
trái, phía dưới, có chữ “Cồn Giờ”[26]. Ở phía dưới của vài ngôi
nhà có mấy người đứng và quì có hai chữ “Lệ Sơn”. Hai chữ phía trên đầu hai người
đang quì là “oa gia”[27]. Phía dưới, góc phải là hai
chữ “đại hải”. Chúng tôi xin mạo muội giải thích thêm ở đây. Năm 1838, vua Minh
Mạng ra lệnh lùng bắt cha Candalh Kim, giám đốc chủng viện Di Loan. Ngày 02-07
năm đó, quân lính bắt được cha Khoa và hai thầy giảng Đức và Khang. Khi bị tra
tấn, thầy Khang đã khai rằng có một thừa sai Âu Châu ở vùng Bố Chính. Quân lính
lập tức đi bố ráp vùng này, đặc biệt vùng ven biển. Ngày 27-7, họ tìm được một
số đồ vật của cha Vinhsơn Nguyễn Thế Điểm và bắt đầu tra khảo chủ nhà. Sáng hôm
sau, một người tên là Yên đã đồng ý dẫn quân lính đến nơi cha Điểm ẩn trốn, nơi
các đụn cát gần làng Đan Sa[28]. Trong bức họa, cha Điểm đầu
tóc bạc phơ – lúc đó ngài đã 74 tuổi – ngồi trong một lùm cây, bên cạnh có nải
chuối. Quân lính cầm gậy, một đám đang núp, hai tên tiến về phía cha Điểm, gần
đó là một người đang chạy, phía dưới có hai chữ “Sa Sơn”. Bắt được cha Điểm,
quan quân chưa hài lòng và họ quyết tâm lùng sục để tìm ra vị thừa sai Âu Châu.
Trên đường truy tìm, họ bắt được một tín hữu tên là Thanh và nạt nộ anh. Anh
này khai ra là có nhìn thấy một người vóc dáng rất lớn ở gần bờ biển. Quan quân
tiếp tục lùng sục suốt đêm đó. Khi cha Borie Cao, lúc đó đang trốn trong một bụi
cây, nghe tiếng quan quân tới gần, ngài biết đã bị lộ nên ra nộp mình. Giữa đêm
tối, quan quân thấy một người cao lớn tiến ra nên hoảng sợ. Một tên lính ra lệnh
cho vị thừa sai quì xuống. Tuy nhiên, để trấn át nỗi sợ, hắn vẫn vung gậy đánh
vào lưng ngài. Đó là chuyện diễn ra sáng ngày 31-07-1838. Trong bức họa, quân
lính cầm gậy đang từ nhiều hướng tiến về phía cha Borie Cao, một tên đang vung
gậy. Phía sau mấy tên lính là những chữ “Trường Sa Sơn”.
Giải đi: Phần giữa bức họa trình bày cảnh giải ba vị chứng
nhân của Chúa Giêsu đi về tỉnh lị Quảng Bình. Phía sau lưng đoàn người là vài
căn nhà có tường bao quanh với ba chữ “Quảng Trạch huyện”. Đoàn quân áp giải
mang gươm giáo. Ba tù nhân mang gông. Cha Borie cao đi đầu, sau đó là cha Điểm,
cuối cùng là thầy Tự (người giúp việc cha Borie Cao, thầy đã tự tới nộp mình
lúc cha Cao bị bắt). Chỉ huy đoàn áp giải là một viên quan cưỡi ngựa mặc áo
xanh. Phía trên đầu đoàn người áp giải có hai chữ “giải tỉnh”. Trước mặt đoàn
người là một dòng sông, ở mép bức họa có chữ “đò Gianh”.
Giam cầm và thẩm vấn: Phần trên bức họa là một tòa thành, cổng
bên phải có chữ “chính đông môn”, cổng bên trái có chữ “chính nam môn”. Bên
trong tòa thành là cảnh công đường. Hai viên quan áo đỏ và áo xanh ngồi chính
giữa, có hai nhóm quan lại ngồi hai bên tả hữu. Trước thềm công đường, hai hàng
lính cầm giáo đứng hai bên. Giữa sân công đường, thầy Tự bị căng ngang ra bằng
hai chiếc cọc đóng xuống đất. Thầy đang bị hai tên lính đánh đòn và mông thầy đầy
vết máu. Cha Cao và cha Điểm đeo gông đứng gần đó[29].
Nóc công đường có dòng chữ “Quảng Bình tỉnh tra”. Liền bên công đường là một
ngôi nhà, phía trong có năm người đeo gông. Phía trên căn nhà có chữ “ngục thất”.
Tại ngục thất Quảng Bình, ba vị chứng nhân của Chúa còn gặp hai vị chứng nhân
khác là cha Phêrô Võ Đăng Khoa và ông lang Năm, tức Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh.
6. Bức họa cuộc tử đạo của ông Micae Nguyễn Huy Mĩ,
Antôn Nguyễn Đích và cha Giacôbê Đỗ Mai Năm, ngày 12-08-1838 tại Nam Định
Đây là bức họa lớn nhất, chiều cao 1,804 m, chiều rộng 1,965
m, được vẽ trên giấy bồi trên vải mỏng và được vẽ theo nhiều thủ pháp nghệ thuật
dân gian khác nhau như luật đồng hiện, luật tẩu mã và luật phi điểu. Nét vẽ
trong bức họa này không sắc sảo cho lắm. Chúng tôi tạm chia bố cục bức hoạ làm
bốn phần: bắt bớ và giải đi – giam cầm và thẩm vấn – dẫn ra pháp trường và hành
quyết – mai táng.
Bắt bớ và giải đi: Cảnh bị bắt và giải đi chiếm gần trọn phần
dưới của bức họa. Ở góc trái, bức họa giới thiệu cảnh quân lính cầm giáo bao
vây một khu dân cư[30]. Phía trước căn nhà trong bức
họa có bốn chữ “Vĩnh Trị dân cư”. Quan quân đã bắt được cha Giacôbê Đỗ Mai Năm
tại nhà ông Antôn Nguyễn Đích (ông trùm Đích). Quan quân cũng bắt luôn ông Micae Nguyễn Huy Mĩ là con rể ông trùm Đích, cũng là lí trưởng làng Vĩnh Trị. Bức
họa cho ta thấy cảnh ba vị bị trói và điệu ra đình làng Vĩnh Trị, tại đây, ông
lí Mĩ bị căng ra sân đánh đòn. Đứng gần ông lí Mĩ là ông trùm Đích. Cha Năm đứng
phía sau ông trùm Đích. Cách đình làng không xa về phía bên phải, một tên lính
đang đi lùng sục, cướp bóc của cải. Bên ngoài vòng vây quân lính, chếch về phía
trái, một đám người đang mang vác đồ đạc đưa lên thuyền bên bờ sông Đáy. Phía
phải, gần sát đường là một khu làng xóm với dòng chữ “Vỉ Nhuế xã cư dân”[31].
Chếch về phía trên một chút, ba vị mang gông bị quân lính áp
giải lên huyện, một viên quan nằm trên cáng ở phía đầu đoàn người. Trước mặt họ
là khu nhà có tường bao quanh với hai chữ “huyện nha”. Dưới chân đoàn người là
dòng chữ “kí giao huyện sở”. Phía sau đoàn người là ngọn núi nhỏ với hai chữ
“Nhôi sơn”, chỗ mấy người đang bắn có chữ “xạ trường”, chếch về phía dưới có một
ngôi chùa và ngọn núi với chữ “Hổ sơn”.
Ở phía dưới, góc phải của bức họa, quân lính áp giải ba người
mang gông, trong cáng không có người vì viên quan mặc áo xanh đã ra khỏi cáng,
trước mặt viên quan là bến đò và dòng chữ “huyện quan giao tù tại tuần phủ
quan”. Bên kia sông là vài ngôi nhà với những chữ “Phù Sa đồn”. Chếch lên phía
trên một chút, một viên quan mặc áo xanh, quần đỏ và đoàn lính áp giải ba người
mang gông, trên đầu đoàn người có hai chữ Hán “giải tỉnh”.
Giam cầm và thẩm vấn: Phần trên, gần trọn góc bên phải là một
tòa thành, phía trong có chữ “Nam Định tỉnh thành”. Ba cổng trong bức họa được
vẽ theo lối tẩu mã. Cổng phía dưới có chữ “chính nam môn”, cổng bên trái có chữ
“chính tây môn”, cổng phía trên có chữ “chính bắc môn”. Góc tây nam tòa thành
là cảnh công đường. Quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh mặc áo xanh ngồi giữa, có tả
hữu hai bên. Ba tù nhân đeo gông đang ở sân công đường, hai hàng lính vác gươm
tuốt trần đứng hai bên. Các quan muốn ép ba vị bước qua thập giá. Ông lí Mĩ chịu
thử thách đầu tiên[32]. Hai tên lính đang cầm ai đầu
gông để ép ông bước qua thập giá. Ông co chân lên để không chạm vào biểu tượng
thiêng thánh đó. Một tên lính đang vung roi đánh ông, một tên khác cầm chân ông
kéo ra, nhưng không thể làm ông bước qua thập giá. Phía sau công đường là một
ngôi điện[33]. Chếch về phía đông bắc của
tòa thành là cảnh ba người ngồi trong một căn nhà với hai chữ “ngục thất”.
Dẫn ra pháp trường và hành quyết: Ở góc phải, phía trên của
bức họa là cảnh ba vị chứng nhân của Chúa bị điệu ra pháp trường. Ba vị đeo
gông, cha Năm đi đầu, có đoàn quân lính vác giáo áp giải. Phía trước mỗi vị, một
tên lính vác phiến gỗ ghi bản án[34].
Phía trước mặt đoàn người, cảnh hành quyết chiếm trọng góc
trái, phần trên của bức họa, với nhiều chi tiết khá thú vị. Một đội quân đông đảo
cầm giáo đứng vòng quanh pháp trường. Quan tổng đốc và hai viên quan khác cưỡi
trên ba thớt voi để chủ trì cuộc xử. Ba vị tử đạo quì trên ba manh chiếu, mấy
tên lính đang tháo gông ra khỏi cổ ông trùm Đích. Một tên đao phủ đang vung
gươm chém ông lí Mĩ[35]. Chiếc gông vừa được tháo
khỏi cổ ông bị ném trên nền đất gần đó. Phần cha Năm, gông xiềng vừa được tháo
khỏi cổ cha. Viên đao phủ đang chuẩn bị hành hình. Một tên lính đeo gươm đứng
phía sau cầm một cây sào sẽ dùng để bêu đầu cha ba ngày như án lệnh. Gần chỗ
hành quyết cha là ba chữ “luận hình xứ”. Phía bên trái pháp trường, một đám dân
chúng chạy qua hàng rào quân lính để vào thấm máu các vị tử đạo, ba tên lính
dùng roi và sống gươm đánh đập họ, nhưng họ vẫn xông vào. Ở phía trên, góc trái
bức họa, một người đang ngồi với xấp vải dùng để tẩm liệm ba vị tử đạo.
Mai táng: Trở lại phía dưới của bức họa, một đoàn người đông
đảo[36] cầm đuốc rước xác ba vị
tử đạo về an táng tại làng Vĩnh Trị. Phía trước xác mỗi vị là phiến gỗ ghi bản
án đã cắm tại nơi hành quyết. Trên phiến gỗ đầu tiên có chữ “nhất bài Mai Ngũ”,
phiến thứ hai có chữ “nhất bài Nguyễn Văn Khiêm”[37],
phiến thứ ba có chữ “nhất bài Nguyễn Huy Mĩ”. Ở gần đầu đoàn rước có dòng chữ
“tương[38] hồi mai táng”. Cũng ở
gần đầu đoàn rước, chếch về phía dưới, thân nhân các vị tử đạo mặc đồ tang ra
đón.
7. Bức họa cuộc bắt bớ và giải thầy Gioan
Baotixita Đinh Văn Thanh, thầy Phêrô Nguyễn Văn Hiếu và cha Phaolô Phạm Khắc
Khoan tới thành Ninh Bình, ngày 24-08-1838[39]
Bức họa cao 1,470 m, rộng 0,800 m, được vẽ trên giấy bồi
trên vải mỏng và được vẽ theo luật đồng hiện. Nét vẽ trong bức họa này khá sắc
sảo. Chúng tôi tạm chia bố cục bức hoạ làm ba phần: bị bắt – giải đi – giam cầm
và thẩm vấn.
Bị bắt: Bức họa không vẽ cảnh ba thánh nhân bị bắt. Tuy
nhiên, ở phía dưới, góc phải, bức họa giới thiệu cảnh một ngôi làng. Ngày
24-08-1838, một lương dân tố cáo với quan, và cha Phaolô Phạm Khắc Khoan đã bị
bắt tại làng Đông Biên cùng với hai thầy giảng giúp việc là thầy Phêrô Nguyễn Văn Hiếu và thầy Gioan Baotixita Đinh Văn Thanh.
Giải đi: Buổi tối ngày bị bắt, ba thánh nhân bị giải đi Ninh
Bình. Cảnh giải đi nằm ở giữa bức họa. Một đám đông chức việc và lương dân cầm
gậy và đuốc áp giải ba thánh nhân, phía cuối đoàn rước là một viên quan cưỡi ngựa.
Cha Phaolô Phạm Khắc Khoan đã 66 tuổi, không thể tự đi được nên nằm trên cáng,
phía sau là thầy Phêrô Nguyễn Văn Hiếu và thầy Gioan Baotixita Đinh Văn Thanh
mang gông trên cổ. Ở phía dưới đoàn người, chếch về bên phải là một nhóm người
mang theo gậy gộc, kẻ nằm người ngồi. Đây là nhóm giáo dân định tới giải cứu ba
vị, nhưng khi thấy không thể giải cứu được vì đoàn người đã lên đường đi về tỉnh
lị Ninh Bình, nhóm giáo dân chán nản ngồi xuống hoặc nằm ngay bên vệ đường.
Giam cầm và thẩm vấn: Nửa trên bức họa là một tòa thành. Cửa
thành bên phải có các chữ “chính đông môn”, cửa bên trái có chữ “chính nam
môn”. Bên trong tòa thành, phần trung tâm là cảnh công đường, quan tổng trấn mặc
áo xanh ngồi trong công đường có hai ban tả hữu hai bên. Trước sân công đường
là hai hàng lính, ở giữa là ba thánh nhân đeo gông và mang xiềng. Một viên quan
đang cầm tay thầy Hiếu để kéo thầy bước qua thập giá. Cha Khoan đứng liền sau
thầy Hiếu, phía sau ngài là thầy Thanh[40].
Chếch về góc phải, bức họa giới thiệu ba thánh nhân mang xiềng gông trong một
ngôi nhà, đó là ngục thất tỉnh lị Ninh Bình. Ba vị đã bị giam cầm tại đó gần 20
tháng, trước khi bị đem đi xử chém vào ngày 28-04-1840.
8. Bức họa cuộc tử đạo của Đức cha Pierre Dumoulin
Borie Cao, ngày 24-11-1838 tại Đồng Hới
Bức họa cao 1,690 m, rộng 1,074 m, được vẽ trên giấy bồi
trên vải mỏng theo luật cường điệu, dường như có áp dụng đôi chút nghệ thuật tả
thực. Trong số mười bốn bức, đây là một trong những bức họa có nét vẽ tương đối
sắc sảo.
Bức họa tả cảnh pháp trường với những chi tiết giống như
trong đa số các bức họa khác. Một đội quân cầm giáo đứng vòng quanh pháp trường.
Hai viên quan cưỡi voi chủ trì cuộc hành quyết. Bên ngoài vòng vây quân lính,
dân chúng đứng xem khá đông. Ở trung tâm bức họa, Đức cha Borie Cao đang quì
trên một manh chiếu, hai tay bị trói về phía sau, áo bị lột trễ xuống tới bên
trên thắt lưng[41]. Xung quanh Đức cha Borie
Cao có năm người khác: viên trưởng toán đao phủ mặc áo đỏ đứng cắp roi, một
viên đao phủ đứng chống gươm, viên đao phủ đang vung gươm và cạnh đó là hai
viên đao phủ khác. Bức họa cho thấy máu chảy lênh láng trên cổ, chảy xuống áo Đức
cha Borie Cao và xuống manh chiếu. Thực ra, họa sĩ đã không thể tả hết những điều
đã xảy ra. Chúng tôi xin trích dịch lại một đoạn trong cuốn La salle des
Martyrs du séminaire des Missions-étrangères, do Hội MEP ấn hành năm 1865: “…
Tên lính được lệnh chém đầu ngài đã uống say để bớt sợ hãi, đến nỗi tay anh ta
bị run rẩy nên chém không trúng. Nhát chém thứ nhất trúng tai và theo đà trượt
xuống hàm dưới rồi làm vỡ hàm. Nhát chém thứ hai hớt đi phần bả vai và ngoặt
vào cổ. Nhát chém thứ ba khá hơn, nhưng chưa thể làm đầu rơi xuống đất. Thấy cảnh
này, viên quan án sát[42] hoảng sợ lùi lại. Phải
tới nhát chém thứ bảy, màn trình diễn đẫm máu này với hoàn tất, nhưng chỉ sau
khi vị tử đạo đã ngã xuống, các viên đao phủ mới cắt đầu ngài lìa khỏi thân.”[43]
Phía trước mặt vị tử đạo, chiếc gông vừa tháo khỏi cổ bị ném
xuống đất. Cạnh đó là phiến gỗ sơn vôi ghi bản án. Chúng tôi chỉ còn đọc được
lõm bõm một số chữ trên bản án như sau: “Danh Cao tức… Phú Lãng Sa quốc… Gia Tô
tà giáo cuồng dụ ngu dân… nã tróc quả thị Tây dương nhân đạo trưởng… trảm lập
quyết tư bài thị. Minh Mạng thập cửu niên thập nguyệt sơ bát nhật.”
9. Bức họa cuộc tử đạo của thầy Phaolô Nguyễn Văn
Mĩ, thầy Phêrô Trương Văn Đường và thầy Phêrô Vũ Văn Truật, ngày 18-12-1838 tại
Sơn Tây
Bức họa cao 1,680 m, rộng 1,218 m, được vẽ trên giấy bồi
trên vải mỏng và được vẽ theo luật đồng hiện, luật cường điệu với góc nhìn phi
điểu. Nét vẽ trong bức họa này không sắc sảo lắm[44].
Bức họa được chia làm hai phần khá rõ rệt: tra khảo – hành quyết.
Tra khảo: Phần dưới của bức họa là cảnh thẩm tra các Kitô hữu.
Phía phải, một viên quan mặc áo đỏ đang ngồi trên sập, bốn viên quan khác đang
ngồi trước mặt ông ta. Ba thầy giảng mặc áo nâu, đeo gông và mang xiềng, đứng đầu
là thầy Mĩ, sau đó là thầy Đường và thầy Truật. Phía sau ba thầy, hai tên lính
đang xui các thầy chối đạo. Trước mặt các thầy, bẩy Kitô hữu vừa bước qua thập
giá vẫn còn đeo gông, một người khác đang bước qua thập giá.
Hành quyết: Cảnh hành quyết chiếm gần trọn bức họa. Phía dưới,
góc phải là hình ảnh thành Sơn Tây, với ba chữ “Sơn Tây tỉnh”, nơi ba thầy đã bị
giam giữ từ tháng 6-1837. Pháp trường, nơi diễn ra cuộc hành quyết cũng nằm gần
tòa thành này.
Khung cảnh hành quyết trong bức họa này cũng giống như trong
hầu hết các bức họa khác. Một đội quân cầm giáo đứng vây quanh pháp trường, hai
viên quan cưỡi ngựa và hai viên quan cưỡi voi giám sát cuộc hành quyết. Bên
ngoài, dân chúng tới xem khá đông. Ở góc trái, bên ngoài vòng vây quân lính, một
người mặc áo nâu đang đứng, đó là cha Triêu. Vị linh mục này đã đón các vị chứng
nhân của Chúa trên đường ra pháp trường để ban phép xá giải cho các vị[45]. Đứng cách cha Triêu không
xa là một nữ tu cũng mặc áo nâu, tay phải cầm nón, tay trái đang đưa vạt áo lên
lau nước mắt[46].
Cùng bị xử tử với ba thầy giảng còn có chín người bị tội
chém đầu và bốn người bị xử giảo như ta có thể quan sát trong bức họa. Ba thầy
giảng bị xử giảo, mỗi vị nằm trên một manh chiếu do giáo dân đưa tới. Thầy Đường
vẫn còn mặc nguyên cả áo, thầy Mĩ và thầy Truật bị lột áo tới thắt lưng. Tay
các thầy bị trói quặt ra sau lưng, chân bị trói. Một chiếc cọc đóng chắc phía
chân, một chiếc cọc khác đóng ngang phía cổ và có một tên lính giữ cọc này. Một
sợi dây được buộc vào chiếc cọc và tròng qua cổ mỗi vị. Ba tên lính cầm đầu kia
của sợi dây và chờ hiệu lệnh. Sau lệnh loa của viên quan cưỡi voi, một hồi
chiêng vang lên và các tên lính đồng loạt kéo các sợi dây. Thầy Mĩ và thầy Truật
có thêm chiếc gông đệm dưới ngực.
Trong bức họa, thầy Mĩ đã tắt thở. Một tên lính đốt gan bàn
chân của thầy theo như thông lệ cuộc xử giảo, để chắc chắn rằng người tử tội đã
chết. Phía đầu thầy có cắm một phiến gỗ sơn vôi ghi bản án. Chúng tôi đọc được
lõm bõm những chữ như sau: “Nguyễn Văn Hữu[47] quán
Hà Nội tỉnh Lí Nhân phủ Thanh Liêm huyện Sơn Nga xã cai phạm nguyên tòng Gia Tô
đạo… kinh dĩ tam khai mộc (?) hựu bất khẳng khóa quá thập tự bản niên thu thẩm
khâm án xử giảo lập quyết tư bài. Minh Mạng thập cửu niên cửu nguyệt nhị thập cửu
nhật”[48]. Ba bộ xiềng sắt xếp
ngay ngắn gần phiến gỗ ghi tội trạng. Viên trưởng toán đao phủ mặc áo đỏ đeo
gươm đứng cách đó không xa.
Bốn tên lính vẫn đang kéo dây siết cổ thầy Truật. Chúng tôi
đọc được một số chữ như sau trên phiến gỗ ghi bản án của thầy: “Nguyễn Văn Truật
quán… phủ Sơn Vi huyện Hà Thạch xã cai phạm nguyên tòng Gia Tô đạo… kinh dĩ tam
khai mộc (?) hựu bất khẳng khóa quá thập tự bản niên thu thẩm khâm án xử giảo lập
quyết tư bài. Minh Mạng thập cửu niên cửu nguyệt nhị thập cửu nhật.”
Bốn tên lính khác cũng đang kéo sợi dây siết cổ thầy Đường[49]. Chúng tôi đọc được trên
phiến gỗ ghi bản án một số chữ như sau: “Nguyễn Văn Đường quán tại Hà Nội tỉnh
Lí Nhân phủ Thanh Liêm huyện Ninh Phú xã cai phạm nguyên tòng Gia Tô đạo… kinh
dĩ tam khai mộc (?) hựu bất khẳng khóa quá thập tự bản niên thu thẩm khâm án xử
giảo lập quyết tư bài. Minh Mạng thập cửu niên cửu nguyệt nhị thập cửu nhật.” Một
viên quan mặc áo xanh, có lính che lọng, đứng ngay bên nơi hành quyết thầy.
10. Bức họa cuộc tử đạo của thầy Gioan
Baotixita Đinh Văn Thanh, thầy Phêrô Nguyễn Văn Hiếu và cha Phaolô Phạm Khắc
Khoan, ngày 28-04-1840 tại Ninh Bình
Bức họa cao 1,470 m, rộng 0,797 m, được vẽ trên giấy bồi
trên vải mỏng và được vẽ theo luật đồng hiện. Nét vẽ trong bức họa này khá sắc
sảo và có nhiều điểm tương đồng về cách sử dụng màu sắc, bố cục, hình họa so với
bức vẽ cuộc tử đạo của cha Phêrô Lê Tùy. Chúng tôi tạm chia bố cục bức hoạ làm
ba phần: giải ra pháp trường – cuộc hành quyết – mai táng.
Giải ra pháp trường: Phía trên cùng của bức họa là cảnh đoàn
quân áp giải cha Phaolô Phạm Khắc Khoan, thầy Phêrô Nguyễn Văn Hiếu và thầy Gioan Baotixita Đinh Văn Thanh ra pháp trường. Đoàn quân vác giáo, hoặc gươm tuốt
trần trên vai. Trong số ba vị chứng nhân của Chúa, cha Khoan đi đầu[50], sau đó là thầy Hiếu và sau
cùng là thầy Thanh. Phía trước mỗi vị đều có một tên lính vác một phiến gỗ sơn
vôi và ghi bản án.
Cuộc hành quyết: Cảnh hành quyết ở phần trung tâm và chiếm gần
trọn bức họa với rất nhiều chi tiết thú vị. Giống như ở hầu hết các bức họa tả
cảnh hành quyết khác, một đội quân cầm giáo đứng vây quanh pháp trường, viên
quan giám trảm mặc áo xanh cưỡi ngựa[51],
dân chúng tới xem khá đông, với y phục và tư thế đa dạng. Ở trung tâm của bức họa,
ba vị quì trên chiếu điều, các phiến gỗ ghi bản án cắm ngay bên nơi xử. Đầu cha
Khoan đã bị chém lìa khỏi cổ[52], viên trưởng toán đao phủ cầm
chiếc đầu giơ lên cao. Tên đao phủ đã chém đầu cha Khoan dùng thanh gươm còn vấy
máu cắt vào chân hắn[53]. Gần đó, tên đao phủ vẫn
đang tiếp tục giơ gươm chém xuống cổ thầy Hiếu. Tên đao phủ thứ ba đang dùng
gươm cứa cổ thầy Thanh, vì đầu thầy hầu như đã lìa cổ sau một nhát chém. Cạnh
nơi hành quyết, xiềng và gông cùng với kìm và búa phá gông xiềng vẫn còn nằm rải
rác đây đó. Bên trong vòng vây quân lính, liền bên xác cha Khoan, hai người đàn
ông đang ngồi để chuẩn bị đem xác thánh nhân đi. Xa hơn một chút, một người đàn
bà ngồi ngay dưới chân viên quan đánh chiêng. Bà ta đã dọn sẵn một bình rượu và
cơi trầu để trong thúng, dùng làm lễ vật xin quan giám trảm cho lấy xác các vị
tử đạo. Ở ngoài vòng quân lính, chếch về phía dưới, góc trái, hai người đàn bà
đang ngồi cạnh chiếc thúng với những xấp vải dùng để tẩm liệm xác các vị tử đạo.
Gần chỗ hai bà là một đoàn bốn người hành khất áo quần rách rưới.
Mai táng: Bức họa không tả rõ công việc mai táng, nhưng ở
phía dưới có hình vẽ một ngôi làng, đó là làng Yên Mối[54],
nơi chôn cất xác thầy Phêrô Nguyễn Văn Hiếu. Chếch về góc phải, phía dưới bức họa,
một người đàn ông đang vác phiến gỗ ghi bản án. Cạnh ông ta là mấy người đàn
ông đang khiêng một chiếc cáng. Những người này đang đưa xác cha Phaolô Phạm Khắc
Khoan về mai táng tại giáo xứ Phúc Nhạc[55].
11. Bức họa cuộc tử đạo của ông Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh
và thầy Phêrô Nguyễn Khắc Tự, ngày 10-07-1840 tại Quảng Bình
Bức họa cao 1,710 m, rộng 0,947 m, được vẽ trên giấy bồi
trên vải mỏng theo luật đồng hiện. Nét vẽ trong bức họa này khá sắc sảo và có
nhiều điểm tương đồng về cách sử dụng màu sắc, bố cục, hình họa so với những bức
họa tả cuộc tử đạo của cha Phêrô Lê Tùy, cha Phaolô Phạm Khắc Khoan, cuộc vây bắt
Đức cha Borie Cao và một số bức họa khác. Chúng tôi tạm chia bố cục bức hoạ làm
hai phần: giải ra pháp trường – cuộc hành quyết.
Giải ra pháp trường: Nửa trên của bức họa là hình ảnh một
góc của tòa thành có kì đài cao. Ở góc trái, gần chân kì đài có chữ “Quảng Bình
tỉnh”. Trên cổng ở góc trái có chữ “chính tây”. Phía trên cùng là một khúc sông
với khá nhiều thuyền lớn nhỏ[56]. Góc phải của bức họa có
hai chữ “đại giang”. Tại ngôi nhà gần cổng “chính tây” có chữ “ngục thất”. Một
đoàn quân mang gươm giáo trên vai, có hai vị quan cưỡi ngựa chỉ huy, đang áp giải
hai chứng nhân của Chúa đi từ ngục thất, qua cổng thành. Hai chứng nhân vai đeo
gông, có một tên lính vác phiến gỗ ghi bản án đi phía trước. Ông trùm Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh (tức ông lang Năm) đi trước, phía sau ông, người con trai cầm
nón che đỡ cho cha cái nắng dữ dội của mùa hè[57].
Phía bên trên đầu ông trùm Năm có hai chữ “lang Năm”. Thầy Phêrô Nguyễn Khắc Tự
đi phía sau và cũng đeo gông. Phía bên trên đầu thầy có hai chữ “Văn Tự”. Ở đầu
đoàn người có dòng chữ “tống chí luận hình”. Con đường đoàn người đang đi dẫn tới
một cổng lớn với chữ “Quảng Bình quan”. Trên các chòi canh ở dọc theo tường
thành hai bên cổng có những khẩu thần công.
Cuộc hành quyết: Khung cảnh hành quyết được vẽ khá sinh động.
Một đội quân cầm giáo đứng vây quanh pháp trường. Hai viên quan mặc áo xanh ngồi
trên lưng ngựa chủ trì cuộc hành quyết. Ở phía trên đầu viên quan đang cầm loa,
có lọng che, là chữ “giám sát quan”. Phía trên đầu viên quan kia là chữ “thị
sát”. Dân chúng với y phục và tư thế đa dạng đến xem khá đông.
Ở giữa pháp trường, hai chứng nhân nằm trên những manh chiếu.
Hai bộ gông bị ném chỏng chơ gần nơi hành quyết. Phiến gỗ luận tội cũng cắm liền
đó. Tay các tử tội bị buộc chặt vào cọc cắm xuống đất. Hai chân của các tử tội
bị trói và cũng bị buộc vào một cây cọc đóng xuống đất. Một sợi dây tròng qua cổ
ông trùm Năm, mỗi đầu sợi dây là ba tên lính đang ra sức kéo. Ngồi sát nơi ông
trùm Năm chịu hành hình có bảy người phụ nữ, là những người con gái và con dâu
của ông. Phía sau họ là hai người con trai của ông trùm Năm đang đứng. Về phần
thầy Tự, ba tên lính phía tay phải đã buông dây, chiếc cọc ghim tay phải thầy
xuống đất cũng đã bị bung lên. Ba tên lính kéo dây phía tay trái đang chỉ trỏ về
phía thầy. Máu trào ra từ mồm và mũi thầy[58].
12. Bức họa cuộc tử đạo của cha Phêrô Phạm Khanh,
ngày 12-07-1842 tại Hà Tĩnh
Bức họa cao 1,670 m, rộng 0,952 m, được vẽ trên giấy bồi
trên vải mỏng theo luật phi điểu và luật đồng hiện. Nét vẽ trong bức họa này rất
sắc sảo và có nhiều điểm tương đồng về cách sử dụng màu sắc, bố cục, hình họa
so với những bức họa tả cuộc tử đạo của cha Phêrô Lê Tùy, cha Phaolô Phạm Khắc
Khoan, cuộc vây bắt Đức cha Borie Cao và một số bức họa khác. Chúng tôi tạm chia
bố cục bức hoạ làm ba phần: bắt và giải đi – tra khảo và giam cầm – cuộc hành
quyết.
Bắt và giải đi: Ở phần dưới, bức họa giới thiệu một con thuyền
khá lớn xuôi theo dòng sông. Tại khúc sông sát mép dưới bức họa, một con thuyền
nhỏ hơn đậu bên bờ sông[59], gần đó, một người đang
cõng một cụ già, liền phía trên lưng cụ già là chữ “ông Khanh”[60]. Phía trước hai người là một
ngôi nhà có tường bao quanh với chòi canh khá cao, liền phía trên là chữ “Tam
Sa đồn”[61]. Từ đồn Tam Sa có một con
đường đi xuyên qua những dãy nhà lá. Dãy nhà bên hữu ngạn dòng sông có chữ “hạ
thị” – chợ dưới, dãy nhà bên tả ngạn có chữ “thượng thị” – chợ trên. Một bến đò
nối hai khu chợ hai bên dòng sông với chữ “đò hạ”. Chếch về phía trên, bên hữu
ngạn còn có hai khu nhà. Khu nhà phía dưới có chữ “Thọ Kì xã”[62], khu nhà phía trên có chữ
“An Thái tộc”. Đi qua đò hạ, một đoàn lính vác gậy và giáo mác do một viên quan
mặc áo xanh dẫn đầu đang áp giải cha Khanh về phủ Đức Thọ. Cha Khanh mang gông,
gần phía dưới chân cha có chữ “đồn quan giải phủ”. Ở khu nhà có những cổng lớn
và tường bao quanh, phía trước mặt đoàn người, có dòng chữ “Đức Thọ phủ”. Bên
ngoài tường phủ đường có một người đang dắt ngựa, một người khác đang ngồi gục
mặt, phía dưới người này có chữ “thằng cắt cỏ ngựa”.
Tra khảo và giam cầm: Ở phần trên của bức họa là một tòa
thành lớn. Phía sát mép trên của bức họa là chữ “Hà Tĩnh tỉnh”. Cổng bên phải của
tòa thành có chữ “chính bắc môn”. Cổng sát mép trái có chữ “chính tây”. Bên
trong tòa thành, giữa công đường có hai viên quan áo đỏ và áo xanh đang ngồi, mỗi
bên tả và hữu có hai người ngồi. Ở sân trước công đường, cha Khanh bị căng ra
đánh đòn. Chân tay cha bị trói và bị buộc vào cọc ghim xuống đất. Ở phía trước
và phía sau cha, mỗi phía có hai tên lính cắp gươm. Gần phía chân cha, một tên
lính cầm roi đang chờ lệnh quan. Sát thềm công đường là chữ “tỉnh tra”. Gần
công đường, chếch về bên trái là cảnh cha đeo gông ngồi trong nhà ngục. Phía
trên nhà ngục có chữ “ngục thất”.
Cuộc hành quyết: Ngày 12-7-1842, cha Phêrô Phạm Khanh bị 30
tên lính vác giáo điệu từ nhà ngục, qua cổng bắc đi ra pháp trường. Cha Khanh
đeo gông, bốn tên đao phủ vác gươm đi trước và sau cha. Một tên lính vác phiến
gỗ ghi bản án đi phía trước cha. Trên phiến gỗ có chữ “Thiệu Trị nhị niên nguyệt
nhật”. Phía đầu đoàn người là dòng chữ “tống chí luận hình”.
Khung cảnh pháp trường được vẽ khá sinh động. Một đội quân cầm
giáo vây quanh khu hành hình. Hai viên quan cưỡi voi chỉ huy cuộc xử. Phía đầu
viên quan có lọng che là chữ “giám sát quan”. Phía đầu viên quan kia là chữ “thị
sát”. Dân chúng với y phục và tư thế đa dạng tới xem khá đông. Ở chính giữa
pháp trường, xác cha Khanh nằm sấp trên chiếu, tay bị trói quặt ra sau lưng,
máu phun lênh láng từ cổ. Chiếc gông vừa được gỡ ra nằm gần đó. Toán đao phủ và
một viên quan đứng vây xung quanh nơi hành quyết. Sau ba hồi chiêng, tên đao phủ
chính chém rơi đầu cha bằng một nhát chém duy nhất, sau đó hắn đưa thanh gươm đẫm
máu lên miệng liếm. Viên trưởng toán đao phủ giơ đầu cha lên cao, hướng về phía
hai viên quan cưỡi voi[63]. Phiến gỗ ghi bản án được cắm
sát bên nơi hành quyết. Chúng tôi đọc được một số chữ trên bản án như sau: “…
Khanh quán Hà Nội tỉnh Thường Tín phủ Phú Xuyên huyện Quảng Nguyên xã Thị thôn
hệ thị đạo trưởng… một lương tâm… tòng tà giáo bất cố sinh thành bất phụng tổ
tiên khâm án xử… vi trảm quyết tư bài”[64].
13. Bức họa cuộc tử đạo của cha Augustin Schoeffler
Đông, ngày 01-05-1851 tại Sơn Tây
Bức họa cao 0,890 m, rộng 1,295 m, được vẽ trên giấy bồi
trên vải mỏng. Bức họa được vẽ theo góc nhìn cố định duy nhất, theo luật cận viễn
và có dùng bóng sáng tối.
Khung cảnh pháp trường được vẽ lại với nhiều chi tiết giống
với những cuộc hành quyết tại các bức họa khác. Ở bức họa này, phía xa xa là
thành Sơn Tây với cột cờ cao. Tại nơi hành quyết, hai vị quan cưỡi voi chỉ huy
cuộc xử án. Một đội quân đông đảo vây quanh pháp trường bằng ba vòng tròn: vòng
trong cùng cầm giáo, vòng thứ hai bồng súng và vòng thứ ba vác gươm trên vai[65]. Dân chúng kéo tới rất đông
đảo để xem cuộc hành quyết. Cha Augustin Schoeffler quì trên đất, áo lột xuống
bên trên thắt lưng, tay bị trói về phía sau. Bức họa cũng cho thấy trên cổ vị tử
đạo đã có vết chém. Trong bức họa, viên đao phủ chính đang vung gươm. Vì run rẩy
nên tên đao phủ phải chém tới ba nhát, sau đó hắn còn phải dùng gươm cứa cho đầu
lìa khỏi cổ. Xung quanh vị tử đạo còn có ba viên đao phủ khác vác gươm hoặc chống
gươm xuống đất. Xích xiềng được tháo ra và ném ngay gần nơi hành quyết. Viên chỉ
huy toán đao phủ mặc áo đỏ đứng gần đó. Ngay trước mặt vị tử đạo là phiến gỗ
sơn vôi ghi bản án[66].
Chúng tôi cũng xin dịch lại một đoạn trong bức thư Đức cha
Retord Liêu nói về bức họa này: “Đó là cách thức tạo nên các vị tử đạo tại nơi
đây: một đoàn người oai nghiêm gồm các vị quan cưỡi voi và quân lính mang theo
vũ khí, một đám đông đảo đủ hạng những kẻ đi xem, và ở giữa đoàn người này, một
vị tông đồ trẻ tuổi, trái tim bừng cháy lửa mến yêu, tay trói giặt sau lưng, mắt
hướng lên trời là nơi ngài đang nóng lòng vươn tới; một linh mục người Pháp có
học vấn xuất sắc, nhân đức vượt trội, quì gối xuống đất và gần bên ngài là viên
đao phủ vung gươm chém đầu ngài! Vâng, thưa Quí Ngài, đó là cách thức tạo nên
các vị tử đạo tại nơi đây. Có lẽ những người am hiểu sẽ thấy bức họa này ít phù
hợp với những chuẩn mực nghệ thuật, vì đó là tác phẩm của một nghệ sĩ chưa từng
được học hành về hội họa nơi sách vở hay tại trường của bất cứ vị thầy nào.
Nhưng vẻ đẹp của tác phẩm này không quan trọng lắm, chính chủ đề của bức họa mới
là yếu tố quyết định sự tò mò đầy lòng thành kính của Quí Vị: hẳn Quí Vị cũng sẽ
thấu hiểu được chủ tâm của kẻ gửi bức họa này tới Quí Vị, như một bằng chứng
khiêm tốn của lòng biết ơn, đối với sự quan tâm mà Quí Vị đã luôn dành cho sứ vụ
của kẻ hèn mọn này.”[67]
14. Bức hoạ cuộc tử đạo của cha Jean-Louis
Bonnard Hương, ngày 01-05-1852 tại Vĩnh Trị
Bức họa cao 1,070 m, rộng 1,789 m, được vẽ trên giấy bồi
trên vải mỏng. Phần chính của bức họa được vẽ rất sống động từ góc nhìn cố định
theo luật cận viễn và có dùng bóng sáng tối đồng thời áp dụng cả luật đồng hiện
trong hội họa dân gian. Chúng tôi tạm chia bố cục bức họa thành hai phần: sau
cuộc hành hình – nghi thức an táng.
Sau cuộc hành hình: Ở phía dưới, góc phải, bức họa giới thiệu
phía xa xa một tòa công đường. Gần tòa công đường là một nhóm lính cầm giáo đeo
gươm. Viên quan giám sát cưỡi trên lưng voi với một nhóm lính cầm mộc đeo gươm
đứng gần đó[68]. Một nhóm giáo dân ngồi ở
góc bức họa[69]. Viên đao phủ chém đầu cha bằng một nhát chém duy nhất. Trong bức họa, hắn vẫn còn đứng chống gươm xuống đất.
Bốn tên lính đang khiêng xác cha, một tên khác xách đầu cha bước về phía hai
chiếc thuyền, máu chảy lênh láng dưới đất[70].
Cách hai chiếc thuyền lớn không xa, bức họa giới thiệu cảnh bốn chiếc thuyền nhỏ
của giáo dân đang vớt xác thánh nhân từ lòng sống ở độ sâu chừng 25 bộ, tức khoảng
7,5 m.
Nghi thức an táng: Xác vị tử đạo lập tức được đưa về nhà
tràng Vĩnh Trị[71], được mặc áo lễ và đặt tại
nhà nguyện nhà tràng với đèn đuốc sáng trưng như ta thấy trong phần chính của bức
họa. Lúc đó khoảng 1 giờ sáng ngày 02-05-1852. Các giáo hữu làng Vĩnh Trị và các
thầy nhà tràng tới kính viếng xác vị tử đạo. Trong bức họa, cha Phaolô Lê Bảo Tịnh,
giáo sư nhà tràng, mặc áo trắng đứng ngay gần xác vị tử đạo. Ở phía dưới của bức
họa, một nhóm phụ nữ đã vượt qua hàng rào nhà tràng để vào xem xác vị tử đạo,
nhưng một thầy giảng mặc áo nâu, tay cầm roi đang xua đuổi họ. Xác vị tử đạo được
quàn tại đó cho tới tối ngày hôm sau, Đức Cha Retord Liêu cùng một vị thừa sai,
một linh mục Việt Nam và các thầy giảng tới cử hành nghi thức an táng. Trong bức
họa, Đức cha Retord Liêu và đoàn tùy tòng đang từ phía phải tiến vào nhà nguyện.
Cây thánh giá ở xa xa, phía sau hàng cau chính là nơi sẽ an tang vị tử đạo.
Trên đây, chúng tôi đã cố gắng dùng hiểu biết hạn hẹp của
mình giới thiệu một số chi tiết của 14 bức họa. Những sự kiện được tả lại trong
các bức họa diễn ra trong một khoảng thời gian khá dài, liên quan tới khá nhiều
địa danh ở cả ba miền đất nước. Tài liệu chúng tôi dựa vào để viết về những bức
họa này lại chủ yếu bằng Pháp ngữ. Do vậy, chúng tôi không thể tránh được những
sai sót liên quan đến tên các nhân vật và địa danh. Chúng tôi rất mong được những
bậc am tường chỉ dạy thêm.
Chúng tôi thiết nghĩ cũng cần phải kể ra ở đây một chi tiết
nhỏ. Có nhiều người đã tỏ ý không hài lòng khi chúng tôi dùng cách viết lí do
thay vì lý do, hi vọng thay vì hy vọng, lí giải thay vì lý giải v.v… Bên cạnh
lí do về ngữ âm học, chúng tôi còn dựa vào một lí do khác nữa: việc nghiên cứu
lại các sách vở về thời tử đạo khiến chúng tôi phải tìm đọc nhiều loại tài liệu
khác nhau, nhờ thế, chúng tôi biết được rằng ít nhất, đó đã là cách viết tiếng
Việt của một số linh mục người Việt vào thế kỉ 18.
Khi tham khảo tài liệu, chúng tôi cũng đọc được bài Chung
quanh lễ Phong Thánh các Anh Hùng Tử Đạo Việt-Nam do Đức ông Vinhsơn Trần Ngọc
Thụ, thỉnh nguyện viên được Đức Hồng Y Giuse Trịnh Văn Căn ủy quyền chính thức
trong vụ án phong thánh, viết nhân dịp kỉ niệm 10 năm biến cố trọng đại, ngày
19-06-1998, trong đó Đức ông cho biết về công trình kì diệu Thiên Chúa đã làm
trong lịch sử truyền giáo tại Việt Nam: “… sự thăng tiến của Giáo Hội ở đây sẽ
là căn bản phép lạ thiêng liêng thay thế cho một phép lạ thực sự sau cùng, mà lẽ
ra theo Giáo luật phải có để tuyên thánh cho các Chân Phúc Tử Đạo VN.” Dưới cái
nhìn như thế, việc sùng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam không thể chỉ dừng lại ở
những nghi lễ linh đình long trọng, nhưng phải hướng tới điều cốt yếu là sống
niềm tin các vị tử đạo đã tuyên xưng và làm cho niềm tin ấy sinh hoa kết trái
trong đời sống hằng ngày.
Như vậy, 14 bức họa mà chúng tôi giới thiệu ở đây không chỉ
là những chứng tích của một thời oanh liệt, nhưng phải là lời mời gọi tiếp tục
trở nên những chứng nhân Tin Mừng trong thời điểm và hoàn cảnh hiện tại của lịch
sử đất nước.
Nguồn: tonggiaophanhanoi.org (23.11.2014)
[2] Xem MEP, La salle des Martyrs du séminaire des
Missions-étrangères, Charles Douniol, libraire-éditeur, Paris 1865, tr. 107.
[4] Bản án bằng chữ Hán được chúng tôi ghi theo phiến gỗ ghi bản
án cắm tại pháp trường lúc hành hình thánh nhân, hiện được lưu giữ tại Phòng tử
đạo thuộc Hội Thừa Sai Paris. Ở phần dưới của phiến gỗ, mặt trước, còn có những
chữ Hán: “Thiên Chúa giáng sinh nhất thiên bát bách tâm thập tam niên – quí tị”.
Cuốn sách đã dẫn (sđd) ở trang 51-52 dịch lại nguyên văn bản án ra Pháp ngữ như
sau: «Le nommé Tùy Lê Tuy, de la province de Hâ-Nôi, de la sous-préfecture de
Thùong-Tin, du bailliage de Thành-Trì, du canton de Ninh Hòp, du bourg de
Binh-so, est un criminel. C’est certainement un homme de ce royaume-ci et il
sème depuis longtemps une doctrine extraordinaire ! Lui-même s’avoue chef de
religion; il va dans les maisons du peuple, ça et là, à son gré, le séduisant
par de mielleuses paroles. Il a été pris, mis en prison, interrogé, et la
sentence de son exécution a été portée, ordonnant de lui couper la tête,
publiquement et sans hésiter. Prenez ceci et regardez-le comme un ordre.” Mặt
sau của thanh gỗ là dòng chữ được dịch ra tiếng Pháp ngữ như sau: “Minh-Mênh,
14e année, 8e lune, 28e jour, entre 7 et 9 heures du matin.” Khi thời gian cho
phép, chúng tôi sẽ bàn về bản nghị án này trong một bài viết khác.
[6] Theo cuốn sđd, cha Marchand Du bị hành hạ bằng kìm nung đỏ
tới hai lần. Lần đầu, trong cuộc thẩm vấn lần thứ hai, diễn ra vào ngày
17-10-1835. Lần thứ hai, trên đường ra pháp trường, ngày 30-11-1835. Dựa vào những
miêu tả về cuộc tử đạo của thánh nhân, chúng tôi cũng đồng ý với các tác giả cuốn
sđd rằng hình ảnh ở góc trên, phía trái của bức hoạ giới thiệu hình phạt chịu kẹp
kìm nung đỏ trong lần thẩm vấn thứ hai. Tuy nhiên, chúng tôi không loại trừ khả
năng tác giả bức họa muốn giới thiệu hình phạt kẹp kìm nung đỏ mà thánh nhân phải
chịu trên đường ra pháp trường.
[7] Cuốn sđd, trang 133 kể rằng quân lính đóng năm giá hình chữ
thập xuống đất theo một đường thẳng, cha Marchand du bị trói vào giá thứ hai,
hai tay bị buộc vào thanh ngang.
[9] Theo chúng tôi, trong đám dân chúng đứng ở vòng ngoài hẳn
phải có vị thầy thuốc, một viên chức cấp thấp người Công giáo, vị nữ tu và một
chị đầy tớ, những người đã thu nhặt các phần thân thể và thấm máu thánh nhân
sau vụ hành quyết như cuốn sđd thuật lại ở trang 144-145.
[10] Theo lời của chính thánh nhân trong cuốn sđd ở trang 138,
thì đây là chiếc cũi gỗ chiều dài chừng năm bộ, chiều rộng và chiều cao chừng bốn
bộ, bốn chân cao sáu thốn. Đây là chiếc cũi thứ hai dùng để nhốt thánh nhân.
Chiếc cũi thứ nhất, dùng để nhốt thánh nhân khi thánh nhân bị bắt ngày
20-6-1837 tại làng Bau-Nô (tức Bầu Nọ), có bốn thanh gỗ ở bốn góc, phần còn lại
bằng tre.
[11] Nguyên văn bản án được dịch ra tiếng Pháp ở trang 142, cuốn
sđd như sau: “Le nommé Tan, dont le vrai nom est Cao-Lang-Ni (Cornay) du
royaume de Fu-Lang-sa (France) et de la ville de Loudun, est coupable comme
chef de fausse secte, déguisé dans ce royaume, et comme chef de révolte. L’édit
souverain ordonne qu’il soit haché en morceau, et que sa tête, après avoir été
exposé durant trois jours, soit jetée dans le fleuve. Que cette sentence
exemplaire fasse impression partout. – Fin de l’inscription.” “Le 21 de la 8e
lune de la 18e année du règne de Minh-Mênh.” Trên phiến gỗ ghi bản án được dựng
tại nơi hành hình, chúng tôi đọc được dòng chữ Hán «Danh Tân … Minh Mạng thập
bát niên bát nguyệt nhị thập tam nhật”, nghĩa là ngày hai mươi ba tháng tám năm
Minh Mạng thứ mười tám.
[12] Cũng theo cuốn sđd, trang 138, thì đây là một chiếc xiềng
hình tam giác, gồm một khong sắt ở cổ và hai khong sắt ở hai chân. Các khong
này được tán đinh với sợi xích nối từ cổ xuống tới thắt lưng, rồi phân đôi
thành hai sợi nối với hai khong ở đùi.
[16] Tác giả cuốn sđd, ở trang 28 ghi rằng: “… son voisin,
penché sur le corps, coupe un morceau du cœur pour s’en régaler dans un
horrible festin.” Chúng tôi đồng quan điểm với tác giả Launay Andrien trong cuốn
Les Cinquante-deux serviteurs de Dieu in tại Paris năm 1893, tập I, trang 243:
“Un satellite coupe en morceau le foie du vénérable Cornay afin de le manger”,
nghĩa là viên đao phủ đang moi gan chứ không phải moi tim. Cuốn La salle des
Martyrs do hội MEP ấn hành năm 1988, ở trang 5 cho biết thêm rằng vì ngưỡng mộ
lòng can đảm của thánh nhân, mấy viên đao phủ đã ăn gan và liếm máu thánh nhân,
vì họ tin rằng nhờ thế họ sẽ có được lòng can đảm của người chịu tử tội.
[17] Xem MEP, La salle des Martyrs du séminaire des
Missions-étrangères, Charles Douniol, libraire-éditeur, Paris 1865, tr. 143.
[19] Cuốn La salle des Martyrs du séminaire des
Missions-étrangères do hội MEP ấn hành năm 1865, ở trang 20 cho biết thêm rằng
quan tổng đốc đã giam chung thánh nhân với những tên tù đại phạm. Cuốn sđd ở
trang 148 trích lại lời thánh nhân rằng: “Tôi bị giam chung với mười lăm tên vô
lại ngoại giáo mà lời lẽ và hành động thật đáng ghê tởm.”
[20] Cuốn sđd, trang 155 thuật lại rằng đoàn áp giải gồm năm
viên quan cưỡi voi dẫn đầu, sau đó là hai viên sĩ quan cưỡi ngựa, ba trăm lính
mặc áo điều, gươm tuốt trần.
[22] Cuốn sđd, trang 156 thuật lại rằng vào lúc hành hình thánh
nhân, một nhóm giáo dân, đàn ông và đàn bà đã chạy xuyên qua hàng rào quân lính
[23] Cuốn sđd, trang 156 cho biết toán lính gồm mười hai tên,
chia thành hai nhóm, đứng bên phải và bên trái thánh nhân. Cuốn sách cũng nói rằng
khi giờ hành quyết điểm, có hai tên lính đã tới ghé vào tai thánh nhân thầm thì
điều gì đó.
[24] Cuốn sđd, ở trang 20-21 và 157 cho biết rằng theo thông lệ,
các tên lính dùng lửa đốt gan bàn nhân các tử tội, và vì có tin đồn rằng các
Kitô hữu có thể phục sinh sau ba ngày, một tên đao phủ đã dùng gươm cắt cổ
thánh nhân.
[25] Chúng tôi xin tạm dịch bản án như sau: “Nguyễn Tiến Truật
quê tại xã Sơn Miêng, phủ Thường Tín, người bản quốc phạm tội theo đạo Gia Tô lại
không chịu bước qua thập tự, xét án xử lập tức. Ngày mười tám tháng chín năm
Minh Mạng thứ mười tám.”
[27] Oa gia có nghĩa là gia đình chứa chấp. Tội oa gia trong thời
bách hại đạo Công giáo ở Việt Nam là tội của gia đình chứa chấp các vị thừa sai
hoặc các linh mục bản quốc.
[28] Ở mép trái của bức họa, hơi chếch về phía trên đoàn người
đang giải ba tù nhân, có vài ba ngôi nhà với ba chữ “Đan Sa xã”.
[30] Cuốn sđd, ở trang 23 và trang 176 kể rằng ngày 02-07-1838,
ba trăm quân kéo tới vây làng Vĩnh Trị, trụ sở địa phận Tây Đàng Ngoài lúc đó.
[31] Theo cuốn Đồng Khánh địa dư chí, xã Vĩnh Trị (永治)
thuộc tổng Ngọc Chấn (玉震), huyện Đại An (大安),
phủ Nghĩa Hưng (義興), tỉnh Nam Định (南定).
Tổng Ngọc Chấn nằm sát tổng Vỉ Nhuế (tự dạng chữ Hán trong phần bản đồ của cuốn
sách này là 嬀汭 – Qui Nhuế), trong tổng
này có xã Vỉ Nhuế.
[32] Cuốn sđd, trang 180 cho biết rằng trong khoảng 40 ngày bị
giam cầm, ông lí Mĩ đã nhiều lần bị đánh đòn. Ông cũng tình nguyện chịu đòn
thay cho bố vợ đã già yếu. Trong khoảng thời gian đó, ông đã bị đánh tổng cộng
khoảng 500 roi.
[33] Trong ngôi điện có ba chữ Hán. Chúng tôi chỉ đọc được chữ
đầu là kính và chữ cuối là điện. Theo sđd, trang 24 thì đây là kính thiên điện.
Nhưng chữ ở giữa không thể là chữ thiên.
[34] Cuốn sđd ở trang 186 có dịch lại nguyên văn bản án kết tội
cha Năm ra Pháp ngữ như sau: “Le sieur Nam, natif de Dông-Biên est un Annamite
qui s’est laissé séduire par un Européen qu’ils appellent l’Evêque Jacques. Il
est si profondément imbu de sa mauvaise doctrine qu’il a été impossible de lui
faire comprendre son erreur. Arrêté et mis à la question, il a refusé de fouler
la croix aux pieds; il est manifeste que parmi les sectateurs des mauvaises
doctrines, c’est un des plus coupables. En conséquence, il est condamné à avoir
la tête tranchée et exposée au haut d’un poteau pour l’instruction publique.”
[35] Sđd, trang 187 kể rằng tên đao phủ nói nếu ông cho hắn năm
quan tiền hắn sẽ chém một nhát mát mẻ. Ông trả lời: “Năm quan tiền để làm phúc
cho kẻ khó, chẳng có tiền cho chú mình đâu, muốn băm vằm thế nào thì mặc”. Tên
đao phủ bực mình chém ông tới năm nhát, đầu ông mới lìa cổ. Vài tài liệu khác
cũng cho biết rằng ông lí Mĩ đã xin quan xử cha Năm và ông trùm Đích trước, ông
xin chịu chém sau cùng. Các quan đã đồng ý cho làm đúng như thế.
[38] Chữ 將
cũng được đọc là tướng, khi đó chữ này có nghĩa là viên tướng. Cũng cần nói
thêm rằng trên bức họa này còn khá nhiều chữ Hán, nhưng một phần vì chữ đã mờ,
một phần vì tác giả dường như vẽ chữ, nên chúng tôi không thể đọc được hết.
[39] Ở phía dưới bản chụp bức họa này có dòng chữ Pháp ngữ:
“Arrestation des Sts. Paul Khoan, Pierre Hieu et J.-B. Thanh. Ninh Binh 1837”.
Tuy nhiên, chúng tôi dựa vào cuốn La salle des Martyrs du séminaire des
Missions-étrangères do hội MEP ấn hành năm 1865, ở trang 253, để xác định ngày
các thánh nhân bị bắt.
[40] Cuốn sđd ở trang 253-254 cho biết rằng ngay khi tới Ninh
Bình, các vị đã bị thẩm vấn và đánh đòn, bị dùng nhiều thủ đoạn dọa dẫm và mua
chuộc, nhưng các vị đã cương quyết trung thành với niềm tin vào Thiên Chúa.
[41] Theo cuốn sđd, trang 14-15 và 214-216, cùng bị xử tử ngày
24-11-1838 với Đức cha Borie Cao còn có hai vị khác là cha Vinhsơn Nguyễn Thế
Điểm và cha Phêrô Võ Đăng Khoa. Cũng cuốn sách trên, ở trang 15 còn cho biết
thêm rằng bức họa còn được lưu giữ hiện nay là một bản sao, được vẽ để gửi tặng
thân mẫu Đức cha Borie Cao. Có lẽ vì thế mà họa sĩ đã chỉ vẽ cảnh hành quyết Đức
cha Borie Cao và lược bỏ cảnh xử giảo cha Điểm và cha Khoa. Cuốn sách cũng cho
biết Đức cha Borie Cao ngước mắt lên trời, nhìn về phía tây.
[43] Hội MEP, sđd, tr. 216: “Le soldat auquel on avait imposé
l’ordre de lui trancher la tête, s’était enivré pour s’étourdir, en sorte que
sa main, mal affermie, portait les coups à faux. Le premier atteignit l’oreille
et dans sa violence descendit jusqu’à la mâchoire inférieure qu’il entama. Le
second enleva le haut des épaules et le replia sur le cou. Le troisième fut
mieux dirigé, mais il ne fit point tomber la tête. A cette vue le mandarin
criminel recula d’horreur. Il fallut y revenir jusqu’à sept fois pour achever
cette œuvre de sang, et ce ne fut même qu’après que le martyr fut tombé, qu’on
sépara la tête du tronc.” Cuốn La salle des Martyrs do Hội MEP ấn hành năm 1988
còn cho biết thêm rằng sau đó viên đao phủ đã bị đánh đòn.
[45] Cuốn sđd, trang 221 thuật lại rằng cha Triêu đã bất chấp
nguy hiểm, bốn lần lẻn vào nhà lao để giải tội và trao Mình Thánh Chúa cho ba
thầy giảng.
[46] Cuốn sđd, trang 18 kể lại rằng đây là nữ tu đã cung cấp những
vậy dụng thường ngày cho các vị tử đạo trong suốt thời gian các thầy bị giam cầm.
[48] Nguyên văn bản án được dịch ra Pháp ngữ ở cuốn sđd, trang
18-19 với một số dị biệt: “Le sieu Hua (nom supposé de Paul Mi), de la maison
de Ngu-Yen, dont la patrie est Son-Ngà, commune de l’arrondissement de
Thanh-Oaï, est coupable et a déjà été condamné pour faire profession de suivre
Jésus. La sentence d’automne de l’année courante ordonne l’exécution du
coupable par la trangulation. De Minh-Mênh, la 19e année, le 2e de la 11e
lune.”
[49] Cuốn sđd, trang 223 kể rằng thầy Đường đã phải chịu cơn hấp
hối khó khăn hơn thầy Mĩ và thầy Truật. Vì thiếu kinh nghiệm, các tên lính hành
hình đã không biết cách kéo dây, khiến đầu thầy bị đảo qua đảo lại và bê bết đất.
Cơn hấp hối cũng kéo dài hơn.
[50] Cuốn sđd, trang 259 thuật lại rằng trên đường ra pháp trường,
cha Phaolô Phạm Khắc Khoan và hai thầy giảng đã cao giọng hát bài Te Deum et
Benedicamus Domino.
[51] Cuốn sđd, trang 260-261 cho biết rằng vì có thiện cảm với
ba vị tử đạo, các viên quan đã khá dễ dãi và để mặc cho các tín hữu lấy xác và
thu nhặt các thánh tích tại pháp trường.
[52] Cuốn sđd, trang 260 cho biết rằng đầu cha Khoan lìa khỏi cổ
sau ba nhát chém. Thầy Hiếu đã phải chịu khá nhiều nhát chém. Còn thầy Thanh,
chỉ sau một nhát chém, hầu như đầu thầy đã lìa khỏi cổ.
[53] Cuốn sđd, trang 8 nói rằng tên đao phủ đã làm thế vì hắn
ta tin rằng nhờ trộn lẫn máu của cha Khoan với máu hắn, hắn sẽ nhận được sự can
đảm và gan dạ của ngài.
[55] Cha Phaolô Phạm Khắc Khoan là cha xứ Phúc Nhạc khi bị bắt
tại họ Đông Biên cũng thuộc giáo xứ này. Xứ Phúc Nhạc cũng là nơi từng an táng
rất nhiều vị tử đạo.
[56] Cuốn sđd, trang 261-262 cho biết rằng khi cuộc bách hại nổ
ra dữ dội vào năm 1838, dưới thời Minh Mạng, ông Antôn Năm đã mua một chiếc
thuyền và sống trên đó.
[58] Cuốn sđd, trang 16 cho biết thêm rằng thầy Tự đã chịu cơn
hấp hối dai dẳng và đau đớn. Những tên đao phủ cứ kéo rồi lại buông dây nhiều lần
cho đến khi thầy trút hơi thở. Cũng vì thế mà máu trào ra từ mũi và miệng thầy.
[59] Tài liệu về cuộc tử đạo của cha Phêrô Phạm Khanh cho biết
rằng cha dùng thuyền đi gặp cha Nghiêm và dọc đường cha bị bắt.
[60] Lúc bị bắt, cha Khanh đã ngoài 60 tuổi. Trước đó, khi ghé
qua Thọ Ninh, cha bị chó cắn và phải nghỉ tại đó một tuần.
[62] Cha Khanh đã từng coi sóc xứ đạo Thọ Kì trong vòng một
năm. Trong thời Minh Mạng, cha cũng đã từng ẩn trốn tại Thọ Kì.
[63] Tài liệu viết về cha Khanh còn kể rằng dân chúng cả lương
lẫn giáo ùa vào dùng giấy và vải thấm máu vị tử đạo.
[64] Cuốn sđd của Hội MEP, trang 297 và một số tài liệu khác đều
cho biết rằng cha Khanh sinh tại Hòa Duệ, Nghệ An. Nhưng những chữ trên phiến gỗ
ghi bản án trong bức họa lại đề rằng cha Khanh quê tại Hà Nội.
[65] Cuốn sdd, trang 26-27 nói rằng viên quan chỉ huy cuộc xử
án sợ các Kitô hữu nổi dậy cướp tù nên đã đưa đội quân đông đảo áp giải và canh
phòng pháp trường.
[66] Phiến gỗ này hiện vẫn còn được lưu giữ tại Phòng các thánh
tử đạo tại trụ sở Hội Thừa Sai Paris. Chúng tôi đọc được ở mặt trước phiến gỗ
này một số chữ như sau: “NHÂT ĐẲNG Gia Tô tà giáo …”. Mặt sau của phiến gỗ có
hàng chữ: “Tự Đức tứ niên tứ nguyệt sơ nhị nhật.” Bản dịch Pháp ngữ có một số
sai biệt với nội dung như sau: «Malgré la sevère défense portée contre la
religion de Jésus, le sieur Augustin, prêtre européen, a osé venir
clandestinement ici pour prêcher et séduire le peuple. Arrêté, il a tout avoué.
Son crime est patent. Que le sieur Augustin ait la tête tranchée et jetée dans
le fleuve. 4e année de Tu-Duc; 1er de la 3e lune”
[67] Launay Andrien, Les Cinquante-deux serviteurs de Dieu,
tome II, éditions de Téqui, Paris 1893, tr. 131: “Voilà donc comment se font ici
les martyrs: un imposant cortège de mandarins sur leurs éléphants et de soldats
sous les armes, un grand concours de spectateurs de tout genre, et au milieu de
cet appareil, un jeune apôtre, le cœur enflammé d’amour, les mains liées
derrière le dos, les yeux élevés vers le ciel où il lui tarde de s’élancer; un
prêtre françcais d’une instruction brillante, d’une haute vertu, à genoux sur
la terre et près de lui le bourreau qui brandit son sarbre pour lui trancher la
tête ! Oui, Messieurs, voilà comment se font ici les martyrs. Peut-être les
connaisseurs trouveront-ils ce tableau peu conforme aux règles de l’art, car il
est l’œuvre d’un artiste qui n’a jamais étudié la peinture ni dans les livres
ni à l’ecole d’aucun maître. Mais peu vous importera la beauté du travail;
c’est le sujet en lui-même qui fixera votre pieuse curiosité: vous apprécierez
aussi l’intention de celui qui vous l’envoie, comme un faible témoignage de
reconnaissance, pour l’intérêt que vous avez toujours porté à sa mission.”
[68] Ngày hành hình cha Bonnard tại Nam Định, giáo dân kéo tới
rất đông. Các quan đã đưa khoảng 500 lính áp giải và phải chuyển nơi hành hình
ra bãi Đan Thủy, cách thành Nam Định khoảng một dặm rưỡi.
[69] Cuốn La salle des Martyrs du séminaire des
Missions-étrangères do hội MEP ấn hành năm 1865, trang 346 cho biết vì các quan
đột ngột thay đổi pháp trường nên chỉ có khoảng vài trăm tín hữu đến kịp để chứng
kiến vụ hành quyết.
[70] Cuốn sđd, trang 347-348 kể lại rằng theo thông lệ, xác tử
tội được chôn cất tại nơi hành hình, nhưng vì không muốn để cho các tín hữu tôn
kính vị tử đạo, các quan đã cho hốt đất thấm máu, đem xác và đầu thánh nhân ra
hai thuyền lớn để ném xuống sông. Xác thánh nhân được đặt trong một chiếc thuyền
với nhiều lính đi theo, vị quan xuống chiếc thuyền thứ hai. Họ mang theo lương
thực cho ba ngày, rồi căng buồm xuôi theo dòng sông. Một chiếc thuyền nhỏ chở
theo một thầy phó tế và một thầy giảng đi lảng vảng phía trước để quan sát. Đêm
đó, nhiều thuyền đánh cá của các tín hữu ở các vùng lân cận cũng đi theo. Khoảng
tám chín giờ đêm, trời tối, hai chiếc thuyền lớn đảo qua lại vài vòng rồi dong
buồm ngược dòng sông. Các tín hữu đã xác định được vị trí, một thanh niên lặn
xuống lòng sông và chạm vào được thân thể vị tử đạo. Xác thánh nhân đã bị cột
vào một thớt cối đá xay bột, đầu thánh nhân bị bỏ vào rọ và buộc vào tay.
[71] Lúc đó Vĩnh Trị cũng là trụ sở của giáo phận Tây Đàng
Ngoài.