GIÁO LÝ CHO BÀI GIẢNG
LỄ MÌNH VÀ MÁU THÁNH ĐỨC KITÔ NĂM A
(Theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích)
WHĐ (09.06.2023) - Để hỗ trợ các nhà giảng
thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng,
Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh
Thánh của các lễ Chúa nhật, lễ trọng theo sự theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và
Kỷ luật các Bí tích trong Tập sách Hướng dẫn giảng thuyết được
công bố qua Sắc lệnh ký ngày 29.06.2014.
Số 790, 1003, 1322-1419: Bí tích Thánh Thể
790. Khi đáp lại Lời Thiên Chúa và trở nên chi thể của Thân Thể Đức
Kitô, các tín hữu được kết hợp mật thiết với Đức Kitô: “Trong thân thể đó, sự sống
của Đức Kitô được truyền thông cho các tín hữu là những kẻ, nhờ các bí tích, đã
được kết hợp một cách bí nhiệm và thật sự với Đức Kitô chịu nạn và được tôn
vinh”[1]. Điều này đặc biệt là thật đối
với bí tích Rửa Tội, nhờ bí tích này chúng ta được kết hợp với cái Chết và sự Sống
lại của Đức Kitô[2], và đối với bí tích Thánh Thể,
nhờ bí tích này “khi chúng ta được tham dự thật sự vào Thân Thể của Chúa, chúng
ta được nâng lên đến sự hiệp thông với Người và với nhau”[3].
1003. Được liên kết với Đức Kitô nhờ bí tích Rửa Tội, các tín hữu
thật sự đa tham dự vào sự sống thiên quốc của Đức Kitô phục sinh[4], nhưng sự sống này còn “tiềm
tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa” (Cl 3,3). Chính Thiên Chúa đã cho chúng ta được
“cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời” (Ep 2,6). Được
nuôi dưỡng bằng Mình Thánh Đức Kitô trong bí tích Thánh Thể, chúng ta đã thuộc
về Thân Thể của Người. Khi chúng ta được phục sinh vào ngày sau hết, “lúc đó”,
chúng ta sẽ xuất hiện “với Người và cùng Người hưởng phúc vinh quang” (Cl 3,4).
1322. Bí tích Thánh Thể hoàn tất việc khai tâm Kitô giáo. Những người
đã được nâng lên hàng tư tế vương giả nhờ bí tích Rửa Tội, và được nên đồng
hình đồng dạng với Đức Kitô cách sâu xa hơn nhờ bí tích Thêm Sức, nay nhờ bí
tích Thánh Thể được tham dự vào chính hy tế của Chúa cùng với toàn thể cộng
đoàn.
1323. “Đang khi ăn bữa Tiệc ly, trong đêm Người bị nộp, Đấng Cứu Độ
chúng ta đã thiết lập Hy tế Thánh Thể bằng Mình và Máu Người, để nhờ đó, Hy tế
thập giá trường tồn qua các thời đại, cho tới khi Người đến, và cũng để ủy thác
cho Hiền Thê yêu quý của Người là Hội Thánh, việc tưởng nhớ sự Chết và Sống lại
của Người: Đây là bí tích tình yêu, là dấu chỉ sự hợp nhất, là mối dây bác ái,
là bữa tiệc Vượt Qua, nơi chúng ta lãnh nhận Đức Kitô, linh hồn được tràn đầy
ân sủng và nhận được bảo đảm cho vinh quang tương lai”[5].
THÁNH THỂ, NGUỒN MẠCH VÀ TỘT ĐỈNH
CỦA ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH
1324. Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của toàn thể đời
sống Kitô giáo[6]. “Những bí tích khác cũng
như mọi thừa tác vụ trong Hội Thánh, và các hoạt động tông đồ, đều gắn liền với
bí tích Thánh Thể và quy hướng về bí tích đó. Thật vậy, phép Thánh Thể Chí
Thánh chứa đựng toàn bộ của cải thiêng liêng của Hội Thánh, đó là chính Đức
Kitô, Chiên Vượt Qua của chúng ta”[7].
1325. “Việc hiệp thông vào sự sống của Thiên Chúa và sự hợp nhất của
dân Thiên Chúa, nhờ hai điều đó mà Hội Thánh tồn tại, được diễn tả cách xác
đáng và thực hiện cách kỳ diệu nhờ bí tích Thánh Thể. Trong bí tích này, hanh động
Thiên Chúa thánh hoá trần gian trong Đức Kitô và việc phụng tự mà con người
dâng lên Đức Kitô và nhờ Người mà dâng lên Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần, cả
hai đều đạt tới tột đỉnh”[8].
1326. Sau cùng, nhờ việc cử hành bí tích Thánh Thể, chúng ta đã được kết
hợp với phụng vụ trên trời và tham dự trước vào đời sống vĩnh cửu, trong đó
“Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1 Cr 15,28).
1327. Tóm lại, bí tích Thánh Thể là bản toát yếu và tổng luận của đức
tin của chúng ta: “Cách chúng ta suy nghĩ phù hợp với bí tích Thánh Thể, và ngược
lại bí tích Thánh Thể xác nhận cách suy nghĩ của chúng ta”[9].
BÍ TÍCH THÁNH THỂ ĐƯỢC GỌI THẾ
NÀO?
1328. Sự phong phú vô tận của bí tích này được diễn tả qua nhiều
tên gọi khác nhau mà người ta dành cho bí tích này. Mỗi một trong các tên gọi
đó gợi lên một số phương diện. Người ta gọi bí tích Thánh Thể là:
Lễ Tạ Ơn, bởi vì đây chính là hành động cảm tạ Thiên Chúa. Các từ Eucharistein (Lc 22,19; 1 Cr 11,24) và eulogein (Mt 26,26; Mc 14,22) nhắc lại
những lời chúc tụng của dân Do Thái – nhất là trong bữa ăn – để tung hô các kỳ
công của Thiên Chúa: tạo dựng, cứu chuộc và thánh hóa.
1329. Bữa ăn tối của Chúa[10], bởi vì Hội Thánh tưởng niệm
bữa Tiệc Ly Chúa cùng ăn với các môn
đệ Người hôm trước ngày Người chịu nạn, và đây như là việc tham dự trước vào Tiệc Cưới của Con Chiên[11] trong thành Giêrusalem
thiên quốc.
Việc Bẻ Bánh, vì nghi thức này, nét đặc thù của bữa ăn Do Thái, đã
được Chúa Giêsu sử dụng khi Người dâng lời chúc tụng và phân phối bánh với tư
cách người chủ tiệc[12], đặc biệt trong bữa Tiệc Ly[13]. Nhờ cử chỉ này, các môn đệ
nhận ra Người sau khi Người sống lại[14];
và các Kitô hữu tiên khởi đã dùng thuật ngữ “Bẻ Bánh” để nói về các buổi cử
hành Thánh Thể của họ[15]. Như vậy họ muốn nói lên rằng,
tất cả những ai cùng ăn một tấm bánh duy nhất được bẻ ra, là Đức Kitô, thì được
hiệp thông với Người và làm thành một thân thể trong Người[16].
Cộng đoàn Thánh Thể (Synaxis),
bởi vì bí tích Thánh Thể được cử hành trong cộng đoàn các tín hữu, đó là cách
diễn tả hữu hình về Hội Thánh[17].
1330. Việc Tưởng Niệm cuộc
khổ nạn và phục sinh của Chúa.
Hy tế thánh, bởi vì hy tế duy nhất của Đức Kitô Đấng Cứu Độ được hiện
tại hoá và bao gồm cả lễ vật của Hội Thánh. Bí tích Thánh Thể còn được gọi là Hy tế Thánh lễ, “lễ tế ngợi khen” (Dt 13,15)[18], lễ
tế thiêng liêng,[19] hy tế tinh tuyền[20] và thánh thiện, bởi vì bí tích này hoàn tất và vượt trên mọi hy tế
của Giao Ước cũ.
Phụng vụ thánh và thần linh, bởi vì tất cả phụng vụ của Hội Thánh
có trung tâm và cách diễn tả cô đọng nhất trong việc cử hành bí tích này; cũng
theo nghĩa đó bí tích Thánh Thể còn được gọi là cuộc cử hành Các mầu nhiệm thánh.
Bí tích này cũng được gọi là Bí Tích Cực
Thánh, bởi vì là bí tích của các bí tích. Danh xưng này để chỉ các hình dạng
Thánh Thể được lưu giữ trong Nhà Tạm.
1331. Sự hiệp lễ, bởi vì
nhờ bí tích này, chúng ta được kết hợp với Đức Kitô, là Đấng cho chúng ta tham
dự vào Mình và Máu Người, để làm thành một thân thể duy nhất[21]; bí tích này cũng được gọi
là Những sự thánh (ta hagia; sancta)[22] – đây là ý nghĩa đầu tiên của mầu nhiệm
“các Thánh thông công” mà Tín biểu của các Tông Đồ nói đến –, Bánh các Thiên thần, Bánh bởi trời, Thuốc
trường sinh[23], Của ăn đàng….
1332. Thánh Lễ (Lễ Misa), bởi vì phụng vụ trong đó mầu nhiệm cứu độ được hoàn tất, được kết
thúc bằng việc sai các tín hữu ra đi (missio),
để họ chu toàn thánh ý Thiên Chúa trong đời sống hằng ngày của họ.
BÍ TÍCH THÁNH THỂ TRONG NHIỆM
CỤC CỨU ĐỘ
Các dấu chỉ là bánh và rượu
1333. Ở trung tâm việc cử hành bí tích Thánh Thể có bánh và rượu,
mà nhờ lời của Đức Kitô và việc khẩn cầu Chúa Thánh Thần, sẽ trở thành Mình và
Máu của Đức Kitô. Trung thành với mệnh lệnh của Chúa, để nhớ đến Người, cho tới
khi Người lại đến trong vinh quang, Hội Thánh tiếp tục làm điều Chúa đã làm hôm
trước ngày Người chịu khổ hình: “Người cầm lấy bánh...”, “Người cầm lấy chén rượu...”.
Các dấu chỉ là bánh và rượu, khi đã trở nên Mình và Máu Đức Kitô cách mầu nhiệm,
vẫn tiếp tục nói lên sự thiện hảo của công trình tạo dựng. Vì vậy trong phần
Dâng lễ, chúng ta tạ ơn Đấng Tạo Hoá vì đã ban bánh và rượu[24],
là kết quả của “công lao của con người,” nhưng trước hết đó là “hoa mầu ruộng đất”
và “sản phẩm từ cây nho”, tức là những hồng ân của Đấng Tạo Hoá. Hội Thánh nhận
ra cử chỉ của Melchisedech, là vua và là tư tế, ông “mang bánh và rượu ra” (St
14,18), là hình ảnh tiên báo cho hiến lễ của mình[25].
1334. Thời Giao Ước cũ, trong số các hoa trái đầu mùa của ruộng đất,
bánh và rượu được dâng lên làm lễ vật, với tính cách một dấu chỉ của lòng biết
ơn đối với Đấng Tạo Hoá. Nhưng chúng còn mang một ý nghĩa mới trong bối cảnh cuộc
Xuất Hành: Các bánh không men mà người Do Thái hằng năm vẫn ăn trong dịp lễ Vượt
Qua, gợi nhớ đến sự vội vã của cuộc ra đi thoát khỏi Ai Cập; kỷ niệm về manna
trong sa mạc luôn nhắc nhớ dân Israel rằng họ sống bằng bánh là Lời Chúa[26]. Cuối cùng, bánh ăn hằng
ngày là sản phẩm của Đất hứa, là bảo chứng việc Thiên Chúa trung tín với các lời
hứa của Ngài. “Chén chúc tụng” (1 Cr 10,16) vào cuối bữa tiệc Vượt Qua của người
Do Thái, đã thêm cho rượu một ý nghĩa cánh chung ngoài niềm vui lễ hội, đó là sự
trông chờ Đấng Messia đến tái tạo Giêrusalem. Khi thiết lập bí tích Thánh Thể của
Người, Chúa Giêsu đã ban một ý nghĩa mới và dứt khoát cho việc dâng lời chúc tụng
trên bánh và chén rượu.
1335. Các phép lạ hóa bánh ra nhiều, khi Chúa dâng lời chúc tụng, bẻ
bánh ra và trao cho các môn đệ Người để nuôi dưỡng đám đông, là hình ảnh tiên
báo sự vô cùng phong phú của tấm bánh duy nhất là Thánh Thể của Người[27]. Dấu chỉ nước hoá thành rượu
ở Cana[28] đã loan báo Giờ vinh quang
của Chúa Giêsu. Dấu chỉ này biểu lộ sự hoàn tất của bữa tiệc cưới trong Nước của
Chúa Cha, nơi các tín hữu uống rượu mới[29]
đã trở thành Máu Đức Kitô.
1336. Lời loan báo đầu tiên về bí tích Thánh Thể đã gây chia rẽ các
môn đệ, giống như lời loan báo về cuộc khổ nạn đã làm cho họ vấp phạm: “Lời này
chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6,60). Thánh Thể và Thánh Giá là những hòn
đá gây vấp ngã. Vẫn là cùng một mầu nhiệm, và mầu nhiệm đó không ngừng là cớ
gây chia rẽ. “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6,67):
Câu hỏi này của Chúa vang vọng qua các thời đại, với tính cách một lời mời gọi
của tình yêu của Người để khám phá ra rằng, chỉ một mình Người mới có “những lời
đem lại sự sống đời đời” (Ga 6,68), và việc đón nhận hồng ân Thánh Thể của Người
trong đức tin là đón nhận chính Người.
Việc thiết lập bí tích Thánh Thể
1337. Khi yêu thương những kẻ thuộc về mình, Chúa đã yêu họ đến
cùng. Khi biết đã đến Giờ lìa bỏ thế gian mà về cùng Cha mình, trong một bữa tiệc,
Người đã rửa chân cho họ và ban cho họ giới luật yêu thương[30].
Để lưu lại cho họ bảo chứng của tình yêu này, để không bao giờ lìa xa những kẻ
thuộc về mình, và để họ được tham dự vào cuộc Vượt Qua của Người, Người đã thiết
lập bí tích Thánh Thể, với tính cách một việc để nhớ đến cái Chết và sự Sống lại
của Người, và Người truyền cho các Tông Đồ Người, “những vị Người đặt làm tư tế
của Giao Ước Mới”[31] phải cử hành bí tích này
cho tới khi Người lại đến.
1338. Ba Tin Mừng Nhất Lãm và thánh Phaolô lưu truyền cho chúng ta
bản tường thuật việc thiết lập bí tích Thánh Thể; về phần mình, thánh Gioan thuật
lại những lời của Chúa Giêsu tại hội đường Capharnaum, những lời đó thật sự chuẩn
bị cho việc thiết lập bí tích Thánh Thể: chính Đức Kitô tự xưng mình là Bánh Hằng
Sống, từ trời xuống[32].
1339. Chúa Giêsu chọn thời gian mừng lễ Vượt Qua để thực hiện điều
Người đã báo trước ở Capharnaum: Người ban Mình và Máu Người cho các môn đệ của
Người:
“Đã đến ngày lễ
Bánh Không Men, ngày phải sát tế chiên Vượt Qua. Chúa Giêsu sai ông Phêrô với
ông Gioan đi và dặn: ‘Các anh hãy đi dọn cho chúng ta ăn lễ Vượt Qua’. … Các
ông ra đi ... và dọn tiệc Vượt Qua. Khi giờ đã đến, Chúa Giêsu vào bàn cùng với
các Tông Đồ. Người nói với các ông: ‘Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt
Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình. Bởi vì, Thầy nói cho anh em hay, Thầy
sẽ không bao giờ ăn lễ Vượt Qua này nữa, cho đến khi lễ này được nên trọn vẹn
trong Nước Thiên Chúa’.... Rồi Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra, trao
cho các ông và nói: ‘Đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em. Anh em hãy làm việc
này, mà tưởng nhớ đến Thầy’. Và tới tuần rượu cuối bữa ăn, Người cũng làm như vậy
và nói: ‘Chén này là giao ước mới, lập bằng Máu Thầy, máu đổ ra vì anh em’” (Lc
22,7-20)[33].
1340. Khi cử hành bữa Tiệc Ly với các Tông Đồ của Người trong khung
cảnh bữa tiệc Vượt Qua, Chúa Giêsu đã ban cho lễ Vượt Qua của người Do Thái một
ý nghĩa dứt khoát. Quả thật, cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu để về cùng Cha Người,
qua cái Chết và sự Sống lại, thật sự là cuộc Vượt Qua mới, được tham dự trước
trong bữa Tiệc Ly và được cử hành trong bí tích Thánh Thể, cuộc Vượt Qua đó
hoàn thành lễ Vượt Qua của người Do Thái và tham dự trước vào lễ Vượt Qua chung
cuộc của Hội Thánh trong vinh quang Nước Thiên Chúa.
“Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”
1341. Mệnh lệnh Chúa Giêsu truyền phải lặp lại những cử chỉ và lời
nói của Người “cho tới khi Chúa đến” (1 Cr 11,26), không chỉ đòi hỏi phải nhớ đến
Chúa Giêsu và những gì Người đã làm. Mệnh lệnh này nhắm đến việc cử hành phụng
vụ, do các Tông Đồ và những người kế nhiệm các ngài, để tưởng niệm Đức Kitô, tưởng niệm cuộc đời của Người, cái Chết và sự
Sống lại của Người, và việc chuyển cầu của Người bên Chúa Cha.
1342. Ngay từ đầu, Hội Thánh đã trung thành tuân giữ mệnh lệnh này
của Chúa. Về Hội Thánh tại Giêrusalem có bài tường thuật như sau:
“Các tín hữu
chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng
năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng.... Họ đồng tâm nhất trí,
ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với
lòng đơn sơ vui vẻ” (Cv 2,42.46).
1343. Đặc biệt vào “ngày thứ nhất trong tuần”, nghĩa là ngày Chúa
Nhật, ngày Chúa Giêsu phục sinh, các Kitô hữu tụ họp để “bẻ bánh” (Cv 20,7). Từ
đó đến nay, việc cử hành bí tích Thánh Thể tiếp tục tồn tại y như vậy, đến độ
ngày nay chúng ta vẫn gặp được việc cử hành đó, ở bất cứ đâu trong Hội Thánh, với
cùng một cấu trúc căn bản. Bí tích Thánh Thể vẫn mãi mãi là trung tâm của đời sống
Hội Thánh.
1344. Như vậy, từ cử hành này sang cử hành khác để loan báo mầu nhiệm
Vượt Qua của Chúa Giêsu, “cho tới khi Chúa đến” (1 Cr 11,26), dân Thiên Chúa
trên đường lữ hành, “qua đường hẹp của thập giá”[34],
đang tiến về bàn tiệc thiên quốc, nơi tất cả mọi người được tuyển chọn sẽ ngồi
vào bàn tiệc của Nước Thiên Chúa.
CỬ HÀNH PHỤNG VỤ THÁNH THỂ
Thánh lễ của mọi thời đại
1345. Từ thế kỷ II, chúng ta có chứng từ của thánh Justinô tử đạo về
những nét chính của việc cử hành thánh lễ. Những nét chính đó vẫn được giữ
nguyên cho đến ngày nay, trong tất cả các truyền thống phụng vụ lớn. Để giải
thích cho hoàng đế ngoại giáo Antôniô Piô (138-161) những gì các Kitô hữu đã
lam, thánh Justinô viết vào khoảng năm 155 như sau:
“Vào ngày Mặt
Trời như người ta thường gọi, mọi người ở thành phố hay ở nông thôn đều họp lại
một nơi.
Và người ta đọc
ký sự của các Tông Đồ hoặc sách của các Tiên tri, tuỳ thời gian cho phép.
Khi người đọc
kết thúc, vị chủ sự lên tiếng nhắn nhủ và khuyến khích mọi người bắt chước những
điều tốt lành đó.
Sau đó, tất cả
chúng tôi cùng đứng dậy và dâng lời cầu nguyện[35]
cho chính chúng tôi... và cho mọi người khác ở khắp nơi, … để chúng tôi sống
ngay chính trong các việc làm và trong việc tuân giữ các giới răn, hầu chúng
tôi đạt được ơn cứu độ vĩnh cửu.
Khi kết thúc
việc cầu nguyện, chung tôi trao hôn bình an cho nhau.
Tiếp đến, người
ta mang đến cho vị chủ sự bánh và một chén rượu có pha nước.
Vị chủ sự cầm
lấy bánh rượu, dâng lời tán tụng và tôn vinh Cha của vũ trụ, nhân danh Chúa Con
và Chúa Thánh Thần và đọc một kinh tạ ơn dài (tiếng Hy Lạp: eucharistian) về việc chúng tôi được coi là xứng đáng với các hồng
ân này.
Khi vị chủ sự
kết thúc các lời nguyện và việc tạ ơn, mọi người hiện diện đồng thanh đáp:
Amen.
Sau khi vị chủ
sự hoàn tất nghi thức tạ ơn và toàn dân đã đáp lại, thì các vị mà chúng tôi gọi
là phó tế, phân phát bánh và rượu có pha nước ‘đã được thánh thể hoá’ (‘eucharistizata’) cho mỗi người hiện diện
tham dự và đem đến cho những người vắng mặt”[36].
1346. Phụng vụ Thánh lễ diễn tiến theo một cấu trúc căn bản đã được
duy trì qua các thế kỷ cho đến thời đại chúng ta. Phụng vụ Thánh lễ được triển
khai trong hai phần chính, làm thành một thể thống nhất:
– Tập họp, Phụng vụ Lời Chúa với các bài đọc, bài
giảng và lời nguyện phổ quát;
– Phụng vụ Thánh Thể với việc tiến dâng
bánh rượu; kinh tạ ơn thánh hiến [Kinh nguyện Thánh Thể] và hiệp lễ.
Phụng Vụ Lời Chúa và Phụng Vụ Thánh
Thể cùng tạo thành “một hành vi phụng tự duy nhất”[37];
thật vậy, bàn tiệc được dọn ra cho chúng ta trong Thánh Lễ vừa là bàn tiệc Lời
Thiên Chúa, vừa là bàn tiệc Mình Chúa”[38].
1347. Đó không phải là diễn tiến bữa tiệc Vượt Qua của Chúa Giêsu
phục sinh với các môn đệ Người sao? Khi đi đường, Người giải thích Kinh Thánh
cho họ, rồi khi vào bàn ăn với họ, “Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, và
bẻ ra trao cho họ” (Lc 24,30)[39].
Diễn tiến việc cử hành
1348. Tất cả mọi người tập họp
lại. Các Kitô hữu tập họp lại một nơi để cử hành Thánh Thể. Trong đó, chính
Đức Kitô đứng đầu cộng đoàn, Người là nhân vật hoạt động chính của bí tích
Thánh Thể. Người là Thượng tế của Giao Ước Mới. Chính Người chủ trì cách vô
hình mọi việc cử hành Thánh Thể. Thay mặt Người, Giám mục hay linh mục (hành động
trong cương vị của Đức Kitô là Đầu)
chủ trì cộng đoàn, lên tiếng sau các bài đọc, đón nhận lễ vật và đọc Kinh nguyện
Thánh Thể. Mọi người đều có phần chủ
động của mình trong cuộc cử hành, mỗi người theo cách của mình: người thì đọc
Sách Thánh, người thì mang lễ vật, người thì trao Mình Thánh Chúa và toàn dân
biểu lộ sự tham dự của mình bằng lời đáp Amen.
1349. Phụng vụ Lời Chúa gồm
“các tác phẩm của các Tiên tri”, nghĩa là Cựu Ước, và “ký sự của các Tông Đồ”,
nghĩa là các thánh thư và các sách Tin Mừng; sau đó là bài giảng để khuyến
khích việc đón nhận các lời này xét như đó thật sự là Lời Chúa[40], và đem ra thực hành, tiếp
đến là lời chuyển cầu cho mọi người, theo lời thánh Tông Đồ dạy: “Trước hết,
tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi
người, cho vua chúa và tất cả những người cầm quyền” (1 Tm 2,1-2).
1350. Dâng lễ vật (offertorium). Người ta mang, hay đôi khi
rước cách long trọng, bánh và rượu lên bàn thờ. Bánh rượu này sẽ được chủ tế,
nhân danh Đức Kitô, dâng lên trong Hy tế Thánh Thể, để trở thành Mình Máu Đức
Kitô. Đây chính là cử chỉ của Đức Kitô, trong bữa Tiệc Ly, “cầm lấy bánh và
chén rượu”. “Chỉ có Hội Thánh mới dâng lên Đấng Tạo Hoá lễ vật tinh tuyền này,
khi dâng lên Ngài cùng với lời tạ ơn, lễ vật từ các thụ tạo của Ngài”[41]. Việc dâng lễ vật trên bàn
thờ lặp lại cử chỉ của Melchisedech và phó dâng các tặng phẩm của Đấng Tạo Hoá
vào tay Đức Kitô. Trong hy tế của Người, chính Đức Kitô kiện toàn mọi cố gắng
dâng hy tế của con người.
1351. Từ thuở ban đầu, khi mang bánh và rượu đến cử hành thánh lễ,
các Kitô hữu cũng mang theo tặng phẩm của mình để chia sẻ với những người túng
thiếu. Tục lệ quyên góp[42] này, nay vẫn còn, được gợi hứng từ gương mẫu của Đức Kitô, Đấng trở
nên nghèo để làm cho chúng ta nên giàu có[43]:
“Những ai sung
túc mà muốn thì cho tuỳ ý mình, và những gì quyên góp được, sẽ được trao cho vị
chủ sự, và ngài sẽ giúp đỡ cho các cô nhi quả phụ, những người vì bệnh tật hay
vì một lý do nào khác phải thiếu thốn, các tù nhân, các di dân, tắt một lời,
ngài cứu giúp cho tất cả những ai đang túng thiếu”[44].
1352. Kinh nguyện Thánh Thể.
Với kinh nguyện Thánh Thể, lời kinh tạ ơn và thánh hiến, chúng ta bước vào
trung tâm và tột đỉnh của cuộc cử hành:
Trong Kinh Tiền Tụng, Hội Thánh dâng lời tạ ơn Chúa Cha, nhờ Đức Kitô,
trong Chúa Thánh Thần, về tất cả các công trình của Ngài, các công trình tạo dựng,
cứu chuộc và thánh hóa. Lúc đó toàn thể cộng đoàn kết hợp với lời ca vô tận của
Hội Thánh trên trời, các Thiên thần và toàn thể các Thánh, tán tụng Thiên Chúa
ba lần thánh.
1353. Trong Kinh Epiclesis,
Hội Thánh khẩn cầu Chúa Cha sai Thần Khí của Ngài (hay quyền năng chúc lành của
Ngài[45]) xuống trên bánh rượu để nhờ
quyền năng của Chúa Thánh Thần, bánh rượu trở nên Mình Máu Chúa Giêsu Kitô, và
để những ai tham dự bí tích Thánh Thể được trở thành một thân thể và một tinh
thần duy nhất (một số truyền thống phụng vụ đặt lời kinh Khẩn cầu Chúa Thánh Thần
sau Kinh Tưởng Niệm).
Trong phần tường thuật việc Chúa thiết lập bí tích Thánh Thể, sức mạnh của lời
nói và hành động của Đức Kitô, và quyền năng của Chúa Thánh Thần, làm cho Mình
và Máu Đức Kitô, là hy tế Người đã dâng trên thập giá một lần cho mãi mãi, hiện
diện cách bí tích dưới hình bánh hình rượu.
1354. Trong Kinh Tưởng Niệm tiếp
theo sau đó, Hội Thánh kính nhớ cuộc
khổ nạn, sự phục sinh và sự quang lâm vinh hiển của Đức Kitô Giêsu; Hội Thánh
trình lên Chúa Cha hy tế là Con của Ngài, Đấng giao hoà chúng ta với Ngài.
Trong các lời chuyển cầu, Hội Thánh cho thấy bí tích Thánh Thể được cử
hành trong sự hiệp thông với toàn thể Hội Thánh trên trời dưới thế, với kẻ sống
và người chết, và trong sự hiệp thông với các vị mục tử của Hội Thánh, Đức Giáo
Hoàng, Đức Giám mục giáo phận, hàng linh mục và phó tế của ngài và tất cả các
Giám mục toàn cầu cùng với các Giáo Hội của các ngài.
1355. Trong phần Hiệp lễ,
trước đó có kinh Lạy Cha và nghi thức bẻ bánh, các tín hữu lãnh nhận “bánh bởi
trời” và “chén cứu độ”, là Mình và Máu Thánh Đức Kitô, Đấng tự hiến “để cho thế
gian được sống” (Ga 6,51):
“Bởi vì bánh
này và rượu này, theo cách nói xưa là ‘đã được thánh thể hoá’ (‘eucharistizata’)[46],
nên chúng tôi gọi lương thực này là Thánh Thể, không ai được chia sẻ lương thực
này, ngoài kẻ tin rằng giáo lý của chúng tôi là chân thật, và đã được Rửa Tội để
được tha thứ tội lỗi và được tái sinh, và sống như Đức Kitô đã dạy”[47].
HY TẾ BÍ TÍCH: TẠ ƠN, TƯỞNG NIỆM,
HIỆN DIỆN
1356. Nếu ngay từ ban đầu, các Kitô hữu đã cử hành thánh lễ với một
hình thức về căn bản không thay đổi, dù trải qua nhiều khác biệt lớn về thời đại
và các nền phụng vụ, thì chính là bởi vì chúng ta biết mình bị ràng buộc bởi mệnh
lệnh Chúa đã ban, hôm trước ngày Người chịu khổ hình: “Anh em hãy làm việc này
mà tưởng nhớ đến Thầy” (1 Cr 11,24-25).
1357. Chúng ta chu toàn mệnh lệnh này của Chúa, khi chúng ta cử
hành việc tưởng niệm hy tế của Người.
Khi làm điều này, chúng ta dâng lên Chúa
Cha những gì mà chính Ngài đã ban cho chúng ta: các tặng phẩm từ cuộc tạo dựng
của Ngài, là bánh và rượu, nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần và các lời của Đức
Kitô, trở nên Mình và Máu Đức Kitô: như thế, Đức Kitô hiện diện một cách thật sự và mầu nhiệm.
1358. Vì vậy, chúng ta phải khảo sát bí tích Thánh Thể với tính
cách là:
– việc tạ ơn
và ca ngợi Chúa Cha;
– việc tưởng
niệm hy tế của Đức Kitô và của thân
thể Người;
– sự hiện diện
của Đức Kitô, nhờ quyền năng của Lời Người và quyền năng của Thần Khí Người.
Việc tạ ơn và ca ngợi Chúa Cha
1359. Thánh Thể, là bí tích của ơn cứu độ được Đức Kitô thực hiện
trên thập giá, cũng là hy tế ca ngợi để tạ ơn vì công trình tạo dựng. Trong hy
tế Thánh Thể, toàn bộ công trình tạo dựng được Thiên Chúa yêu thương được trình
lên Chúa Cha qua cái Chết và sự Sống lại của Đức Kitô. Nhờ Đức Kitô, Hội Thánh
có thể dâng hy tế ca ngợi để tạ ơn vì tất cả những gì là tốt, là đẹp, là đúng
mà Thiên Chúa đã thực hiện trong công trình tạo dựng và trong nhân loại.
1360. Bí tích Thánh Thể là hy tế để tạ ơn Chúa Cha, là lời chúc tụng
qua đó Hội Thánh diễn tả lòng tri ân của mình đối với Thiên Chúa vì mọi điều
Ngài ban, vì mọi điều Ngài đã thực hiện trong công trình tạo dựng, cứu chuộc và
thánh hóa. Bí tích Thánh Thể trước hết có nghĩa là tạ ơn.
1361. Bí tích Thánh Thể cũng là hy tế ca ngợi, qua đó Hội Thánh
nhân danh toàn thể thụ tạo ca tụng vinh quang Thiên Chúa. Hy tế ca ngợi này chỉ
có thể được thực hiện nhờ Đức Kitô: Người kết hợp các tín hữu vào bản thân Người,
vào lời ca ngợi của Người, vào sự chuyển cầu của Người, và như vậy hy tế ca ngợi
được dâng lên Chúa Cha nhờ Đức Kitô, với Người, để được chấp nhận trong Người.
Việc tưởng niệm hy tế của Đức Kitô và của Thân Thể Người là Hội Thánh
1362. Bí tích Thánh Thể là việc tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Đức
Kitô, là hiện tại hoá hy tế duy nhất của Người, và dâng hy tế duy nhất đó cách
bí tích, trong phụng vụ của Hội Thánh là Thân Thể Người. Trong tất cả các Kinh
nguyện Thánh Thể, chúng ta đều thấy, sau các lời tường thuật về việc Chúa thiết
lập Thánh Thể, một kinh nguyện được gọi là kinh Tưởng Niệm (anamnesis hoặc memoriale).
1363. Theo ý nghĩa của Thánh Kinh, tưởng niệm không chỉ là nhớ lại những biến cố của quá khứ, nhưng
còn là công bố các kỳ công Thiên Chúa đã thực hiện cho loài người[48]. Khi cử hành phụng vụ về
các biến cố này, chúng hiện diện và được hiện tại hoá một cách nào đó. Dân
Israel hiểu về việc mình được giải thoát khỏi Ai Cập theo cách như vậy: Mỗi lần
lễ Vượt Qua được cử hành, các biến cố thời Xuất Hành lại hiện diện trong ký ức
của các tín hữu, để họ điều chỉnh cuộc sống của mình cho phù hợp với các biến cố
đó.
1364. Việc tưởng niệm trong Giao Ước mới mang một ý nghĩa mới. Khi
cử hành bí tích Thánh Thể, Hội Thánh tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Đức Kitô, thì
cuộc Vượt Qua này trở nên hiện diện: Hy tế mà Đức Kitô dâng lên một lần cho mãi
mãi trên thập giá, luôn luôn được hiện tại hoá[49].
“Mỗi lần hy tế thập giá, qua đó ‘Đức Kitô đã chịu hiến tế làm chiên lễ Vượt Qua
của chúng ta’ (1 Cr 5,7), được cử hành trên bàn thờ, thì công trình cứu chuộc
chúng ta được thực hiện”[50].
1365. Bởi vì là việc tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Đức Kitô, nên bí tích Thánh Thể cũng là một hy tế.
Tính chất hy tế của bí tích Thánh Thể được biểu lộ trong chính các lời thiết lập
bí tích này: “Đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em”. “Chén này là giao ước mới,
lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 22,19-20). Trong bí tích Thánh Thể,
Đức Kitô ban chính thân mình đã bị nộp vì chúng ta trên thập giá, ban chính máu
mà Người đã đổ ra “cho muôn người được tha tội” (Mt 26,28).
1366. Vì vậy, bí tích Thánh Thể là một Hy tế bởi vì bí tích này làm cho Hy tế thập giá hiện diện, bởi vì bí tích này là việc tưởng niệm Hy tế đó, và bởi vì bí
tích này áp dụng hiệu quả của Hy tế
đó:
Đức Kitô “là
Thiên Chúa và Chúa chúng ta, … đã tự hiến cho Chúa Cha bằng cái chết trên bàn
thờ thập giá một lần cho mãi mãi, để thực hiện ơn cứu chuộc muôn đời cho loài
người. Tuy nhiên, bởi vì cái chết của Người không chấm dứt chức tư tế của Người
[Dt 7,24.27], nên trong bữa Tiệc Ly, ‘trong đêm bị nộp’ [1 Cr 11,23], … Người
đã để lại cho Hiền Thê yêu dấu của Người là Hội Thánh một hy tế hữu hình (như bản
tính con người đòi hỏi); trong hy tế hữu hình này, hy tế đẫm máu được thực hiện
một lần duy nhất trên thập giá được hiện diện, và việc tưởng niệm hy tế đẫm máu
đó sẽ còn mãi cho đến ngày tận thế, và sức mạnh cứu độ của hy tế đó sẽ được áp
dụng để tha thứ các tội lỗi chúng ta phạm hằng ngày”[51].
1367. Hy tế của Đức Kitô và hy tế Thánh Thể là một hy tế duy nhất. “Cũng cùng một hiến vật, cũng cùng một Đấng xưa
đã tự hiến trên thập giá, nay cũng chính Người dâng lên qua thừa tác vụ tư tế,
chỉ khác biệt về cách tiến dâng”[52]: “Vì trong hy tế thần linh
được thực hiện trong thánh lễ, cũng chính Đức Kitô Đấng đã tự hiến một lần bằng
cách đổ máu trên bàn thờ thập giá, nay được hiến dâng và sát tế một cách không
đổ máu, nên hy tế này thật sự có giá trị đền tội”[53].
1368. Bí tích Thánh Thể cũng
là hy tế của Hội Thánh. Hội Thánh, là Thân Thể của Đức Kitô, tham dự vào lễ
tế của Đấng là Đầu của mình. Cùng với Người, toàn thể Hội Thánh được dâng lên.
Hội Thánh kết hợp mình với việc chuyển cầu của Người bên Chúa Cha, để cầu cho tất
cả mọi người. Trong bí tích Thánh Thể, hy tế của Đức Kitô cũng trở thành hy tế
của các chi thể trong Thân Thể Người. Đời sống của các tín hữu, lời ca ngợi, sự
đau khổ, lời cầu nguyện, việc lao động của họ, được kết hợp với cùng những khía
cạnh đó trong đời sống của Đức Kitô và với toàn bộ lễ tế của Người, và như vậy
chúng có một giá trị mới. Hy tế của Đức Kitô hiện diện trên bàn thờ đem lại cho
mọi thế hệ Kitô hữu khả năng được kết hợp với lễ tế của Người.
Trong các hang
toại đạo, Hội Thánh thường được diễn tả như một người nữ đang cầu nguyện, hai
tay giang ra trong cử chỉ cầu nguyện. Như Đức Kitô giang tay trên thập giá, thì
nhờ Người, với Người và trong Người, Hội Thánh dâng chính mình và chuyển cầu
cho tất cả mọi người.
1369. Toàn thể Hội Thánh được
kết hợp với lễ tế và lời chuyển cầu của Đức Kitô. Đảm nhận thừa tác vụ của
thánh Phêrô trong Hội Thánh, Đức Giáo
Hoàng được liên kết với mọi cử hành Thánh lễ, trong đó, ngài được nhắc đến
với tư cách là dấu chỉ và thừa tác viên của sự hợp nhất của Hội Thánh toàn cầu.
Giám mục địa phương luôn có trách nhiệm
về Thánh lễ, cả khi một linh mục cử
hành; tên ngài được đọc lên trong Thánh lễ để nói lên rằng ngài đứng đầu Giáo Hội
địa phương, giữa hàng linh mục và với sự trợ giúp của các phó tế. Cộng đoàn cũng chuyển cầu cho tất cả các thừa tác viên đang
dâng lễ cho cộng đoàn và cùng với cộng đoàn:
“Bí tích Thánh
Thể chỉ được coi là thành sự khi được cử hành dưới sự chủ tọa của Giám mục hay
của người được ngài giao trách nhiệm”[54].
“Qua thừa tác
vụ của các linh mục, hy tế thiêng liêng của các tín hữu được hoàn tất trong sự
kết hợp với hy tế của Đức Kitô, Đấng Trung Gian duy nhất, hy tế này nhờ tay các
linh mục, nhân danh toàn thể Hội Thánh, được dâng lên trong thánh lễ một cách
bí tích và không đổ máu, cho tới khi Chúa đến”[55].
1370. Không những các chi thể của Đức Kitô còn ở trần gian, mà cả
những vị đang hưởng vinh quang trên trời cũng được kết hợp với lễ tế của
Đức Kitô: Hội Thánh dâng hy tế Thánh Thể trong sự hiệp thông với Đức Trinh Nữ
Maria rất thánh, và nhớ đến ngài cũng như đến tất cả các Thánh nam nữ. Trong
Thánh lễ, Hội Thánh một cách nào đó đứng dưới Thánh Giá, cùng với Mẹ Maria, kết
hợp với lễ tế và lời chuyển cầu của Đức Kitô.
1371. Hy tế Thánh Thể cũng được dâng lên để cầu cho các tín hữu đã qua đời, “cho những người
đã chết trong Đức Kitô mà chưa được thanh luyện trọn vẹn”[56],
để họ được vào hưởng ánh sáng và bình an của Đức Kitô:
“Các con hãy chôn xác này ở bất cứ
nơi đâu: đừng lo lắng gì về chuyện đó; mẹ chỉ xin các con điều này, là bất cứ
các con ở đâu, các con hãy nhớ tới mẹ nơi bàn thờ của Chúa”[57].
“Sau đó [trong
Kinh nguyện Thánh Thể] chúng ta cầu cho các Giáo hoàng và các Giám mục đã an
nghỉ, và cách chung, cho các tín hữu đã qua đời giữa chúng ta, vì chúng ta tin
rằng các linh hồn sẽ được trợ giúp tối đa nhờ lời cầu nguyện cho họ, khi Của Lễ
hiến tế thánh và đáng kính sợ đang hiện diện…. Khi dâng lên Thiên Chúa những lời
chuyển cầu của chúng ta cho những người đã an giấc, dù họ là những tội nhân,
chúng ta dâng chính Đức Kitô bị sát tế vì tội lỗi chúng ta, để xin ơn giao hòa
với Thiên Chúa, Bạn của loài người, cho họ và cho chúng ta”[58].
1372. Thánh Augustinô tóm tắt một cách tuyệt vời giáo lý này, một
giáo lý thúc giục chúng ta tham dự ngày càng trọn vẹn hơn vào hy tế của Đấng Cứu
Chuộc chúng ta mà chúng ta cử hành trong Thánh lễ:
“Chính toàn thể
đô thành đã được cứu chuộc, tức là cộng đoàn và tập thể các Thánh, là một hy tế
phổ quát được dâng lên Thiên Chúa nhờ vị Thượng Tế, Đấng trong hình dang một kẻ
nô lệ, đã tự hiến mình chịu khổ nạn vì chúng ta, để chúng ta trở thành Thân thể
của Đấng là Đầu cao cả dường ấy…. Đây là hy tế của các Kitô hữu: ‘Chúng ta cũng
vậy: tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Kitô’ (Rm 12,5). Hy tế này
được Hội Thánh tiếp tục cử hành qua bí tích bàn thờ mà các tín hữu đã biết,
trong đó Hội Thánh hiến dâng chính mình trong Hy tế mà Hội Thánh tiến dâng”[59].
Sự hiện diện của Đức Kitô nhờ quyền năng của Lời Người và của Chúa
Thánh Thần
1373. “Đức Kitô Giêsu, Đấng đã chết, hơn nữa đã sống lại, và đang
ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta” (Rm 8,34) đang hiện diện
trong Hội Thánh Người dưới nhiều hình thức[60]:
trong Lời của Người, trong kinh nguyện của Hội Thánh Người, “ở đâu có hai ba
người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20), trong những
người nghèo khổ, những bệnh nhân, những người bị cầm tù[61],
trong các bí tích mà chính Người là tác giả, trong Hy tế Thánh lễ và trong con
người thừa tác viên. Nhưng “nhất là
Người hiện diện dưới các hình dạng Thánh
Thể”[62].
1374. Cách thức hiện diện của Đức Kitô dưới các hình dạng Thánh Thể
là độc nhất vô nhị. Người nâng bí tích Thánh Thể vượt lên trên các bí tích khác
và vì vậy bí tích này là “như sự trọn hảo của đời sống thiêng liêng và cùng
đích của mọi bí tích”[63]. Trong bí tích Thánh Thể cực
thánh, Mình và Máu cùng với linh hồn và thần tính của Chúa chúng ta là Đức
Giêsu Kitô, và như vậy là Đức Kitô toàn
thể (totus Christus), hiện diện một cách đích thực, thật sự, và theo bản thể[64].
“Sự hiện diện này được gọi là ‘thật sự’, không theo nghĩa loại trừ, nghĩa là
không coi các hình thức hiện diện khác như không ‘thật sự’, nhưng theo nghĩa đặc
biệt, bởi vì đây là cách hiện diện theo bản
thể, và qua đó Đức Kitô toàn thể và trọn vẹn (totus atque integer
Christus), vừa là Thiên Chúa vừa là con người, hiện diện một cách chắc chắn”[65].
1375. Trong bí tích này, Đức Kitô hiện diện nhờ sự biến đổi bánh và rượu thành Mình và
Máu Đức Kitô. Các Giáo phụ mạnh mẽ khẳng định đức tin của Hội Thánh vào hiệu lực
của lời Đức Kitô và nhờ tác động của Chúa Thánh Thần trong việc thực hiện sự biến
đổi này. Thánh Gioan Kim Khẩu tuyên bố:
“Không phải
người ta, nhưng chính Đức Kitô, Đấng đã chịu đóng đinh vì chúng ta, làm cho các
lễ vật trở thành Mình và Máu Đức Kitô. Vị tư tế, hình ảnh của Đức Kitô, đọc các
lời này, nhưng hiệu quả và ân sủng là do Thiên Chúa. Ngài đọc ‘Này là Mình Thầy’. Lời này biến đổi các
lễ vật”[66].
Và thánh Ambrôsiô nói về sự biến
đổi như sau:
Chúng ta hãy
tin chắc rằng: “Đây không phải là vấn đề bản chất đã tạo ra, nhưng là điều lời
chúc lành đã thánh hiến. Sức mạnh của lời chúc lành vượt trên sức mạnh của bản
chất, vì nhờ lời chúc lành mà chính bản chất đã biến đổi”[67].
“Lời Đức Kitô có khả năng làm ra, từ hư không, cái trước đó chưa từng hiện hữu,
chẳng lẽ lời đó lại không thể biến đổi những sự vật đang hiện hữu thành những sự
vật trước đó chưa có hay sao? Việc ban bản chất đầu tiên cho sự vật cũng tương
đương như biến đổi bản chất của chung”[68].
1376. Công đồng Triđentinô đã tóm tắt đức tin công giáo bằng lời
tuyên bố: “Vì Đức Kitô, Đấng Cứu Chuộc chúng ta, đã phán dạy: Điều Người dâng
lên dưới hình bánh, đích thực là Thân Mình Người, nên Hội Thánh luôn luôn xác
tín như vậy, và thánh Công đồng này một lần nữa tuyên bố: Nhờ lời thánh hiến
bánh và rượu đã diễn ra sự biến đổi trọn vẹn bản thể bánh thành bản thể Mình
Thánh Đức Kitô, Chúa chúng ta, và biến đổi trọn vẹn bản thể rượu thành bản thể
Máu Thánh Người; Hội Thánh công giáo gọi việc biến đổi này một cách thích hợp
và chính xác là sự biến đổi bản thể (transsubstantiatio)[69].
1377. Sự hiện diện Thánh Thể của Đức Kitô bắt đầu từ lúc thánh hiến
[a momento consecrationis, quen gọi là lúc truyền phép] và kéo dài bao lâu các
hình dạng Thánh Thể còn tồn tại. Đức Kitô hiện diện trọn vẹn trong mỗi hình
bánh và rượu, và trong mỗi phần nhỏ của hình bánh và rượu, như vậy việc bẻ bánh
không phân chia Đức Kitô[70].
1378. Việc tôn thờ Thánh Thể.
Trong phụng vụ Thánh lễ, chúng ta bày tỏ đức tin vào sự hiện diện thật sự của Đức
Kitô trong các hình bánh và rượu bằng nhiều cách, như bái gối hay cúi mình sâu
để tỏ dấu tôn thờ Chúa. “Hội Thánh Công giáo đã và vẫn luôn tôn thờ Thánh Thể,
không chỉ trong mà còn ngoài Thánh lễ nữa, bằng cách bảo quản hết sức cẩn thận
Bánh đã được thánh hiến (consecratas Hostias), đặt lên cho các tín hữu tôn thờ
cách long trọng, và rước kiệu Thánh Thể với đông đảo dân chúng vui mừng tham dự”[71].
1379. Nhà Tạm, trước hết được dùng để lưu giữ Thánh Thể cách xứng
đáng để có thể mang đến cho các bệnh nhân và những người vắng mặt rước lễ ngoài
thánh lễ. Nhờ đào sâu đức tin vào sự hiện diện thật sự của Đức Kitô trong bí
tích Thánh Thể, Hội Thánh ý thức về ý nghĩa của việc thinh lặng tôn thờ Đức
Kitô hiện diện trong các hình dạng Thánh Thể. Vì vậy, Nhà Tạm phải đặt nơi đặc
biệt xứng đáng trong nhà thờ, và phải được thiết kế như thế nào để nêu cao và
bày tỏ chân lý về sự hiện diện thật sự của Đức Kitô trong Bí tích Cực thánh
này.
1380. Thật rất thích hợp, việc Đức Kitô đã muốn hiện diện với Hội
Thánh của Người theo cách thức độc nhất vô nhị này. Bởi vì Đức Kitô dưới hình dạng
hữu hình, đã rời bỏ những kẻ thuộc về Người, nên Người muốn ban cho chúng ta sự
hiện diện cách bí tích của Người; bởi vì Người đã tự hiến trên thập giá để cứu
độ chúng ta, nên Người muốn chúng ta tưởng niệm tình yêu mà Người đã yêu thương
ta “đến cùng” (Ga 13,1), đến độ ban cả mạng sống mình. Thật vậy, trong sự hiện
diện bí tích của Người, Người vẫn ở giữa chúng ta cách mầu nhiệm với tư cách là
Đấng đã yêu mến và nộp mình vì chúng ta[72],
và Người hiện diện dưới những dấu chỉ diễn tả và truyền thông tình yêu này:
“Quả thật, Hội
Thánh và trần gian rất cần sự tôn thờ bí tích Thánh Thể. Chúa Giêsu đang chờ đợi
chúng ta trong bí tích tình yêu này. Đừng từ chối thời gian đến gặp Người để
tôn thờ, để chiêm ngắm tràn đầy đức tin và sẵn sàng đền tạ những tội lỗi và tội
ác nặng nề của trần gian. Chúng ta hãy không ngừng tôn thờ Thánh Thể”[73].
1381. Thánh Tôma đã nói: “Không thể nhận biết bằng giác quan Mình
thật và Máu thật của Đức Kitô hiện diện trong bí tích này, nhưng chỉ bằng đức tin, một đức tin dựa vào thẩm
quyền của Thiên Chúa. Vì thế, khi chú giải câu Luca 22,19: ‘Này là Mình Thầy sẽ
bị nộp vì các con’, thánh Cyrillô đã nói: ‘Bạn đừng hồ nghi điều này có thật
hay không, nhưng tốt hơn nên đón nhận bằng đức tin các lời của Đấng Cứu Độ, bởi
vì Người là chân lý, Người không lừa dối bao giờ’”[74]:
“Con sốt sắng thờ lạy Chúa, ôi Thần
tính ẩn mình
đang thật sự hiện diện dưới các hình dạng này;
trọn vẹn tâm hồn con suy phục Chúa,
bởi vì khi chiêm ngắm Chúa, trọn hồn con biến tan.
Thị giác, vị giác và xúc giác
không chạm được đến Chúa,
nhưng chỉ tin vững điều đã được nghe dạy;
con tin tất cả những gì Con Thiên Chúa đã nói,
không gì thật hơn lời chân lý này”[75].
BÀN TIỆC VƯỢT QUA
1382. Thánh lễ, một cách không thể tách biệt, vừa là việc tưởng niệm
Hy tế thập giá muôn đời tồn tại, vừa là bàn tiệc thánh thiêng để hiệp thông với
Mình và Máu Chúa. Nhưng việc cử hành hy tế Thánh Thể hoàn toàn hướng đến sự kết
hợp mật thiết của các tín hữu với Đức Kitô qua việc rước lễ. Rước lễ là lãnh nhận
chính Đức Kitô, Đấng đã tự hiến vì chúng ta.
1383. Bàn thờ, quanh đó Hội
Thánh được quy tụ để cử hành bí tích Thánh Thể, nói lên hai phương diện của
cùng một mầu nhiệm: bàn thờ hy tế và bàn tiệc của Chúa; hơn nữa, bàn thờ Kitô
giáo là biểu tượng của chính Đức Kitô đang hiện diện giữa cộng đoàn các tín hữu,
vừa như lễ vật được dâng lên để chúng ta được giao hoà, vừa như lương thực trên
trời trao ban chính mình cho chúng ta. Thánh Ambrôsiô nói: “Bàn thờ của Đức
Kitô là gì, nếu không phải là hình ảnh Thân thể của Đức Kitô?”[76], và trong đoạn văn khác,
thánh nhân nói: “Bàn thờ tượng trưng Thân thể của Đức Kitô và Thân thể của Đức
Kitô thì ở trên bàn thờ”[77]. Phụng vụ diễn tả tính thống
nhất này của hy tế và rước lễ trong nhiều lời nguyện. Giáo Hội Rôma cầu nguyện
trong Kinh nguyện Thánh Thể như sau:
“Lạy Chúa toàn
năng, chúng con nài xin Chúa sai Sứ thần dâng lễ vật này lên bàn thờ cao sang
trước tôn nhan uy linh Chúa, để hết thảy khi tham dự bàn tiệc này là rước Mình
và Máu cực thánh Con Chúa, chúng con được tràn đầy ân phúc bởi trời”[78].
“Tất cả các con hãy nhận lấy mà ăn”: Rước lễ
1384. Chúa tha thiết mời chúng ta đón rước Người trong bí tích
Thánh Thể: “Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống Máu
Con Người, các ông không có sự sống nơi mình” (Ga 6,53).
1385. Để đáp lại lời mời đó, chúng ta phải dọn mình cho giây phút cực trọng cực thánh này. Thánh Phaolô khuyên
ta nên tự vấn lương tâm: “Bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng,
thì phạm đến Mình và Máu Chúa. Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống
Chén này. Thật vậy, ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn
và uống án phạt mình” (1 Cr 11,27-29). Ai biết mình đang mắc tội trọng, thì phải
lãnh nhận bí tích Hòa Giải trước khi đi lên rước lễ.
1386. Trước sự cao trọng của bí tích này, tín hữu chỉ có thể lặp lại,
một cách khiêm tốn và với đức tin sốt sắng, lời viên đại đội trưởng[79]: “Lạy Chúa, con chẳng đáng
Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh”[80]. Trong phụng vụ thánh của
thánh Gioan Kim Khẩu, các tín hữu cầu nguyện cũng trong tinh thần ấy:
“Lạy Con Thiên
Chúa, hôm nay xin cho con được hiệp thông vào bàn tiệc huyền nhiệm của Chúa. Bởi
vì con không tiết lộ cho các kẻ thù điều kín nhiệm của Chúa, cũng không tặng
Chúa cái hôn của Giuđa. Nhưng như người trộm lành, con kêu lên cùng Chúa: Lạy
Chúa, xin nhớ đến con trong Nước Chúa”[81].
1387. Để dọn mình đón nhận bí tích này cách xứng đáng, các tín hữu
phải giữ chay theo quy định của Hội Thánh[82].
Thái độ bên ngoài (cử chỉ, cách ăn mặc) phải biểu lộ lòng tôn kính, sự trang trọng
và niềm vui của giây phút được Chúa là thượng khách của chúng ta.
1388. Căn cứ vào ý nghĩa của bí tích Thánh Thể, các tín hữu, nếu hội
đủ các điều kiện cần thiết[83], rước lễ khi tham dự Thánh lễ.[84]
“Việc tham dự Thánh lễ cách hoàn hảo hơn, được nồng nhiệt khuyến khích, đó là
sau khi vị chủ tế rước lễ, các tín hữu rước Mình Chúa bởi cùng một hy tế”[85].
1389. Hội Thánh buộc các tín hữu phải tham dự Thánh lễ vào các ngày
Chúa nhật và các lễ buộc[86] và rước lễ mỗi năm ít là một
lần, nếu có thể được trong mùa Phục Sinh[87],
sau khi đã chuẩn bị tâm hồn bằng bí tích Hòa Giải. Nhưng Hội Thánh tha thiết
khuyến khích các tín hữu rước lễ vào các ngày Chúa Nhật và các lễ khá long trọng,
hay thường xuyên hơn nữa, kể cả việc rước lễ hằng ngày.
1390. Vì Đức Kitô hiện diện cách bí tích dưới mỗi hình dạng, nên việc
rước lễ dưới hình bánh mà thôi vẫn nhận được trọn vẹn hiệu quả ân sủng của bí
tích Thánh Thể. Vì các lý do mục vụ, cách rước lễ này đã được quy định cách hợp
pháp trong nghi lễ La tinh, như là hình thức thông thường nhất. Nhưng “dấu chỉ
của việc rước lễ được đầy đủ hơn khi được trao ban dưới hai hình dạng. Vì theo
cách này, dấu chỉ của bàn tiệc Thánh Thể trở nên rõ nét hơn”[88]. Đây là cách rước lễ thông
thường trong các nghi lễ Đông phương.
Hiệu quả của việc rước lễ
1391. Việc rước lễ làm tăng
trưởng sự hiệp thông của chúng ta với Đức Kitô. Lãnh nhận bí tích Thánh Thể
khi rước lễ mang lại hiệu quả chính yếu là kết hợp thân mật với Đức Kitô Giêsu.
Thật vậy, Chúa nói: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở
lại trong người ấy” (Ga 6,56). Sự sống trong Đức Kitô có nền tảng nơi bàn tiệc
Thánh Thể: “Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha
thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy” (Ga 6,57).
“Trong các
ngày lễ của Chúa, khi lãnh nhận Mình của Chúa Con, các tín hữu công bố cho nhau
Tin Mừng: bảo chứng của sự sống đã được trao ban, cũng như xưa kia Thiên thần
báo cho bà Maria Mađalêna: ‘Đức Kitô đã phục sinh!’ Giờ đây cũng vậy, sự sống
và sự phục sinh cũng được trao ban cho ai lãnh nhận Đức Kitô”[89].
1392. Những gì lương thực vật chất mang lại cho sự sống thể xác,
thì việc rước lễ thực hiện điều này cách kỳ diệu cho đời sống thiêng liêng của
chúng ta. Việc hiệp thông với thân mình Đức Kitô phục sinh, một thân mình “nhờ
Chúa Thánh Thần, đã được sống và có sức ban sự sống”[90],
bảo toàn, phát triển và canh tân đời sống ân sủng đã nhận được trong bí tích Rửa
Tội. Sự tăng trưởng như vậy của đời sống Kitô hữu cần được nuôi dưỡng bằng việc
rước Thánh Thể, là Bánh cho cuộc lữ hành của chúng ta, mãi cho đến giờ chết;
lúc đó Bánh sẽ được ban cho chúng ta như Của ăn đàng.
1393. Việc rước lễ ngăn cách
chúng ta khỏi tội lỗi. Mình Đức Kitô chúng ta lãnh nhận khi rước lễ, là thân
mình “bị nộp vì chúng ta” và Máu chúng ta uống, là máu “đổ ra cho nhiều người
được tha tội.” Vì vậy, bí tích Thánh Thể không thể kết hợp chúng ta với Đức
Kitô, nếu đồng thời không thanh tẩy chúng ta khỏi các tội đã phạm và gìn giữ
chúng ta khỏi các tội trong tương lai:
“Mỗi lần chúng
ta rước lễ, chúng ta loan truyền Chúa đã chịu chết[91].
Nếu chúng ta loan truyền cái chết của Chúa, thì cũng loan truyền ơn tha tội. Nếu
mỗi lần Máu Người đổ ra, là đổ ra để tha tội, thì tôi phải luôn lãnh nhận Máu
Người, để Người luôn tha tội cho tôi. Tôi là kẻ luôn phạm tội, nên tôi luôn phải
có một phương dược”[92].
1394. Như lương thực vật chất dùng để phục hồi sức lực bị tiêu hao,
thì bí tích Thánh Thể cũng tăng sức mạnh cho đức mến của chúng ta, vốn có xu hướng
bị suy yếu trong đời sống hằng ngày; và đức mến sống động này xóa bỏ các tội nhẹ[93].
Khi tự hiến cho chúng ta, Đức Kitô một lần nữa ban sự sống cho tình yêu của
chúng ta và ban cho chúng ta khả năng phá huỷ những đam mê vô trật tự của chúng
ta đối với các thụ tạo và khả năng gắn bó với Người:
“Vì yêu
thương, Đức Kitô đã chết cho chúng ta, nên mỗi khi tưởng niệm cuộc tử nạn của
Người trong Thánh lễ, chúng ta xin Người ban tình yêu cho chúng ta nhờ Chúa
Thánh Thần ngự đến; chúng ta khiêm tốn khẩn nguyện rằng, nhờ tình yêu mà Đức
Kitô đã chết vì chúng ta, và nhờ ân sủng Chúa Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận,
chúng ta có thể coi thế gian như đã bị đóng đinh, và chúng ta bị đóng đinh cho
thế gian; ... khi đã lãnh nhận hồng ân tình yêu, chúng ta hãy chết cho tội lỗi
và sống cho Thiên Chúa”[94].
1395. Nhờ tình yêu mà bí tích Thánh Thể đã đốt lên trong chúng ta,
bí tích này gìn giữ chúng ta khỏi các tội
trọng trong tương lai. Chúng ta càng tham dự vào sự sống của Đức Kitô, và
càng tiến thêm trong tình bằng hữu với Người, thì càng khó phạm tội trọng mà cắt
đứt sự liên kết với Người. Bí tích Thánh Thể không được thiết lập để tha các tội
trọng. Đó là chức năng riêng của bí tích Hòa Giải. Bí tích Thánh Thể có chức
năng riêng, là bí tích của những người đang sống trong sự hiệp thông đầy đủ với
Hội Thánh.
1396. Sự hợp nhất của Nhiệm
Thể: Bí tích Thánh Thể làm nên Hội Thánh. Những ai đã lãnh nhận Thánh Thể,
đều được kết hợp cách chặt chẽ hơn với Đức Kitô. Nhờ đó, Đức Kitô kết hợp mọi
tín hữu thành một thân thể duy nhất là Hội Thánh. Việc tháp nhập vào Hội Thánh
như vậy, vốn đã được bí tích Rửa Tội thực hiện, nay được việc rước lễ canh tân,
củng cố và làm cho thâm sâu hơn. Trong bí tích Rửa Tội, chúng ta đã được kêu gọi
để làm thành một thân thể duy nhất[95].
Bí tích Thánh Thể thực hiện lời kêu gọi này: “Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm
tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư ? Và khi ta cùng bẻ
Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một
tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người,
chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1 Cr 10,16-17):
“Nếu anh em là
Thân Thể và là các chi thể của Đức Kitô, thì mầu nhiệm của anh em đang được đặt
trên Bàn của Chúa: anh em lãnh nhận mầu nhiệm của anh em. Anh em đáp Amen
(Vâng, đúng như thế) đối với điều anh em là, và anh em xác nhận bằng câu đáp
đó. Anh em nghe: ‘Mình Thánh Chúa Kitô’ và anh em đáp: ‘Amen’. Vậy hãy là chi
thể của Thân Thể Đức Kitô, để lời đáp Amen
của anh em là chân thật”[96].
1397. Bí tích Thánh Thể đòi
buộc dấn thân cho người nghèo: Để lãnh nhận trong sự thật Mình và Máu Đức
Kitô bị nộp vì chúng ta, chúng ta phải nhận ra Đức Kitô trong những kẻ nghèo nhất,
là các anh em của Người.[97]
“Bạn nếm Máu
Thánh Chúa, vậy mà bạn lại không nhận ra người anh em; ... Bạn làm hổ thẹn Bàn
tiệc này, khi người được coi là xứng đáng tham dự Ban tiệc này, lại bị bạn coi
là không xứng đáng được chia phần ăn của bạn. Thiên Chúa đã giải thoát bạn khỏi
mọi tội lỗi và cho bạn vào bàn tiệc, vậy mà quả thật bạn đã chẳng nhân hậu hơn
chút nào”[98].
1398. Bí tích Thánh Thể và sự
hợp nhất các Kitô hữu. Trước sự cao cả của mầu nhiệm này, thánh Augustinô
đã thốt lên: “Ôi bí tích tình yêu! Ôi dấu
chỉ hợp nhất! Ôi mối dây bác ái!”[99] Người ta càng đau lòng vì sự chia rẽ
trong Hội Thánh vốn làm cho các Kitô hữu không thể tham dự chung với nhau bàn
tiệc của Chúa, thì những lời nguyện dâng lên Chúa càng khẩn thiết hơn, để những
ngày hợp nhất trọn vẹn, của mọi kẻ tin vào Người, được trở lại.
1399. Các Giáo Hội Đông phương, dù không hiệp thông trọn vẹn với
Giáo Hội Công giáo, vẫn cử hành bí tích Thánh Thể với một tình yêu cao cả. “Các
Giáo Hội ấy, mặc dù ly khai, vẫn có các bí tích đích thực, chủ yếu là chức tư tế
và bí tích Thánh Thể, nhờ sự kế nhiệm các Tông Đồ, nên vẫn liên kết rất chặt chẽ
với chúng ta”[100]. Vì vậy, “một hiệp thông
nào đó trong các sự thánh, trong những
trường hợp thuận lợi và với sự chấp thuận của giáo quyền, không những là có thể,
mà còn được khuyến khích”[101].
1400. Các Cộng đoàn Giáo hội phát sinh từ cuộc Cải Cách, đã ly khai
khỏi Hội Thánh Công Giáo, “đặc biệt là vì thiếu bí tích Truyền Chức Thánh, nên
không còn giữ được bản chất đích thực và nguyên vẹn của mầu nhiệm Thánh Thể”[102]. Vì vậy, đối với Hội Thánh
Công Giáo, việc rước lễ chung với những Cộng đoàn này là không thể được. Nhưng
khi các cộng đoàn này “tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa trong Tiệc
Thánh, họ tuyên xưng rằng sự sống chỉ có nghĩa trong sự hiệp thông với Đức Kitô
và họ mong đợi ngày trở lại vinh quang của Người”[103].
1401. Khi có nhu cầu khẩn cấp, theo phán đoán của Đấng Bản Quyền địa
phương, các thừa tác viên Công giáo được phép ban các bí tích (Thánh Thể, Hòa
Giải, Xức Dầu bệnh nhân) cho các Kitô hữu không hiệp thông trọn vẹn với Hội
Thánh Công Giáo, nhưng họ phải tự ý xin lãnh nhận các bí tích đó: lúc đó, họ phải
tuyên xưng đức tin công giáo về các bí tích này và có sự chuẩn bị đầy đủ[104].
BÍ TÍCH THÁNH THỂ – “BẢO CHỨNG
CHO VINH QUANG TƯƠNG LAI”
1402. Trong một kinh nguyện cổ xưa, Hội Thánh tung hô mầu nhiệm
Thánh Thể như sau: “Ôi Tiệc Thánh, trong đó Đức Kitô được rước lấy làm lương thực,
việc tưởng niệm cuộc khổ nạn của Người được nhắc lại, tâm trí được tràn đầy ân
sủng, và bảo chứng cho vinh quang mai sau được ban cho chúng ta”[105]. Nếu bí tích Thánh Thể là
việc tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Chúa, nếu nhờ việc rước lễ tại bàn thờ mà chúng
ta được “tràn đầy ân phúc bởi trời”[106],
thì bí tích Thánh Thể cũng là sự tham dự trước vào vinh quang thiên quốc.
1403. Trong bữa Tiệc ly, chính Chúa hướng các môn đệ Người đến sự
hoàn tất lễ Vượt Qua trong Nước Thiên Chúa: “Thầy bảo cho anh em biết: từ nay,
Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em
uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy” (Mt 26,29)[107].
Mỗi lần cử hành bí tích Thánh Thể, Hội Thánh nhớ lại lời hứa này và hướng trông
“Đấng đang đến” (Kh 1,4). Trong kinh nguyện, Hội Thánh kêu cầu Người ngự đến: “Marana tha” (1 Cr 16,22), “Lạy Chúa
Giêsu, xin ngự đến” (Kh 22,20), “Ước gì ân sủng của Ngài đến và trần gian
này qua đi”[108].
1404. Hội Thánh biết rằng giờ đây Chúa đã đến trong bí tích Thánh
Thể của Người, và Người ở đó giữa chúng ta. Tuy nhiên, sự hiện diện này còn bị
che phủ. Chính vì vậy, chúng ta cử hành bí tích Thánh Thể “đang khi chúng con
mong đợi niềm hy vọng hồng phúc và ngày trở lại của Chúa Giêsu Kitô, Đấng cứu độ
chúng con”[109], trong khi chúng ta khẩn
nguyện được “cùng nhau tận hưởng vinh quang Cha muôn đời, khi Cha lau sạch nước
mắt chúng con, vì khi được thấy tường tận Cha là Thiên Chúa chúng con, thì muôn
đời chúng con sẽ trở nên giống Cha và sẽ ca ngợi Cha khôn cùng”[110].
1405. Về niềm hy vọng lớn lao này, niềm hy vọng về trời mới đất mới,
nơi công lý lưu ngụ cách chắc chắn[111],
chúng ta không có bảo chứng nào vững chắc hơn và dấu chỉ nào được biểu lộ rõ
ràng hơn, là bí tích Thánh Thể. Thật vậy, mỗi khi mầu nhiệm này được cử hành,
thì “công trình cứu chuộc chúng ta được thực hiện”[112]
và “chúng ta bẻ cùng một tấm bánh, là phương dược trường sinh bất tử, và của ăn
để chúng ta không chết, nhưng đem lại sự sống muôn đời trong Chúa Giêsu Kitô”[113].
TÓM LƯỢC
1406. Chúa Giêsu nói: “Tôi là
bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời…. Ai ăn thịt
và uống máu tôi, thì được sống muôn đời…. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại
trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,51.54.56).
1407. Bí tích Thánh Thể là
trung tâm và tột đỉnh của đời sống Hội Thánh, vì trong bí tích này, Đức Kitô
liên kết Hội Thánh và tất cả các chi thể của Người vào hy tế chúc tụng và tạ ơn
được dâng lên Chúa Cha trên thập giá một lần cho mãi mãi. Qua hy tế này, Người
tuôn đổ các ân sủng cứu độ trên Thân Thể của Người là Hội Thánh.
1408. Việc cử hành Thánh Lễ
luôn bao gồm: việc công bố Lời Chúa; việc tạ ơn Thiên Chúa Cha vì mọi ơn lành,
nhất là vì Ngài đã ban Con của Ngài cho chúng ta; việc thánh hiến bánh rượu và
việc tham dự vào bàn tiệc phụng vụ nhờ lãnh nhận Mình và Máu Thánh Chúa. Các yếu
tố này kết thành một hành vi phụng tự duy nhất.
1409. Bí tích Thánh Thể là việc
tưởng niệm cuộc Vượt Qua của Đức Kitô: nghĩa là công trình cứu độ được thực hiện
qua đời sống, cái Chết và sự Phục sinh của Đức Kitô. Công trình này được hành động
phụng vụ làm cho hiện diện.
1410. Đức Kitô, vị thượng tế
đời đời của Giao Ước Mới, Đấng đang hoạt động nhờ thừa tác vụ của các tư tế,
dâng hy tế Thánh Thể. Cũng chính Đức Kitô, Đấng thật sự hiện diện trong hình
bánh rượu, là lễ vật của hy tế Thánh Thể.
1411. Chỉ các tư tế đã được
phong chức thánh thành sự mới có quyền chủ tọa thánh lễ và thánh hiến (truyền
phép) để bánh và rượu trở thành Mình và Máu Thánh Chúa.
1412. Dấu chỉ chính yếu của
bí tích Thánh Thể là bánh mì và rượu nho. Lời chúc lành của Chúa Thánh Thần được
khẩn cầu xuống trên bánh và rượu này và vị tư tế đọc lời thánh hiến (truyền
phép) được Chúa Giêsu nói trong bữa Tiệc ly: “Này là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì
các con... Này là Chén Máu Thầy…”.
1413. Nhờ lời thánh hiến
(truyền phép), đã có sự biến đổi bản thể bánh và rượu thành Mình và Máu Thánh
Chúa. Trong hình bánh rượu đã được truyền phép, chính Đức Kitô, hằng sống và
vinh hiển, hiện diện cách đích thực, thật sự và theo bản thể, với trọn mình,
máu, linh hồn và thần tính của Người[114].
1414. Với tính cách là một hy
tế, bí tích Thánh Thể được dâng lên để đền tội cho người sống cũng như kẻ chết
và để đạt được những ơn lành hồn xác từ Thiên Chúa.
1415. Ai muốn đón nhận Đức
Kitô qua việc hiệp lễ, phải ở trong tình trạng ân sủng. Ai biết mình đang mắc tội
trọng, không được rước lễ nếu chưa lãnh nhận ơn tha tội trong bí tích Hòa Giải.
1416. Việc rước Mình và Máu
Thánh Đức Kitô gia tăng sự kết hợp của người rước lễ với Chúa, tha thứ cho họ
các tội nhẹ và gìn giữ họ khỏi các tội trọng. Vì việc rước lễ củng cố mối liên
hệ tình yêu giữa người rước lễ với Đức Kitô, nên việc lãnh nhận bí tích này
cũng củng cố sự hiệp nhất của Hội Thánh là Thân Thể mầu nhiệm của Đức Kitô.
1417. Hội Thánh tha thiết
khuyên tín hữu nên rước lễ mỗi khi tham dự Thánh lễ. Hội Thánh buộc tín hữu rước
lễ mỗi năm ít là một lần.
1418. Vì Đức Kitô hiện diện
thật sự trong bí tích bàn thờ, nên chúng ta phải tôn vinh Người bằng một phụng
tự tôn thờ. “Việc viếng Thánh Thể là một bằng chứng bày tỏ lòng biết ơn, một dấu
chỉ tình yêu và một bổn phận thờ lạy đối với Đức Kitô, Chúa chúng ta”[115].
1419. Trước khi lìa bỏ thế
gian mà về cùng Cha, Đức Kitô ban cho chúng ta, trong bí tích Thánh Thể, bảo chứng
vinh quang nơi Người: việc tham dự Thánh lễ uốn lòng chúng ta nên giống trái
tim Chúa, nâng đỡ sức lực chúng ta trên đường lữ thứ trần gian, làm cho chúng
ta khao khát cuộc sống vĩnh cửu và ngay từ bây giờ kết hợp chúng ta với Hội
Thánh trên trời, với Đức Trinh Nữ diễm phúc và với tất cả các Thánh.
Số 805, 950, 2181-2182, 2637, 2845: Thánh Thể và sự
hiệp thông của các tín hữu
805. Hội Thánh là Thân Thể
của Đức Kitô. Nhờ Thần Khí và nhờ hành động của Ngài trong các bí tích, nhất là
bí tích Thánh Thể, Đức Kitô, Đấng đã chết và đã sống lại, làm cho cộng đoàn các
tín hữu nên Thân Thể của Người.
950. Sự hiệp thông các bí
tích. “Quả vậy, hoa trái của tất cả các bí tích thuộc về hết mọi tín hữu;
nhờ các bí tích này, giống như nhờ những mối dây thánh thiêng, họ được gắn liền
và kết hợp với Đức Kitô, nhất là nhờ bí tích Rửa Tội, qua đó, như qua một cái cửa,
họ tiến vào Hội Thánh. Các Giáo phụ giải thích rằng, ‘các Thánh thông công’
trong Tín biểu phải được hiểu là sự hiệp thông các bí tích…. Danh xưng [hiệp
thông] này phù hợp với tất cả các bí tích, vì tất cả đều kết hợp chúng ta với
Thiên Chúa…; tuy nhiên danh xưng ấy thích hợp hơn cho bí tích Thánh Thể, là bí
tích thực hiện sự hiệp thông này”[116].
2181. Bí tích Thánh Thể
ngày Chúa nhật đặt nền tảng và củng cố toàn bộ cuộc sống Kitô hữu. Vì vậy, các
tín hữu bắt buộc phải tham dự thánh lễ vào các ngày lễ buộc, trừ khi được biện
minh bằng một lý do quan trọng (chẳng hạn, bị bệnh, phải chăm sóc trẻ sơ sinh),
hay được mục tử riêng của mình miễn chuẩn[117].
Ai cố tình vi phạm nghĩa vụ này, là phạm tội cách nghiêm trọng.
2182. Việc tham dự cuộc cử hành chung bí tích Thánh Thể Chúa nhật
là bằng chứng sự liên kết và trung thành với Đức Kitô và với Hội Thánh của Người.
Như vậy các tín hữu chứng tỏ sự hiệp thông của mình trong đức tin và đức mến. Họ
cùng nhau làm chứng cho sự thánh thiện của Thiên Chúa và cho niềm hy vọng của
mình vào ơn cứu độ. Họ làm cho nhau nên vững mạnh dưới sự hướng dẫn của Chúa
Thánh Thần.
2637. Tạ ơn là nét đặc trưng của kinh nguyện của Hội Thánh; Hội
Thánh, khi cử hành Thánh Lễ, biểu lộ và trở thành phù hợp hơn với bản chất của
mình. Thật vậy, trong công trình cứu độ, Đức Kitô giải thoát thụ tạo khỏi tội lỗi
và sự chết, để thánh hiến chúng một lần nữa và quy hướng chúng về Chúa Cha để
tôn vinh Ngài. Lời kinh tạ ơn của các chi thể trong Thân Thể được tham dự vào lời
tạ ơn của Đức Kitô là Đầu.
2845. Việc tha thứ tự bản chất mang tính thần linh này không có giới
hạn cũng như mức độ[118]. Nếu đề cập đến “những xúc
phạm” (là “tội” theo Lc 11,4 hoặc “nợ” theo Mt 6,12), thì thật sự mọi người
chúng ta luôn luôn là những kẻ mắc nợ: “Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ
tương thân tương ái” (Rm 13,8). Sự hiệp thông của Ba Ngôi Chí Thánh là nguồn mạch
và quy luật chân lý của bất cứ tương quan nào[119].
Chúng ta phải sống sự hiệp thông đó trong cầu nguyện, đặc biệt là trong bí tích
Thánh Thể[120]:
“Thiên Chúa
không nhận tế phẩm của những kẻ gây bất hoà, và Ngài truyền họ hãy rời bỏ bàn
thờ, và đi làm hoà với anh em trước đã, ngõ hầu có thể giao hoà với Thiên Chúa
bằng những lời nài xin an bình. Hy lễ đẹp lòng Chúa hơn cả là sự bình an của
chúng ta, sự hoà thuận, tình đoàn kết của đoàn dân trong sự hợp nhất của Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”[121].
Số 1212, 1275, 1436, 2837: Thánh Thể như của ăn
thiêng liêng
1212. Ba bí tích khai tâm Kitô giáo: Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể,
đặt nền tảng cho toàn bộ đời sống
Kitô hữu. “Việc tham dự vào bản tính Thiên Chúa, mà ân sủng của Đức Kitô ban
cho con người, có một sự tương tự nào đó với đời sống tự nhiên, là được sinh
ra, lớn lên và được nuôi dưỡng. Thật vậy, được tái sinh bằng bí tích Rửa Tội,
các tín hữu được củng cố bằng bí tích Thêm Sức, và sau cùng được bồi bổ bằng
bánh trường sinh trong bí tích Thánh Thể. Như vậy, nhờ các bí tích khai tâm
Kitô giáo, càng ngày họ càng được lãnh nhận những kho tàng của đời sống thần
linh và tiến đến sự trọn hảo của đức mến[122].
1275. Việc khai tâm Kitô giáo được thực hiện bằng ba bí tích: bí
tích Rửa Tội khởi đầu cuộc sống mới; bí tích Thêm Sức củng cố đời sống đó; bí
tích Thánh Thể nuôi dưỡng tín hữu bằng Mình và Máu Đức Kitô để biến đổi họ
trong Người.
1436. Bí tích Thánh Thể và bí
tích Thống Hối. Việc hối cải và thống hối hằng ngày gặp được nguồn mạch và
lương thực của mình nơi bí tích Thánh Thể, bởi vì nơi Thánh Thể, hy lễ của Đức
Kitô hiện diện, hy lễ này giao hoà chúng ta với Thiên Chúa; nhờ bí tích Thánh
Thể, những ai sống bởi sức sống của Đức Kitô sẽ được nuôi dưỡng và được bổ sức;
bí tích này là “thuốc giải độc, giải thoát chúng ta khỏi các lỗi phạm hằng ngày
và gìn giữ chúng ta khỏi các tội trọng”[123].
2837. “Hằng ngày”. Tân Ước
không sử dụng từ “hằng ngày” (épiousios)
ở chỗ nào khác. Theo nghĩa thời gian, từ này là sự lặp lại từ “hôm nay” theo kiểu
sư phạm[124], để dạy chúng ta phó thác
cách triệt để. Theo nghĩa phẩm chất, từ này có nghĩa là điều cần thiết cho sự sống
và, hiểu rộng hơn, mọi điều thiện hảo đủ để tồn tại[125].
Theo nghĩa văn tự (épi-ousios:
“super-substantiale”, vượt trên điều cốt thiết), từ này trực tiếp nói đến Bánh
trường sinh, là Mình Thánh Chúa Kitô, “phương dược trường sinh”[126], mà nếu không có lương thực
này, chúng ta sẽ không có sự sống nơi mình[127].
Sau cùng, kết hợp với điều đã nói trên, ý nghĩa thiên quốc là rõ ràng: “ngày”
là ngày của Chúa, ngày của Bàn tiệc Nước Trời, mà bí tích Thánh Thể là một sự
tham dự trước, như nếm trước Nước Trời đang đến. Chính vì vậy, phụng vụ Thánh
Thể phải được cử hành “hằng ngày”.
“Vậy Thánh Thể
là lương thực hằng ngày của chúng ta…. Đặc tính của lương thực thần thiêng này
là sự hợp nhất, để một khi được kết hợp trong Mình Thánh Người, trở nên các chi
thể của Người, chúng ta trở thành điều chúng ta lãnh nhận…. Và lương thực hằng
ngày là khi anh em nghe các bài đọc mỗi ngày ở nhà thờ; lương thực hằng ngày là
khi anh em nghe và hát các thánh thi. Bởi vì những điều đó là cần thiết cho cuộc
lữ hành của chúng ta”[128].
“Cha trên trời
thúc dục chúng ta là, với tư cách là con cái bởi trời, chúng ta hãy cầu xin Bánh
bởi trời[129]. Đức Kitô ‘chính Người là
tấm bánh được gieo trồng trong lòng Đức Trinh Nữ, dậy men trong xác phàm, làm
thành bánh trong cuộc khổ nạn, nấu nương trong lò huyệt mộ, lưu giữ trong các
nhà thờ, được dâng lên trên các bàn thờ, hằng ngày cung cấp lương thực bởi trời
cho các tín hữu’”[130].
Bài Ðọc I: Ðnl 8, 2-3. 14b-16a
"Người sẽ ban cho các ngươi của ăn mà các ngươi và cha ông các ngươi chưa từng biết tới".
Bài trích sách Ðệ Nhị Luật.
Môsê nói cùng dân chúng rằng: "Các ngươi hãy nhớ tất cả đoạn đường mà Chúa là Thiên Chúa các ngươi đã dẫn đưa các ngươi qua sa mạc suốt bốn mươi năm, để rèn luyện và thử thách các ngươi, để biết các điều bí ẩn trong lòng các ngươi và xem các ngươi có tuân giữ lề luật của Người hay không? Người đã để các ngươi vất vả thiếu thốn, và ban cho các ngươi manna làm của ăn mà các ngươi và cha ông các ngươi chưa từng biết tới, để tỏ cho các ngươi thấy rằng: Con người sống không nguyên bởi bánh, mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.
"Các ngươi hãy nhớ Chúa là Thiên Chúa các ngươi, Ðấng đã dẫn đưa các ngươi ra khỏi đất Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. Và Người là Ðấng đã dẫn các ngươi vào nơi hoang địa mênh mông và kinh khủng có nhiều rắn hổ lửa, bò cạp, rắn lục, và không có một giọt nước nào; Người đã khiến nước từ tảng đá cứng rắn vọt ra. Trong hoang địa, Người đã nuôi các ngươi bằng manna mà cha ông các ngươi chưa từng biết tới".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 147, 12-13. 14-15. 19-20.
Ðáp: Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa (c. 12a).
Xướng: 1) Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa.
Hãy ngợi khen Thiên Chúa của ngươi, hỡi Sion! vì Người giữ chặt các then cửa
ngươi, Người chúc phúc cho con cái ngươi trong thành nội.
Ðáp: Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa (c. 12a).
2) Người đã sai lời Người xuống cõi trần ai, và
lời Người lanh chai chạy rảo. Người khiến tuyết rơi như thể lông cừu, Người
gieo rắc sương đông như tro bụi trắng.
Ðáp: Giêrusalem hỡi, hãy ngợi khen Chúa (c. 12a).
3) Người đã loan truyền lời Người cho Giacóp, những
thánh chỉ và huấn lệnh Người cho Israel. Người đã không làm cho dân tộc nào như
thế, Người đã không công bố cho họ các huấn lệnh của Người.
Ðáp: Giêrusalem hỡi, hãy
ngợi khen Chúa (c. 12a).
Bài
Ðọc II: 1 Cr 10, 16-17
"Có một tấm bánh, nên chúng ta tuy nhiều,
cũng chỉ là một thân thể".
Bài trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ
gửi tín hữu Cô-rintô.
Anh em thân mến, chén chúc tụng mà chúng ta cầm
lên chúc tụng Chúa chẳng phải là thông hiệp với máu Chúa Kitô sao? Tấm bánh mà
chúng ta bẻ ra chẳng phải là thông phần vào Mình Chúa đó sao? Vì có một tấm
bánh, nên chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể, vì hết
thảy chúng ta thông phần cùng một tấm bánh.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 6, 51-52
Alleluia, alleluia! - Chúa phán: "Ta là
bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời". -
Alleluia.
Phúc
Âm: Ga 6, 51-59
"Thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là
của uống".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân Do-thái rằng:
"Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh này, thì sẽ sống đời đời.
Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống". Vậy người
Do-thái tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình
cho chúng ta ăn được?" Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: "Thật, Ta bảo
thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các
ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta thì có
sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì thịt Ta thật
là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở
trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta
sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Ðây là bánh bởi
trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết. Ai ăn bánh
này thì sẽ sống đời đời".
Ðó là lời Chúa.
[1] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 7: AAS 57 (1965) 9.
[22] X. Constitutiones
apostolicae, 8, 13. 12: SC 336, 208 (Funk, Didaschalia et Constitutiones Apostolorum, 1, 516); Didache, 9, 5: SC 248, 178 (Funk, Patres apostolici, 1, 22); Ibid., 10,6: SC 248, 180 (Funk, Patres apostolici, 1, 24).
[25] X. Kinh nguyện
Thánh Thể I còn gọi là Lễ Quy Rôma, 95: Sách
Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 453.
[45] X. Kinh nguyện
Thánh Thể I còn gọi là Lễ Quy Rôma, 90: Sách
Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 451.
[57] Thánh Augustinô, Confessiones,
9, 11, 27 : CCL 27, 149 (PL 32, 775); lời thánh nữ Mônica, trước khi chết,
trối cho anh em thánh Augustinô.
[58] Thánh Cyrillô Giêrusalem, Catecheses mystagogicae, 5, 9-10: SC 126, 158-160 (PG 30,
1116-1117).
[73] ĐGH Gioan Phaolô II, Thư Dominicae Cenae, 3: AAS 72 (1980) 119; x. Enchiridion Vaticanum, 7, 177.
[74] ĐGH Phaolô VI, Thông điệp Mysterium Fidei, 18: AAS 57 (1965) 757; x. Thánh Tôma Aquinô, Summa theologiae, III, q. 75, a. 1, c:
Ed. Leon. 12, 156; Thánh Cyrillô Alexandria, Commentarius in Lucam, 22,19: PG 72, 912.
[78] Kinh nguyện
Thánh Thể I hay Lễ Quy Rôma, 94: Sách
Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 453.
[81] Liturgia
Byzantina. Anaphora Iohannis Chrysostomi, Prex ante Communionem: F.E.
Brightman, Liturgies Eastern and Western (Oxford
1896) 394 (PG 63, 920).
[84] Trong cùng một ngày, các tín hữu có thể rước lễ hai lần,
và chỉ hai lần mà thôi: Pontificia Commissio Codici Iuris Canonici authentice
interpretando, Responsa ad proposita
dubia, 1 : AAS 76 (1984), 746.
[88] Quy chế tổng
quát Sách Lễ Rôma, 240: Sách Lễ Rôma,
editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 68.
[99] Thánh Augustinô, In
Iohannis evangelium tractatus, 26, 13: CCL 36, 266 (PL 35, 1613); x. CĐ
Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum
Concilium, 47: AAS 56 (1964) 113.
[101] CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Unitatis redintegratio, 15: AAS 57 (1965) 102; x. Bộ Giáo Luật, điều 844,3.
[105] Lễ Trọng kính
Mình và Máu thánh Chúa Kitô, Điệp ca kinh “Magnificat” Kinh Chiều II: Các Giờ Kinh Phụng Vụ, editio typica, v.
3 (Typis Polyglottis Vaticanis 1973) 502.
[106] Kinh nguyện
Thánh Thể I hay Lễ Quy Rôma, 96: Sách
Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 453.
[109] Nghi thức Hiệp
lễ, 126 [Lời nguyện sau kinh Lạy Cha]: Sách
Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 472; x. Tt 2,13.
[110] Kinh nguyện
Thánh Thể III, 116: Sách Lễ Rôma, editio
typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 465.
[114] X. CĐ Triđentinô, Sess. 13a, Decretum de ss. Eucharistia, c. 3: DS 1640; Ibid., canon 1: DS 1651.
[122] X. ĐGH Phaolô VI, Tông hiến Divinae consortium naturae: AAS 63 (1971) 657; x. Nghi thức gia nhập Kitô giáo cho người lớn, Praenotanda
1-2 (Typis Polyglottis Vaticanis 1972) 7.
[130] Thánh Phêrô Kim Ngôn, Sermo 67, 7: CCL 24A, 404-405 (PL 52, 402).