GIÁO HỘI
NHƯ LÀ GIA ĐÌNH THIÊN CHÚA VÀ GIÁO HỘI TẠI GIA
Gm. Phêrô Nguyễn Văn Viên
WHĐ (05.9.2021) - “Giáo hội là Gia đình của các gia đình, thường xuyên được làm phong phú bởi đời sống của tất cả các Giáo hội tại gia” (Amoris Laetitia, số 87).
1. DẪN NHẬP
Mạc khải Kinh Thánh Cựu Ước cho chúng ta biết rằng từ nguyên
thủy Thiên Chúa sáng tạo muôn vật muôn loài, đồng thời, sáng tạo con người theo
hình ảnh Thiên Chúa, để họ được chia sẻ sự sống và tình yêu của Người. Tuy
nhiên, bản tính và phẩm giá con người trên bình diện cá nhân cũng như gia đình
đã bị hư tổn vì tội lỗi. Để thực hiện chương trình phục hồi và cứu độ con người,
Thiên Chúa bắt đầu bằng việc chọn Dân Do-thái làm Dân Riêng của Người, đồng thời,
Người cho họ biết Người là Cha của họ và là Cội Nguồn của muôn vật muôn loài. Từ
Dân Riêng của Người, Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã đến với gia đình nhân loại
qua gia đình Na-da-rét.
Trong sứ mệnh ở trần gian, Đức Giêsu mạc khải rằng Thiên
Chúa là Cha của Người Con Duy Nhất là chính Người, đồng thời, Người cũng mạc khải
về Chúa Thánh Thần. Đức Giêsu còn mạc khải về sự duy nhất của Chúa Cha, Chúa
Thánh Thần và Người trong chương trình cứu độ nhân loại. Cùng với Chúa Cha, Người
gửi Chúa Thánh Thần đến với các môn đệ để tiếp tục chương trình của Thiên Chúa.
Như vậy, theo mạc khải của Đức Giêsu, Thiên Chúa vừa là Một, vừa là Ba Ngôi, vừa
là Duy Nhất, vừa là Gia Đình. Đồng thời, sự hiện diện của Đức Giêsu ở trần gian
chính là sự hiện diện của Gia Đình Thiên Chúa. Các giao ước giữa Thiên Chúa và
nhân loại trong lịch sử diễn ra trong bối cảnh gia đình (gia đình A-đam, gia
đình Nô-ê, gia đình Áp-ra-ham, gia đình Mô-sê, gia đình Đa-vít) là những hình ảnh
báo trước giao ước mới giữa Gia Đình Thiên Chúa và gia đình nhân loại được thực
hiện bởi Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Trong sứ mệnh dương thế, Đức
Giêsu Kitô đã thiết lập Giáo Hội, để Giáo Hội tiếp tục sự hiện diện của Người ở
trần gian.
Chủ đề bài viết ‘Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa và Giáo
hội tại gia' là chủ đề rộng lớn, liên quan đến nhiều khía cạnh khác nhau từ thần
học đến nhân loại học, từ xã hội học đến đạo đức học. Chúng ta giới hạn việc
tìm hiểu chủ đề thông qua những điểm chính yếu thuộc nội dung đức tin Kitô
Giáo, đồng thời, khai triển hình ảnh Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa và mối
liên hệ mật thiết với gia đình, Giáo hội tại gia. Nội dung bài viết theo thứ tự
như sau: (1) Khái niệm gia đình, (2) Gia Đình Thiên Chúa theo mạc khải Kinh
Thánh, (3) Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa, và (4) Ưu điểm trong việc hiểu
Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa.
2. KHÁI NIỆM GIA ĐÌNH
Là con người, ai cũng có kinh nghiệm về gia đình, tuy nhiên,
sẽ không bao giờ có câu trả lời xác đáng cho câu hỏi ‘gia đình là gì?', bởi vì,
khái niệm này diễn tả thực thể (hay những thực thể) vừa tĩnh, vừa động, vừa cụ
thể, vừa trừu tượng, vừa thuộc phạm trù văn hóa xã hội, vừa thuộc phạm trù kinh
tế chính trị, vừa thuộc phạm trù triết học, vừa thuộc phạm trù thần học. Dạng
thức chính yếu của gia đình, gia đình cơ bản, gia đình theo nghĩa thuần túy,
gia đình như là tế bào của xã hội (cell of society) hay gia đình hạt nhân
(nuclear family) là gia đình bao gồm một
vợ một chồng (monogamous model) và con cái của họ chưa đến tuổi thành hôn.
Đây là môi trường, nơi các đặc tính của con người như ngôi vị, tương quan, xã hội,
văn hóa, truyền thống được đón nhận, sống và chuyển tải.
Gia đình mở rộng bao gồm gia đình cơ bản cùng với những người
liên quan khác theo huyết tộc, chẳng hạn, ông, bà, cháu, chắt. Gia đình mở rộng
cũng bao gồm những người họ hàng khác nữa, chẳng hạn, chú, bác, cậu, dì. Gia
đình mở rộng còn có nghĩa là gia đình của những người thuộc cùng chủng tộc, bộ
tộc hay thị tộc. Ngoài gia đình cơ bản, gia đình mở rộng, còn có gia đình hỗn hợp.
Đây là hình thức gia đình mà vợ hoặc chồng hoặc cả hai có những hôn nhân mới
cùng với con cái và các thành phần trong gia đình chung sống với nhau. Một số
dân tộc trên thế giới còn duy trì hình thức gia đình đa thê (polygamous
family), là gia đình trong đó người chồng cùng lúc có nhiều người vợ hay đa phu
(polyandrous family), là gia đình trong đó người vợ cùng lúc có nhiều người chồng.[1]
Trong những thập niên gần đây, nghĩa gia đình cơ bản truyền
thống bị biến dạng, người ta hiểu và sống bầu khí gia đình theo cảm nhận tự do
của mình. Ở một số nơi, pháp luật dân sự cho phép họ thực hiện điều đó nhân
danh tự do, nhân quyền và dân quyền. Theo nghĩa này, gia đình không nhất thiết
bao gồm cha mẹ và con cái chưa kết hôn mà còn bất cứ hình thức nào, có thể là
gia đình của những người đồng ý sống với nhau và lìa bỏ nhau bất cứ lúc nào hay
những người sống với nhau theo lối ‘hợp đồng'. Khi ly thân, họ có thể sống một
mình hoặc nếu có con, họ trở thành cha đơn thân nuôi con (single daddy) hay mẹ
đơn thân nuôi con (single mom). Xem ra, xã hội hiện đại dễ dàng cổ xúy cho các
hình thức gia đình này.
Ngoài gia đình liên quan đến vợ chồng, con cái, người ta còn
dùng khái niệm gia đình để chỉ những thực thể khác trong môi trường nhân loại.
Chẳng hạn, gia đình gắn liền yếu tố địa lý, như gia đình của những người trong
một thôn, một xã, một huyện, một tỉnh, một quốc gia, một châu lục, toàn thế giới
(gia đình nhân loại). Người ta cũng thường dùng khái niệm gia đình để chỉ các hội
đoàn, tổ chức, tôn giáo, chẳng hạn, gia đình những người trong giáo họ, giáo xứ,
giáo phận, gia đình đại chủng viện, gia đình dòng tu. Mỗi hình thức gia đình
này lại bao gồm nhiều ‘lớp gia đình' khác nữa, chẳng hạn, gia đình các tu sĩ
chiêm niệm, gia đình các tu sĩ ẩn tu, gia đình các tu sĩ lo việc bác ái tông đồ.[2]
Gia đình không chỉ mang tính sinh học, văn hóa, xã hội mà
còn mang tính tâm linh và tôn giáo sâu sắc. Nhiều người, nhiều dân tộc trên thế
giới xem mình là ‘hậu duệ của các thần minh' và họ có tương quan mật thiết với
các thần minh. Đời sống của họ mang đậm âm hưởng của các thần minh. Họ đón nhận,
sống và chuyển tải những giá trị niềm tin, truyền thống và thực hành liên quan
đến thần minh qua các thế hệ. Hình thức gia đình này có thể bao gồm những người
cùng hay không cùng huyết tộc, bởi vì, sự liên kết giữa họ không dựa vào những
gì thuộc thế giới khả giác mà thuộc thế giới thần minh. Những yếu tố thần minh
này quan trọng hơn là những yếu tố huyết tộc hay bất cứ yếu tố nào trong thế giới
khả giác.
Đối với họ, những người trong gia đình qua đời không đi vào
cõi tiêu diệt, nhưng được vinh thăng cùng thế giới thần minh, thế giới đáng
trân trọng và đáng sống hơn thế giới khả giác. Việc tưởng nhớ ông bà tổ tiên
không phải là quay về với kỷ niệm xa xưa mà là hiện thực hóa sự liên kết giữa
người sống và người qua đời trong cùng gia đình. Các thành phần của gia đình có
thể vươn xa đến tận thủy tổ và kéo dài mãi trong dòng lịch sử. Chẳng hạn, việc
tưởng nhớ ông bà tổ tiên của nhiều dân tộc Châu Á là dịp để mọi người tỏ lòng
tri ân, báo hiếu thế hệ trước, đồng thời, xin sự bầu cử của thế hệ trước cho
mình và các thế hệ mai sau. Sự suy vong hay phồn thịnh của thế hệ sau được xem
là hệ quả của thế hệ trước hay sự bất xứng của thế hệ sau đối với thế hệ trước.
Theo họ, gia đình hữu hình là tạm thời còn gia đình vô hình luôn bền vững.
Mạc khải Kitô giáo cho chúng ta biết gia đình là thể chế đầu
tiên, xuất hiện ngay từ buổi đầu sáng tạo và là thể chế căn bản nhất của nhân
loại. Gia đình là hình thức tập thể, hình thức cộng đoàn bền vững hơn bất cứ
hình thức tập thể, hình thức cộng đoàn nào khác trong nhân loại. Gia đình được
thiết lập, hiện diện, hoạt động và tiếp tục trong dòng lịch sử cho đến tận thế.
Chúng ta có thể nói rằng ‘cũ như gia đình' và cũng có thể nói ‘mới như gia
đình'. Gia đình cũ vì ‘tuổi của gia đình' nhiều hơn tuổi của bất cứ thể chế
nào. Tương tự như thế, gia đình luôn mới vì tương lai của gia đình dài hơn bất
cứ tương lai của thể chế nào. Khi gia đình suy vong cũng là khi nhân loại không
còn tồn tại.
Nội dung đức tin Kitô giáo cho chúng ta biết gia đình được
thiết lập để đón nhận, sống và chuyển tải mạc khải của Thiên Chúa. Mọi người
trong gia đình bình đẳng với nhau về phẩm giá và được mời gọi cộng tác với
Thiên Chúa trong việc sáng tạo cũng như chăm sóc thế giới thụ tạo. Mầu nhiệm
tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại và toàn thể thụ tạo được diễn tả qua
hình ảnh gia đình.
Con người không thể hiện diện mà không có gia đình. Con người
không thể là mình đúng nghĩa nếu không có kinh nghiệm về gia đình. Con người
không thể là thành phần của xã hội đúng nghĩa bao lâu chưa ý thức mình thuộc về
gia đình và có trách nhiệm đối với gia đình. Theo Công Đồng Vatican II, “gia
đình là một trường học phát triển nhân tính.”[3]
Từ gia đình, nền tảng cấu trúc xã hội (social foundation), mỗi người được nuôi
dưỡng, được học hành, được làm quen với chuẩn mực xã hội và được định hình về
nhân cách cũng như những kinh nghiệm quý giá cho cuộc sống trong xã hội.[4] Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo
khẳng định: “Chính trong gia đình, người ta học biết làm việc với sự nhẫn nại
và niềm vui, yêu thương huynh đệ, quảng đại tha thứ luôn, nhất là phụng thờ
Thiên Chúa qua kinh nguyện và hy lễ đời sống.”[5]
Gia đình là nơi con người nhận ra căn tính của mình như là thực tại có khả năng
thể hiện tình yêu và cảm nhận tình yêu từ những người khác cách đúng nghĩa nhất.
Không nghi ngờ gì nữa, lịch sử gia đình nhân loại có được sự
chuyển biến tích cực nhờ mạc khải Kitô Giáo. Quả thật, Kinh Thánh Kitô Giáo đặt
nền tảng cho những khám phá, suy tư và thực hành đời sống gia đình cách đúng
nghĩa nhất. Hơn ai hết, Đức Giêsu Kitô đã mạc khải về Gia Đình Thiên Chúa và đặt
nền tảng vững chắc cho gia đình cơ bản cũng như các hình thức gia đình khác
trên thế giới. Người thiết lập Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian là Giáo Hội để
phục vụ tất cả mọi người. Trong bối cảnh thế giới khủng hoảng về gia đình hay
không có ý thức đủ về tầm quan trọng của gia đình, việc tìm hiểu nội dung đức
tin Kitô Giáo cho phép chúng ta nhận thức đúng đắn hơn về căn tính, đời sống và
sứ mệnh của các hình thức gia đình trong hành trình dương thế.
3. GIA ĐÌNH THIÊN CHÚA THEO MẠC KHẢI KINH THÁNH
a. Gia Đình Thiên Chúa trong Cựu Ước
Theo Kinh Thánh Cựu Ước, trong buổi đầu sáng tạo, Thiên Chúa
không nói rằng “ta hãy làm ra con người
theo hình ảnh ta, giống như ta, để con người làm bá chủ cá biển,
chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất”, nhưng
nói rằng “chúng ta hãy làm ra con người
theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển,
chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất” (St
1,26). Ở đoạn khác trong sách Sáng Thế cũng tương tự như vậy, Thiên Chúa nói:
“Này con người đã trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều thiện điều ác” (St 3, 22). Chủ từ của hành động
‘nói' là Thiên Chúa ở số nhiều (chúng ta). Các nhà chú giải tranh luận sôi nổi
về những câu Kinh Thánh trong đó Thiên Chúa diễn tả chính mình ở số nhiều, ngôi
thứ nhất. Những người muốn bảo vệ niềm tin độc thần cách nghiêm ngặt có thể cho
rằng Thiên Chúa nói như vậy với các thiên thần trong tâm trí hoặc một số người
khác có thể cho rằng tác giả sách Sáng Thế, cách nào đó, còn chịu ảnh hưởng của
não trạng đa thần. Tuy nhiên, chúng ta có thể xem đây như là ‘những mạc khải sơ
khởi' về Gia Đình Thiên Chúa. Mạc khải này dần được biểu lộ trong các sách khác
của Kinh Thánh Cựu Ước và rõ ràng hơn trong Biến Cố Đức Kitô của Tân Ước.
Chúng ta biết rằng từ ‘gia đình' theo cách hiểu hiện đại
không được dùng trong Kinh Thánh Cựu Ước, tuy nhiên, nghĩa ‘gia đình' lại rất
phổ biến, ngay từ những trang đầu của sách Sáng Thế.[6]
‘Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa' được xem là mạc khải tột đỉnh
về căn tính và phẩm giá con người theo Kinh Thánh Cựu Ước. Con người không phải
là Thiên Chúa, nhưng cũng không xa lạ với Thiên Chúa. Con người là thụ tạo của
Thiên Chúa, nhưng trổi vượt trên tất cả thụ tạo khác. Tác giả Thánh Vịnh đã thốt
lên: “Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy” (Tv 8,6). Chúng ta có
thể giải thích ‘hình ảnh Thiên Chúa' ở đây không chỉ nói về những con người đơn
lẻ, những cá nhân, những ngôi vị riêng biệt, mà còn là hình ảnh ‘con người tập
thể', ‘con người cộng đoàn', con người trong tương quan, hiệp nhất, yêu thương,
nói cách khác ‘con người gia đình'. Theo nghĩa này, chúng ta có thể suy luận rằng
‘Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa', đồng thời, Người cũng
‘sáng tạo gia đình con người theo hình ảnh Gia Đình Thiên Chúa'.
Cả hai trình thuật Sáng Thế (St 1,1-2,4 và St 2,5-25) đều diễn
tả gia đình đầu tiên, trong đó, trình thuật thứ nhất nói đến người nam và người
nữ rằng: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo
con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ”
(St 1,27), còn trình thuật thứ hai nói đến ‘con người' và ‘vợ mình' rằng: “Đức
Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người
đàn bà và dẫn đến với con người” (St 2,22). Trình thuật thứ nhất nhấn mạnh đến
sự phân biệt giữa nam và nữ, đồng thời, đề cao sự kết hợp của nam và nữ trong
việc sinh hoa kết trái để làm cho gia đình nhân loại ngày càng phát triển.
Trình thuật thứ hai nhấn mạnh đến sự bổ trợ cần thiết giữa nam và nữ vì ‘con
người ở một mình thì không tốt' (St 2, 18). Người nam cần người nữ và ngược lại,
người nữ cần người nam. Họ trở nên ‘một xương một thịt' nhằm làm cho đời sống họ
được phong phú và cộng tác với Thiên Chúa trong chương trình của Người.[7]
Trong khi chúng ta có ít kinh nghiệm về Gia Đình Thiên Chúa,
chúng ta lại có nhiều kinh nghiệm về gia đình con người, bởi vì, tất cả chúng
ta ai cũng là ‘con người của gia đình'. Sách Sáng Thế không dùng từ ‘gia đình',
tuy nhiên, nghĩa của gia đình thực sự đã được diễn tả cách cụ thể rằng: “Người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với
vợ mình và cả hai thành một xương một thịt” (St 2, 24). Họ được mời gọi để tạo
nên gia đình và “sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất và thống trị mặt đất...
làm bá chủ cá biển, chim trời và mọi giống vật bò trên mặt đất” (St 1, 28). Cấu
trúc cơ bản của gia đình bao gồm cha mẹ và con cái đã được Thiên Chúa thiết lập
và chúc phúc ngay từ buổi đầu sáng tạo và cấu trúc này tiếp tục trong hành
trình lịch sử nhân loại cho đến tận thế.
Trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa, muôn vật muôn loài
không được tạo dựng như là những thực tại riêng lẻ, nhưng là những thực tại
liên đới, lệ thuộc lẫn nhau và hiệp thông với nhau. Đối với con người, sự hiệp
thông và phụ thuộc lẫn nhau được diễn tả qua bối cảnh gia đình của A-đam và
E-và, gia đình đầu tiên của nhân loại. Gia đình này vừa là hình ảnh của gia
đình cơ bản, gia đình hạt nhân, tế bào xã hội, vừa là hình ảnh của gia đình
nhân loại rộng lớn. Nói cách khác, A-đam và E-và trở thành thủy tổ của nhân loại
và những gì thuộc về A-đam và E-và cũng thuộc về toàn thể nhân loại trên bình
diện cá nhân cũng như tập thể.
Câu chuyện A-đam và E-và, câu chuyện của gia đình đầu tiên vẫn
còn nguyên giá trị đối với các hình thức gia đình trong nhân loại. Sự yếu đuối,
tự do, phẩm giá và trách nhiệm của A-đam và E-và vẫn còn đó trong tâm tính của
tất cả mọi người qua muôn thế hệ. Như A-đam và E-và, con người có thể chọn lựa
giữa trung tín và bất tín, giữa tình yêu chân thực của Thiên Chúa và cám dỗ của
ma quỷ, thế gian, xác thịt: Cám dỗ để khám phá, cám dỗ để khẳng định mình, cám
dỗ để được tự lực tự cường, tự quyết định số mệnh của mình, cám dỗ để không còn
bị ràng buộc nào, cám dỗ để thoát khỏi các tương quan lành mạnh.
Câu hỏi đặt ra ‘đâu là hình ảnh Thiên Chúa điển hình nhất
trong nhân loại'? Thưa đó chính là tình yêu. Người nam và người nữ yêu thương
nhau, bổ túc cho nhau. Tình yêu của họ trổ sinh bông hạt là con cái diễn tả rõ
nét nhất tình yêu của Thiên Chúa. Cấu trúc gia đình bền vững và được Thiên Chúa
đặt ở bậc ‘giao ước' chứ không phải ở bậc ‘liên kết', ‘hợp đồng', ‘tương quan tạm
thời' hay bất cứ thứ bậc nào trong xã hội loài người. Mục đích của ‘giao ước'
là để người nam và người nữ trọn đời hiệp nhất yêu thương nhau, đồng thời, trở
thành chỗ dựa vững chắc cho con cái. Như thế, hình ảnh người nam, người nữ và
con cái họ được xem là hình ảnh rõ nhất cho phép chúng ta suy niệm và tiếp cận
Thiên Chúa. Theo Kinh Thánh, ‘con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa'
chứ không phải ‘người nam (hay người nữ) được dựng nên theo hình ảnh Thiên
Chúa'.
Phần đầu sách Sáng Thế (St 1-11) trình bày việc sáng tạo
muôn loài cũng như con người với những nhân vật như A-đam và E-và, Ca-in và
A-ben, Nô-ê và con cháu ông cùng những người xây tháp Ba-ben mang nghĩa tiên
trưng và ẩn dụ.[8] Phần kế tiếp của sách Sáng
Thế trình bày lịch sử của dân tộc được Thiên Chúa tuyển chọn với người đại diện
là Áp-ra-ham, trong đó Thiên Chúa diễn tả mình như người Cha, còn Áp-ra-ham và
con cháu ông là Dân Người (St 12-50). Tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Người
là tương quan gia đình. Đây là điều mới mẻ của mạc khải Do-thái giáo so với các
tôn giáo tồn tại trong lịch sử nhân loại trước đó hay cùng thời. Đối với đa số
các tôn giáo quanh vùng Địa Trung Hải lúc bấy giờ, Hữu Thể Tối Cao, Thượng Đế,
Thiên Chúa, Đấng Siêu Việt hoặc là quá xa xôi đối với con người hoặc mang những
đặc tính như con người vậy, nghĩa là, có giận hờn, ghen ghét, tranh giành ảnh
hưởng trong thế giới thụ tạo. Thiên Chúa của Dân Do-thái là Thiên Chúa yêu
thương, Thiên Chúa của tương quan lành thánh, Thiên Chúa của Áp-ra-ham,
I-xa-ác, Gia-cóp và ‘nhà Ít-ra-en' là ‘nơi Thiên Chúa ngự'.
Kinh Thánh Cựu Ước còn cho chúng ta biết về Áp-ra-ham và vai
trò của ông trong lịch sử của Thiên Chúa đối với Dân Do-thái. Hình ảnh
Áp-ra-ham không phải là hình ảnh của một hoàng đế hay vua chúa. Hình ảnh của
Áp-ra-ham cũng không phải là hình ảnh của người chỉ huy hay người lãnh đạo,
không phải hình ảnh một tư tế hay ngôn sứ. Trước hết, hình ảnh Áp-ra-ham là
hình ảnh của người cha trong gia đình. Hơn thế nữa, Áp-ra-ham không chỉ là hình
ảnh của người cha trong một gia đình đơn lẻ, gia đình cơ bản, mà còn là người
cha chung của muôn người (St 12, 3).
Thiên Chúa bày tỏ mục đích của Người đối với Áp-ra-ham: “Ta
đã chọn nó, để nó truyền cho con cái nó và gia tộc nó sau này phải giữ đường lối
của Đức Chúa mà thực hiện điều công minh chính trực” (St 18,19). Thiên Chúa yêu
thương, kêu gọi và làm cho Áp-ra- ham trở thành cha của Dân Người, cha của tất
cả những kẻ tin.[9] Như thế, chương trình của
Thiên Chúa đối với Áp-ra-ham, đối với Dân Do-thái là chương trình gia đình trước
bất cứ chương trình nào khác. Đến lượt mình, Áp-ra-ham ý thức điều đó, đồng thời,
ông luôn vâng lệnh Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh, ngay cả việc sát tế đứa con
duy nhất nối dõi tông đường, để duy trì sự tồn tại và phát triển của gia đình,
ông vẫn không chối từ.
Điều đáng để chúng ta quan tâm là gia đình Do-thái trong Cựu
Ước được hiểu theo nghĩa gia đình mở rộng hơn là gia đình cơ bản, chẳng hạn,
Thiên Chúa nói với Mô-sê: “Ta là Thiên Chúa của cha ngươi, Thiên Chúa của
Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp” (Xh 3,6). Áp-ra-ham,
I-xa-ác, Gia-cóp không trực tiếp sinh ra Mô-sê, tuy nhiên, họ là cha của Mô-sê
cũng như cha của toàn thể con cái Ít-ra-en cho dù khoảng cách giữa những con
người này là hàng trăm năm lịch sử. Áp-ra-ham luôn được hiểu là tổ phụ của Dân
Do-thái theo huyết thống và là tổ phụ của tất cả mọi người tin vào Thiên Chúa
mà Áp-ra-ham và con cháu ông tin, nhờ Áp-ra-ham, muôn dân được phúc lành của
Thiên Chúa.[10]
Khi đề cập đến các giới răn trong Cựu Ước, đặc biệt đối với
Mô-sê, chúng ta thấy rằng lời của Mô-sê với Dân Do-thái được đặt trong bối cảnh
gia đình mở rộng. Chẳng hạn, đối với giới răn quan trọng nhất, giới răn mến
Chúa, Mô-sê nói: “Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Đức
Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ,
hết sức anh (em). Những lời này tôi truyền cho anh (em) hôm nay, anh (em) phải
ghi tạc vào lòng. Anh (em) phải lặp lại những lời ấy cho con cái, phải nói lại
cho chúng, lúc ngồi trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức
dậy” (Đnl 6,4-7). Mô-sê luôn quan tâm đến hiệu lực của giới răn Thiên Chúa
trong đời sống của gia đình Dân Do-thái. Mô-sê hiểu rằng giới răn luôn đồng
hành cùng gia đình Dân Do-thái trong khi các cá nhân lần lượt ra đi.
Kinh Thánh Cựu Ước còn dùng hình ảnh hôn nhân gia đình để diễn
tả tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Do-thái. Hôn nhân giữa Thiên Chúa và Dân
Do-thái bền vững về phía Thiên Chúa, nhưng lại dễ bị tổn thương về phía Dân
Do-thái. Người chồng yêu thương người vợ diễn tả Thiên Chúa yêu thương Dân
Do-thái. Sự trung tín vợ chồng diễn tả sự trung tín của Dân Do-thái đối với
Thiên Chúa. Tương tự như vậy, sự bất tín vợ chồng diễn tả sự bất tín của Dân
Do-thái đối với Thiên Chúa. Trong mọi hoàn cảnh, Thiên Chúa sống tinh thần giao
ước còn Dân Do-thái sống tinh thần hợp đồng. Thiên Chúa đề cao những giá trị
vĩnh cửu, Dân Do-thái đề cao những giá trị tạm thời và chạy theo bóng dáng của
những gì vinh hoa thế tục hão huyền. Trong sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a, Thiên Chúa
nói: “Người đàn bà thất trung với bạn mình làm sao, thì, hỡi nhà Ít-ra-en, các
ngươi cũng thất trung với Ta như vậy” (Gr 3,20). Tuy nhiên, lịch sử Cựu Ước cho
chúng ta thấy rằng sự bất tín của Dân Do-thái nói riêng và toàn thể nhân loại
nói chung không thể phá vỡ chương trình tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại
và thế giới thụ tạo. Gia đình nhân loại bị méo mó, băng hoại, tuy nhiên, không
bị triệt tiêu, trái lại, được khôi phục nhờ tình yêu vô biên của Thiên Chúa,
tình yêu vượt thắng tội lỗi nhân loại.
Dân Do-thái nhận thức rằng Thiên Chúa là Cha của dân tộc họ.
Do đó, Thiên Chúa luôn yêu thương họ cho dù họ lắm phen ngỗ nghịch, bất xứng. Đối
với họ, sự trở về với Thiên Chúa, sự trở về với Cha mình luôn là điều cần thiết
để đón nhận sự tha thứ và phúc lành, bởi vì, càng xa rời Thiên Chúa bao nhiêu,
họ càng lâm cảnh lầm than cơ cực bấy nhiêu. Hơn thế nữa, càng xa rời Thiên
Chúa, họ càng dễ rơi vào tay của những thế lực ngoại bang và gần hơn với sự hủy
diệt. Kinh nghiệm lịch sử dạy cho họ rằng Thiên Chúa luôn kiên nhẫn với họ và
giữ lời hứa với cha ông họ qua muôn ngàn thế hệ.
b. Gia Đình Thiên Chúa trong Tân Ước
Như đã được đề cập ở trên, trong Cựu Ước, Thiên Chúa mạc khải
là Cha của Dân Do-thái và là nguồn gốc của muôn vật muôn loài.[11] Những người thuộc Do-thái
giáo và Kitô giáo đều tuyên xưng Thiên Chúa duy nhất, nhưng ý niệm Thiên Chúa
Ba Ngôi thì chưa hề tồn tại trong Do-thái giáo. Hơn thế nữa, khi nói Thiên Chúa
là gia đình và Đức Giêsu Kitô từ Gia
Đình Thiên Chúa đến với gia đình nhân loại để thiết lập Gia Đình Thiên Chúa ở
trần gian thì lại càng xa lạ đối với những người Do-thái giáo. Thực ra, việc nhận
thức Thiên Chúa là Gia Đình và Thiên Chúa thiết lập Gia Đình của Người trong
môi trường nhân loại không phát xuất từ suy tư của con người, nhưng từ mạc khải
căn bản của Tân Ước.
Chúng ta biết rằng tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Do-thái
trong bối cảnh gia đình đạt tới đỉnh điểm trong Biến Cố Đức Kitô, khi thời gian tới hồi viên mãn. Với Biến Cố
này, Thiên Chúa thiết lập Gia Đình Người ở trần gian để Gia Đình Người lớn mạnh
và lan rộng khắp nơi. Gia Đình Thiên Chúa đã được tiên báo ngay từ buổi đầu
sáng tạo (St 3,15), hiện diện trong lịch sử nhân loại, đặc biệt, lịch sử gia
đình Dân Do-thái. Với Biến Cố Đức Kitô, Thiên Chúa mạc khải rằng Người không chỉ
là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác, Gia-cóp và con cháu của họ, mà còn là
Thiên Chúa của muôn dân muôn nước.
Với Gia Đình Thiên Chúa hiện diện ở trần gian, Thiên Chúa
‘không liên lạc với nhân loại từ xa' như Người đã thực hiện qua những người
lãnh đạo Do-thái hay các ngôn sứ trong Cựu Ước, nhưng qua Con của Người, Đức
Giêsu Kitô. Nhờ Đức Giêsu Kitô, Thiên Chúa đã trở thành Em-ma-nu-en, Thiên Chúa
trở thành Thiên- Chúa-ở-cùng-chúng-ta.
Người hiện diện và hoạt động trong gia đình nhân loại để thông phần bấp bênh, bất
hòa hợp và đau khổ của gia đình nhân loại trong hành trình tiến về Gia Đình
Thiên Chúa sung mãn. Đức Giêsu Kitô mạc khải cho nhân loại biết gia đình nhân
loại được hình thành, hiện diện và tiếp tục trong dòng lịch sử là nhờ Gia Đình
Thiên Chúa.
Đức Giêsu cũng tỏ cho nhân loại biết Người là Con Thiên
Chúa, Đấng là nguyên ủy và cứu cánh của mọi người cùng toàn thể thế giới thụ tạo.
Hơn thế nữa, Đức Giêsu còn mạc khải về Chúa Thánh Thần. Trước khi bước vào cuộc
khổ nạn, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban
cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14,16) và “Đấng
Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em
mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga
14,26). Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu Kitô và Chúa Thánh Thần phát xuất từ
Thiên Chúa Cha và từ Đức Giêsu Kitô. Karl Rahner (1904-1984), nhà thần học xuất
chúng thế kỷ XX, viết: “Chúa Ba Ngôi cứu độ chính là Chúa Ba Ngôi nội tại và
ngược lại.”[12] Theo cách hiểu của Karl
Rahner và với ngôn ngữ gia đình, chúng ta có thể nói rằng Gia Đình Chúa Ba Ngôi
trong chương trình cứu độ cũng chính là Gia Đình Chúa Ba Ngôi nội tại. Như vậy,
nhờ Đức Giêsu Kitô và trong Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa mạc khải cho nhân loại
những điều mà với khả năng tự nhiên, nhân loại không thể nhận thức được. Thiên
Chúa duy nhất và Ba Ngôi, Thiên Chúa là một và là cộng đoàn các Ngôi Vị, Thiên
Chúa là gia đình.
Từ muôn thuở, Đức Giêsu thuộc Gia Đình Thiên Chúa. Với Biến
Cố Nhập Thể, Người cũng thuộc gia đình nhân loại và trở thành thành phần trong
gia đình nhân loại.[13] Vốn dĩ thuộc về môi trường
Thiên Chúa, Đức Giêsu mạc khải cho nhân loại về môi trường này, đồng thời, Người
làm cho toàn thể mọi người trong gia đình nhân loại được nối kết với Gia Đình
Thiên Chúa. Khi thuộc về môi trường gia đình nhân loại, Đức Giêsu đã học cho biết
môi trường này. Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái viết: “Dầu là Con Thiên Chúa,
Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt
5,8). Với Người, gia đình nhân loại không còn phải bước đi trong cảnh mù tối của
thế gian, của sự dữ, nhưng được bước đi trong ánh sáng ban sự sống của Người. Đồng
thời, Đức Giêsu còn mở ra cho nhân loại hừng đông mới về Gia Đình Thiên Chúa
viên mãn.
Đức Giêsu sinh ra và lớn lên trong gia đình Na-da-rét. Dưới
nhãn quan những người đương thời, Người có bố làm nghề thợ mộc, tên là Giuse, mẹ
là Maria, anh chị em họ hàng của Người là Gia- cô-bê, Giô-xếp, Si-môn, Giu-đa
(Mt 13, 55). Đức Giêsu lịch sử hiện diện ở trần gian 33 năm thì 30 năm sống với
gia đình.[14] Người sinh ra và lớn lên
trong bối cảnh tôn giáo và văn hóa Do-thái. Người được giáo dục để tuân giữ và
thực hành các tập tục Do-thái. Thánh Giuse và Đức Maria thi hành đầy đủ các bổn
phận của những người Do- thái đối với bản thân mình cũng như đối với Đức Giêsu.
Khi trưởng thành, Đức Giêsu vào đền thờ trong những ngày Sa-bát. Người tuân giữ
và khuyến khích người khác tuân giữ luật Thiên Chúa. Hơn thế nữa, Đức Giêsu chỉ
cho mọi người biết đâu là điểm căn bản trong việc tuân giữ lề luật Thiên Chúa
(Mt 5, 17-48).
Đức Giêsu cho chúng ta biết sự liên kết giữa Người và Chúa
Cha sâu thẳm đến nỗi Người với Chúa Cha là một (Ga 10, 30; Ga 17,22). Người
cũng muốn rằng tất cả nhân loại, cùng với Người, trở nên một trong Chúa Cha. Sự
liên kết này bền vững và sâu nhiệm hơn bất cứ sự liên kết gia đình nào mà chúng
ta có thể cảm nhận được. Đó là lý do tại sao Người nói: “Anh em cũng đừng gọi
ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời”
(Mt 23,9). Chúng ta đạt được sự liên kết này khi chúng ta thực thi giới răn mới
của Người (Ga 13,34-35; Ga 15,15). Người dạy các môn đệ cũng như những ai theo
Người qua muôn thế hệ cầu nguyện với câu mở đầu thân thương: ‘Lạy Cha chúng con
ở trên trời'. Câu mở đầu này gợi lên hai điểm chính: (1) Thiên Chúa là Cha của
tất cả mọi người và (2) mọi người là anh chị em của nhau. Như thế, mỗi người
trong nhân loại vừa là con cái của một gia đình cá biệt nào đó hay thuộc về những
hình thức gia đình mở rộng nào đó, vừa là con cái của Gia Đình Thiên Chúa.
Tương quan giữa nhân loại và Thiên Chúa là tương quan Cha
con, tương quan gia đình chứ không phải là tương quan của những người trong một
hội đoàn hay tổ chức văn hóa xã hội nào đó, cũng không phải là tương quan giữa
vua chúa với thần dân, cũng không phải tương quan giữa những người lãnh đạo và
thuộc cấp của mình. Do đó, khi nói sự yêu thương của Thiên Chúa đối với nhân loại
cần được hiểu là sự yêu thương được diễn tả qua hình ảnh của người cha hay người
mẹ đối với con cái chứ không phải là sự yêu thương theo một hình thức nào khác.
Sự tha thứ của Thiên Chúa đối với nhân loại cũng vậy, cần được hiểu qua hình ảnh
sự tha thứ của người cha hay người mẹ đối với con cái mình, chứ không phải là sự
tha thứ nào khác.
Dụ ngôn Người Cha Nhân
Hậu (Lc 15,11-32) kể về sự bất xứng ‘hết thuốc chữa' của người con và lòng
nhân từ ‘không thể hơn nữa' của người cha. Người con nhận ra sự bất xứng của
mình đến nỗi không dám nhận mình là con của người cha. Trong khi đó, tâm trí
người cha không bao giờ vắng bóng người con, hình ảnh người con vẫn còn đó cho
dù người con bất tuân và ngỗ nghịch tột độ. Người con đánh mất phẩm giá của
mình vì sự tự do ích kỷ, còn người cha hồi phục phẩm giá cho người con theo
cách mà người con không bao giờ nghĩ tới.
Dụ ngôn này cho phép chúng ta suy tư về A-đam, người con
hoang đàng trong buổi đầu sáng tạo, về Dân Do-thái và toàn thể nhân loại trong
dòng lịch sử, hiện tại cũng như tương lai. Thiên Chúa
chính là người Cha nhân hậu luôn kiên nhẫn chờ đợi sự trở về
của những người con, những người con xa lánh người Cha vì tội Nguyên Tổ, tội cá
nhân, tội tập thể. Gia đình của người cha còn trống trải, còn giá lạnh bao lâu
những người con hoang đàng chưa trở về đoàn tụ. Hình ảnh người con hoang đàng
là hình ảnh của tất cả chúng ta. Bởi vì, không ai trong chúng ta lại miễn nhiễm
tính cách của người con hoang đàng trong dụ ngôn Đức Giêsu trình bày.
Với dụ ngôn này, Đức Giêsu cho chúng ta biết tình yêu Thiên
Chúa đối với con người không phải là thứ tình yêu trừu tượng, tình yêu xa lạ,
nhưng là tình yêu mà con người có thể cảm nghiệm được. Bởi vì, ai cũng có kinh
nghiệm về tình yêu của những người trong gia đình, đặc biệt là tình yêu giữa
cha mẹ và con cái. Trong bối cảnh văn hóa Do-thái, Đức Giêsu dùng hình ảnh tình
yêu giữa người cha đối với người con để diễn tả tình yêu Thiên Chúa đối với con
người. Điều này không ngăn cản chúng ta hiểu cách tương tự rằng tình yêu giữa
người mẹ và người con cũng là hình ảnh diễn tả tình yêu Thiên Chúa đối với con
người. Với dụ ngôn này cùng nhiều hình ảnh hay biểu tượng khác, Đức Giêsu mở ra
cho chúng ta thấy tình yêu vô biên của Thiên Chúa đối với con người, tình yêu
tha thứ vô điều kiện.
Tân Ước mạc khải rằng Thiên Chúa đã ban cho thế gian chính
Con của Người để mọi người có thể trở thành con Thiên Chúa. Khi Đức Giêsu ở tuổi
mười hai, lần đầu tiên lên Giê-ru-sa-lem, Người mạc khải chính mình là Con
Thiên Chúa trước sự ngỡ ngàng của Đức Maria và thánh Giuse (Lc 2,41-52). Đức
Giêsu đã nói với Đức Maria và thánh Giuse: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ
không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2, 49). Tuy nhiên,
cha mẹ Đức Giêsu đã không hiểu được những lời Người vừa nói. Chúng ta biết
trong khi Đức Maria và thánh Giuse chỉ để tâm đến Đức Giêsu là con của mình mà
chưa ý thức đủ rằng, trước hết, Người là Con Thiên Chúa và cần thi hành bổn phận
Gia Đình Thiên Chúa, còn bổn phận gia đình Na-da-rét là hiệu quả của bổn phận
Gia Đình Thiên Chúa.
Thánh Mác-cô kể lại rằng, khi đám đông đang ngồi chung quanh
Đức Giêsu thì có mẹ và anh em của Người đứng ở ngoài báo tin về sự hiện diện của
họ, Đức Giêsu đã đặt câu hỏi: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?” (Mc 3,33). Sau
đó, Người nói với những người chung quanh: “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa,
người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3,35). Chúng ta biết rằng Đức
Giêsu không hề xem nhẹ gia đình tự nhiên, Người không hề nói rằng Đức Maria
không phải là mẹ mình hoặc người mẹ tự nhiên không quan trọng bằng người mẹ
siêu nhiên. Thực ra, Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta biết ngoài gia đình tự
nhiên còn có gia đình siêu nhiên. Trong khi gia đình tự nhiên bị giới hạn bởi
không gian, thời gian, huyết tộc và nhiều yếu tố khác nữa thì gia đình siêu
nhiên là gia đình không biên giới; gia đình siêu việt không gian, thời gian;
gia đình bao gồm người sống, kẻ chết, người thánh thiện, kẻ bất lương; gia đình
mà không một chuẩn mực nào trong thế giới thụ tạo có thể đo lường được. Dù vậy,
theo một nghĩa nào đó, Tân Ước cho chúng ta biết dường như có sự căng thẳng giữa
gia đình theo nghĩa hẹp là gia đình tự nhiên và gia đình theo nghĩa rộng là gia
đình siêu nhiên mà Đức Giêsu mời gọi mọi người quan tâm.
Trong sứ mệnh của mình, Đức Giêsu quan tâm đặc biệt tới những
nạn nhân của gia đình đổ vỡ, những người ‘bên lề' của gia đình chính thống hay
những người bị loại bỏ, khinh chê. Chẳng hạn, Đức Giêsu thăm nhà ông Gia-kêu, ở
lại ăn uống với mọi người trong gia đình ông. Người quan tâm đến những người đầu
đường xó chợ, những người lang thang phiêu bạt, những người nghèo khổ không có nhà đúng nghĩa. Cuộc sống của Đức Giêsu
trong thời gian rao giảng cũng là ‘cuộc sống không nhà'. Chính Người nói: “Con
chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,20).
Đức Giêsu đã trải qua kinh nghiệm cuộc sống
không nhà để dạy cho mọi người ngôi nhà đúng nghĩa nhất là Nhà Thiên Chúa.
Đồng thời, Người dạy các môn đệ của mình xưa kia cũng như tất cả mọi người
trong dòng lịch sử biết mở rộng tâm hồn đón nhận gia đình của Người.
Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên khi họ đang thi hành
công việc gia đình mình (Mc 1,16-20; Mt 4,18-22; Lc 5,1-11). Người ở với họ để
dạy dỗ, hướng dẫn và trao ban sứ mệnh tiếp tục chương trình của Người ở trần
gian. Đức Giêsu cũng quan tâm đặc biệt tới gia đình của họ, chẳng hạn, Người đến
thăm gia đình mẹ vợ Phêrô (Mt 8,14-15). Người yêu mến mọi người trong gia đình
Maria, Mác- ta và La-da-rô (Ga 11,1-44). Chúng ta nhận thức rằng tương quan gia
đình trong cộng đoàn của Đức Giêsu là tương quan chiếm ưu thế so với các tương
quan khác, chẳng hạn, tương quan giữa thầy và trò, tương quan giữa người đứng đầu
và những người còn lại trong cộng đoàn. Đây được xem là giai đoạn khởi đầu của
việc Đức Giêsu thiết lập Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian. Đối với Đức Giêsu,
Gia Đình Thiên Chúa siêu việt trên tất cả các biên giới và rào cản của gia đình
nhân loại: biên giới huyết tộc, bộ tộc, dân tộc, quốc gia, châu lục, phái tính,
đẳng cấp trong xã hội loài người. Các thành phần của Gia Đình Thiên Chúa cần mở
rộng tâm hồn đối với gia đình này, đồng thời, trung tín với gia đình này trong
cuộc sống và ơn gọi của họ.
Theo tường thuật của thánh Gioan, dấu lạ đầu tiên Đức Giêsu
thực hiện trong sứ mệnh rao giảng Tin Mừng là làm cho nước trở nên rượu tại tiệc
cưới Cana (Ga 2,1-12). Chính Đức Maria là người nhận ra sự khó xử của gia chủ tổ
chức đám cưới đối với khách tới dự. Nhờ Đức Maria, dấu lạ nước trở nên rượu được
thực hiện và đem lại niềm vui cho cả gia chủ lẫn thực khách. Kinh nghiệm dấu lạ
này là động lực thúc đẩy mọi người tham dự tiệc cưới Cana xưa kia cũng như tất
cả chúng ta hôm nay quan tâm hơn đến những khó khăn trong đời sống gia đình và
sự cần thiết nâng đỡ nhau để có thể vượt qua những khó khăn này. Cũng trong tiệc
cưới Cana, Đức Giêsu gọi Đức Maria là ‘bà'. Người muốn mạc khải rằng gia đình của
Người siêu việt trên tất cả các gia đình huyết thống hay các hình thức gia đình
mở rộng theo nghĩa nhân học.
Chúng ta tìm được khá nhiều trình thuật trong Kinh Thánh Tân
Ước đề cập đến việc tất cả mọi người được mời gọi trở thành con cái trong Gia
Đình Thiên Chúa. Chẳng hạn, Đức Giêsu nói: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì
họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9). Thánh Gioan Tông Đồ thì viết: “Những
ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người [Đức Giêsu], thì Người cho họ
quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1,12). Thánh nhân cũng viết cho các tín hữu:
“Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta
được gọi là con Thiên Chúa, mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa” (1 Ga 3,1).
Thánh Phao-lô thì khẳng định: “Nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên
Chúa trong Đức Giêsu Kitô” (Gl 3,26). Thánh nhân cũng đề cập đến vai trò của
Chúa Thánh Thần trong việc làm cho các môn đệ của Đức Giêsu trở thành con cái của
Thiên Chúa: “Phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên
Chúa” (Rm 8,14) hay “chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng
ta là con cái Thiên Chúa” (Rm 8,16). Những trích đoạn này giúp chúng ta nhận thức
rằng Thiên Chúa luôn yêu thương toàn thể mọi người. Vấn đề còn lại là sự đáp trả
của mỗi người đối với tình yêu của Thiên Chúa. Sự hiện diện của Đức Giêsu là để
“quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” (Ga 11,52). Như vậy,
khi so sánh mạc khải Thiên Chúa trong Cựu Ước và Tân Ước, chúng ta biết rằng mạc
khải con người là ‘con Thiên Chúa', ‘em Đức Giêsu Kitô', ‘bạn Đức Giêsu Kitô' của
Tân Ước trổi vượt hơn mạc khải ‘con người là hình ảnh của Thiên Chúa' trong Cựu
Ước.[15]
Bữa Tiệc Ly của Đức Giêsu và các môn đệ Người chính là bữa
ăn gia đình xét trên bình diện tự nhiên cũng như siêu nhiên. Trên bình diện tự
nhiên, đây cũng tương tự như bao bữa ăn khác trong các gia đình. Trên bình diện
siêu nhiên, đây là bữa ăn trước khi Đức Giêsu bước vào cuộc khổ nạn, bữa ăn này
không chỉ ‘ăn để nuôi sống thể xác' mà còn ‘ăn để nuôi sống tâm hồn'. Hơn nữa,
Đức Giêsu nhắc nhở các môn đệ: ‘Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy'. Đây chính là
bữa ăn tưởng nhớ Biến Cố Đức Kitô, bữa ăn quá khứ, bữa ăn hiện tại, bữa ăn
tương lai, bữa ăn cánh chung. Đức Giêsu nói với các môn đệ Người rằng trong khi
họ ăn nhiều thứ trong cuộc sống, họ cần ‘ăn
chính Người' để được sống đời đời.[16]
Bữa ăn này nối kết trời với đất, nối kết tất cả mọi người với nhau trong quá khứ,
hiện tại và tương lai, đồng thời, định dạng căn tính, đời sống và sứ mệnh của
những người ăn trên bình diện cá nhân cũng như tập thể. Bữa ăn này diễn tả sứ mệnh
của Đức Giêsu Kitô là “tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga
10,10).
Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái diễn tả Đức Giêsu Kitô là
‘con đầu của nhà Thiên Chúa' (Dt 3,6). Ở nơi khác, Đức Giêsu Kitô được giới thiệu
là ‘tư tế cao trọng đứng đầu nhà Thiên Chúa' (Dt 10,21). Thánh Phao-lô viết về
tương quan giữa Đức Giêsu Kitô và các tín hữu: “Những ai Người đã biết từ trước,
thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người, để Con
của Người làm trưởng tử giữa một đàn em đông đúc” (Rm 8,29). Thánh nhân còn diễn
tả cách rõ ràng hơn về Gia Đình Giáo Hội, cộng đoàn được Đức Giêsu Kitô thiết lập:
“Người cũng là đầu của thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh; Người là khởi
nguyên, là trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại, để trong mọi sự
Người đứng hàng đầu” (Cl 1,18). Trong bất cứ hoàn cảnh nào, Đức Giêsu cũng là người của gia đình, Gia Đình Thiên Chúa
vĩnh cửu và Gia Đình Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại là chính Giáo Hội để
qua Giáo Hội, Người tiếp tục chương trình cứu độ của Thiên Chúa cho đến tận thế.
4. GIÁO HỘI NHƯ LÀ GIA ĐÌNH THIÊN CHÚA
a. Nền tảng thần học và đặc tính Gia Đình Giáo Hội
Như đã được đề cập ở trên, Kinh Thánh Cựu Ước cho chúng ta
biết các giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại dễ bị tổn thương do sự bất tín của
nhân loại. Khi thời gian tới hồi viên mãn,
Thiên Chúa thiết lập giao ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và nhân loại nhờ Đức
Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Thông thường, các giao ước trong xã hội
nhân loại được thiết lập giữa các bên tương đương về phẩm giá, quyền lợi và
trách nhiệm. Các giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại được diễn tả trong Kinh
Thánh không theo thể thức đó, nhưng là do Thiên Chúa khởi xướng với tư cách và
phẩm vị trổi vượt ngàn trùng. Điều đáng để chúng ta quan tâm là các giao ước giữa
Thiên Chúa và nhân loại luôn diễn ra trong bối cảnh gia đình.
Các giao ước này gắn liền với Lời của Thiên Chúa: Lời sáng tạo,
Lời sự sống, Lời phục hồi, Lời hy vọng, Lời cứu chuộc, Lời thánh hóa. Thiên
Chúa tạo dựng muôn loài bằng Lời của Người, Thiên Chúa đối thoại với nhân loại
bằng Lời của Người và Thiên Chúa cứu chuộc nhân loại cũng bằng chính Lời của
Người, Lời Nhập Thể. Ở đây, chúng ta để ý đến ‘năm Lời' quan trọng trong Kinh
Thánh, cả năm Lời đều thực hiện qua gia đình. Lời thứ nhất liên quan đến việc
khởi đầu gia đình nhân loại: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng
ta, giống như chúng ta” (St 1,26). Lời thứ hai liên quan đến gia đình Nô-ê:
“Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất” (St 9,1). Lời thứ ba liên
quan đến gia đình Áp-ra-ham: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi
tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi” (St 12,1). Lời thứ tư liên quan đến gia đình Đức
Giêsu, được ngôn sứ I-sai-a tiên báo: “Này đây, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ
một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là ‘Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta'»
(Mt 1,23; Is 7,14).[17] Lời thứ năm là chính Lời của
Đức Giêsu liên quan đến Gia Đình thiêng liêng, gia đình mở rộng của Người:
“Thưa Bà, đây là con của Bà” (Ga 19,26).
Lời thứ năm được hiểu là Lời thiết lập Gia Đình Giáo Hội, để
qua Giáo Hội, Gia Đình Thiên Chúa tiếp tục hiện diện và hoạt động giữa trần
gian nhằm phục hồi căn tính và phẩm giá gia đình nhân loại bị biến dạng và hư
hoại bởi tội Nguyên Tổ và hệ lụy của tội này. Lời thứ năm được Đức Giêsu thốt
ra trong bối cảnh dưới chân thập giá khi Người trao phó Đức Maria cho thánh
Gioan và thánh Gioan cho Đức Maria, để từ đây gia đình Đức Giêsu cũng chính là
gia đình của Đức Maria và thánh Gioan cùng tất cả những ai nhận là môn đệ của Đức
Giêsu qua muôn thế hệ. Sau lời trăng trối này, Đức Giêsu lịch sử thuộc gia đình
Na-da-rét hoàn thành sứ mệnh của mình và nói: “Thế là đã hoàn tất! Rồi Người gục
đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga 19,30). Từ đây, Chúa Thánh Thần tiếp tục công
việc của Đức Giêsu qua Giáo Hội mà Đức Giêsu thiết lập. Chúa Thánh Thần trở
thành ‘linh hồn' của gia đình này và làm cho gia đình này luôn sống động giữa
lòng thế giới.
Trong Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo thánh Matthêu, việc thiết
lập Giáo Hội như là gia đình còn được hiểu qua sự kiện Đức Giêsu hỏi các môn đệ:
“Người ta nói Con Người là ai?”. Thánh Phêrô được Thiên Chúa linh ứng và trả lời:
“Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Đây chính là lời
tuyên xưng về gia đình Đức Giêsu. Thánh Phêrô biết rõ Đức Giêsu thuộc gia đình
Na-da-rét, Người là con Đức Maria và thánh Giuse. Tuy nhiên, thánh Phêrô nhận
được linh ứng quan trọng rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, ‘Con Thiên Chúa' và thuộc
về Gia Đình Thiên Chúa. Đó là lý do giải thích tại sao sau lời tuyên xưng của
thánh Phêrô, Đức Giêsu nói: “Này anh Si-môn con ông Giô-na, anh thật là người
có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy,
Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng
Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy và quyền lực tử thần sẽ
không thắng nổi” (Mt 16,17-18). Như thế, Đức Giêsu thiết lập Giáo Hội trên nền
tảng thánh Phêrô, nền tảng thể hiện qua lời tuyên xưng của thánh Phêrô rằng Đức
Giêsu chính là Đấng Kitô, Đấng được Thiên Chúa xức dầu, Đấng là Con Thiên Chúa
đến mạc khải cho nhân loại về Gia Đình Thiên Chúa, đồng thời, là Đấng thiết lập
Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian này.
Chúng ta cũng nhận thức rằng hình ảnh Giáo Hội như là gia
đình không phải là hình ảnh mới mẻ, mà là hình ảnh bén rễ sâu trong lịch sử cứu
độ của Thiên Chúa. Theo Công Đồng Vatican II, “trong Cựu Ước, việc mạc khải Nước
Thiên Chúa thường được trình bày bằng hình bóng; cũng thế, ngày nay bản tính
thâm sâu của Giáo Hội được diễn tả bằng nhiều hình ảnh lấy từ đời sống du mục,
canh nông, kiến trúc, hoặc gia đình và hôn lễ.”[18]
Đồng thời, Công Đồng cũng chỉ ra: “Giáo Hội cũng thường được gọi là tòa nhà của
Thiên Chúa (1 Cr 3,9). Chúa Kitô đã tự ví Người như viên đá mà các thợ xây loại
bỏ, nhưng đã trở thành viên đá góc (Mt 21,42). Trên nền móng này, các Tông Đồ
đã xây dựng Giáo Hội (1 Cr 3,11) và Giáo Hội được bền vững, liên kết nhờ nền
móng đó. Tòa nhà này còn được gọi bằng nhiều tên khác: Nhà Thiên Chúa (1 Tm
3,15), nơi Gia Đình Người cư ngụ.”[19]
Việc đào sâu và diễn tả Giáo Hội như là Nhà Thiên Chúa hay Gia Đình Thiên Chúa
được các Giáo Phụ cũng như truyền thống Giáo Hội quan tâm qua dòng thế kỷ.[20]
Hình ảnh Giáo Hội như là gia đình được quảng diễn cách mạnh
mẽ trong 4 thế kỷ đầu của Kitô Giáo, đặc biệt, trong những thập niên đầu khi
Giáo Hội vừa khai sinh. Dần dần, Giáo Hội được ‘xã hội hóa' hay ‘luật hóa' và
trở thành tổ chức quy củ như các tổ chức khác giữa lòng nhân loại để có thể diễn
tả căn tính, đời sống và sứ mệnh đích thực của mình.[21]
Tuy nhiên, chúng ta biết rằng những yếu tố bên ngoài của Giáo Hội, hay nói cách
khác, chiều kích hữu hình của Giáo Hội như là một ‘xã hội có phẩm trật' không
thể che khuất tính gia đình của Giáo Hội. Những yếu tố xã hội hay những yếu tố
bên ngoài phát sinh trong sự tiến triển của Giáo Hội nhằm làm cho Giáo Hội có
thể phục vụ nhân loại cách xứng hợp hơn. Giáo Hội có được kinh nghiệm rằng khi
Giáo Hội dựa vào cấu trúc và coi cấu trúc là căn bản, Giáo Hội gặp muôn
vàn khó khăn. Chúng ta tiếp tục khai triển thêm để trả lời cho câu hỏi: ‘Đâu là
nền tảng của Gia Đình Giáo Hội?'.
Ngày 28 tháng 1 năm 1979, trong bài giảng tại Đại Chủng Viện
Palafox, Puebla de Los Angeles (Mexico), thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II nói
rằng trong mầu nhiệm sâu thẳm nhất, Thiên Chúa không phải là Đấng cô độc, nhưng
là Gia Đình. Đồng thời, ngài cũng nhấn mạnh rằng căn tính Gia Đình Thiên Chúa
là tình yêu. Giáo lý Chúa Ba Ngôi của Kitô Giáo cho chúng ta nhận thức rằng
trong Gia Đình Thiên Chúa, không Ngôi nào hơn, không Ngôi nào kém: Ba Ngôi cùng
một bản tính, phẩm giá, phân biệt về Ngôi Vị, đồng thời, Ba Ngôi luôn hiệp
thông, luôn mở ra và luôn trao ban tình yêu vô
tận. Chúa Cha chỉ có thể là mình đúng nghĩa trong sự hiệp thông với Chúa Con và
Chúa Thánh Thần. Chúa Con chỉ có thể là mình đúng nghĩa trong sự hiệp thông với
Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Tương tự như thế, Chúa Thánh Thần chỉ có thể là
mình đúng nghĩa trong sự hiệp thông với Chúa Cha và Chúa Con. Gia Đình Chúa Ba
Ngôi là khởi nguyên của gia đình thế giới thụ tạo, tuy nhiên, gia đình thế giới
thụ tạo bị biến dạng và bất hòa hợp do sự bất tuân và lạm dụng tự do của con
người. Niềm hy vọng của toàn thể nhân loại cũng như thế giới thụ tạo đạt đỉnh
điểm trong Biến Cố Đức Kitô, Biến Cố bởi đó Gia Đình Chúa Ba Ngôi hiện diện và
tiếp tục trong Giáo Hội.
Tại hội nghị đặc biệt năm 1994, các Giám Mục Châu Phi nói rằng
Gia Đình Giáo Hội có nguồn gốc từ Chúa Ba Ngôi và Chúa Thánh Thần là mối dây hiệp
thông trong Giáo Hội. Vì Giáo Hội như là gia đình, Chúa Cha đã đi bước trước
trong việc tạo dựng A-đam. Vì Giáo Hội như là gia đình, Đức Kitô, A-đam Mới và
Người Thừa Kế các dân tộc, thiết lập Giáo Hội bởi Mình và Máu Người. Vì Giáo Hội
như là gia đình biểu lộ giữa lòng thế giới, Chúa Thánh Thần được Chúa Con gửi tới
từ Chúa Cha để tất cả được thông hiệp với nhau.[22]
Những ý tưởng của các Giám Mục Châu Phi gợi lên trong chúng ta căn tính, đời sống
và vai trò của Giáo Hội trong việc diễn tả kinh nghiệm của mình về Gia Đình
Chúa Ba Ngôi cho toàn thể nhân loại. [23]
Là hình ảnh của Gia Đình Chúa Ba Ngôi, Gia Đình Thiên Chúa,
Giáo Hội giúp mọi người nhận thức rằng tương quan của tất cả mọi người trong
nhân loại với Thiên Chúa không phải là tương quan được diễn tả bằng ngôn ngữ
triết lý, trừu tượng, chẳng hạn, tương quan giữa con người với Đấng Tuyệt Đối,
Đấng Tối Cao, Đấng Toàn Năng, nhưng là tương quan giữa con cái với Cha mình. Mạc
khải Thiên Chúa là Cha đối với Dân Do-thái trong Cựu Ước và Thiên Chúa là Cha của
Đức Giêsu Kitô và là Cha của tất cả mọi người trong Tân Ước là trọng tâm của nội
dung đức tin Kitô Giáo mà Giáo Hội diễn tả, sống và loan truyền. Hành trình của
Gia Đình Giáo Hội cũng chính là hành trình của Gia Đình Thiên Chúa đối với Dân
Mới, Dân được Đức Giêsu Kitô cứu chuộc bằng chính Máu châu báu của mình.
Sự duy nhất và đa dạng của Chúa Ba Ngôi chính là nguồn gốc
và khuôn mẫu cho sự duy nhất và đa dạng của Giáo Hội. Hiển nhiên, sự duy nhất
và đa dạng của Chúa Ba Ngôi là sự duy nhất và đa dạng hoàn hảo, còn sự duy nhất
và đa dạng của Giáo Hội là sự duy nhất và đa dạng được định hướng về sự hoàn hảo
trong Chúa Ba Ngôi. Bao lâu, Giáo Hội còn trên đường lữ hành trần thế, bấy lâu
Giáo Hội cần đến sự nâng đỡ của Chúa Ba Ngôi trong việc duy trì cách hòa hợp giữa
tính duy nhất và đa dạng để Giáo Hội có thể thánh hóa nhân loại cũng như các thực
thể trong thế giới thụ tạo.
Về mặt thực hành, Giáo Hội luôn ý thức rằng trong trường hợp
có sự xung khắc giữa ‘duy nhất' và ‘đa dạng' thì ưu tiên hướng về duy nhất. Chẳng
hạn, sự duy nhất về giáo lý phải là ưu tiên so với sự đa dạng trong cách hiểu
giáo lý đó, bằng không, tính công giáo (catholicity) và tính toàn thể
(universality) của giáo lý Giáo Hội Công Giáo sẽ bị phương hại. Đó cũng là lý
do giúp chúng ta hiểu tại sao trong Kinh Tin Kính không có câu ‘Giáo Hội đa dạng'.
Mặc dù không đề cập đến tính đa dạng trong Kinh Tin Kính, ai cũng nhận thức và
kinh nghiệm thực trạng này của Giáo Hội. Giáo Hội luôn duy nhất trong đa dạng,
do đó, vấn đề đặt ra không phải là Giáo Hội hoặc là duy nhất hoặc là đa dạng.
Giáo Hội diễn tả chính mình là Ít-ra-en Mới, là Dân Mới của
Thiên Chúa. Ít-ra-en hay Dân Thiên Chúa cũ được thiết lập trên nền tảng đức tin
của gia đình Áp-ra-ham với hậu duệ là mười hai chi tộc và toàn bộ con cái huyết
tộc Ít-ra-en. Giáo Hội, Dân Thiên Chúa mới, được thiết lập trên nền tảng Đức
Giêsu với hậu duệ là mười hai tông đồ và tất cả những ai đón nhận Đức Giêsu và
thực thi giáo huấn của Người. Dân của Gia Đình Giáo Hội, Dân Thiên Chúa là tất
cả những ai được sinh lại bởi bí tích Rửa Tội nhân danh Chúa Ba Ngôi.[24] Dân này cùng tuyên xưng:
“Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ
cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một
Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong
mọi người” (Ep 4,4-6).[25]
Như đã được đề cập ở trên, trong sứ mệnh của mình, Đức Giêsu
bày tỏ cho các môn đệ rằng họ không chỉ là con cái của những gia đình đơn lẻ ở
trần gian, mà còn là con cái của cùng một Cha ở trên trời. Điều này được Đức
Giêsu minh chứng và thực hiện trong hành trình rao giảng của Người. Các môn đệ
sống với gia đình mới của Đức Giêsu như là những anh em trong một nhà. Họ cũng
nhận thức sự khác biệt giữa họ và Đức Giêsu so với những phe nhóm, tổ chức hay
các hội đoàn đương thời. Họ được Đức Giêsu mạc khải: Người là Thầy, là Chúa, là
Bạn Hữu của họ (Ga 13,13; Ga 15,15). Những lời trăng trối của Đức Giêsu trước
khi bước vào cuộc khổ nạn biểu lộ tình yêu tận cùng của Người đối với họ hơn cả
tình yêu của người trong gia đình đối với thân quyến trước khi đi xa.
Đức Giêsu đi vào lịch sử để con người làm quen với Thiên
Chúa và Người thiết lập Gia Đình Giáo Hội để con người làm quen với Gia Đình
Thiên Chúa. Hoa trái của Biến Cố Đức Kitô là chính Giáo Hội, gia đình được tái
tạo. Trong nhãn quan của thánh Phao-lô, Đức Giêsu thiết lập Gia Đình Giáo Hội để
đón nhận mạc khải, sống mạc khải và chuyển tải mạc khải đến với tất cả mọi người.
Giáo Hội tiếp tục sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa ở trần gian.
Giáo Hội minh chứng rằng Con Thiên Chúa sinh ra từ gia đình, sống trong bầu khí
gia đình, chết trong bầu khí gia đình, Phục Sinh trong bầu khí gia đình và thiết
lập Giáo Hội như là gia đình để tiếp tục công trình cứu độ của Người. Như thế,
‘dấu ấn gia đình' không khi nào vắng bóng hay đứt quãng trong Biến Cố Đức Kitô
giữa lòng nhân loại từ Nhập Thể tới Phục Sinh. Gia đình Thiên Chúa tiếp tục hiện
diện và hoạt động giữa lòng nhân thế trong Gia Đình Giáo Hội.[26]
Gia Đình Giáo Hội vừa đề cao tương quan cá nhân, vừa đề cao
tương quan cộng đoàn. Trên bình diện cá nhân, các tín hữu được mời gọi đi vào sự
hiệp thông thân tình với Thiên Chúa. Mối tương quan giữa họ với Thiên Chúa là mối
tương quan liên vị. Trên bình diện cộng đoàn, gia đình Đức Giêsu thiết lập đòi
hỏi mọi người chung tay xây dựng đời sống cộng đoàn. Các thành phần trong cộng
đoàn được liên kết với nhau chặt chẽ hơn các thành phần trong các tổ chức hay hội
đoàn khác. Các thành phần trong cộng đoàn làm nên Thân Thể Mầu Nhiệm Đức Kitô
mà mỗi người là chi thể. Các chi thể cần cho nhau như các bộ phận trong một
thân thể cần cho nhau vậy. Trong thân thể này, Đức Giêsu vừa là đầu, vừa là
toàn thể. Điều này được thánh Phao-lô diễn tả mạch lạc: “Người cũng là đầu của
thân thể, nghĩa là đầu của Hội Thánh” (Cl 1,18) và “Cũng như trong một thân thể,
chúng ta có nhiều bộ phận, mà các bộ phận không có cùng một chức năng, thì
chúng ta cũng vậy: tuy nhiều nhưng chỉ là một thân thể trong Đức Kitô, mỗi người
liên đới với những người khác như những bộ phận của một thân thể” (Rm 12,4-5).
Chính Đức Giêsu Kitô trao ban, nuôi dưỡng và làm tăng trưởng sự sống của các
thành phần trong thân thể Người.
Ngôn ngữ Giáo Hội là ngôn ngữ gia đình. Do đó, nói rằng
‘chúng ta là con cái trong Gia Đình Giáo Hội' xem ra phù hợp với kinh nghiệm của
chúng ta hơn nói rằng ‘chúng ta là những người trong cộng đoàn Giáo Hội'. Nói rằng
‘chúng ta là con cái Thiên Chúa' xem ra phù hợp với kinh nghiệm chúng ta hơn
nói rằng ‘chúng ta được Thiên Chúa tạo dựng'. Nói rằng ‘chúng ta là em của Đức
Giêsu ' xem ra phù hợp hơn nói rằng ‘Đức Giêsu là Vua chúng ta'. Tương tự như
thế, nói rằng ‘toàn thể gia đình thế giới thụ tạo ngóng trông sự hòa nhập trong
Gia Đình Thiên Chúa' xem ra phù hợp hơn nói rằng ‘vũ trụ sẽ được biến đổi trọn
vẹn bởi Thiên Chúa trong thời cánh chung'.
Mầu nhiệm gia đình Na-da-rét cũng chính là mầu nhiệm của Gia
Đình Giáo Hội. Điều này có nghĩa là những khó khăn, trăn trở của những người
trong gia đình Na-da-rét cách đây hơn hai ngàn năm cũng chính là những khó
khăn, trăn trở của con cái Giáo Hội trong thế giới hôm nay, có khác chăng cũng
chỉ là hình thức và mức độ. Như thế, bao lâu Giáo Hội còn trên đường lữ hành, bấy
lâu Giáo Hội còn đương đầu với nhiều gian truân, bất cập, thách đố. Quãng đường
từ làng quê Na-da-rét tới kinh thành Giê-ru-sa-lem không xa xôi lắm, tuy nhiên,
hành trình của Đức Giêsu lên Giê-ru-sa-lem là hành trình khó khăn, đau khổ:
Hành trình đúc kết lịch sử mỗi cá nhân, lịch sử Giáo Hội của Người, lịch sử
nhân loại, lịch sử vũ trụ từ đau khổ tới vinh quang trong Nước Thiên Chúa viên
mãn.
Gia Đình Giáo Hội chính là Nước Thiên Chúa ở trần gian, Nước
gắn liền với Biến Cố Đức Kitô và tiếp tục hiện diện giữa lòng nhân loại. Nước
Thiên Chúa không thể hiện bằng trương độ nhưng bằng những giá trị vĩnh cửu. Đức
Giêsu nói rằng người ta không thể chỉ Nước Thiên Chúa ở đây hay ở kia, nhưng những
ai đón nhận Người và sống theo giáo huấn của Người thì trở thành công dân của
Nước này. Khi những người Pha-ri-sêu hỏi Đức Giêsu bao giờ Nước Thiên Chúa đến
thì Người trả lời: “Nước Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được.
Và người ta sẽ không nói: ‘Ở đây này!' hay ‘Ở kia kìa!', vì này Nước Thiên Chúa
đang ở giữa các ông” (Lc 17,19-21). Nước Thiên Chúa ở giữa nhân loại, nhưng câu
hỏi đặt ra: ‘Có chăng toàn thể mọi người trong nhân loại ở trong Nước Thiên
Chúa?' Đây là câu hỏi lớn cho Giáo Hội cũng như con cái Giáo Hội.
Như là Gia Đình Thiên Chúa hay Nước Thiên Chúa ở trần gian,
Giáo Hội luôn là thực thể năng động và tiến triển giữa những mưu mô ác độc của
ma quỷ và thế lực sự dữ. Ý thức mình là dấu chỉ và khí cụ của Nước Thiên Chúa,
Giáo Hội không bao giờ dừng lại để ‘chiêm ngắm mình' nhưng là chiêm ngắm Nước
Thiên Chúa. Bao lâu Giáo Hội trên đường lữ hành cùng với các thực thể khác
trong thế giới thụ tạo, bấy lâu Giáo Hội không đánh mất ý thức sự cần thiết của
ơn lành từ Thiên Chúa. Do đó, Giáo Hội không ngừng dạy bảo con cái mình luôn
tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa. Giáo Hội không ngừng giúp con cái mình biết
hướng về phía trước, biết nhìn xa trông rộng hơn những gì hiện tại và biết mở rộng
cửa lòng cho sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa.
Giáo Hội vừa như là Gia Đình Thiên Chúa giữa thế gian, vừa
là Mẹ và là Hiền Thê của Đức Kitô. Do đó, Giáo Hội hoàn toàn lệ thuộc vào Đức
Kitô. Ánh mắt, con tim và toàn bộ cuộc sống của Giáo Hội dõi theo Đức Kitô để
nhờ Đức Kitô hướng dẫn, Giáo Hội có đủ năng lực để tồn tại và phát triển bền vững
giữa thế gian. Gia sản của Giáo Hội thuộc Gia Đình Thiên Chúa, do đó, Giáo Hội
không thể tầm thường hóa mình trong những gì thuộc về thế gian. Điều này được Đức
Giêsu tỏ bày cách thân thương và sâu nhiệm cùng Chúa Cha trong những giây phút
cuối cùng trước khi bước vào cuộc khổ nạn (Ga 17,12-19). Trên đường lữ hành,
Giáo Hội diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội cho tất cả mọi người
trong khi vẫn luôn thi hành đầy đủ bổn phận đối với con cái mình.
b. Gia Đình Giáo Hội thông ban sự sống và nuôi dưỡng
con cái mình
Giáo Hội được mời gọi để thông ban sự sống, phục vụ sự sống
và mở ra cho sự sống.[27] Như đã được đề cập ở trên,
Gia Đình Giáo Hội được hình thành với Biến Cố Thập Giá khi người lính lấy lưỡi
đòng đâm thâu cạnh sườn Đức Giêsu, máu và nước chảy ra trước sự chứng kiến của
Đức Maria và người môn đệ Chúa yêu. Hình ảnh nước và máu là hình ảnh của bí
tích Rửa Tội và bí tích Thánh Thể, trong đó, bí tích Rửa Tội là bí tích nhờ đó
người lãnh nhận trở thành con cái trong Gia Đình Giáo Hội, còn bí tích Thánh Thể
là bí tích nhờ đó con cái Gia Đình Giáo Hội được nuôi dưỡng bằng chính Mình và
Máu Đức Giêsu Kitô. Cả hai bí tích này diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với
con người, tình yêu Thiên Chúa tha thứ tội lỗi và tình yêu nuôi dưỡng con người
bằng của ăn thiêng liêng.[28]
Kinh Thánh Tân Ước đề cập đến việc cần thiết của bí tích Rửa
Tội để trở thành con cái trong Gia Đình Giáo Hội. Thánh Matthêu trình bày lời của
Đức Giêsu căn dặn các môn đệ mình sau khi Phục Sinh: “Anh em hãy đi và làm cho
muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và
Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19). Còn thánh Gioan trình thuật về việc thánh Gioan Tẩy
Giả thực hành Phép Rửa kêu gọi sự ăn năn thống hối (Ga 1,24-28; Ga 3,22-23; Ga
10,40-41). Thánh Gioan Tẩy Giả cũng đề cập đến việc Đức Giêsu làm Phép Rửa
trong Thánh Thần (Ga 1,33). Đặc biệt, trong cuộc đối thoại với Ni-cô-đê-mô, Đức
Giêsu khẳng định việc ‘sinh ra một lần nữa bởi ơn trên', ‘sinh ra bởi nước và
Thần Khí' (Ga 3,2-8).
Trong sứ mệnh của mình, ngay từ buổi sơ khai, các Tông Đồ Đức
Giêsu đã thực hành việc thông ban sự sống thần linh cho những người gia nhập
Gia Đình Giáo Hội qua việc cử hành bí tích Rửa Tội. Thánh Phêrô viết cho các
tín hữu sơ khai về hình ảnh gia đình ông Nô-ê được cứu thoát khỏi nước lũ: “Nước
đó là hình bóng phép rửa nay cứu thoát anh em. Lãnh nhận phép rửa, không phải
là được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cam kết với Thiên Chúa sẽ giữ lương tâm
trong trắng, nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô” (1 Pr 3,21). Chúng ta gặp nhiều
trình thuật về việc các môn đệ Đức Giêsu cử hành bí tích Rửa Tội (Cv 3,28; Cv
8,12; 1 Cr 12,13; Tt 3,5). Như thế, ngay từ buổi đầu, Giáo Hội đã ý thức về sự
cần thiết của bí tích Rửa Tội trong việc thông ban sự sống cho con cái mình.
Giáo Hội ý thức rằng nhờ bí tích Rửa Tội, người lãnh nhận được tháp nhập vào Gia
Đình Giáo Hội. Họ trở thành thành phần của Giáo Hội và góp phần mình cho sự
tăng trưởng của Giáo Hội về mọi mặt.
Việc cử hành bí tích này đặt nền tảng trên sự nhận thức rằng
mỗi người sinh ra ở trần gian này đều mang tội lỗi của gia đình đầu tiên, gia đình
A-đam và E-và. Để gia nhập gia đình mới, Gia Đình Giáo Hội, Gia Đình Thiên
Chúa, họ phải được tẩy rửa tội lỗi để trở nên những thụ tạo mới. Giáo Hội cho
con cái mình biết rằng mỗi người sinh ra trong trần gian này là hồng ân cao
quý, tuy nhiên, được tái sinh trong Gia Đình Giáo Hội lại là hồng ân cao quý
hơn. Người lãnh nhận bí tích Rửa Tội thuộc về Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian
là chính Giáo Hội, trong khi vẫn thuộc gia đình huyết thống của mình. Nhờ bí
tích Rửa Tội, cuộc sống của họ được sung mãn hơn vì được thông phần ân sủng dồi
dào của Thiên Chúa qua Gia Đình Giáo Hội.
Là thành phần trong gia đình của Dân Thiên Chúa mới, những
người lãnh nhận bí tích Rửa Tội được hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp thông với
anh chị em mình. Đồng thời, họ được trở nên thành phần trong Nhiệm Thể Đức Kitô
và Đền Thờ Chúa Thánh Thần. Họ cùng nhau tham dự các buổi cầu nguyện, cử hành
phụng vụ để diễn tả căn tính và đời sống mình. Đặc biệt, họ cùng nhau cử hành
các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể để lãnh nhận của ăn thiêng liêng nuôi sống
họ trên đường lữ hành. Ở đâu bí tích Thánh Thể được cử hành, ở đó có Gia Đình
Giáo Hội, ở đâu có Gia Đình Giáo Hội, ở đó có Gia Đình Thiên Chúa. Như thế, Gia
Đình Giáo Hội, Gia Đình Thiên Chúa không còn lệ thuộc vào điều kiện địa lý hay
xã hội, nhưng hiện diện bất cứ nơi đâu bí tích Thánh Thể được cử hành.
Các Tin Mừng Nhất Lãm đều trình bày việc Đức Giêsu lập bí
tích Thánh Thể trong bối cảnh gia đình, trước khi Người bước vào cuộc khổ nạn
(Mt 26,25-29; Mc 14,22-25; Lc 22,19-20). Thánh Phao-lô cũng tường thuật cách cặn
kẽ việc Đức Giêsu thiết lập bí tích này (1 Cr 11,23-25). Thánh Gioan không
trình bày việc Đức Giêsu thiết lập bí tích Thánh Thể như các tác giả Tin Mừng
Nhất Lãm. Theo ý kiến của một số nhà chú giải Kinh Thánh, thánh Gioan viết Tin
Mừng vào những năm cuối thế kỷ thứ nhất, sau khi đã có các bản văn của Tin Mừng
Nhất Lãm, ưu tiên của thánh Gioan là những điều mới mẻ khởi đi từ suy tư và
kinh nghiệm của mình, người môn đệ Chúa yêu. Vào thời điểm thánh nhân viết Tin
Mừng, các tín hữu đã làm quen với việc cử hành bí tích Thánh Thể. Điều đáng để
chúng ta quan tâm về bí tích Thánh Thể theo thánh Gioan là trình thuật của
thánh nhân trong ‘Diễn Từ Bánh Trường Sinh' (Ga 6,1-15.22-66). Chẳng hạn, “ai
ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời và tôi sẽ cho người ấy sống lại
vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn và máu tôi thật là của uống. Ai ăn
thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi và tôi ở lại trong người ấy... Ai ăn
bánh này, sẽ được sống muôn đời» (Ga 6,54-58). Trong diễn từ này, Đức Giêsu bày
tỏ mình như là Mô-sê mới và chính Người là Man-na mới, Man-na đích thực, Man-na
vĩnh cửu của Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian. Người cũng là Đấng ‘khơi nguồn sự
sống', đồng thời, là Đấng nuôi sống muôn người (Cv 3,15).
Thánh Gioan không trình thuật việc Đức Giêsu thiết lập bí
tích Thánh Thể trong bữa ăn tối, bữa ăn cuối cùng giữa Đức Giêsu và các môn đệ
Người như các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm. Thay vào đó, ngài trình thuật tinh thần
phục vụ lẫn nhau trong gia đình của những người theo Đức Giêsu Kitô. Chính
trong bữa ăn cuối cùng này, Đức Giêsu đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Đồng
thời, Người mạc khải cho họ ‘giới răn mới' là “anh em hãy yêu thương nhau như
Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34).
Hai bài học quan trọng cho những ai thuộc gia đình Đức Giêsu
Kitô và được nuôi dưỡng bởi Mình và Máu của Người là (1) khiêm nhường phục vụ
anh chị em mình và (2) thương yêu anh chị em mình như chính Đức Giêsu đã yêu thương. Trong thực tế, chúng ta nhận thấy
ai trong chúng ta cũng có thể thực hiện được một số cử chỉ khiêm nhường. Tuy
nhiên, khiêm nhường như Đức Giêsu, Vị
Thiên Chúa cúi xuống rửa chân cho môn đệ mình là điều không ai có thể tưởng tượng
được. Tương tự như thế, ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về tình yêu,
nhưng yêu như Đức Giêsu yêu, yêu đến
nỗi hy sinh mạng sống vì người mình yêu là điều vượt quá khả năng chúng ta.
Khiêm nhường và yêu thương như Đức
Giêsu luôn là khuôn mẫu tối thượng cho tất cả con cái trong Gia Đình Giáo Hội
cũng như toàn thể nhân loại qua muôn thế hệ. Ai khiêm nhường như Đức Giêsu, thì cũng yêu thương như Người và ngược lại, ai yêu thương như Đức Giêsu thì cũng khiêm nhường như Người. Đối với Đức Giêsu, khiêm nhường
và yêu thương trở nên một. Mục đích của việc Đức Giêsu thiết lập bí tích Thánh
Thể là cho tất cả mọi người trong Gia Đình Giáo Hội không chỉ lãnh nhận những
ân sủng do Người ban tặng mà còn lãnh nhận chính mình Người để ngày càng được
Người biến đổi nhiều hơn.
Với bí tích Thánh Thể, tình yêu của Đức Giêsu Kitô, Đấng hôm
qua, hôm nay và luôn mãi được biểu lộ.[29]
Đức Giêsu ban tặng chính mình Người cho tất cả con cái Gia Đình Giáo Hội. Bí
tích này lôi kéo tất cả mọi người trong Gia Đình Giáo Hội đến với Người và đến
với nhau, đồng thời, nhắc nhở mọi người về lối sống gia đình phải là lối sống
ưu tiên hơn các lối sống khác trong xã hội loài người. Các thành phần trong Gia
Đình Giáo Hội chỉ có thể là mình khi biết ‘ra khỏi mình' để sống cho người khác
theo khuôn mẫu của các Ngôi Vị Thiên Chúa. Giáo Hội xét như là một gia đình chỉ
có thể là mình thực thụ khi biết trông cậy hoàn toàn vào Thiên Chúa và khi mọi
người sống với nhau và cho nhau trong tình anh em.
Vương Quốc Thiên Chúa được trình bày qua hình ảnh tất cả mọi
người đều chung nhau trong bữa tiệc cánh chung, bữa tiệc gia đình.[30] Như đã được đề cập
ở trên, khởi thủy của bí tích Thánh Thể chính là bữa ăn cuối cùng giữa Đức
Giêsu và các môn đệ của Người, trước khi Đức Giêsu bước vào cuộc khổ nạn. Chính
bí tích Thánh Thể là bữa tiệc của Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian, trong đó, mọi
người được nếm thử bữa tiệc vĩnh cửu
trong Nước Thiên Chúa, bởi vì, họ được nhận lấy Đức Giêsu, được liên kết với
Người và anh chị em mình một cách mật thiết nhất. Đồng thời, họ cùng nhau chia
sẻ niềm hy vọng vào ‘bữa tiệc vĩnh cửu' trong trời mới đất mới khi Thiên Chúa
quy tụ và đổi mới muôn vật muôn loài trong Con yêu dấu của Người, Đức Giêsu
Kitô.
Như thế, dấu chỉ rõ nét nhất của Giáo Hội như là gia đình được
thể hiện qua việc cử hành bí tích Thánh Thể. Các thành phần trong Gia Đình Giáo
Hội cùng nhau quy tụ trong tinh thần cầu nguyện, đọc Lời Chúa và suy niệm Lời
Chúa. Họ hiệp thông, chia sẻ với nhau trong cùng một Bánh và một Chén, chính là
Mình và Máu Đức Giêsu Kitô. Trong bí tích Thánh Thể, họ được rước lấy Đức Giêsu
Kitô, cũng chính là rước lấy Gia Đình Giáo Hội trong đó mình là thành phần. Ở
đây, Giao Ước Sự Sống Vĩnh Cửu được cử hành, được chia sẻ, được lãnh nhận. Hơn
thế nữa, cộng đoàn cử hành bí tích Thánh Thể cũng là cộng đoàn sống hiệu quả của
bí tích này cách đầy đủ nhất. Tác giả sách Công Vụ Tông Đồ viết: “Tất cả các
tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai, của cải,
lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày
chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn
sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng
đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv 2,44-47).
Giáo Hội cho con cái mình biết rằng hơn cả các thành phần
trong gia đình nữa, họ là các bộ phận của cùng thân thể hay nói như thánh
Phao-lô rằng các Kitô hữu ‘là phần thân thể của nhau' (Ep 4,25).[31] Do đó, bổn phận của họ là
nâng đỡ nhau trong mọi hoàn cảnh. Về phần mình, Giáo Hội luôn quan tâm đến mọi
người trong gia đình mình, đặc biệt những người khó khăn, thiếu thốn nhu cầu vật
chất cũng như tinh thần. Theo Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI, là Gia Đình
Thiên Chúa ở trần gian, trong khi thi hành tác vụ diễn tả tình yêu hoàn vũ của
Thiên Chúa, Giáo Hội đặc biệt quan tâm đến các thành phần con cái mình và không
để bất cứ ai trong con cái mình phải túng thiếu. Để diễn tả rõ hơn điều này, Đức
Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô XVI trích dẫn thư thánh Phao-lô gửi tín hữu Ga-lát:
“Bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho
những anh em trong cùng đại gia đình đức tin” (Gl 6,10).[32]
Như thế, việc cử hành bí tích Thánh Thể đi đôi với việc thực thi công lý, công
bình và bác ái.
Giáo Hội vừa như là Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian, vừa là
Thầy và là Mẹ đối với toàn thể con cái mình.[33]
Trong tư cách là Thầy, Giáo Hội không ngừng dạy bảo con cái mình dựa trên nội
dung đức tin đã được Thiên Chúa ủy thác để suy tư, khai triển và áp dụng. Giáo
Hội chỉ cho con cái mình đâu là những hiểm nguy tiềm tàng có thể phương hại đức
tin chân chính của họ. Giáo Hội luôn đặt mình dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh
Thần và nhờ Chúa Thánh Thần, Giáo Hội thi hành sứ vụ của mình cách trung tín nhất.
Trong tư cách là Mẹ, Giáo Hội luôn gần gũi con cái mình để nhận biết, để cảm
thông, để đồng hành, để nâng đỡ con cái mình trong mọi hoàn cảnh, đặc biệt,
trong những lúc con cái mình gặp khó khăn thiếu thốn. Giáo Hội, người Mẹ khôn
ngoan và dồi dào kinh nghiệm biết trao ban những gì tốt đẹp nhất nhằm làm cho
cuộc sống con cái mình luôn được bình an giữa những khó khăn của cuộc sống hằng
ngày.
Giáo Hội là nơi con cái mình cùng chia sẻ những buồn vui và
hy vọng. Giáo Hội cũng là nơi con cái mình nhận thức tầm quan trọng của bản
thân và tầm quan trọng của người khác cũng như sẵn sàng nâng đỡ nhau trong cuộc
sống. Giáo Hội luôn ý thức về căn tính và phẩm giá của con cái mình. Đồng thời,
Giáo Hội cũng biết con cái mình là những người yếu đuối, lầm lỡ và tội lỗi cần
được sửa dạy. Giáo Hội hiểu rằng những vấn đề nảy sinh liên quan đến con cái
mình không chỉ được giải quyết dựa vào ngôn ngữ Giáo Luật, mà còn dựa vào ngôn
ngữ Kinh Thánh, ngôn ngữ mục vụ và đặc biệt là ngôn ngữ gia đình nữa. Chúng ta
có kinh nghiệm rằng ưu tiên trong hành động của cha mẹ đối với con cái là yêu
thương. Do đó, khi con cái lầm lỗi, bổn phận của cha mẹ là đưa con cái trở về
‘đường ngay nẻo chính' hơn là dựa vào những luật lệ định sẵn để áp dụng cho con
cái hay phó thác con cái cho pháp luật dân sự hay bất cứ hình thức pháp luật
nào khác. Đây cũng là phương cách mà Thiên Chúa đã áp dụng với Dân Người trong
Cựu Ước, trong đó, Thiên Chúa không phó thác Dân Người cho các thế lực bên
ngoài, nhưng rộng lòng tha thứ và đón nhận Dân Người trở về quỹ đạo yêu thương
của Người.
Trong khi sinh hạ con cái mình nhờ bí tích Rửa Tội, nuôi dưỡng
con cái mình nhờ bí tích Thánh Thể và thánh hóa con cái mình qua các bí tích
khác, Giáo Hội đồng hành với con cái mình trên mọi nẻo đường. Giáo Hội luôn ý
thức rằng mình được mời gọi để không ngừng trao ban sự sống cho tất cả mọi người.
Dĩ nhiên, đây không phải là sự sống tự thân, nghĩa là sự sống bởi chính Giáo Hội
mà là sự sống của Thiên Chúa được trao ban cho nhân loại thông qua Giáo Hội.
Trong khi thi hành các tác vụ giảng dạy, quản trị và thánh hóa, Giáo Hội đặc biệt
quan tâm đến gia đình của con cái mình, bởi vì, gia đình con cái mình chính là
môi trường diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội cách cụ thể nhất.
c. Gia Đình Giáo Hội chăm sóc mục vụ gia đình con
cái mình
Như đã được đề cập ở trên, Giáo Hội nhận thức rằng theo mạc
khải Kinh Thánh khi nam nữ kết hợp với nhau, họ không chỉ nên một xương một thịt
mà còn nên một gia đình.[34] Giáo Hội vừa đóng vai trò
quan trọng trong việc khai sinh gia đình con cái mình nhờ bí tích Hôn Nhân, vừa
phục vụ gia đình con cái mình trong suốt hành trình sống của họ. Phục vụ gia
đình con cái mình luôn là ưu tiên trong đời sống Giáo Hội, bởi vì, gia đình con
cái mình diễn tả tình yêu Thiên Chúa cách cụ thể trong môi trường thụ tạo.
Trong Tông Huấn Familiaris
Consortio, thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II viết: “Gia đình có sứ mệnh gìn
giữ, biểu lộ, thông truyền tình yêu và đây là sự phản chiếu sinh động và chia sẻ
đích thực tình yêu Thiên Chúa cho nhân loại và tình yêu của Đức Kitô cho Giáo Hội,
Hiền Thê của Người.”[35] Với Thông Điệp Deus Caritas Est, Đức Giáo Hoàng
Bê-nê-đích-tô XVI diễn tả cách khúc chiết rằng tình yêu mang nhiều hình thức
khác nhau, tuy nhiên, tình yêu giữa người nam và người nữ khi hồn xác của họ
liên kết với nhau bất khả phân ly trở thành mẫu hình cho các hình thức tình yêu
khác.[36] Cũng trong Thông Điệp này,
Đức Giáo Hoàng viết: “Hôn nhân đặt nền tảng trên tình yêu đơn nhất và dứt khoát
trở thành hình ảnh của tương quan giữa Thiên Chúa và Dân Người và ngược lại.
Cách thức Thiên Chúa yêu thương trở thành tiêu chuẩn cho tình yêu nhân loại.”[37]
Giáo Hội không ngừng dạy bảo con cái mình rằng, vì tình yêu,
Thiên Chúa tạo dựng gia đình nhân loại. Cộng đoàn đầu tiên này là cộng đoàn
thông hiệp sự sống của Thiên Chúa và được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa trong
việc trao ban sự sống, trao ban tình yêu. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II khẳng
định: “Con người không thể sống mà không có tình yêu. Con người vẫn là hữu thể
không hiểu được đối với chính mình, cuộc sống con người vô nghĩa, nếu con người
không nhận được mạc khải tình yêu, nếu con người không gặp gỡ tình yêu, nếu con
người không kinh nghiệm tình yêu và sở đắc tình yêu, nếu con người không tham dự
cách mật thiết vào tình yêu.”[38] Tình yêu mà thánh Giáo
Hoàng Gioan Phao-lô II nói ở đây là tình yêu Thiên Chúa, tình yêu vĩnh cửu,
tình yêu sáng tạo, tình yêu mà con người vừa có thể cảm nghiệm được, vừa luôn
khao khát trong hành trình trần thế của mình.
Giáo Hội, hình ảnh Chúa Ba Ngôi có hình thức cụ thể nơi gia
đình con cái mình. Điều này đã được thể hiện qua giáo huấn của Giáo Hội cùng những
khai triển của nhiều thần học gia. Trong Tông Huấn Giáo Hội Châu Đại Dương Ecclesia in Oceania, thánh Giáo Hoàng
Gioan Phao-lô II nhấn mạnh rằng gia đình là hình ảnh sự hiệp thông khôn dò của
Chúa Ba Ngôi.[39] Như đã được đề cập ở trên:
Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa không chỉ trên bình diện cá
nhân, mà còn trên bình diện cộng đoàn, bình diện gia đình nữa. Gia đình mang
trong mình dấu ấn của Đấng Sáng Tạo và là hình ảnh yêu thương của Thiên Chúa Ba
Ngôi. Các cá nhân riêng lẻ trong gia
đình không thể diễn tả mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi cách đầy đủ bằng sự kết hợp giữa họ. Cũng như Chúa Thánh
Thần là Tình Yêu của Chúa Cha và Chúa Con, con cái là tình yêu của người chồng
và người vợ. Chúa Thánh Thần liên kết Chúa Cha và Chúa Con, con cái liên kết
người chồng và người vợ. Gia đình được xem là hình ảnh tốt nhất cho phép chúng
ta tiếp cận mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm của sự duy nhất trong đa dạng trọn
hảo.
Sự nên một của A-đam và E-và, sự nên một của Đức Kitô và
Giáo Hội cùng với sự nên một của chồng và vợ trong gia đình liên kết chặt chẽ với
nhau để trao ban sự sống, tình yêu và hy vọng. Giáo Hội ý thức rằng người nam
và người nữ là những người phân biệt nhau, nhưng trong bối cảnh gia đình, họ là
chồng, là vợ, họ trở nên một thân xác, cái ‘tôi' của mỗi người tìm được trong
cái ‘chúng ta' của gia đình. Khi trở thành ‘chúng ta', thực thể này trổ sinh
hoa trái và cùng với con cái, ‘chúng ta' của gia đình ngày càng lớn mạnh hơn.
Những ‘người khác' trong gia đình phân biệt với những ‘người khác' trong các tổ
chức dân sự, chính trị, xã hội. Tình liên đới, tình yêu thương của các thành phần
trong gia đình phân biệt với tình liên đới, tình yêu thương của những ‘người
khác' không thuộc gia đình.
Tầm quan trọng của gia đình luôn được Giáo Hội đề cao và bảo
vệ. Trong Thông Điệp Centesimus Annus,
thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II viết: “Thật là cần thiết để nhìn nhận gia
đình như là cung thánh của sự sống.
Gia đình thực sự là thánh thiêng: Đó là nơi mà sự sống - quà tặng của Thiên
Chúa - có thể được đón nhận cách đúng đắn cũng như được bảo vệ khỏi những cuộc
tấn công phá hủy và có thể phát triển phù hợp nhằm làm cho con người trưởng
thành đích thực. Đối diện với văn hóa sự chết, gia đình là trung tâm văn hóa sự
sống.”[40] Với Giáo Hội, bảo vệ sự
toàn vẹn gia đình theo mạc khải Kitô giáo như là bảo vệ chính Giáo Hội vậy, bởi
vì, như đã được đề cập ở trên: Căn tính, đời sống và sứ mệnh của Gia Đình Giáo
Hội thể hiện nơi căn tính, đời sống và sứ mệnh của gia đình con cái mình.
Tân Ước cho chúng ta biết gia đình chính là thực tại đầu
tiên, địa chỉ đầu tiên của Đấng Em-ma-nu-en, Con Thiên Chúa Nhập Thể, Đức Giêsu
Kitô. Gia đình con cái Giáo Hội là địa chỉ đầu tiên đón nhận, sống và diễn tả
các giá trị Tin Mừng cũng như công bố nội dung đức tin của Giáo Hội. Tác giả
sách Công Vụ Tông Đồ viết: “Mỗi ngày, trong Đền Thờ và tại tư gia, các ông
không ngừng giảng dạy và loan báo Tin Mừng về Đức Kitô Giêsu ” (Cv 5,42). Thánh
Phao-lô giãi bày với các Kitô hữu sơ khai: “Anh em biết tôi đã không bỏ qua một
điều gì có ích cho anh em; trái lại tôi đã giảng cho anh em và dạy anh em ở nơi
công cộng cũng như tại chốn tư gia” (Cv 20,20) hay “tôi còn làm phép rửa cho gia
đình Tê-pha-na nữa. Ngoài ra, tôi không biết có làm phép rửa cho ai khác nữa
hay chăng” (1 Cr 1,16). Thánh Phao-lô còn quan tâm đến từng cá nhân trong các
gia đình, chẳng hạn, “các Hội Thánh A-xi-a gửi lời chào anh em. A-qui-la và
Pơ-rít-ca cùng với Hội Thánh họp tại nhà họ gửi lời chào anh em trong Chúa” (1
Cr 16,19) hay “Phao-lô, kẻ bị tù vì Đức Kitô Giêsu, cùng với người anh em là
Ti-mô-thê, gửi anh Phi-lê-môn, cộng sự viên thân mến của chúng tôi, cùng chị
Áp-phi-a và anh Ác-khíp-pô, chiến hữu của chúng tôi, đồng thời kính gửi Hội
Thánh họp tại nhà anh” (Plm 1-2). Một lần nữa, chúng ta cần lặp lại: Mô hình
chính yếu của Giáo Hội sơ khai là gia đình chứ không là gì khác. Mô hình gia
đình này không chỉ hiện diện ở Pa-lét-tin mà còn nhiều nơi quanh vùng Địa Trung
Hải.[41]
Theo Công Đồng Vatican II, “chính gia đình đã lãnh nhận từ
Thiên Chúa sứ mệnh trở nên tế bào đầu tiên và sống động của xã hội. Gia đình sẽ
chu toàn được sứ mệnh đó nếu gia đình tỏ ra như một đền thờ của Giáo Hội trong
nhà mình nhờ yêu thương nhau và cùng nhau dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa.”[42] Trong Tông Huấn Ecclesia in Asia, thánh Giáo Hoàng Gioan
Phao-lô II quả quyết rằng gia đình là nơi sự thật của Tin Mừng trở thành chuẩn
mực cho đời sống của những người trong đó. Cũng theo Tông Huấn Ecclesia in Asia, gia đình không chỉ là
đối tượng của việc truyền giáo, tái truyền giáo, chăm sóc mục vụ của Giáo Hội
mà còn là nhân tố của việc truyền giáo. Những người trong gia đình được mời gọi
làm chứng cho Tin Mừng giữa những khó khăn của cuộc sống.[43]
Gia đình làm cho Đức Giêsu Kitô và Tin Mừng của Người được tiếp cận, được lắng
nghe, được suy niệm, được thực hành trong những hoàn cảnh cụ thể.[44]
Lịch sử Giáo Hội luôn đề cao vai trò của gia đình, bởi vì,
như Công Đồng Vatican II nhấn mạnh: ‘Gia đình như một Giáo Hội nhỏ', Giáo Hội tại
gia (ecclesia domestica).[45] Giáo Hội và gia đình định dạng
lẫn nhau. Giáo Hội hiện diện và hoạt động nơi Giáo Hội tại gia và làm cho Giáo
Hội tại gia trở thành những viên đá sống động xây nên Giáo Hội như là Gia Đình
Thiên Chúa. Giáo hội tại gia ý thức rằng căn tính và đời sống của mình được diễn
tả đúng nghĩa chỉ khi hiệp thông với Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa. Nói
cách rõ hơn, Giáo Hội tại gia không phải là thực thể độc lập, nhưng là thực thể
liên đới và hiệp thông với Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa, Gia Đình Giáo Hội
hoàn vũ.[46] Gần đây hơn, trong Tông huấn
Amoris Laetitia, Đức Giáo hoàng
Phan-xi-cô viết: “Giáo Hội là Gia đình của các gia đình, thường xuyên được làm
phong phú bởi đời sống của tất cả các Giáo hội tại gia. Bởi thế, nhờ Bí tích
Hôn Phối, mỗi gia đình thực sự trở thành một thiện ích cho Giáo Hội. Trong viễn
ảnh này, việc xem xét mối tương tác giữa gia đình và Giáo Hội chắc chắn sẽ là một
ơn ban quý giá cho Giáo Hội ngày nay: Giáo Hội là phúc lành cho gia đình, và
gia đình là phúc lành cho Giáo Hội. Việc gìn giữ hồng ân bí tích của Chúa không
chỉ liên hệ đến các gia đình riêng lẻ, nhưng còn đến chính cộng đoàn Kitô hữu”
(số 87).
Trong bối cảnh thế giới hôm nay, giữa những bão táp phương hại
đến căn tính hôn nhân gia đình, Giáo Hội khẳng định sự bất khả phân ly vợ chồng
theo giáo huấn Đức Giêsu. Khi những người Pha- ri-sêu hỏi Đức Giêsu về sự ly dị,
Người trả lời họ rằng vợ chồng trong giao ước hôn nhân trở nên ‘một xương một
thịt (Mt 19,5) và rằng ‘sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được
phân ly' (Mt 19,6). Những người Pha-ri-sêu viện cớ Mô-sê cho phép ly dị để bắt
bẻ Đức Giêsu và Người trả lời: “Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê đã
cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu, không có thế đâu” (Mt 19,8). Đối với
thánh Phao-lô, gia đình Kitô giáo đặt nền tảng yêu thương trên khuôn mẫu yêu
thương giữa Đức Kitô và Giáo Hội. Theo thánh nhân, chồng ‘hãy yêu thương vợ,
như chính Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh', hay ‘chồng
phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình' (Ep
5,25-32). Con cái ‘hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của Chúa'; cha mẹ ‘hãy
giáo dục chúng thay mặt Chúa bằng cách khuyên răn và sửa dạy' (Ep 6,1-4).
Như thế, trong gia đình, người vợ là hình ảnh của Giáo Hội,
người chồng là hình ảnh Đức Kitô. Vợ chồng cùng phẩm giá, tuy nhiên, trật tự giữa
vợ và chồng vẫn luôn tồn tại, dựa trên khuôn mẫu Đức Kitô và Giáo Hội. Trong
gia đình, hình ảnh của người vợ là hình ảnh của sự bao dung, nhẹ nhàng để chăm
sóc con cái, còn hình ảnh người chồng là hình ảnh mạnh mẽ, quyết đoán để hướng
dẫn và bảo đảm sự an toàn cho tất cả các thành phần. Ở nhiều dân tộc trên thế
giới, thông thường, người vợ đảm đương những việc nhẹ nhàng ở nhà, còn người chồng
đảm đương những việc nặng nhọc khác để lo cuộc sống cho các thành phần trong
gia đình. Sự tương đồng về quyền và phẩm giá của người chồng và người vợ không
làm phương hại tính đặc thù của người chồng và người vợ trong gia đình, nghĩa
là người chồng và người vợ không nhất thiết phải có chức năng giống nhau trong
gia đình cũng như ngoài xã hội. Giáo Hội ý thức sự phân công lao động phù hợp
giữa chồng và vợ, đồng thời, chống lại sự phân biệt đối xử bất công giữa họ.
Khi chăm sóc mục vụ, Giáo Hội ý thức về những khó khăn trong
các gia đình con cái mình giữa trào lưu và những quan niệm sai lạc về hôn nhân
gia đình, chẳng hạn, ly dị, tái hôn, gia đình đơn lẻ.[47]
Trong thế giới hôm nay, nhiều người xem hôn nhân như là một khế ước cá
nhân, họ không màng sự chứng nhận của bất cứ thẩm quyền nào. Có những người xem
hôn nhân như là bản hợp đồng (contract) chứ không như là giao ước (covenant) được
Thiên Chúa thiết lập và chúc phúc. Có những người xem hôn nhân như là sự biểu lộ
cảm tính, khi không còn nữa thì có thể bỏ nhau bất cứ lúc nào, bởi vì, cảm tính
thay đổi tùy theo lứa tuổi cũng như những bấp bênh trong đời sống cá nhân, xã hội.
Lại có những người chủ trương hôn nhân một vợ một chồng xem ra chỉ đúng cho quá
khứ, không đúng cho thế giới hiện đại nữa. Hôn nhân được xem như một công việc
(job) toàn thời hoặc bán thời chứ không phải là ơn gọi (vocation) yêu thương,
chung thủy, duy nhất và trọn đời.
Như đã được đề cập ở trên, Đức Giêsu Kitô quan tâm cách đặc
biệt đến các gia đình trong sứ mệnh lịch sử của mình. Từ Biến Cố Nhập Thể đến
Biến Cố Phục Sinh, tất cả những gì liên quan đến Đức Giêsu đều gắn liền với gia
đình. Do đó, chăm sóc mục vụ gia đình luôn là bổn phận của Giáo Hội, bí tích của
Đức Giêsu Kitô. Đây không phải là bổn phận tạm thời hay bán thời mà là bổn phận
gắn liền với căn tính, đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội. Do đó, bao lâu Giáo Hội
trên đường lữ hành, bấy lâu Giáo Hội chăm sóc mục vụ gia đình cách chu đáo theo
gương Đức Giêsu Kitô. Kinh Thánh Tân Ước cho chúng ta biết Đức Giêsu Kitô không
đến để gặp gỡ và quy tụ những người khác như gặp gỡ và quy tụ một đám đông,
nhưng là đến với họ cách mật thiết, quan tâm đến gia đình của họ, đồng thời,
cho họ biết họ được mời gọi để sống những giá trị của Gia Đình Thiên Chúa ở trần
gian.
Kinh nghiệm lịch sử cho Giáo Hội nhận thức rằng gia đình con
cái Giáo Hội không chỉ mong muốn Giáo Hội thi hành vai trò lãnh đạo, mà cần thiết
hơn là vai trò đồng hành. Có như thế, Giáo Hội thực sự là Giáo Hội lữ hành cùng
với gia đình, nghĩa là những biến cố xảy ra trong đời sống gia đình đều có sự
hiện diện và nâng đỡ của Giáo Hội. Những khó khăn hay thuận lợi trong gia đình
cũng chính là những khó khăn hay thuận lợi của Giáo Hội. Sự cảm thông chia sẻ của
Giáo Hội đối với những thách đố của gia đình giúp Giáo Hội một mặt thể hiện
‘lòng thương xót' của Chúa đối với gia đình, mặt khác, giúp Giáo Hội có được những
kinh nghiệm quý báu để phục vụ gia đình cách tốt đẹp hơn.
Như đã được đề cập ở trên, Giáo Hội ý thức rằng gia đình con
cái mình là hình ảnh Gia Đình Thiên Chúa. Tuy nhiên, gia đình con cái mình dễ bị
tổn thương vì chính tội lỗi của các thành phần trong gia đình cũng như trong
môi trường nhân loại. Giáo Hội mời gọi những người trong gia đình sống giá trị
Tin Mừng giữa muôn vàn khó khăn nảy sinh từ những quan niệm lệch lạc về phái
tính hay những sai lầm khác không chỉ theo nghĩa đạo đức, luân lý mà còn theo
nghĩa tự nhiên, tâm lý, bệnh hoạn. Gia Đình Giáo Hội cũng như gia đình con cái
mình không ngừng hướng về Gia Đình Thiên Chúa để kín múc ‘năng lượng' cần thiết
cho cuộc sống hằng ngày.
Trong Thông Điệp Đấng Cứu Chuộc Con Người Redemptor Hominis (1979), thánh Giáo
Hoàng Gioan Phao-lô II viết: Con người là con đường của Giáo Hội.[48] Cách tương tự, trong Thư Gửi
Các Gia Đình, ngài viết: Gia đình là con đường của Giáo Hội.[49] Quả thật, con người là con
đường của Giáo Hội, tuy nhiên, con người được sinh ra và trưởng thành từ gia
đình. Do đó, con người phải đi con đường của gia đình và được triển nở từ con
đường gia đình. Gia đình quan trọng đến mức, theo lời của thánh Giáo Hoàng
Gioan Phao-lô II, gia đình chính là tương
lai của Giáo Hội cũng như thế giới.[50]
Bởi lẽ “chính trong gia đình, chúng ta được dần trưởng thành kinh nghiệm trong
Giáo Hội về mối hiệp thông giữa các ngôi vị, nơi đó, nhờ ân sủng, phản ánh
chính mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Ở đó, con người học được sự kiên nhẫn và niềm
vui trong lao động, tình yêu thương huynh đệ, sự tha thứ quảng đại, thậm chí
tha thứ nhiều lần, nhất là việc phụng thờ Thiên Chúa qua kinh nguyện và sự dâng
hiến đời sống” (Amoris Laetitia, số
86). Do đó, gia đình là nơi lòng thương xót Chúa hiện diện và hoạt động, đồng
thời, cũng là nơi quan trọng nhất, từ đó lòng thương xót Chúa được loan báo và
chuyển tải. Như vậy, Giáo Hội vừa chăm sóc mục vụ gia đình con cái mình, vừa
khuyến khích con cái mình biết luôn cộng tác với nhau và với toàn thể Gia Đình
Giáo Hội để loan báo Tin Mừng Gia Đình Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại.
5. ƯU ĐIỂM TRONG VIỆC HIỂU GIÁO HỘI NHƯ LÀ GIA ĐÌNH
THIÊN CHÚA
Những khai triển và trình bày trên đây cho phép chúng ta hiểu
thêm rằng hình ảnh Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian vừa có nền tảng
Kinh Thánh, truyền thống, huấn quyền vững chắc, vừa phù hợp với kinh nghiệm của
tất cả mọi người trong nhân loại. Hình ảnh này được đề cập nhiều trong những thập
niên gần đây được xem như là hiệu quả tất yếu của Công Đồng Vatican II và sự
khai triển của huấn quyền Giáo Hội. Hình ảnh Giáo Hội như là Gia Đình Thiên
Chúa cho phép chúng ta hiểu rõ hơn bản chất của Giáo Hội và quan tâm hơn tới
các tương quan trong đời sống Giáo Hội trên bình diện thần học cũng như mục vụ.
Đây cũng là hình ảnh giúp Giáo Hội ý thức hơn về vai trò của Giáo Hội giữa lòng
thế giới là liên đới và đồng hành với tất cả mọi người trong gia đình nhân loại
để xây dựng một thế giới nhân bản hơn.
Hình ảnh Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa không tương phản
hay đối nghịch với bất cứ hình ảnh Giáo Hội nào từ nội dung đức tin của Giáo Hội
cũng như sự đón nhận, sống và diễn tả nội dung đức tin đó theo dòng lịch sử
Giáo Hội. Xem ra hình ảnh Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa tích hợp được nhiều
yếu tố từ các hình ảnh Giáo Hội khác, chẳng hạn, đoàn chiên, những viên đá sống
động, tòa nhà, hiền thê, người mẹ, thụ tạo mới, hiệp nhất giữa những người
Do-thái và dân ngoại. Đặc biệt, hình ảnh này liên kết chặt chẽ với bốn hình ảnh
được Công Đồng Vatican II nhấn mạnh: Vương Quốc Thiên Chúa ở trần gian, Dân
Thiên Chúa, Thân Thể Đức Kitô và Đền Thờ Chúa Thánh Thần.[51]
Trong Tông Huấn Ecclesia
in Africa, thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II cho rằng Giáo Hội như là Gia
Đình Thiên Chúa được xem là việc diễn tả đúng đắn căn tính của Giáo Hội, đặc biệt
là bối cảnh Giáo Hội Châu Phi. Theo thánh Giáo Hoàng, việc loan báo Tin Mừng nhằm
mục đích xây dựng Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa là cách tốt nhất để trả lời
cho những chủ trương sai lạc về chủng tộc cũng như chủ nghĩa vị chủng
‘ethnocentrism' khá thịnh hành ở đại lục này. Đồng thời, việc hiểu Giáo Hội như
là Gia Đình Thiên Chúa sẽ là câu trả lời đúng đắn nhất cho những ai chủ trương
chủ nghĩa đặc thù ‘particularism' nhằm đề cao các đặc tính văn hóa địa phương
trong việc diễn tả đức tin của Giáo Hội hơn là tính chất hoàn vũ của đức tin
này. Chúng ta biết rằng niềm tin của Giáo Hội không lệ thuộc vào cách diễn tả đặc
thù nào, trái lại, phù hợp với tất cả các nền văn hóa trên thế giới. Do đó, bổn
phận của các tín hữu trong các nền văn hóa địa phương là cần đào sâu và diễn tả
tính duy nhất và tính hoàn vũ của niềm tin Kitô Giáo cũng như thực thể Giáo Hội
sao cho phù hợp với nền văn hóa mình.[52]
Khi Giáo Hội được hiểu là gia đình của Thiên Chúa ở trần
gian thì không có sự ngăn cách nào giữa những người trong gia đình này. Tất cả
mọi người đều đồng tâm nhất trí xây dựng Gia Đình Giáo Hội và ý thức rằng căn
tính, đời sống và sứ mệnh của Gia Đình Giáo Hội cũng chính là căn tính, đời sống
và sứ mệnh của con cái Giáo Hội. Biên giới tuổi tác, trình độ văn hóa hay những
dị biệt khác không còn quan trọng nữa mà là sự hòa hợp của những con người cùng
phẩm giá, nhưng khác biệt về chức năng trong Gia Đình Giáo Hội. Theo thánh
Phao-lô, tương quan giữa những người lãnh đạo và các tín hữu cũng là tương quan
trong gia đình. Ngài bộc lộ tâm tình với các tín hữu Cô-rin-tô: “Tôi nói với
anh em như nói với con cái: Anh em cũng hãy mở rộng tấm lòng” (2 Cr 6,13).
Việc đào sâu, tìm hiểu căn tính, đời sống và sứ mệnh của
Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa cho phép Giáo Hội trả lời cho những thách đố
nảy sinh trong thế giới hôm nay liên quan đến đời sống nội tại của Giáo Hội, chẳng
hạn, (1) vai trò của cá nhân trong Giáo Hội, (2) vai trò của Gia Đình Giáo Hội,
(3) vai trò của các hình thức gia đình khác trong Giáo Hội. Việc đào sâu, tìm
hiểu này cũng giúp Gia Đình Giáo Hội trả lời cho những thách đố khác đối với
các gia đình cơ bản nói chung, chẳng hạn, (1) thách đố về quan niệm gia đình,
(2) thách đố về đời sống gia đình, (3) thách đố về thần học gia đình, (4) thách
đố về mục vụ gia đình, (5) thách đố về định hướng gia đình, (6) thách đố về vai
trò của gia đình trong xã hội. Hơn thế nữa, việc đào sâu, tìm hiểu căn tính, đời
sống và sứ mệnh của Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa còn cho phép Giáo Hội
cung cấp hy vọng và viễn cảnh chính xác hơn cho toàn thể mọi người trong gia
đình nhân loại. Đồng thời, cho phép Giáo Hội có được tiếng nói trong những vấn
đề cụ thể như phân biệt đối xử bất công dựa trên văn hóa, sắc tộc, màu da, phái
tính, đẳng cấp, tuổi tác hay hạn chế sinh sản bằng các phương thức trái tự
nhiên, trái đạo lý hay nạn ly dị, tái hôn, lạm dụng tính dục và các hình thức
‘bần cùng hóa gia đình' đang nảy sinh trong xã hội hôm nay.[53]
Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta nhận thức rằng những người
trong gia đình yêu thương và liên đới với nhau cách chân thành và đúng đắn hơn
những người thuộc các tổ chức tập thể khác. Bởi vì, ngôn ngữ gia đình là ngôn
ngữ cả hai/và (both/and), ngôn ngữ của tương quan, liên đới, phụ thuộc lẫn
nhau, nói cách khác, ngôn ngữ gia đình là ngôn ngữ tình yêu. Khi các Kitô hữu ý
thức rằng họ là anh chị em trong cùng một gia đình thì trách nhiệm của họ đối với
nhau luôn cụ thể và thiết thực. ‘Máu loãng hơn nước lã', các Kitô hữu là những
người cùng chung ‘dòng máu', cùng chung ‘dòng sự sống' khởi từ Thiên Chúa.
‘Dòng máu', ‘dòng sự sống' này tích hợp và định hình ‘dòng máu sinh học', ‘dòng
máu chủng tộc', ‘dòng máu quốc gia' hay bất cứ dòng máu nào khác.
Khi các Kitô hữu hiểu Giáo Hội như là gia đình thì sự quan
tâm của họ đối với Giáo Hội sẽ khác đi. Họ không đến với Giáo Hội như đến với một
câu lạc bộ. Họ không đến với Giáo Hội như là khán giả của một buổi hòa nhạc hay
thể thao. Họ không đến với Giáo Hội như là một nghĩa vụ. Họ không đến với Giáo
Hội theo những thời điểm rời rạc, nhưng là toàn bộ sự hiện hữu và cuộc sống họ.
Các Kitô hữu đến với Giáo Hội bằng con tim đầy nhiệt tâm, yêu mến của họ, đồng
thời, họ vững tin rằng chính nhờ Giáo Hội và qua Giáo Hội, họ tìm được nguồn hạnh
phúc và bình an đúng nghĩa, bình an của Thiên Chúa, giữa những khó khăn, bất trắc
của cuộc sống hằng ngày (Ga 14,27).
Khi các Kitô hữu nhận thức rằng nhờ bí tích Rửa Tội, họ trở
thành con cái Thiên Chúa và anh chị em trong Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian,
thì cũng là khi họ nhận ra sự cần thiết để thúc đẩy tiến trình hiệp nhất Kitô hữu
trên toàn thế giới (ecumenism). Tiến trình hiệp nhất này sẽ được triển nở khi
các Kitô hữu nhận thức rằng họ là anh chị em một nhà. Sự chia rẽ trong Giáo Hội
bởi các giáo phái khác nhau không làm mất đi căn tính gia đình của thực tại được
Đức Giêsu thiết lập ở trần gian là chính Giáo Hội. Như đã được đề cập ở trên,
Gia đình Giáo Hội luôn lớn hơn bất cứ cộng đoàn Kitô hữu nào: Công Giáo, Tin
Lành, Anh Giáo, Chính Thống cũng như những cộng đoàn khác nhau phát sinh từ bốn
nhánh chính này. Lời cầu nguyện của Đức Giêsu trước khi bước vào cuộc khổ nạn
cho sự hiệp nhất của những ai bước theo chân Người vẫn còn vang vọng trong đời
sống của các cộng đoàn tin nhận Đức Giêsu và thực thi giáo huấn của Người.[54]
Một trong những vấn nạn được nhiều người quan tâm hiện nay
là chủ nghĩa khủng bố. Nhìn bên ngoài, chúng ta thấy khủng bố như là một hiện
tượng chính trị, xã hội, nhưng tận căn, chúng ta thấy khủng bố đúng hơn là vấn
nạn tôn giáo. Chính sự lạm dụng tôn giáo, tôn giáo quá khích dẫn tới khủng bố.
Khi mà người ta cho rằng Thượng Đế đứng về phía họ, khi mà người ta cho rằng
Thượng Đế của họ là vĩ đại nhất, khi mà người ta không công nhận tự do lương
tâm, khi mà người ta cho rằng ai muốn an toàn thì phải suy nghĩ và hành động
như họ vì họ được Thượng Đế hướng dẫn, khi đó người ta sẽ tìm mọi cách để hủy
diệt người khác. Trái lại, khi người ta nhìn nhận rằng tất cả mọi người trong
gia đình nhân loại đều là con cùng một Cha Trên Trời và tất cả mọi người là anh
chị em của nhau, người ta sẽ có những suy nghĩ và hành động tích cực hơn. Lịch
sử nhân loại minh chứng rằng tôn giáo cực đoan, tôn giáo quá khích không bao giờ
là câu trả lời cho những đau khổ, bất an của gia đình nhân loại. Bao lâu con người
chưa tìm được tiếng nói chung và không nhận nhau như anh chị em trong Gia Đình
Thiên Chúa, bấy lâu con người còn phải chứng kiến những đau thương gây nên bởi
anh em đồng loại.
Việc nhận thức Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa ở trần
gian, đồng thời, nhận thức rằng ân sủng của Thiên Chúa hiện diện và hoạt động
cách kỳ diệu nơi các tôn giáo khác cho phép Giáo Hội dấn thân trong việc đối
thoại liên tôn cách hiệu quả hơn (interreligious dialogue). Khi đối thoại liên
tôn được đặt nền tảng trên sự đối thoại giữa những người trong cùng gia đình
nhân loại, cùng trăn trở về những chủ đề như Thượng Đế, vũ trụ và con người thì
hiệu quả của việc đối thoại sẽ phong phú hơn là việc đối thoại đặt nền tảng
trên sự khác biệt về thần học hay thực hành tôn giáo với những khái niệm và
ngôn ngữ trừu tượng. Khi mọi người thuộc các tôn giáo khác nhau đều nhìn nhận
chỉ có một Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo muôn vật muôn loài và toàn thể mọi người
trong gia đình nhân loại từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế đều chung một khởi
điểm, một lịch sử, một hướng đi và một đích đến thì tiến trình đối thoại liên
tôn sẽ vượt qua mọi rào cản.
Như là Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian, Giáo Hội kêu mời tất
cả mọi người trong gia đình nhân loại quan tâm, chăm sóc lẫn nhau trên bình diện
cá nhân cũng như tập thể. Trong thế giới hôm nay, sự lãnh đạm của con người
ngày càng phổ biến và lan rộng. ‘Toàn cầu hóa lãnh đạm' (globalisation of
indifference) được xem là hệ quả tất yếu của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa giải
thiêng, chủ nghĩa thế tục và một số hình thức chủ nghĩa khác nảy sinh từ não trạng
và lối sống thực dụng. Khi người ta khước từ Thiên Chúa, khước từ sự thánh
thiêng, khước từ những giá trị trường cửu và không nhìn nhận nhau như anh chị
em trong ngôi nhà chung của gia đình nhân loại, cũng là khi các hình thức chủ
nghĩa như vậy nảy sinh và phát huy tác dụng. Lãnh đạm dẫn tới sự xuống cấp của
đời sống gia đình trong xã hội loài người và làm cho con người ngày càng quy
ngã trong khi thờ ơ với tha nhân cũng như không màng tới thế giới quanh mình.
Như là Gia Đình Thiên Chúa ở trần gian, Giáo Hội trở thành
phương dược làm cho chủ nghĩa lãnh đạm và các hình thức chủ nghĩa khác ngày
càng phai nhạt trong thế giới nhân sinh. Dõi theo Đức Giêsu và Tin Mừng của Người,
Giáo Hội kêu mời tất cả mọi người trong gia đình nhân loại biết quan tâm phục vụ
lẫn nhau trong hành trình tiến về Gia Đình Thiên Chúa sung mãn muôn đời.
6. KẾT LUẬN
Những xem xét, đánh giá và tổng hợp trên đây cho phép chúng
ta nhận thức rằng bản chất của Giáo Hội là gia đình, đồng thời, cho phép chúng
ta hiểu biết hơn về tương quan mật thiết giữa năm hình thức gia đình: Gia Đình
Thiên Chúa, gia đình thế giới thụ tạo, gia đình nhân loại, Gia Đình Giáo Hội,
gia đình cơ bản (cell of society/ ecclesia domestica). Từ khởi thủy, gia đình
nhân loại vừa là đỉnh cao vừa là trung tâm của chương trình Thiên Chúa sáng tạo.
Người chúc phúc và thánh hóa gia đình nhân loại để gia đình nhân loại cùng cộng
tác với Người trong việc sáng tạo và chăm sóc thế giới thụ tạo. Mặc dù gia đình
khởi thủy của nhân loại bất xứng, Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương nâng đỡ. Trải
qua thăng trầm lịch sử, gia đình nhân loại được Thiên Chúa dẫn dắt và khi tới thời viên mãn, Đức Giêsu Kitô,
Con Thiên Chúa đã trở nên Con của gia đình nhân loại trong gia đình Na-da-rét để
thông phần đau khổ và cứu độ gia đình nhân loại.
Trong sứ mệnh của mình, Đức Giêsu Kitô mạc khải về Gia Đình
Thiên Chúa. Người cho các môn đệ của mình biết rằng Thiên Chúa, Cha của Người,
cũng là Cha của họ và của những ai đón nhận Người và Tin Mừng của Người qua
muôn thế hệ. Với Đức Giêsu Kitô, Gia Đình Thiên Chúa hiện diện và hoạt động giữa
lòng nhân thế. Người đã thiết lập Giáo Hội như là Thân Thể Người, để Gia Đình
Thiên Chúa tiếp tục hiện diện và hoạt động nhờ Giáo Hội. Ngay từ buổi đầu, các
môn đệ Đức Giêsu đã sống bầu khí gia đình này. Sau khi Đức Giêsu Phục Sinh và với
sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, họ đã ra đi loan báo Tin Mừng Gia Đình Thiên
Chúa cho toàn thể nhân loại. Việc nhận thức Giáo Hội như là Gia Đình Thiên Chúa
giúp chúng ta hiểu căn tính, đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội ở trần gian là
quy tụ tất cả mọi người về với Gia Đình Thiên Chúa.
Như là Gia Đình Thiên Chúa, Giáo Hội thông ban sự sống và
nuôi dưỡng con cái mình bằng Lời Chúa, các bí tích và đời sống phụng tự, đồng
thời, Giáo Hội phục vụ gia đình con cái mình giữa những bấp bênh, đau khổ, khó
khăn trong cuộc sống. Giáo Hội khuyến khích toàn thể con cái mình luôn hiệp
thông với Giáo Hội và với nhau để loan báo Tin Mừng Gia Đình Thiên Chúa giữa
môi trường sống của mình. Trong khi loan báo Tin Mừng Gia Đình Thiên Chúa, Giáo
Hội phục vụ gia đình nhân loại bằng chính những giá trị của Gia Đình Thiên Chúa
mà Giáo Hội lãnh nhận, sống và được ủy thác trao ban. Giáo Hội diễn tả Gia Đình
Thiên Chúa cách trung thực nhất và luôn thâm tín rằng Gia Đình Thiên Chúa là khởi
thủy, niềm hy vọng và cùng đích của gia đình nhân loại cùng toàn thể thế giới
thụ tạo.
Trích Bản tin Hiệp
Thông / HĐGM VN, Số 124
(Tháng 5 & 6 năm 2021)
[1] Ở một số nước Hồi Giáo, đặc biệt là ở Trung Đông, gia đình đa thê
không chỉ thuộc văn hóa, truyền thống mà còn được pháp luật cho phép và bảo vệ.
[2] Xa hơn nữa, người ta cũng dùng từ ‘gia đình' để chỉ thế giới động, thực vật (gia đình sư tử, gia đình gấu, gia đình khỉ, gia đình cây dương xỉ, gia đình cây tùng) hay gia đình thế giới thụ tạo.
[6] Trong Kinh Thánh Cựu Ước, thay vì dùng từ gia đình (family) theo nghĩa
hiện đại, người ta thường dùng từ như nhà cha (father’s house) hay những người
sống chung dưới mái nhà hay trong một nơi nào đó với người chủ là nam giới
(household). Gia đình được hiểu theo nghĩa rộng nhiều hơn, chẳng hạn, những người
cùng dân tộc, bộ tộc, thị tộc.
[8] Nô-ê được diễn tả là “người công chính, hoàn hảo giữa những người đồng
thời và ông đi với Thiên Chúa” (St 6,9).
[12] Karl Rahner, in God as Trinity, ed.
by Ted Peters (Louisville: John Knox Press,1973), 22 (the economic Trinity is
the immanent Trinity, and vice-versa).
[13] Đức Giê-su hiện diện giữa nhân loại, tuy nhiên, Người vẫn luôn thuộc về
Gia Đình Thiên Chúa. Với việc Nhập Thể, Đức Giê-su vừa thuộc về Gia Đình Thiên
Chúa, vừa thuộc về gia đình nhân loại.
[17] Is 7, 14: “Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai và đặt
tên là Emma-nu-en.” Như thế, Is 7,14 không có phần giải thích ‘Em-ma-nu-en
nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta‘ như Mt 1,23.
[34] Trong truyền thống và văn hóa Do-thái, khi người nữ lấy chồng thì về
nhà chồng. Tuy nhiên, theo các học giả Kinh Thánh, từ xa xưa, khi người chồng lấy
vợ thì về nhà vợ. Điều đó cho chúng ta thấy rằng về nhà chồng hay về nhà vợ sau
khi trở thành vợ chồng không quan trọng bằng việc hai người trở thành gia đình
mới.
[40] Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Thông Điệp Centesimus Annus 39 1991); xem thêm Tông Huấn Ecclesia in America 46 (1999).
[50] Xem thêm thánh Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II, Tông Huấn Familiaris Consortio 75 và Tông Huấn Ecclesia in Africa 50.
[51] Xem thêm Công Đồng Vatican II, Hiến Chế Lumen Gentium 3, 7, 9, 17. Mỗi hình ảnh có những giới hạn nhất định.
Tổng hợp các hình ảnh Giáo Hội cũng không thể diễn tả đầy đủ thực thể Giáo Hội.
Nhiều hình ảnh diễn tả Giáo Hội thì tốt hơn là ít hình ảnh. Khi diễn tả Nước
Thiên Chúa, Đức Giê-su không chỉ dùng một hình ảnh mà nhiều hình ảnh, chẳng hạn,
hình ảnh hạt cải, men trong bột, ruộng lúa.
[54] Xem thêm Ga 17, 1-26.