DIỄN VĂN CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ TẠI HỘI NGHỊ
“HƯỚNG TỚI MỘT NỀN THẦN HỌC NỀN TẢNG VỀ CHỨC LINH MỤC”
Ngày 17 tháng 02 năm 2022
Anh em thân mến, chào
anh em!
Tôi biết ơn vì có dịp chia sẻ suy tư này với anh em, khởi
đi từ những điều Chúa đã bày tỏ cho tôi trong suốt hơn 50 năm linh mục của
mình. Tôi muốn khắc ghi ký ức với lòng tri ân mà tôi nghĩ đến tất cả các linh mục,
những người, với đời sống chứng tá của họ, đã cho tôi nhận thấy ngay từ thời
thơ ấu, những điều phản chiếu dung mạo của Đấng Mục Tử Nhân Lành. Tôi đã suy tư
những điều sẽ chia sẻ về đời sống linh mục hôm nay, và tôi đã đi đến kết luận rằng,
điều tốt nhất đến từ lời chứng mà tôi đã nhận được từ rất nhiều vị linh mục
trong nhiều năm qua. Những gì tôi cống hiến ở đây chính là thành quả của
việc thực hành suy tư về các linh mục ấy, nhận biết và suy gẫm về những đặc điểm
nào đã làm nổi bật nơi các ngài, đã mang lại cho các ngài sức mạnh, niềm vui và
hy vọng cách đặc biệt trong sứ vụ mục tử của họ.
Đồng thời, tôi cũng nói về
những anh em linh mục mà tôi đã phải đồng hành với họ bởi vì các vị đó đã đánh
mất tình yêu thuở ban đầu và vì sứ vụ của họ trở nên cằn cỗi, nhàm chán và gần
như là vô nghĩa. Linh mục nào cũng có những thời khắc và những hoàn cảnh khác
nhau trong đời sống của mình; Riêng phần tôi, cũng đã trải qua nhiều thời khắc
và nhiều hoàn cảnh khác nhau như thế, và khi “ngẫm lại” các hoạt động của Chúa
Thánh Linh, tôi đã nhận ra rằng, trong một số tình huống như thế, gồm cả những
thời khắc thử thách, khó khăn và trống rỗng, thì một cách nào đó, vẫn luôn hiện
hữu ơn bình an trong cuộc đời mình. Tôi nhận ra rằng, chúng ta có thể bàn luận
và suy đoán bất tận về thiên chức linh mục, nhưng hôm nay tôi chỉ muốn chia sẻ
với anh em “một sự lượng giá nho nhỏ” này, để giúp các linh mục hôm nay, dù trải
qua hoàn cảnh nào, thì cũng có thể cảm nghiệm ơn bình an và hoa trái mà Chúa
Thánh Thần khấng ban. Tôi không biết những suy tư này có phải là “bài ca thiên
nga - canto del cigno”[1] trong đời linh mục của tôi
hay không, nhưng tôi đoan chắc có thể đảm bảo rằng, những suy tư này đến từ
chính kinh nghiệm của tôi. Không hề có lý thuyết ở đây, nhưng tôi đang nói về
những kinh nghiệm tôi đã trải qua.
Thời điểm chúng ta đang sống là một thời điểm mời gọi chúng
ta không chỉ cảm nghiệm sự đổi thay mà còn phải đón nhận sự đổi thay nữa, với
nhận thức rằng chúng ta đang đối mặt với sự đổi thay của thời đại - tôi đã nhắc
lại điều này vài lần rồi. Nếu chúng ta còn nghi ngờ về điều này, thì đại dịch
Covid đã làm sáng tỏ hơn về điều đó: trên thực tế, sự lây lan của loại vi-rút
này không thể chỉ coi như một vấn đề về y tế và sức khỏe, chúng còn tai hại hơn
là một dịch cúm.
Sự đổi thay luôn mang đến cho chúng ta những phương cách
khác nhau để đối phó với nó. Vấn đề là nhiều hành động và thái độ có thể hữu
ích và tốt đẹp, nhưng không phải tất cả chúng đều mang hương vị của Tin Mừng. Trọng
tâm của vấn đề là ở chỗ, trong việc nhận biết liệu sự thay đổi và các hành động
có mang hương vị của Tin Mừng hay không. Ví dụ: tìm kiếm các hình thức được
hệ thống hóa, được neo trong quá khứ và “đảm bảo” cho chúng ta một hình thức bảo
vệ trước những rủi ro, nhằm “trú ẩn” trong một thế giới hoặc trong một xã hội
không còn tồn tại (nếu như nó đã từng tồn tại), như thể trật tự được xác định
này có khả năng chấm dứt những xung đột mà lịch sử đặt ra cho chúng ta. Đó là sự
khủng hoảng của việc quay trở lại quá khứ để tựa nương.
Một thái độ khác có thể là thái độ lạc quan thái quá - “rồi
mọi thứ sẽ ổn thôi” -; đi quá xa mà không có sự sáng suốt và không có những
quyết định cần thiết. Sự lạc quan này cuối cùng bỏ qua vết thương của quá
trình chuyển hóa này và không chấp nhận những căng thẳng, phức tạp và mơ hồ đặc
trưng của thời điểm hiện tại và “hiến tặng” những gì mới lạ nhất như những gì
thực sự có thật, do đó gạt bỏ kho tàng khôn ngoan từ ngàn xưa. (Có hai kiểu chạy
trốn; đó là thái độ của kẻ chăn thuê, khi thấy sói dữ tới thì liền bỏ chạy: hoặc
chạy về quá khứ, hoặc phóng về tương lai). Cả hai thái độ này đều không dẫn đến
các giải pháp chín chắn. Chúng ta cần phải dừng lại ở tính xác thực cụ thể của
ngày hôm nay.
Thay vào đó, tôi thích thái độ nảy sinh từ một sự chấp nhận
đầy tin tưởng đối với thực tại, gắn chặt với Truyền thống khôn ngoan và sống động
của Hội thánh, có thể đủ khả năng để ra khơi mà không sợ hãi. Trong thời điểm lịch sử này, tôi cảm thấy rằng, một lần
nữa, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta “hãy chèo ra chỗ nước sâu” (x. Lc 5,4) với niềm xác tín rằng Chúa chính
là Đức Chúa của lịch sử, và khi được Chúa hướng dẫn thì chúng ta sẽ phân định
được hướng đi của mình. Ơn cứu độ của chúng ta không phải là sự giải thoát vô
trùng, từ phòng thí nghiệm, hoặc được cứu bằng một thứ tâm linh quái gở - đó là
một sự cám dỗ của thuyết Ngộ đạo vẫn luôn hiện diện, nó vừa hiện đại, nó vừa là
hiện tại -; Để phân định thánh ý Thiên
Chúa có nghĩa là học cách giải thích thực tại với đôi mắt của Chúa, mà
không cần phải trốn tránh những gì đang xảy ra với dân tộc mình và không phải
loay hoay tìm một giải pháp nhanh chóng và an tĩnh thoát khỏi tầm tay của một hệ
tư tưởng thời đại hoặc một phản ứng có sẵn, cả hai đều không có khả năng giả định
những thời điểm khó khăn nhất và thậm chí đen tối nhất trong lịch sử của chúng
ta. Cả hai con đường này sẽ dẫn chúng ta đến việc phủ nhận “lịch sử của chúng
ta xét như là một Hội thánh, một lịch sử vinh quang vì đó là lịch sử của những
hy sinh, cậy trông, của chiến đấu liên lỉ, của cuộc sống tiêu hao để phục vụ,
trung tín trong công việc khó khăn”[2].
Trong bối cảnh đó, đời sống linh mục cũng bị ảnh hưởng bởi
thử thách này; một triệu chứng của điều này là cuộc khủng hoảng về ơn gọi ảnh
hưởng đến cộng đồng của chúng ta ở nhiều nơi khác nhau. Tuy nhiên, đúng là điều
này thường xảy ra do trong các cộng đoàn thiếu vắng lòng nhiệt thành tông đồ dễ
tỏa lan, nên họ không khơi dậy được sự nhiệt tình hoặc sự hấp dẫn: chẳng hạn,
các cộng đoàn chức năng, được tổ chức tốt nhưng thiếu lòng nhiệt thành, mọi thứ
đều tốt, nhưng thiếu sức nóng thiêng liêng. Ở đâu có sức sống, có lòng nhiệt
thành, có khát vọng đem Chúa Kitô đến cho tha nhân, thì các ơn gọi đích thực sẽ
triển nở. Ngay cả trong các giáo xứ nơi các linh mục không có nhiều dấn thân hoặc
vui vẻ, thì chính đời sống huynh đệ và nhiệt thành của cộng đoàn đã khơi dậy ước
muốn dâng mình hoàn toàn cho Thiên Chúa và loan báo Tin Mừng, đặc biệt nếu
cộng đồng năng động này kiên trì cầu nguyện cho các ơn gọi và can đảm đề xuất
cho những người trẻ của mình một hành trình hiến dâng cách đặc biệt. Khi
chúng ta rơi vào chủ nghĩa chức năng, rơi vào tổ chức mục vụ - và chỉ vào chủ
nghĩa đó - thì không có sự thu hút ơn gọi nào cả; Trái lại, khi chúng ta
tìm thấy một linh mục hoặc một cộng đoàn có lòng nhiệt thành với các tín hữu,
ngay từ khi được rửa tội, thì sẽ có sức thu hút lôi cuốn những ơn gọi mới.
Đời sống của một linh mục trước hết là lịch sử ơn cứu độ của
một người đã lãnh Phép Rửa. Đức Hồng y Ouellet đã phân biệt sự khác biệt giữa
chức tư tế thừa tác và Phép rửa tội. Đôi khi chúng ta quên Bí tích Rửa tội, và
linh mục trở thành một chức năng: một chủ nghĩa chức năng, và điều này thật
nguy hiểm. Chúng ta đừng bao giờ quên rằng mỗi ơn gọi cụ thể, kể cả ơn gọi Truyền
chức thánh, cũng đều là sự kiện toàn Phép thánh tẩy. Luôn luôn là một cám dỗ lớn
để sống chức tư tế mà không có Bí tích Rửa
tội - và có những linh mục “không sống Bí tích Rửa tội” - tức là không có
ký ức rằng ơn gọi căn bản đầu tiên của mình là nên thánh. Và nên thánh có nghĩa
là trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, “có những tâm tình như chính Đức
Kitô Giêsu” (x. Pl 2,5). Chỉ khi
chúng ta cố gắng yêu thương tha nhân như Chúa Giêsu yêu thương, thì chúng ta mới
trình bày Thiên Chúa cách hữu hình cụ thể, và như vậy, mới sống trọn ơn gọi nên
thánh của mình. Thánh Gioan Phaolô II đã nhắc nhở chúng ta cách đúng đắn rằng
“người linh mục, cũng như mọi thành viên khác trong Hội thánh, phải lớn lên
trong ý thức rằng chính mình luôn cần phải được biến đổi theo Tin Mừng”[3].
Mỗi ơn gọi cụ thể đều phải tuân theo loại phân định
này. Ơn gọi của chúng ta trước hết là sự đáp lại Đấng đã yêu thương chúng
ta trước (x. 1Ga 4,19). Và đây là nguồn
hy vọng vì ngay cả trong cơn khủng hoảng, Chúa vẫn không ngừng yêu thương, và
do đó, đang kêu gọi chúng ta. Và mỗi người chúng ta là một nhân chứng cho
điều này: một ngày kia Chúa đã tìm gặp chúng ta, nơi chúng ta đang ở, bất kể
tình trạng của chúng ta ra sao, trong những môi trường xung khắc hoặc với những
hoàn cảnh gia đình phức tạp. Tôi thích đọc lại sách ngôn sứ Êdêkiên,
chương 16, và đôi khi tôi cảm thấy được xác định, bởi vì Chúa cũng tìm thấy tôi
ở đây, Người đã tìm thấy tôi như thế này, và tuy nhiên, Người đã cưu mang tôi về
phía trước. Và việc tìm thấy chúng ta như thế đã không ngăn cản Chúa muốn
viết lịch sử ơn cứu độ, ngang qua mỗi người chúng ta. Ngay từ đầu sự việc
đã như thế – chúng ta có thể nghĩ đến Phêrô, Phaolô, Mátthêu… trong số rất nhiều
người khác. Chúa Giêsu đã không chọn họ vì họ hoàn hảo, nhưng vì Người cam kết
cụ thể với mỗi người trong số họ. Mỗi người, khi nhìn vào con người của mình, lịch
sử đời mình, tính cách của mình, không được tự hỏi rằng, liệu lựa chọn ơn gọi
có thuận tiện hay không, nhưng liệu trong lương tâm, ơn gọi đó có bộc lộ trong
mình tiềm năng của Tình yêu thương mà chúng ta đã nhận được qua Phép thánh tẩy
của mình hay không.
Trong thời đại đầy đổi thay này, có rất nhiều vấn đề phải đối
diện, và cũng có những cám dỗ xảy đến. Vì vậy, trong những ghi nhận này của
tôi, tôi chỉ đơn giản muốn tập trung vào điều mà tôi cảm thấy có ý nghĩa quyết
định đối với đời sống của một linh mục ngày nay, hãy ghi nhớ những gì thánh
Phaolô nói với chúng ta rằng: “Trong Đức Kitô, toàn thể công trình xây dựng ăn
khớp với nhau và vươn lên thành ngôi đền thánh trong Chúa” (Ep 2,21). Sự phát
triển tốt có trật tự có nghĩa là phát triển hài hòa, và phát triển hài hòa chỉ
có Chúa Thánh Thần mới có thể thực hiện được, như định nghĩa mà thánh Basiliô
đã đưa ra thật tuyệt vời: “Chính Người là sự hài hòa - Ipse harmonia est”[4]. Vì vậy, tôi nghĩ rằng mọi
công trình xây dựng, để có thể đứng vững, cần phải có một nền tảng vững chắc; về
điều này, tôi muốn chia sẻ những thái độ mang lại sự vững chắc cho người linh mục;
Tôi muốn chia sẻ - anh em đã nghe rồi, nhưng tôi xin nhắc lại một lần nữa - bốn
trụ cột cấu thành trong đời sống linh mục của chúng ta và chúng ta sẽ gọi là “bốn
hình thức của sự gần gũi”, bởi vì chúng theo phong cách của Thiên Chúa, về cơ bản
là một phong cách của sự gần gũi (x. Đnl 4,7). Chính Thiên Chúa cũng tự định
nghĩa về mình với dân Người như sau: “Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần
minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta
kêu cầu Người?”. Phong cách của Thiên Chúa là sự gần gũi, đó là sự gần gũi đặc
biệt, từ bi và dịu dàng. Ba từ xác định cuộc sống của một linh mục và của một
Kitô hữu nữa, bởi vì chúng được lấy từ phong cách của Thiên Chúa, đó là: gần
gũi, nhân từ xót thương và dịu dàng.
Tôi đã đề cập đến những điểm này trước đây rồi; Tuy nhiên,
hôm nay, tôi muốn đề cập sâu hơn, vì linh mục, không chỉ là những công thức hay
lý thuyết, cần những công cụ cụ thể để đối mặt với chức vụ, sứ vụ và cuộc sống
hàng ngày của mình. Thánh Phaolô đã khuyên Timôthê phải khơi dậy đặc sủng của
Thiên Chúa đã được ban cho qua việc đặt tay, đó là một Thần Khí không nhút
nhát, nhưng đầy sức mạnh, tình thương và biết tự chủ (x. 2Tm 1,6-7). Tôi tin rằng bốn cột này, bốn “hình thức gần gũi” mà giờ
đây tôi sẽ nói đến có thể hữu ích một cách thiết thực, cụ thể và đầy hy vọng để
nhớ lại những ân huệ và thành quả mà một ngày nào đó đã được hứa cho chúng ta,
để giữ cho những ân huệ đó tồn tại.
Bốn sự gần gũi, trong đó trước tiên là gần gũi với Chúa.
Gần gũi với Chúa
Trước tiên là sự gần gũi với Thiên Chúa là Đức Chúa của sự gần
gũi. Ý nghĩa của Tin Mừng Gioan nói về sự “ở lại” là như thế. “Thầy là cây nho,
anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy
sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. Ai không ở lại
trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy,
quăng vào lửa cho nó cháy đi. Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại
trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý” (Ga 15,5-7).
Trước hết, một linh mục được mời gọi để vun trồng sự gần
gũi, thân mật với Thiên Chúa, và từ mối tương giao này, vị linh mục đó sẽ có thể
kín múc tất cả những sức mạnh cần thiết cho sứ vụ của mình. Có thể nói, mối
tương giao với Thiên Chúa là một mối tương giao “khắng khít” giúp chúng ta thêm
triển nở trong các mối tương giao khác. Nếu không có một tương giao đầy ý nghĩa
với Chúa, sứ vụ của chúng ta chắc chắn sẽ trở nên cằn cỗi. Gần gũi với
Chúa Giêsu, tiếp xúc với Lời Chúa, cho phép chúng ta đối chiếu đời sống của
mình với đời sống của Chúa, và học cách không bị vấp phạm bởi bất cứ điều gì xảy
ra với chúng ta, để tự bảo vệ mình khỏi “những vụ tai tiếng”. Cũng giống
như Thầy mình, vị linh mục sẽ trải qua những giây phút vui tươi nơi tiệc cưới,
với những phép lạ và những việc chữa lành, những lần hóa bánh ra nhiều và những
lúc được nghỉ ngơi đôi chút. Người linh mục sẽ có những lúc có thể được ngợi
khen, nhưng cũng sẽ có những khi anh em cảm thấy khắc khoải, bị chối từ, bị
nghi ngờ và cô đơn, đến mức phải thốt lên rằng: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa
của con, sao Ngài bỏ con?” (Mt
27,46).
Sự gần gũi với Chúa Giêsu mời gọi chúng ta không sợ hãi bất
cứ điều gì trong những thời khắc như thế - không phải vì chúng ta mạnh mẽ,
nhưng vì chúng ta ngước nhìn lên Chúa, bám chặt lấy Người và chúng ta thưa với
Chúa rằng: “Lạy Chúa, xin đừng để con sa vào cơn cám dỗ! Xin hãy giúp con hiểu
rằng con đang sống một thời khắc quan trọng trong cuộc đời mình và Chúa luôn ở
bên con để chứng giám lòng tin yêu của con”[5].
Sự gần gũi với Chúa đôi khi có một phong cách của một cuộc chiến, đó là một cuộc
vật lộn với Thiên Chúa, nhất là trong những thời khắc cảm thấy Chúa thấy vắng
trong cuộc đời linh mục, hoặc trong cuộc sống của những người được ủy thác cho
mình. Chiến đấu và tìm kiếm phước lành cho đến lúc trời rạng đông
(x. St 32,25-27), sẽ là nguồn sống
cho nhiều người. Đôi khi đó là một cuộc chiến, một sự vật lộn. Một
linh mục làm việc ở đây trong Giáo triều này nói với tôi rằng – vị đó có một
công việc khá khó khăn, đó là phải sắp xếp dọn dẹp trật tự, vị linh mục trẻ ấy
nói với tôi rằng anh ấy trở về trong sự mệt mỏi, rất mệt mỏi, nhưng anh ấy vẫn
muốn được ở tĩnh lặng trước tượng Đức Mẹ với tràng chuỗi trên tay trước khi đi
ngủ. Là một người phục vụ trong Giáo triều này, một nhân viên của Vatican,
chúng ta cần sự gần gũi đó. Mặc dù mọi người trong Giáo triều này thường bị
chỉ trích rất nhiều, điều đó đôi khi đúng, nhưng tôi cũng có thể nói và làm chứng
rằng, ở đây, ngay trong Giáo triều này, vẫn có những vị thánh; và đó là một
sự thật.
Có nhiều sự khủng hoảng nơi hàng linh mục bắt nguồn chính từ
đời sống cầu nguyện nghèo nàn, thiếu mật thiết với Chúa, giảm đời sống thiêng
thành một thực hành việc đạo đức đơn thuần. Trong công tác đào luyện, tôi thường
phân biệt hai điều này: một đàng là đời sống thiêng liêng, một đàng là thực
hành việc đạo đức. “Đời sống thiêng liêng của con thế nào?” - “Thưa, rất tốt ạ.
Con ngồi suy niệm vào buổi sáng, con lần chuỗi mân côi, con đọc kinh phụng vụ -
đọc kinh phụng vụ là luật đòi buộc - con làm tất cả”. Không, đó chỉ là thực
hành đạo đức mà thôi. Nhưng đời sống thiêng liêng của bạn như thế nào? Tôi nhớ
những khoảnh khắc quan trọng trong cuộc đời mình, nơi sự gần gũi này với Chúa
là điều cốt yếu để đỡ nâng tôi, đỡ nâng tôi trong những khoảnh khắc tăm tối nhất. Không
có đời sống cầu nguyện mật thiết, đời sống thiêng liêng, sự gần gũi cụ thể với
Thiên Chúa qua việc lắng nghe Lời Chúa, khi cử hành Bí tích Thánh Thể, về
sự tĩnh lặng của việc tôn thờ, về sự dâng mình cho Đức Mẹ, về sự đồng hành khôn
ngoan của một vị linh hướng, về bí tích Hòa giải, nếu không có những “sự gần
gũi” cụ thể này, thì nói một cách ngắn gọn, một linh mục chỉ là một người lao
công mệt mỏi. Trong các giáo phận, tôi thích hỏi các linh mục, “Hãy xem, hãy
nói cho tôi biết - họ đã nói với tôi về công việc của họ - cho tôi biết, bạn đi
ngủ thế nào?”. Và họ không hiểu. “Đúng, đúng, buổi tối, bạn đi ngủ
như thế nào?” - “Con về tới nhà và rất mệt, ăn một chút gì đó rồi đi ngủ,
và bên giường với chiếc tivi” - “Ồ, tốt lắm! Nhưng con không đến gặp Chúa,
ít nhất là để nói lời chúc Chúa ngủ ngon hay sao? Đó chính là một vấn đề. Thiếu
một sự gần gũi mật thiết với Chúa. Khi đi làm về mệt mỏi, nghỉ ngơi và xem
tivi thì đó là điều rất bình thường, đó là những điều hợp lý thôi, nhưng mà
không có gặp gỡ Chúa, không có được một sự gần gũi này. Dù đã lần chuỗi
mân côi, đọc kinh Thần vụ, nhưng không có sự mật thiết với Chúa. Và bạn
đã cảm thấy không cần thiết phải nói với Chúa đơn giản rằng: “Con tạm biệt
Chúa, hẹn gặp Chúa vào ngày mai, xin tạ ơn Chúa nhiều!” Đó là những cử chỉ
nho nhỏ nhưng bộc lộ phong thái của tâm hồn linh mục.
Chẳng hạn, trong đời sống linh mục, người ta chỉ sống cầu
nguyện như một bổn phận, mà quên mất rằng tình bạn và tình yêu không thể được
áp đặt như một quy luật bên ngoài, mà chỉ là sự lựa chọn căn bản của trái tim
chúng ta. Một linh mục cầu nguyện không gì khác hơn là một Kitô hữu đã hiểu
sâu sắc ân huệ mà mình lãnh nhận trong Bí tích Rửa tội. Một linh mục cầu
nguyện là một người con luôn nhớ rằng mình là con, và mình có người Cha hằng
yêu thương mình. Một linh mục cầu nguyện là một người con trở nên “gần
gũi” với Chúa.
Nhưng tất cả những điều này thật khó nếu bạn không quen có
những giây phút tĩnh lặng trong một ngày sống. Nếu bạn không biết cách gác lại
những “hoạt động” của Mácta để tìm hiểu sự thinh lặng chiêm niệm của Maria. Thật
khó để từ bỏ chủ nghĩa duy hoạt động - hoạt động thường có thể là một lối thoát
- bởi vì khi bạn ngừng bận rộn, sự bình yên không đến ngay trong lòng bạn, mà
là sự trống vắng; và để tránh không rơi vào cảnh trống vắng, người ta sẵn sàng
không khi nào ngừng hoạt động. Công việc là một sự phân tâm, để không đi vào sự
trống rỗng. Nhưng sự trống rỗng thì cũng giống như điểm hẹn gặp gỡ với Thiên
Chúa. Chính bằng cách chấp nhận sự trống rỗng đến từ sự thinh lặng, từ việc điều
tiết các hoạt động và lời nói, từ sự can đảm để xét mình một cách chân thành,
ngay tại đó, thì mọi thứ sẽ tươi sáng với một sự bình an. Điều đó không còn lệ
thuộc vào sức mạnh và khả năng của chúng ta nữa. Đó là về việc học cách để cho
Chúa tiếp tục thực hiện công trình của Người trong mỗi chúng ta, và cắt tỉa tất
cả những gì vô ích, cằn cỗi và làm chệch hướng ơn gọi của chúng ta. Kiên trì
trong cầu nguyện thì không chỉ đơn thuần là chuyên cần thực hành việc cầu nguyện:
nó có nghĩa là không trốn chạy khi chính lời cầu nguyện dẫn chúng ta vào sa mạc
thanh vắng. Hành trình dẫn vào sa mạc chính là hành trình dẫn tới sự mật thiết
với Thiên Chúa, do đó, miễn là chúng ta đừng trốn chạy, đừng tìm cách né tránh
cuộc gặp gỡ này. Trong sa mạc, Chúa đã nói với dân Người qua miệng ngôn sứ Hôsê
rằng: “Này Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình” (Hs 2,16). Đây là điều mà một người linh
mục phải tự hỏi: liệu tôi có khả năng sẵn sàng để cho Chúa dẫn đưa vào sa mạc
hay không. Các vị linh hướng, những người đồng hành với các linh mục, cần phải
thấu hiểu, giúp họ và đặt ra câu hỏi này: Liệu bạn có khả năng để đi vào sa mạc
hay không? Hay bạn thích lao thẳng tới ốc đảo truyền thông, hay một điều gì khác
nữa?
Sự gần gũi với Thiên Chúa cho phép linh mục chạm tới nỗi đau
trong tâm hồn, và điều này nếu biết đón nhận, sẽ giải thoát nỗi đau của chúng
ta bao lâu chúng ta có thể gặp gỡ. Cũng giống như ngọn lửa, việc cầu nguyện làm
sinh động đời sống của người linh mục, chính là tiếng kêu than của một tâm hồn
tan nát giày vò, và Lời Chúa dạy cho chúng ta hiểu rằng, “một tấm lòng tan nát
giày vò, Ngài sẽ chẳng khinh chê” (Tv
51,19). “Họ kêu xin, và Chúa đã nhậm lời, giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn.
Chúa gần gũi những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề” (Tv 34,18-19).
Một linh mục phải có một trái tim đủ “rộng mở” để đáp ứng nỗi
đau của những người được Chúa giao phó cho mình, đồng thời, giống như người
lính canh, loan báo buổi bình minh của Ân sủng Thiên Chúa được thể hiện trong
chính nỗi đau đó. Biết ấp yêu chấp nhận và bày tỏ nỗi thống khổ của mình
trong sự gần gũi với Chúa, sẽ là trường học tốt nhất để dần dần nhường chỗ cho
tất cả những khốn khổ và đau đớn mà vị linh mục sẽ gặp phải hằng ngày trong chức
vụ của mình, cho đến khi chính vị linh mục trở nên giống Thánh Tâm
Chúa. Điều này cũng sẽ chuẩn bị cho người linh mục một sự gần gũi khác, đó
là sự gần gũi với Dân Chúa. Trong sự gần gũi với Thiên Chúa, linh mục củng
cố sự gần gũi với giáo dân của mình. Và ngược lại, gần gũi với dân mình, thì
linh mục cũng sống gần gũi với Chúa. Và sự gần gũi với Thiên Chúa - điều đó khiến
tôi xúc động - chính là nhiệm vụ đầu tiên của các vị giám mục, bởi vì khi các
tông đồ “phát minh” ra chức vụ phó tế, thì tông đồ Phêrô đã giải thích về chức
năng này và nói rằng: “Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục
vụ Lời Thiên Chúa” (Cv 6,4). Nói cách
khác, nhiệm vụ đầu tiên của Giám mục chính là cầu nguyện; và điều này cũng phải
được thực hiện nơi các linh mục: đó chính là việc cầu nguyện.
Thánh Gioan Tẩy Giả đã nói rằng: “Người phải nổi bật lên,
còn thầy phải lu mờ đi” (Ga 3,30).
Trong sự mật thiết với Chúa làm cho tất cả những điều này trở nên khả thi, vì
trong sự cầu nguyện, chúng ta nhận ra rằng, mình cao cả trước mặt Chúa, và khi
đó các linh mục gần gũi Chúa, trở nên bé nhỏ trong con mắt người đời cũng không
còn là vấn đề nữa. Và ở đó, trong sự gần gũi Chúa, chúng ta không còn sợ phải
nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu chịu đóng đinh, như chúng ta đã được đề
nghị trong nghi thức truyền chức linh mục, một điều rất đẹp nhưng chúng ta thường
quên mất.
Chúng ta hãy chuyển sang sự gần gũi thứ hai, sự gần gũi này
tôi sẽ trình bày ngắn gọn hơn sự gần gũi thứ nhất.
Gần gũi với Giám mục
Sự gần gũi thứ hai này từ lâu nay chỉ được giải thích một
chiều mà thôi. Trong Hội thánh, quá thường xuyên, và ngay cả ngày nay nữa,
chúng ta đã mặc định cho sự vâng phục một cách giải thích khác xa với cảm thức
của Tin Mừng. Sự vâng lời không phải là một thuộc tính kỷ luật mà là đặc tính mạnh
mẽ nhất của mối dây liên kết chúng ta trong sự hiệp thông. Trong trường hợp
này, vâng lời vị giám mục có nghĩa là học cách lắng nghe và ghi nhớ rằng, không
ai có thể tự nhận mình là người sở hữu thánh ý Thiên Chúa, và điều đó chỉ có thể
được hiểu thông qua sự phân định. Vì thế, vâng lời là lắng nghe thánh ý Thiên
Chúa, được phân định chính xác trong một mối dây ràng buộc, tương giao với những
người khác. Thái độ lắng nghe này cho phép chúng ta phát triển ý tưởng rằng không
ai là nguyên tắc và nền tảng của đời sống cả, nhưng nhất thiết phải có tương
giao với người khác. Logic nội tại của sự gần gũi ở đây - trong trường hợp này
là đối với các giám mục, nhưng điều đó cũng áp dụng với những người khác nữa
- giúp cho chúng ta có thể phá vỡ mọi cám dỗ về việc sống khép kín, về sự tự biện
hộ và sống một cuộc sống “biệt lập” hoặc “cô độc”. Khi các linh mục sống
khép kín, họ sẽ trở thành “cô độc”, với tất cả những điên rồ của “sự cô độc” ấy,
và điều đó quả thật không đúng đắn chút nào cả. Trái lại, sự gần gũi này mời
gọi chúng ta lôi cuốn những người khác, để cùng nhau tìm ra con đường dẫn đến
chân lý và sự sống.
Một vị Giám mục thì không phải là giám thị trường học, không
phải là người trông coi, mà là một người cha, và ngài nên đưa ra sự gần gũi
này. Giám mục phải cố gắng cư xử theo cách này, bởi nếu không, ngài sẽ tạo
ra sự xa cách đối với các linh mục đoàn, hoặc ngài chỉ tiếp cận với những người
đầy tham vọng. Giám mục, dù ngài là ai đi chăng nữa, thì vẫn cư xử với mọi
linh mục và đối với mọi Giáo hội địa phương như một mối dây liên kết giúp phân
định thánh ý Thiên Chúa. Nhưng chúng ta không được quên rằng chính giám mục
chỉ có thể là một công cụ của sự phân định thánh ý Thiên Chúa nếu ngài cũng biết
lắng nghe thực tế của các linh mục và của dân Chúa được ủy thác cho ngài chăm
sóc. Như tôi đã viết trong Tông huấn Evangelii
Gaudium rằng: “Chúng ta cần phải thực hành nghệ thuật biết lắng nghe, vốn
không chỉ là nghe suông mà thôi. Trong giao tiếp, lắng nghe chính là mở rộng
tâm hồn để tạo ra sự gần gũi, nếu không có sự gần gũi này thì không thể có được
sự gặp gỡ thiêng liêng đích thực. Việc lắng nghe giúp chúng ta tìm ra những cử
chỉ và lời nói thích hợp, cho thấy rằng chúng ta không phải là những người đứng
ngoài cuộc. Chỉ qua việc lắng nghe với lòng tôn trọng và cảm thông như thế
chúng ta mới có thể đi vào những hành trình trưởng thành đích thực và mới có thể
đánh thức khát vọng sống lý tưởng Kitô giáo: khát vọng đáp trả trọn vẹn tình
yêu Thiên Chúa và làm cho những gì mà Thiên Chúa đã gieo vãi trong cuộc đời
mình được trổ sinh hoa trái”[6].
Không phải ngẫu nhiên mà sự dữ, nhằm phá hoại kết quả công
trình của Hội thánh, luôn tìm cách phá hoại những mối dây liên kết và gìn giữ
chúng ta trong sự hiệp nhất. Việc bảo vệ mối liên kết người linh mục với Hội
thánh địa phương, với hội dòng của mình, và với giám mục, sẽ làm cho đời sống
linh mục nên vững chắc và đáng tin cậy. Hãy bảo vệ các mối dây liên kết tốt đẹp.
Vâng phục là lựa chọn cơ bản để chào đón bất cứ ai được đặt trước mặt chúng ta
như một dấu chỉ cụ thể của bí tích cứu độ phổ quát đó là Hội thánh. Vâng phục
cũng có thể trong sự đối thoại, lắng nghe, và trong một số trường hợp cũng có
thể là sự căng thẳng nhưng điều đó không bị phá vỡ. Điều này nhất thiết đòi hỏi
các linh mục phải cầu nguyện cho các giám mục và khuyến khích bản thân bày tỏ ý
kiến của mình với sự tôn trọng, can đảm và chân thành. Điều này cũng đòi hỏi
các giám mục phải thể hiện sự khiêm tốn, khả năng lắng nghe, tinh thần tự phê
bình, và thái độ sẵn sàng đón nhận sự giúp đỡ. Nếu giữ được mối dây liên kết
này, chắc chắn chúng ta sẽ tiến tới một cách an toàn trên con đường của mình.
Và tôi nghĩ rằng những gì đã nói về sự gần gũi với các giám
mục, như vậy là đã đủ rồi.
Gần gũi giữa các linh mục
Đó là sự gần gũi thứ ba. Gần gũi với Thiên Chúa, gần
gũi với các giám mục và gần gũi với các linh mục. Chính từ sự hiệp thông với
giám mục mà sự gần gũi thứ ba được mở ra, đó là tình huynh đệ linh mục. Chúa
Giêsu hiện diện bất cứ ở đâu có những người anh chị em thương yêu nhau: “Vì ở
đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20). Cũng như sự vâng phục, tình
huynh đệ không thể là một áp đặt luân lý từ bên ngoài. Tình huynh đệ có nghĩa
là sự lựa chọn nên thánh với người khác chứ không phải một mình, nên thánh cùng
với những người khác. Có một câu ngạn ngữ của người Phi châu mà anh em đã
biết: “Nếu bạn muốn đi nhanh, hãy đi một mình; Nếu bạn muốn đi xa, hãy đi với
những người khác”. Đôi khi có vẻ như Giáo hội chậm chạp - và đúng là như vậy
-, nhưng tôi thích nghĩ rằng đó là sự chậm chạp của những người đã quyết định
bước đi trong tình huynh đệ. Cũng đồng hành với người đi chậm, nhưng luôn
trong tình huynh đệ.
Đặc tính của tình huynh đệ chính là tình yêu thương. Trong
Thư thứ nhất gửi các tín hữu Côrintô (chương 13), thánh Phaolô đã để lại cho
chúng ta một “bản đồ” chỉ đường rõ ràng về tình yêu thương, và theo một nghĩa
nào đó, ngài đã cho chúng ta thấy một tình huynh đệ cần hướng tới. Trước tiên,
phải học tính kiên nhẫn, đó là khả
năng cảm thấy có trách nhiệm với người khác, mang gánh nặng của họ, và một cách
nào đó, cùng chịu đau khổ với họ nữa. Đối lập với sự kiên nhẫn là sự thờ ơ vô cảm,
xa cách mà chúng ta tạo ra với người khác để không cảm thấy bị can dự vào cuộc
sống của họ. Đối với nhiều linh mục cao niên, đã diễn ra một bi kịch về sự
cô đơn, một cảm giác đơn độc. Một người cảm thấy không xứng đáng với sự kiên nhẫn
và được quan tâm. Hơn nữa, họ cảm thấy
rằng từ nơi người khác, họ không thể mong đợi điều tốt đẹp, sự tử tế mà
chỉ có sự phán xét mà thôi. Người khác không thể tận hưởng những điều tốt đẹp xảy
đến với chúng ta trong cuộc sống, hoặc tôi cũng không thể làm như vậy khi tôi
nhìn thấy những điều tốt đẹp trong cuộc sống của tha nhân. Việc không thể tận
hưởng những điều tốt đẹp nơi tha nhân, đó chính là một sự đố kỵ - tôi muốn nhấn mạnh về điều này -, vì điều này làm cản trở
môi trường sống của chúng ta rất nhiều, và đó là một nỗ lực trong phương pháp
sư phạm của đức ái, không chỉ đơn giản là một tội lỗi để mà thú nhận. Một thái
độ đố kỵ chính là tội lỗi. Sự đố kỵ hiện diện rất nhiều trong các cộng
đoàn linh mục. Và Lời Chúa cho chúng ta biết rằng, đó là một thái độ phá
hoại, chính vì tội ganh tỵ và đố kỵ của quỷ dữ mà cái chết đã xâm nhập vào thế
gian (x. Kn 2,24). Sự đố kỵ
chính là cánh cửa của sự hủy diệt. Và về điều này, chúng ta phải nói rõ rằng,
sự đố kỵ thường hiện diện trong lòng chúng ta. Dĩ nhiên, không phải ai ai
cũng có tính đố kỵ cả, nhưng sự cám dỗ của lòng đố kỵ thì luôn ở gần bên
ta. Hãy cẩn trọng! Bởi vì từ sự đố kỵ nảy sinh ra sự đàm tiếu và bài
xích lẫn nhau.
Để cảm thấy mình là một phần của cộng đoàn, “là chúng ta”,
không cần phải đeo những chiếc mặt nạ chỉ mang đến cho chúng ta một hình ảnh đắc
thắng. Chúng ta không cần phải khoe
khoang, không cần phải tự thổi phồng
bản thân, hoặc tệ hơn nữa là có những thái độ bạo lực, không tôn trọng những người xung quanh, đó là những hình thức bắt
nạt giáo sĩ. Bởi vì nếu một linh mục có điều gì đó để khoe khoang,
thì đó chỉ là khoe khoang về lòng Chúa xót thương mà thôi; vì chính vị
linh mục ý thức thân phận tội lỗi của mình, nhận ra sự khốn cùng và giới hạn của
mình, nhưng ngài đã cảm nghiệm rằng: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng
càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20); Và
đó là sứ điệp đầu tiên của người linh mục. Một linh mục cần ghi nhớ điều này
trong tâm trí rằng không được đố kỵ, không được ghen tị.
Đức ái huynh đệ thì không tìm
tư lợi, không có chỗ cho sự nóng giận,
oán hận, như thể người anh em bên cạnh đã làm tôi thất vọng một cách nào
đó. Và khi tôi tìm thấy sự nhỏ nhen ích kỷ của người khác, tôi sẵn sàng vĩnh viễn quên đi những điều tồi tệ mà mình
đã nhận được, không coi đó là tiêu chí duy nhất để phán xét, thậm
chí có thể còn phải tận hưởng sự bất công khi nó liên quan
đến chính người đã gây đau khổ cho tôi. Đức mến chân chính thì vui khi thấy điều chân thật, và coi việc
tấn công vào sự thật và phẩm giá của người anh em qua những lời vu khống, vu
cáo, đàm tiếu là một trọng tội. Căn nguyên của nó là sự đố kỵ. Nói đến điều
này, vì thậm chí có thể là vu khống, để có được một vị trí nhất định nào
đó. Và điều này thật đáng buồn. Khi có một thông tin được yêu cầu để
bổ nhiệm một vị nào đó trở thành giám mục, thì nhiều khi chúng tôi đã nhận được
những thông tin phát ốm vì bị nhiễm sự đố kỵ. Và đây là một căn bệnh của
những người già nơi chúng ta. Nhiều người trong số các anh em là những nhà
đào tạo trong các chủng viện, anh em hãy khắc ghi điều này.
Tuy nhiên, theo nghĩa này, không thể cho phép tin rằng tình
huynh đệ là một điều viển vông không tưởng, càng không phải là một “nơi công cộng”
để khơi dậy tình cảm tốt đẹp hoặc những lời nói về một cảnh ngộ hoặc một lời
nói trấn an. Không! Tất cả chúng ta đều biết khó khăn như thế nào để sống trong
cộng đoàn hoặc trong hàng linh mục - một vị thánh đã nói rằng: đời sống cộng
đoàn là sự đền tội của tôi -, thật khó khăn như thế nào để chia sẻ cuộc sống
hàng ngày với những người mà chúng ta muốn nhận là anh em. Nếu chúng ta không
muốn cho ngọt ngào, hãy dung hợp nó, làm giảm bớt nó, thì tình huynh đệ chính
là “tiếng nói ngôn sứ cao cả” mà chúng ta được mời gọi khi sống trong xã hội với
nền văn hóa vứt bỏ hôm nay. Tôi thích nghĩ về tình huynh đệ như một phòng tập
gym thiêng liêng, nơi mà ngày ngày chúng ta đánh giá sự tiến bộ và kiểm tra nhiệt
độ cho đời sống thiêng liêng của mình. Ngày nay tính ngôn sứ về tình huynh đệ vẫn
còn sống động và vẫn cần những người loan báo; Cần những con người ý thức về những
giới hạn của mình và về những khó khăn đang xảy ra, cho phép mình được chạm tới,
được thách đố và cảm động bởi Lời Chúa: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ
của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
Tình yêu thương huynh đệ dành cho các linh mục không chỉ giới
hạn trong một nhóm nhỏ, nhưng được thể hiện như là hình thức đức ái mục vụ[7], thúc đẩy chúng ta sống đức
ái đó cách cụ thể trong sứ vụ. Có thể nói rằng chúng ta sẽ yêu thích nếu
chúng ta học cách diễn tả đức ái mục vụ đó theo cách mà thánh Phaolô đã mô tả. Và
chỉ những người tìm kiếm tình yêu thương mới được đứng vững an toàn. Bất cứ
ai sống với hội chứng Cain, với niềm tin rằng mình không thể yêu thương, vì
luôn cảm thấy mình không được yêu thương, quý trọng, không được quan tâm đúng mức,
cuối cùng, họ luôn sống như một người vô gia cư, không bao giờ cảm thấy bình an
như ở nhà, và vì thế, rất có thể họ tiếp xúc với sự dữ nhiều hơn, họ làm tổn
thương chính mình và làm tổn thương tha nhân. Đó là lý do tại sao tình yêu
thương giữa các linh mục có chức năng canh giữ, bảo vệ lẫn nhau.
Tôi dám nói rằng nơi tình huynh đệ linh mục sống động, sự gần
gũi giữa các linh mục, có những mối dây liên kết của tình bạn hữu chân chính,
thì cũng có thể sống sự lựa chọn độc thân một cách thanh thản hơn. Độc
thân khiết tịnh chính là một món quà mà Giáo hội Latinh gìn giữ bảo vệ, nhưng
đó là một món quà, để được sống như sự thánh hóa, đòi hỏi những mối tương giao
lành mạnh, những mối liên kết của lòng quý trọng đích thực và lòng tốt chân
chính bắt nguồn từ Chúa Kitô. Nếu không có tình bằng hữu và không có lời cầu
nguyện, đời sống độc thân có thể trở thành một sức nặng không thể chịu đựng nổi,
và sẽ là một phản chứng nơi chính vẻ đẹp của chức linh mục.
Bây giờ chúng ta chuyển sang sự gần gũi cuối cùng, sự gần
gũi với Dân Chúa, với Dân thánh trung tín thánh thiện của Thiên Chúa. Sẽ
thật là hữu ích khi chúng ta đọc lại Hiến chế Lumen gentium, số 8 và số 12.
Gần gũi với dân chúng
Nhiều lần tôi đã chỉ ra mối tương giao với Dân Thánh của
Thiên Chúa không phải là bổn phận đối với mỗi người chúng ta nhưng là một ân sủng. “Tình
yêu thương của con người là một sức mạnh thiêng liêng tạo điều kiện thuận lợi
cho cuộc gặp gỡ trọn vẹn với Thiên Chúa”[8]. Chính
vì vậy mà chỗ đứng của mỗi linh mục là ở giữa dân chúng, gắn bó mật thiết với
dân chúng.
Tôi đã nhấn mạnh trong Tông huấn Evangelii Gaudium
rằng: “Để trở thành những người loan báo Tin Mừng cho các tâm hồn, cũng cần phải
phát triển hương vị thiêng liêng của việc gần gũi với cuộc sống của mọi người,
đến mức khám phá ra rằng đây là một nguồn vui cao cả. Sứ vụ là một niềm
say mê đối với Chúa Giêsu, nhưng đồng thời, cũng là niềm say mê đối với dân
thánh của Người. Khi chúng ta dừng lại trước Chúa Giêsu bị đóng đinh,
chúng ta sẽ nhận ra tất cả tình yêu của Người khích lệ và đỡ nâng chúng ta,
nhưng đồng thời, nếu chúng ta không mù quáng, chúng ta bắt đầu nhận thấy rằng
cái nhìn của Chúa Giêsu mở rộng và hướng đầy tình cảm và nhiệt thành đối với tất
cả dân tộc của Người. Vì vậy, chúng ta tái khám phá ra rằng, Người muốn sử dụng
chúng ta như khí cụ để ngày càng đến gần hơn với dân thánh của Người. Người
đã chọn chúng ta từ giữa dân Người và sai chúng ta đến với dân Người”[9]. Sẽ không thể hiểu được căn
tính linh mục nếu không thuộc về Dân thánh trung tín của Thiên Chúa.
Tôi tin chắc rằng, để tái khám phá căn tính của chức linh mục,
ngày nay điều quan trọng là phải sống trong mối tương giao chặt chẽ với cuộc sống
thực của con người, phải sống cùng với họ, không có lối thoát nào khác. “Đôi
khi chúng ta bị cám dỗ để trở thành những Kitô hữu giữ một khoảng cách thận trọng
với những vết thương của Chúa. Nhưng Chúa Giêsu lại muốn chúng ta chạm vào sự
khốn cùng của con người, chạm vào da thịt đau khổ của tha nhân. Người hy vọng rằng
chúng ta hãy ngừng việc tìm kiếm những nơi trú ẩn cá nhân hoặc cộng đoàn, là
nơi che chở chúng ta khỏi vòng xoáy bất hạnh của nhân loại, để chúng ta thực sự
chấp nhận tiếp xúc với sự hiện hữu cụ thể của tha nhân và biết nhận ra sức mạnh
của sự dịu dàng. Khi chúng ta thực hiện điều đó, cuộc sống trở nên tốt đẹp một
cách kỳ diệu và chúng ta sống trải nghiệm sâu sắc của việc trở thành một dân,
kinh nghiệm được thuộc về một dân”[10].
Và “một Dân” thì không phải là một phạm trù lôgic, không, nhưng đó là một phạm
trù huyền thoại, để hiểu được dân đó người ta phải tiếp cận họ như một người tiếp
cận một phạm trù huyền thoại.
Gần gũi với Dân Chúa. Sự gần gũi, được phong phú hóa bởi “sự
gần gũi khác”, ba sự gần gũi kia, mời gọi và ở một mức độ nhất định đòi hỏi phải
phát triển phong cách của Thiên Chúa, đó là phong cách gần gũi, từ bi và dịu
dàng vì có khả năng bước đi không phải như một thẩm phán, mà là Người
Samaritanô nhân hậu, người nhận ra những vết thương của dân tộc mình, những đau
khổ đã sống trong thinh lặng, sự cống hiến và hy sinh của biết bao người cha,
người mẹ để nuôi gia đình họ, và cả hậu quả của bạo lực, tham nhũng và thờ ơ vô
cảm mà anh ta cố gắng dập tắt mọi hy vọng. Sự gần gũi giúp các vết thương được
xức dầu và công bố một năm hồng ân trong Chúa (x. Is 61,2). Điều quan trọng cần nhớ là Dân Chúa mong tìm được “vị mục tử” theo phong cách của Chúa
Giêsu - chứ không phải “giáo sĩ công chức” quá nhiều - chúng ta hãy nhớ lại thời
xưa ở Pháp, nơi cha Sở họ Ars đã sống, trong số các vị linh mục, cũng có “Monsieur l’abbé”, “người cha đáng kính”,
và cũng có giáo sĩ công chức. Ngay cả ngày nay, dân chúng yêu cầu chúng ta trở
thành mục tử của dân chúng chứ không phải là giáo sĩ công chức hay “chuyên viên
về tâm linh”; những mục tử biết nhân ái và chăm sóc; những con người với lòng
can đảm có khả năng dừng lại trước khi bị ngã và đưa tay ra; những con người
chiêm niệm, những người gần gũi với dân tộc của mình, có thể loan báo quyền
năng của Đấng Phục Sinh đang hoạt động ngay trong hiện tại, trước những vết
thương của thế giới hôm nay.
Một trong những đặc điểm cốt yếu của xã hội “mạng lưới truyền
thông” của chúng ta là có rất nhiều người cảm giác “bị mồ côi”, đó là một hiện
tượng hiện nay thường xảy ra. Được kết nối với mọi thứ và mọi người, nhưng
chúng ta lại thiếu kinh nghiệm “sự thuộc về”, điều này còn ý nghĩa hơn cả một sự
kết nối nữa. Với sự gần gũi của vị mục tử, có thể quy tụ cộng đoàn và khuyến
khích thăng tiến cảm thức thuộc về; chúng ta thuộc về Dân thánh thiện trung tín
của Thiên Chúa, những người được mời gọi để trở thành dấu chỉ cho Nước Chúa hiển
trị ngay tại đây và chính lúc này trong lịch sử hôm nay. Nếu người mục tử bị
phân tán, nếu người mục tử chạy trốn, thì đoàn chiên cũng sẽ chạy tán loạn và sẽ
rơi vào nanh vuốt của bất kỳ con sói dữ nào.
Đến lượt nó, cảm thức thuộc về này sẽ cung cấp “liều thuốc
giải độc” để chống lại sự biến dạng của ơn gọi, phát sinh chính từ việc lãng
quên rằng, đời sống linh mục là một sự mắc nợ người khác - để sống cho Chúa và
cho những người được ủy thác cho mình - như Đức Hồng Y Ouellet đã nói, việc
lãng quên này chính là nguyên nhân của nạn giáo sĩ trị cũng như những hệ lụy của
nó. Não trạng giáo sĩ trị chính là một sự băng hoại, và một trong những dấu
hiệu của sự băng hoại đó là sự cứng nhắc, đó cũng chính là một sự suy thoái
khác nữa. Não trạng giáo sĩ trị chính một sự sa đọa vì nó được cấu thành bằng
“sự xa cách”. Nó là một sự biến dạng lệch lạc, vì nó không được xây dựng
trên những sự gần gũi, mà hoàn toàn ngược lại, trên sự xa cách. Khi tôi
nghĩ về chủ nghĩa giáo sĩ, tôi cũng nghĩ đến hiện tượng giáo sĩ hóa của một số
giáo dân, rằng sự cổ vũ của một nhóm nhỏ ưu tú xung quanh các linh mục, để rồi
kết cục, họ làm sai lệch sứ vụ căn bản của người linh mục[11]
cũng như của người giáo dân. Có rất nhiều giáo dân đã tuyên bố rằng: “Tôi
thuộc về hiệp hội đó, chúng tôi ở đây trong nhà xứ này, chúng tôi là...
v.v…”. Những giáo dân “được tuyển chọn”, những giáo dân được giáo sĩ hóa (laici clericalizzati), đó chính là một sự
cám dỗ rất mạnh mẽ. Chúng ta hãy nhớ rằng: “Sứ mạng của tôi ở giữa lòng dân
chúng, không phải chỉ là một phần của cuộc đời tôi, hay một đồ trang sức mà tôi
có thể tùy tiện cởi bỏ, cũng không phải một phần phụ thêm hoặc chỉ là một khoảnh
khắc nào đó trong sự hiện hữu của tôi. Đó là điều mà tôi không thể xóa bỏ khỏi
vai trò là một linh mục nếu tôi không muốn tự hủy hoại bản thân mình. Tôi là một
sứ mệnh trên trần gian này, và đó là lý do tại sao tôi hiện hữu trên thế
giới này. Chúng ta phải nhận ra mình là người được ghi dấu bằng lửa mến cho sứ mệnh
chiếu sáng, chúc lành, tái sinh, đỡ nâng, chữa lành, giải thoát”[12].
Tôi muốn kết nối giữa sự gần gũi với Dân Chúa và sự gần gũi
với chính Chúa, vì lời cầu nguyện của người mục tử được nuôi dưỡng và thể hiện
trong lòng Dân Chúa. Khi cầu nguyện, vị mục tử mang dấu vết của những vết
thương và niềm vui của dân mình, những người mà vị mục tử âm thầm dâng lên
Chúa, để ngài có thể xức dầu cho họ bằng ân sủng của Chúa Thánh Thần. Đó là niềm
hy vọng mà vị mục tử tin tưởng và hoạt động không mệt mỏi để xin Chúa chúc lành
cho dân mình.
Thánh Inhaxiô dạy rằng, “không phải là hiểu biết nhiều,
nhưng hãy cảm nhận và nếm trải mọi thứ trong nội tâm mới làm thỏa mãn tâm hồn”[13]. Các giám mục và linh mục
nên tự hỏi bản thân rằng: “môi trường xung quanh tôi thế nào”, tôi đang sống
như thế nào trong bốn chiều kích gần gũi này tạo nên con người linh mục của tôi
một cách xuyên suốt, và điều đó cho phép tôi “quản lý” những căng thẳng và “sự
mất cân bằng” mà chúng ta đang phải trải qua hàng ngày? Bốn chiều kích gần
gũi này là một trường học tốt để “hoạt động trên cánh đồng bao la” mà linh mục
được kêu gọi, không chút sợ hãi, không cứng nhắc, không làm giảm nhẹ, hoặc làm
nghèo đi sứ vụ của mình. Trái tim linh mục nhận biết sự gần gũi vì người đầu
tiên muốn gần gũi là chính Chúa. Nguyện xin Chúa viếng thăm các linh mục của
Người trong lời cầu nguyện, trong giám mục, trong các linh mục anh em của Người
và trong dân Người. Nguyện xin Chúa hãy phá vỡ thói quen và xáo trộn một
chút trong đời sống chúng ta, khơi dậy sự bồn chồn, như mới yêu thuở ban đầu,
khơi dậy mọi khả năng nơi hữu thể chúng ta để được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,10). Các hình thức gần gũi mà
Chúa đòi hỏi nơi chúng ta không phải là một gánh nặng chất thêm, mà đó là một
món quà Chúa tặng ban để giữ cho ơn gọi của chúng ta được thêm sống động và
sinh hoa kết quả. Một sự gần gũi với Thiên Chúa, gần gũi với giám mục, gần gũi
giữa chúng ta là các linh mục và sự gần gũi với Dân thánh thiện tín trung của
Thiên Chúa.
Đối diện với sự cám dỗ khép mình trong những bài phát biểu
và thảo luận bất tận về thần học của chức linh mục, hoặc về các lý thuyết về những
gì nên làm, thì Chúa chỉ nhìn bằng sự nhân từ dịu dàng, và cung cấp cho các
linh mục những tọa độ, những định vị, để từ đó nhận ra và duy trì sự nhiệt
thành hăng hái cho sứ vụ gần gũi, đó là lòng nhân từ và sự dịu dàng, gần gũi với
Thiên Chúa, với giám mục, với anh em linh mục và với những người được giao phó
cho mình. Gần gũi với phong cách của Chúa, gần gũi với lòng nhân từ và sự dịu
dàng.
Chuyển ngữ: Giuse Phan Văn Phi, O.Cist.
Dịch từ bản tiếng Ý và tiếng Tây Ban Nha
(Cập nhật lúc 20h10 ngày 23.02.2022)
[1] Bài ca thiên nga, một thành ngữ quen thuộc của Âu châu (tiếng Hy
Lạp cổ đại: κύκνειον ᾆσμα; tiếng Latinh: carmen cygni) là một cụm từ ẩn dụ cho
một cử chỉ, nỗ lực hoặc màn trình diễn cuối cùng được đưa ra ngay trước khi
chết hoặc nghỉ hưu. Cụm từ này đề cập đến một niềm tin cổ xưa rằng, những con
thiên nga hót một bài ca tuyệt hay ngay trước khi chết vì chúng im lặng (hoặc
cách khác là không âm nhạc) trong phần lớn cuộc đời của chúng. – chú thích người dịch thêm vào.
[13] Linh Thao, Chú thích, 2,4.