ĐỨC
GIÊ-SU KI-TÔ – ĐƯỜNG CHIÊN THIÊN CHÚA
Giám mục Phê-rô Nguyễn Văn Viên
Các bạn trẻ thân mến,
Tháng 3 vừa qua, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô - Đường Kêu Gọi Hoán Cải.
Tháng 4 này, với Tam Nhật Vượt Qua (Triduum Paschale) và sau đó là Mùa Phục
Sinh, chúng ta cùng nhau suy niệm chủ đề Đức
Giê-su Ki-tô - Đường Chiên Thiên Chúa. Chiên Phục Sinh với cờ thánh giá là
biểu tượng lâu đời và quan trọng bậc nhất trong nghệ thuật Ki-tô Giáo. Biểu tượng
này giúp chúng ta suy niệm về Đức Giê-su, Chiên Thiên Chúa, Đấng giải thoát con
người khỏi ách nô lệ tội lỗi, sự chết và dẫn đưa tất cả về với Thiên Chúa.
Để có thể nhận thức được ý nghĩa của tước hiệu Đức
Giê-su là Chiên Thiên Chúa (ὁ Ἀμνὸς τοῦ Θεοῦ), chúng ta hãy trở về với Kinh
Thánh và truyền thống Do-thái. Thông thường, trong nghi thức hiến tế dâng lên
Thiên Chúa, con vật được chọn là con chiên đực (άμνος: amnos), tức là con cừu đực
dưới một năm tuổi. Kinh Thánh còn dùng từ chiên (ἀρνίον) và cừu (πρόβατον).
Danh từ πρόβατον (tiếng La-tinh: oves; tiếng Anh: sheep) chỉ con cừu hơn một
năm tuổi. Trong Kinh Thánh, từ này dùng để chỉ các tín hữu nói chung, chẳng hạn
như Tv 78,52; Ed 34,12-13; Mt 10,6; Mc 6,34; Ga 21,15-17. Hai danh từ άμνος và ἀρνίον
(tiếng La-tinh: agnus; tiếng Anh: lamb) để chỉ Đức Giê-su, chẳng hạn như άμνος
được dùng ở Ga 1,29.36; 1 Pr 1,19 và ἀρνίον được dùng 28 lần trong sách Khải
Huyền, chẳng hạn như Kh 5,6.12.13; 6,1.16; 7,9.10; 12,11; 13,8; 14,4; 15,3;
17,14; 21,9 để chỉ Đức Giê-su phục sinh là Chiên Chiến Thắng.
Kinh Thánh Cựu Ước cho chúng ta biết rằng con
chiên được đề cập rất sớm trong sách Sáng Thế, trong đó A-ben, con trai thứ của
A-đam và E-và là người chăn chiên (St 4,2). A-ben đã dâng lễ vật được chọn lựa
từ những gì tốt nhất mà ông có là những con đầu lòng của bầy chiên và được Thiên
Chúa nhận lời. Đây là lễ vật hy sinh, lễ vật cao quí, lễ vật đẹp lòng Thiên
Chúa. Lễ vật này diễn tả sự tùng phục và trung tín của A-ben đối với Thiên
Chúa. Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái viết: "Nhờ
đức tin, ông A-ben đã dâng lên Thiên Chúa một hy lễ cao quý hơn hy lễ của ông
Ca-in: nhờ tin như vậy, ông A-ben đã được chứng nhận là người công chính, bởi
vì Thiên Chúa đã chấp nhận những lễ phẩm ông dâng. Và cũng nhờ tin như thế, mà
tuy đã chết rồi, ông vẫn còn lên tiếng" (Dt 11,4). Ông Nô-ê cũng dâng
lễ toàn thiêu để tạ ơn Thiên Chúa, tỏ lòng tùng phục và cầu xin Người ban bình
an cho gia đình ông sau khi được Thiên Chúa giải thoát khỏi cơn hồng thủy.
Lịch sử dân Do-thái được đánh dấu bằng việc
Thiên Chúa kêu gọi và tuyển chọn Áp-ra-ham, để từ ông, Thiên Chúa thực hiện
chương trình cứu độ nhân loại (St 12,1-3). Áp-ra-ham được gọi là 'cha của những
người tin'. Niềm tin của ông trải qua nhiều thử thách và thử thách ngay cả khi
ông chỉ còn một niềm hy vọng duy nhất trong tuổi xế bóng. Thật vậy, ông và vợ
ông được Thiên Chúa ban đặc ân là sinh I-xa-ác khi cả hai đã già (St 17,15-22).
Tuy nhiên, khi I-xa-ác khôn lớn, Thiên Chúa nói với Áp-ra-ham hiến dâng I-xa-ác
cho Người. Áp-ra-ham không cầu xin Thiên Chúa cho con trai duy nhất của mình được
sống. Ông hoàn toàn vâng phục Thiên Chúa, đem theo hai đầy tớ và cùng với
I-xa-ác lên đường đến một nơi ‘Thiên Chúa sẽ chỉ cho' (St 22,2). Ngày thứ ba của
hành trình, Áp-ra-ham bảo hai đầy tớ dừng lại. Ông đặt củi lên vai I-xa-ác rồi
hai cha con tiếp tục đi. Khi tới nơi hiến tế, Áp-ra-ham dựng bàn thờ và xếp củi
lên. Ông trói con mình lại và đặt vào bàn thờ, phía trên đống củi. Khi
Áp-ra-ham cầm dao để sát tế con mình thì sứ thần Thiên Chúa nói: "Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì
nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi,
con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!" (St 22,12). Ngước mắt lên,
Áp-ra-ham thấy con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây ở phía sau, ông đã bắt nó
và sát tế thay cho con mình (St 22,13). Ông đã làm tất cả vì tin tưởng và phó
thác tuyệt đối vào Thiên Chúa. Lòng thành tín của Áp-ra-ham được Thiên Chúa chấp
nhận và con trai ông được sống. Từ đó, dưới nhiều hình thức khác nhau,
Áp-ra-ham và dòng dõi của ông tiếp tục dâng lễ tế lên Thiên Chúa để cảm tạ, xin
ơn tha thứ, ơn bình an và nhiều ơn lành khác nữa, cũng như diễn tả niềm hy vọng
vào những điều tốt đẹp mai ngày.
Sách Xuất Hành cho chúng ta biết rằng vì sự áp bức
của người Ai-cập đối với người Do-thái, con cháu của Áp-ra-ham, I-xa-ác và
Gia-cóp sống trong cảnh nô lệ, Thiên Chúa đã chỉ thị cho Mô-sê và A-ha-ron nói
với cộng đồng con cái Ít-ra-en: "Mồng
mười tháng này, ai nấy phải bắt một con chiên cho gia đình mình, mỗi nhà một
con. Nếu nhà ít người, không ăn hết một con, thì chung với người hàng xóm gần
nhà mình nhất, tùy theo số người. Các ngươi sẽ tùy theo sức mỗi người ăn được
bao nhiêu mà chọn con chiên. Con chiên đó phải toàn vẹn, phải là con đực, không
quá một tuổi. Các ngươi bắt chiên hay dê cũng được. Phải nhốt nó cho tới ngày
mười bốn tháng này, rồi toàn thể đại hội cộng đồng Ít-ra-en đem sát tế vào lúc
xế chiều, lấy máu bôi lên khung cửa những nhà có ăn thịt chiên. Còn thịt, sẽ ăn
ngay đêm ấy, nướng lên, ăn với bánh không men và rau đắng" (Xh
12,3-8). Máu bôi trên khung cửa là dấu hiệu để Thần Tru Diệt không giết con đầu
lòng của các gia đình Do-thái (Xh 12,22-23). Khi các con đầu lòng của các gia
đình Ai-cập bị giết chết, vua Ai-cập gọi Mô-sê và A-ha-ron đến và bảo: “Cả các ngươi lẫn con cái Ít-ra-en, đứng
lên, đi ra, không được ở giữa dân ta nữa! Đi mà thờ phượng Đức Chúa như các
ngươi đã nói!" (Xh 12,31). Như vậy, hy lễ chiên Vượt Qua trở thành hy
lễ cứu sống các con đầu lòng Do-thái, đồng thời, đánh dấu sự giải thoát của dân
Do-thái khỏi ách nô lệ Ai-cập về với Đất Hứa.
Mô-sê chỉ thị cho dân Do-thái thực thi hy lễ này
luôn mãi: "Anh em phải giữ điều đó
như điều luật vĩnh viễn cho mình và cho con cháu. Khi được vào đất mà Đức Chúa
ban cho anh em như Người đã phán, anh em sẽ giữ nghi lễ đó" (Xh
12,24-25). Ông nhắn nhủ họ rằng trong tương lai, nếu có ai hỏi ý nghĩa của nghi
lễ thì thưa: "Đó là lễ tế Vượt Qua mừng
Đức Chúa, Đấng đã vượt qua các nhà của con cái Ít-ra-en tại Ai-cập, khi Người
đánh phạt Ai-cập và cho các nhà chúng ta thoát nạn” (Xh 12,27). Từ Lễ Vượt
Qua đầu tiên ở Ai-cập cho tới hôm nay, hàng năm, dân Do-thái cử hành Lễ này từ
chiều ngày 14 cho đến hết ngày 15, và tiếp nối bằng Tuần Lễ Bánh Không Men đến
ngày 21 trong tháng đầu tiên, tháng Ni-xan (נִיסָן:
Nisan) theo lịch Do-thái (Lv 23,5-6), tức vào khoảng tháng 3 hoặc tháng 4 Dương
Lịch (Lịch Gregory). Đặc biệt, khi Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được xây dựng, dân
Do-thái cử hành lễ Vượt Qua tại đây. Chính Đức Giê-su cũng tham dự Lễ này cùng
với Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se (Lc 2,41-50).
Tin Mừng Đức Giê-su theo thánh Gio-an trình thuật
rằng khi thánh Gio-an Tẩy Giả thực thi sứ mệnh của mình thì người ta hỏi: Ngài
là ai? Có phải là Đấng Ki-tô hay Ê-li-a hay một ngôn sứ nào đó chăng? Ngài bảo
không phải (Ga 1,19-21). Đồng thời, ngài nói về mình như sau: "Tôi là tiếng người hô trong hoang địa:
Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói"
(Ga 1,23). Người ta lại chất vấn tại sao ngài làm Phép Rửa, ngài đáp: "Tôi đây làm Phép Rửa trong nước. Nhưng
có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết" (Ga 1,26). Thánh
Gio-an Tẩy Giả cũng đề cập đến sự thấp kém của mình so với Đấng đến sau ngài, Đấng
mà ngài không xứng đáng để cởi quai dép cho Người (Ga 1,27).
Khi thánh Gio-an Tẩy Giả đang đứng với hai môn đệ
của mình thì Đức Giê-su tiến lại. Ngay lúc đó, thánh nhân nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa
tội trần gian" [δε ὁ Ἀμνὸς τοῦ Θεοῦ ὁ αἴρων τὴν ἁμαρτίαν τοῦ κόσμου]
(Ga 1,29). Chúng ta có thể giải thích rằng Chiên Thiên Chúa có nghĩa là Chiên
thuộc về Thiên Chúa hoặc là Chiên được gửi đến từ Thiên Chúa hoặc Chiên mang sứ
mệnh của Thiên Chúa. Khi thánh Gio-an Tẩy Giả công bố Đức Giê-su là 'Chiên
Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian', ngài đã công bố điều vượt quá 'kiến thức vốn
có' của ngài. Trong bối cảnh Tin Mừng Đức Giê-su theo thánh Gio-an, thánh Gioan
Tẩy Giả đã hai lần thừa nhận rằng ngài không biết Đức Giê-su (Ga 1,31.33).
Chúng ta cũng gặp một số nơi trong Tin Mừng này mà người nói về Đức Giê-su những
điều vượt quá kiến thức hay khả năng vốn có của họ, chẳng hạn như thượng tế
Cai-pha và Phi-la-tô (Ga 11,49-52; Ga 19,19-22).
Chúng ta chỉ gặp cụm từ 'Chiên Thiên Chúa' hai lần
trong Tin Mừng Đức Giê-su theo thánh Gio-an (Ga 1,29 và Ga 1,36), chứ không gặp
ở các Tin Mừng Nhất Lãm (Mát-thêu, Lu-ca, Mác-cô) hay bất cứ ở nơi đâu trong Bộ
Kinh Thánh. Hơn nữa, cũng chỉ một mình thánh Gio-an Tẩy Giả gọi Đức Giê-su là
'Chiên Thiên Chúa' mà thôi. Tại sao thánh Gio-an Tẩy Giả gọi Đức Giê-su là
Chiên Thiên Chúa mà không gọi bằng một tước hiệu nào khác? Thưa, tại vì con
chiên gắn liền với lịch sử, gắn liền với tất cả mọi chiều kích của đời sống dân
Do-thái trong quá khứ, hiện tại và tương lai, nhất là đời sống phụng tự. Lịch sử
cứu độ và giải thoát của dân Do-thái gắn liền với con chiên. Hơn nữa, theo Kinh
Thánh, dấu ấn của con chiên về tận Nguyên Tổ nhân loại, về tận A-ben, A-đam và
E-và (St 3,21; St 4,2-4).
Trong Cựu Ước, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đề cập đến
'con chiên hiền lành bị đem đi làm thịt' (Gr 11,19). Tuy nhiên, ngôn sứ
Giê-rê-mi-a không đề cập đến việc 'xóa tội trần gian'. Hơn nữa, dân Do-thái hiến
tế chiên hằng năm để tưởng nhớ biến cố Vượt Qua, khái niệm Chiên Thiên Chúa
không bao giờ xuất hiện. Trong nhãn quan của thánh Gio-an Tẩy Giả, hình ảnh Đức
Giê-su là Chiên Thiên Chúa diễn tả Người là lễ vật hiến tế, chứ không phải là vị
anh hùng hào kiệt hay vị vua cai trị người khác. Từ khi Đức Giê-su được thánh
Gio-an Tẩy Giả giới thiệu là Chiên Thiên Chúa, những phần còn lại của Tin Mừng
Đức Giê-su theo thánh Gio-an đều trực tiếp hay gián tiếp đề cập đến việc Đức
Giê-su đồng lao cộng khổ, hy sinh bản thân cho tất cả mọi người mà cao điểm là
sự đau khổ và cái chết của Người trên thập giá.
Thánh Gio-an Tẩy Giả không chỉ giới thiệu Đức
Giê-su là Chiên Thiên Chúa, ngài còn làm Phép Rửa cho Đức Giê-su, cũng như 'thấy'
Chúa Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên Đức Giê-su và nghe tiếng Chúa
Cha: "Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim
bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người. Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng
sai tôi đi làm Phép Rửa trong nước đã bảo tôi: Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự
trên ai, thì người đó chính là Đấng làm Phép Rửa trong Thánh Thần. Tôi đã thấy,
nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn" (Ga
1,32-34). Đây thật là mặc khải lớn
lao trong Tân Ước. Thánh Gio-an Tẩy Giả không nói rằng ‘Thiên Chúa Ba Ngôi’.
Tuy nhiên, qua sự làm chứng của ngài, chúng ta thấy 'bóng dáng Chúa Ba Ngôi'
trong thế giới thụ tạo. Điều này có nghĩa là Đức Giê-su không hiện diện đơn độc
trên trần gian này. Nói cách khác, từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế luôn có
sự hiện diện và hoạt động của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Trong nghi thức hiến tế của dân Do-thái, con
chiên được chọn phải hoàn hảo, không bệnh tật, không biến dạng, không tỳ vết mới
đủ tiêu chuẩn. Thánh Gio-an Tẩy Giả nói rằng Đức Giê-su là Đấng được Thiên Chúa
tuyển chọn: "Tôi đã thấy, nên xin chứng
thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn" (Ga 1,34). Đức Giê-su
không tỳ vết về mặt luân lý, như lời của tổng trấn Phi-la-tô: "Đây ta dẫn ông ấy ra ngoài cho các người,
để các người biết là ta không tìm thấy lý do nào để kết tội ông ấy"
(Ga 19,4). Thánh Gio-an tông đồ viết: "Đức
Giê-su đã xuất hiện để xóa bỏ tội lỗi, và nơi Người không có tội lỗi"
(1 Ga 3,5). Thánh Phao-lô minh chứng điều đó: "Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành
hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người"
(2 Cr 5,21). Còn thánh Phê-rô thì quả quyết: "Đức Ki-tô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh
em dõi bước theo Người. Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói
một lời gian dối" (1 Pr 2,21-22).
Tin Mừng Đức Giê-su theo thánh Gio-an cho chúng
ta biết rằng trong biến cố thập giá có hai người trộm cướp cùng chịu đóng đinh
với Đức Giê-su. Cả hai người bị đánh giập ống chân, tuy nhiên, khi quân lính biết
rằng Đức Giê-su đã chết, họ không đánh giập ống chân Người. Họ đã lấy đòng đâm
vào cạnh sườn Người, tức thì máu cùng nước chảy ra (Ga 19,31-34). Điều này cho
phép chúng ta nhận thức rằng Đức Giê-su là Chiên vẹn toàn của Thiên Chúa đã được
nói trước trong Cựu Ước về chiên hiến tế: "Các
ngươi không được làm gãy một chiếc xương nào của nó" (Xh 12,46). Nơi Đức
Giê-su chịu đóng đinh trên thập giá rất gần nơi dân Do-thái hiến tế chiên hằng
năm để tưởng nhớ lễ Vượt Qua ở Giê-ru-sa-lem. Hơn nữa, Đức Giê-su trút hơi thở
cuối cùng vào khoảng ba giờ chiều, cũng là lúc người ta sát tế chiên trong Đền
Thờ. Nói cách khác, khi Máu Đức Giê-su từ cạnh sườn chảy ra trên đồi Gôn-gô-tha
(Đồi Sọ) cũng là khi máu chiên sát tế chảy ra và người ta lấy máu đó rảy trên
bàn thờ của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
Trở lại với hiến tế của Áp-ra-ham trong Cựu Ước,
khi trên đường tới chỗ dâng lễ toàn thiêu, I-xa-ác hỏi Áp-ra-ham: "Có lửa, có củi đây, còn chiên để làm lễ toàn
thiêu đâu? Ông Áp-ra-ham đáp: Chiên làm lễ toàn thiêu, chính Thiên Chúa sẽ liệu,
con ạ" (St 22,8). Đối với mọi người trong gia đình nhân loại, 'Thiên
Chúa sẽ liệu' và Người đã liệu không phải là con chiên hay tế phẩm nào đó mà là
Đức Giê-su. Thiên Chúa đã cho gia đình nhân loại chính Con của Người. Hiến tế Đức
Giê-su cao trọng hơn hiến tế của I-xa-ác, cao trọng hơn bất cứ hiến tế nào
trong lịch sử nhân loại. Con cừu đực chết cho I-xa-ác được sống, Đức Giê-su tự
nguyện chịu chết cho nhân loại được cứu độ, được giải thoát và được sống muôn đời.
Chúng ta có thể so sánh máu chiên bôi trên cửa
nhà của người Do-thái bên Ai-cập và máu Đức Giê-su như sau: Máu chiên bôi trên
cửa là máu súc vật; Máu Đức Giê-su đổ ra trên thập giá là Máu Con Thiên Chúa xuống
thế làm người. Máu chiên bôi trên cửa mang tính địa phương; Máu Đức Giê-su trên
thập giá mang tính hoàn vũ. Máu chiên bôi trên cửa là dấu hiệu sự giải thoát một
dân tộc; Máu Đức Giê-su trên thập giá là dấu hiệu giải phóng tất cả các dân tộc.
Máu chiên bôi trên cửa giúp dân Do-thái thoát khỏi ách nô lệ ở Ai-cập; Máu Đức
Giê-su trên thập giá giúp tất cả mọi người trong gia đình nhân loại thoát khỏi
ách nô lệ tội lỗi và sự chết. Máu chiên bôi trên cửa giúp dân Do-thái tiến về Đất
Hứa; Máu Đức Giê-su trên thập giá giúp con người tiến về Quê Trời. Máu chiên
bôi trên cửa tàn phai theo năm tháng; Máu Đức Giê-su là dấu ấn vĩnh viễn. Tắt một
lời, máu chiên bôi trên cửa là dấu hiệu của Cựu Ước qua đi; Máu Đức Giê-su là dấu
hiệu của Tân Ước vĩnh cửu.
Trong bối cảnh Tin Mừng Đức Giê-su theo thánh
Gio-an, Đức Giê-su nói rằng Người là Mục Tử nhân lành: "Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống
mình cho đoàn chiên" (Ga 10,11). Còn tác giả thư gửi tín hữu Do-thái
thì khẳng định: "Đức Giê-su là vị Mục
Tử cao cả của đoàn chiên, là Đấng đã đổ máu mình ra để thiết lập giao ước vĩnh
cửu" (Dt 13,20). Như vậy, Đức Giê-su vừa là Chiên Thiên Chúa vừa là Mục
Tử nhân lành. Trong tư cách là Chiên Thiên Chúa, Đức Giê-su trở thành lễ vật
hoàn hảo dâng lên Thiên Chúa nhân danh toàn thể nhân loại. Trong cách tư cách
là Mục Tử nhân lành, Đức Giê-su chăn dắt đoàn chiên của Thiên Chúa. Các mục tử
của dân Do-thái, chẳng hạn như Áp-ra-ham, Mô-sê, Đa-vít có thể được gọi là 'mục
tử', chứ không bao giờ được gọi là 'chiên'. Họ là hình ảnh khiếm khuyết báo trước
về Đức Giê-su, Chiên Thiên Chúa và Mục Tử hoàn hảo. Người hiện diện và hoạt động
trong hành trình trần thế để đồng hình đồng dạng với đoàn chiên (ngoại trừ tội
lỗi) và dẫn đưa đoàn chiên về với Thiên Chúa.
Trong sách Sáng Thế, trước khi qua đời, Gia-cóp
đã chúc phúc cho mười hai người con trai. Gia-cóp ví Giu-đa (người con trai thứ
tư) như là sư tử (St 49,9). Chúng ta biết rằng sư tử thường được gọi là chúa
sơn lâm, là vua muông thú. Hình ảnh sư tử là hình ảnh của quyền lực, sức mạnh,
chiến thắng, vương quyền. Gia-cóp còn nói: "Vương
trượng sẽ không rời khỏi Giu-đa, gậy chỉ huy sẽ không lìa đầu gối nó, cho tới
khi người làm chủ vương trượng đến, người mà muôn dân phải vâng phục"
(St 49,10). Theo phả hệ gia đình mở rộng của Áp-ra-ham, Đa-vít thuộc chi tộc
Giu-đa, do đó ông cũng mang 'AND sư tử' và Đức Giê-su cũng thuộc chi tộc này
(Mt 1,1-17). Đó là lý do giải thích tại sao trong sách Khải Huyền, Đức Giê-su
được diễn tả như là Chiên Chiến Thắng: "Con
Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức
mạnh, danh dự với vinh quang và muôn lời cung chúc" (Kh 5,12). Đức
Giê-su cũng được diễn tả như là Sư Tử oai hùng: "Đừng khóc nữa! Này đây, Sư Tử xuất thân từ chi tộc Giu-đa, Chồi
Non của Đa-vít đã chiến thắng, Người sẽ mở cuốn sách và bảy ấn niêm phong"
(Kh 5,5). Điều này cho chúng ta biết rằng Đức Giê-su là Chiên Thiên Chúa, Đấng
hiến tế chính mình cho toàn thể gia đình nhân loại. Đồng thời, Đức Giê-su là
con cháu vua Đa-vít. Người là Đấng chiến thắng; là 'Sư Tử xuất thân từ chi tộc
Giu-đa'. Là Chiên, Người mang lấy tội lỗi nhân loại; là Sư Tử, Người tiêu diệt
tội lỗi và hậu quả của tội lỗi là sự chết. Tuy nhiên, mặc khải Ki-tô Giáo cho
chúng ta biết Đức Giê-su là Sư Tử trước khi là Chiên, bởi vì Người là Đấng Sáng
Tạo, nhờ Người muôn vật muôn loài được dựng nên và danh hiệu của Người là "Vua các vua, Chúa các chúa" (Kh
19,16).
Đối với dân Do-thái, từ khi Thiên Chúa kêu gọi
Áp-ra-ham đến khi rời khỏi Ai-cập về với Đất Hứa, từ việc sát tế chiên hằng năm
để tưởng nhớ biến cố Xuất Hành đến Biến Cố Đức Giê-su, nhiều con chiên đã trở
thành lễ vật hiến tế. Trong bối cảnh hôm nay cũng như tương lai, nhiều người
Do-thái vẫn tiếp tục nghi thức này. Tuy nhiên, không có bất cứ con vật nào
trong quá khứ, hiện tại hay tương lai mang đến sự tha thứ tội lỗi. Tác giả thư
gửi tín hữu Do-thái viết: "Máu các
con bò, con dê không thể nào xóa được tội lỗi" (Dt 10,4). Những gì dân
Do-thái làm có thể giúp họ hoán cải, trở về nẻo chính đường ngay, chứ không đem
đến cho họ sự tha thứ. Chỉ Đức Giê-su, Chiên Thiên Chúa là Đấng xóa tội tất cả
mọi người. Thánh Phê-rô khẳng định như vậy: "Anh
em đã được cứu chuộc nhờ bửu huyết của Con Chiên vẹn toàn, vô tỳ tích, là Đức
Ki-tô. Người là Đấng Thiên Chúa đã biết từ trước, khi vũ trụ chưa được dựng
nên, và Người đã xuất hiện vì anh em trong thời cuối cùng này" (1 Pr
1,19-20). Còn tác giả sách Khải Huyền thì diễn tả rằng khi Con Chiên (Đức
Giê-su phục sinh) lãnh nhận cuốn sách, bốn Con Vật và hai mươi bốn vị Kỳ Mục phủ
phục và cất tiếng: "Ngài xứng đáng
lãnh nhận cuốn sách và mở ấn niêm phong, vì Ngài đã bị giết và đã lấy máu đào
chuộc về cho Thiên Chúa muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ, thuộc mọi nước,
mọi dân. Ngài cũng làm cho họ thành một vương quốc, thành những tư tế, để phụng
thờ Thiên Chúa chúng ta, và họ sẽ làm chủ mặt đất này" (Kh 5,9-10).
Khi Đức Giê-su xuất hiện, thánh Gio-an Tẩy Giả
không nói Đức Giê-su là 'Đấng xóa tội dân Do-thái', mà nói Người là 'Đấng xóa tội
trần gian'. Khi nói như thế, thánh nhân ý thức được hậu quả khủng khiếp của tội
lỗi, khủng khiếp đến nỗi Đức Giê-su, Con Thiên Chúa đã trở thành Chiên Thiên
Chúa đổ máu để cứu chuộc nhân loại. Với thánh Gio-an Tẩy Giả, tội lỗi vừa xúc
phạm Thiên Chúa vừa làm cho con người xa rời Thiên Chúa. Tuy nhiên, trong thực
tế, con người thường quan tâm đến việc 'xúc phạm Thiên Chúa', mà ít quan tâm đến
việc 'xa rời Thiên Chúa'. Như vậy, thánh Gio-an Tẩy Giả có cái nhìn mới mẻ cũng
như tầm nhìn sâu xa, rộng mở và bao quát hơn so với tất cả những người đương thời,
ngay cả những người gần gũi Đức Giê-su nhất cũng không có cái nhìn tương tự.
Từ cổ chí kim, tất cả mọi người trong gia đình nhân loại đều có kinh nghiệm về sự phân biệt giữa người dâng lễ vật và lễ vật trong các nghi thức tế tự. Trong trường hợp Đức Giê-su thì không phải như thế bởi vì Người vừa dâng lễ vật, vừa là lễ vật. Đây thật là điều khó hiểu không chỉ đối với những người Do-thái mà còn đối với tất cả mọi người trong gia đình nhân loại. Đức Giê-su trở nên một với lễ vật và nhân danh toàn thể nhân loại dâng lên Thiên Chúa hiến tế hoàn hảo nhất. Đó là lý do giải thích tại sao Giao Ước giữa con người và Thiên Chúa được Đức Giê-su thiết lập là giao ước cao trọng và vĩnh cửu. Nói cách khác, chỉ có Đấng cao trọng và vĩnh cửu mới làm cho giao ước giữa con người và Thiên Chúa trở thành giao ước cao trọng và vĩnh cửu mà thôi. Các trình thuật trong Tin Mừng về việc Đức Giê-su thiết lập Bí Tích Thánh Thể, Giao Ước mới và vĩnh cửu, không đề cập đến việc ăn thịt chiên, bởi vì, Đức Giê-su chính là Chiên, Chiên Thiên Chúa (Mt 26,26-28; Mc 14,22-24; Lc 22,19-20; 1 Cr 11,23-25).
Hình ảnh chiên bị sát tế ở Ai-cập trước cuộc Xuất
Hành là hình ảnh bắt đầu một tương lai mới mẻ cho dân Do-thái. Hình ảnh này trở
nên hiện thực trong Biến Cố Đức Giê-su cho tất cả mọi người. Hình ảnh chiên bị
sát tế ở Ai-cập khởi đầu cho việc dân Do-thái phải từ bỏ những thứ lỉnh kỉnh,
những vật dụng không cần thiết hay bất cứ thứ gì gây cản trở cho hành trình bốn
mươi năm trong sa mạc về với Đất Hứa. Điều quan trọng nhất của hành trình này
là phó thác mọi sự cho Thiên Chúa. Hình ảnh Đức Giê-su hiến tế chính mình mời gọi
tất cả mọi người phải từ bỏ tội lỗi, từ bỏ nết xấu hay bất cứ những gì gây cản
trở cho hành trình về với Nước Thiên Chúa. Đây cũng là hình ảnh diễn tả sự vinh
thắng của tình yêu trên ích kỷ, của tha thứ trên hận thù, của phục sinh trên sự
chết, của ánh sáng trên bóng tối, của Thiên Chúa trên ma quỷ. Điều quan trọng
nhất của tất cả mọi người trong hành trình này là niềm tin tưởng vững vàng vào
sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su, Chiên Thiên Chúa trong đời sống mình.
Như nhiều tín hữu của các tôn giáo khác trong lịch
sử nhân loại, dân Do-thái mang trong mình não trạng rằng sự cố gắng hay việc
làm theo cảm nhận của mình có thể đền bù tội lỗi, xây dựng căn tính đích thực của
mình và đạt tới sự sống vinh phúc trường cửu. Tuy nhiên, Biến Cố Đức Giê-su cho
chúng ta nhận thức rằng con người không thể tự mình hoàn thiện, tự mình tạo
công phúc hay tự mình giải thoát khỏi các thế lực ma quỷ, bóng đêm, tội lỗi.
Con người luôn cần Đức Giê-su, hữu hạn luôn cần vô hạn, thời gian luôn cần vĩnh
cửu. Nói cách khác, chiên trần gian luôn cần Chiên Thiên Chúa cứu độ và giải
thoát (Kh 7,10). Tác vụ chính của chiên trần gian là tin tưởng, thông hiệp và
thực thi ý định của Chiên Thiên Chúa.
Trong lễ Vượt Qua hằng năm, người Do-thái ăn thịt
chiên với bánh không men và rau đắng. Đây là truyền thống xa xưa của dân
Do-thái, chẳng hạn như ông Lót (cháu của Áp-ra-ham) đãi 'người của Thiên Chúa'
bằng bánh không men hay Thiên Chúa truyền cho Mô-sê và A-ha-ron bên Ai-cập chuẩn
bị lễ Vượt Qua với bánh không men (St 19,1-5; Xh 12,8). Đặc biệt, việc ăn bánh
không men để tưởng nhớ biến cố dân Do-thái ra khỏi đất Ai-cập. Tác giả sách Xuất
Hành cho chúng ta biết: "Người Ai-cập
hối thúc con cái Ít-ra-en và vội vàng thả cho họ ra khỏi nước, vì chúng nói:
Chúng ta chết cả lũ đến nơi rồi! Dân phải mang theo bột đã nhào chưa kịp dậy
men; họ cuộn bột đã nhào trong thùng vào áo choàng, rồi vác lên vai"
(Xh 12,33-34). Còn tác giả sách Đệ Nhị Luật viết: "Anh em không được ăn bánh có men với lễ vật đó; trong vòng bảy
ngày, anh em sẽ ăn bánh không men - thứ bánh khổ cực, vì anh em đã phải vội vã
ra khỏi đất Ai-cập-, để mọi ngày trong đời anh em, anh em nhớ ngày ra khỏi đất
Ai-cập" (Đnl 16,3).
Men đóng vai trò quan trọng trong việc chế biến
lương thực thực phẩm, chế biến thức ăn, chẳng hạn như men làm bánh, men làm bia
rượu, men làm nước trái cây. Tuy nhiên, trong bối cảnh Kinh Thánh, ngoài ý
nghĩa và hình ảnh tích cực, men còn mang ý nghĩa và hình ảnh tiêu cực, chẳng hạn,
men là hình ảnh của tội lỗi, của tính hư nết xấu, của hệ quả tai hại. Chỉ một
ít men trong thúng bột thì làm cho thúng bột dậy men và dần dần cả thúng bột sẽ
bị hủy hoại. Cũng vậy, tội lỗi làm con người hư hỏng. Đức Giê-su nói với các
môn đệ: "Anh em phải cẩn thận, phải
coi chừng men Pha-ri-sêu và Xa-đốc" (Mt 16,6). Trong thư gửi tín hữu
Ga-lát, khi trình bày về sự tự do của người Ki-tô hữu, thánh Phao-lô viết: "Một chút men làm cả khối bột dậy
men" (Gl 5,9). Với tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân cảnh báo: "Anh em không biết rằng chỉ một chút
men cũng đủ làm cho cả khối bột dậy lên sao? Anh em hãy loại bỏ men cũ để trở
thành bột mới, vì anh em là bánh không men. Quả vậy, Đức Ki-tô đã chịu hiến tế
làm chiên lễ Vượt Qua của chúng ta. Vì thế, chúng ta đừng lấy men cũ, là lòng
gian tà và độc ác, nhưng hãy lấy bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật,
mà ăn mừng đại lễ" (1 Cr 5,6-8).
Đời sống 'xa lánh bánh có men', đời sống ý thức
về căn nguyên của tội lỗi, đời sống ý thức về tình yêu của Thiên Chúa, đời sống
đơn sơ và sự khiêm hạ của thánh Gio-an Tẩy Giả đáng để chúng ta noi gương bắt
chước, bởi vì nhờ đó, thánh nhân ý thức hơn về căn tính và sứ mệnh của mình.
Cũng nhờ đó, thánh nhân nhận ra Đức Giê-su là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần
gian trong khi tất cả những người đương thời không nhận ra. Mỗi người chúng ta
cũng vậy, chúng ta chỉ có thể nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa, đọc những dấu
chỉ đó và đem ra thực hành khi chúng ta biết cộng tác với Thiên Chúa để đẩy lùi
'men tội lỗi'. Chúng ta cần cộng tác với Thiên Chúa để luôn có tâm hồn đơn sơ,
khiêm hạ, tâm hồn biết mở ra với những khả thể tốt đẹp tiềm tàng trong môi trường
sống của mình. Thời nào cũng vậy, biết bao dấu chỉ Thiên Chúa gửi đến cho nhân
loại, cho mỗi người. Tuy nhiên, thay vì chuẩn bị tâm hồn để tiếp nhận những dấu
chỉ của Thiên Chúa, con người thường chú ý đến những dấu chỉ như lòng mình mong
đợi.
Thánh
Gio-an Tẩy Giả không chỉ là người đầu tiên và người duy nhất nhận ra Đức Giê-su
là Chiên Thiên Chúa, ngài còn là người đầu tiên minh chứng cho những giá trị Nước
Thiên Chúa mà Đức Giê-su loan báo. Đặc biệt, ngài đã bảo vệ cho niềm tin và
công lý bằng chính mạng sống mình. Như vậy, ngài đã tham dự trọn vẹn vào hiến tế
của Đức Giê-su, Con Thiên Chúa. Việc thánh nhân nhận ra Đức Giê-su là Chiên Thiên Chúa và làm chứng cho Người bằng mạng sống
mình là Tin Mừng trọng đại cho gia đình nhân loại. Từ đây, với sự hiện diện và
hoạt động của Đức Giê-su, Thiên Chúa và con người 'không còn xa cách nữa'. Nhờ
Đức Giê-su, con người hiểu biết và yêu mến Thiên Chúa hơn. Nói cách khác, nhờ
Chiên Thiên Chúa, chiên trần gian dễ dàng tiếp cận Thiên Chúa và đi vào mối
thông hiệp vĩnh cửu với Người. Những gì thánh Gio-an Tẩy Giả cảm nghiệm, sống
và diễn tả đã trở nên nguồn lực vô tận cho các môn đệ của Đức Giê-su trong hành
trình loan báo Tin Mừng.
Thánh Gio-an tông đồ trình thuật: "Ông Gio-an [thánh Gio-an Tẩy Giả] lại
đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. Thấy Đức Giê-su đi ngang
qua, ông lên tiếng nói: Đây là Chiên Thiên Chúa. Hai môn đệ nghe ông nói, liền
đi theo Đức Giê-su" (Ga 1,35-37). Thánh Gio-an Tẩy Giả thật quảng đại,
không 'giữ chặt' môn đệ của mình, không 'sở hữu', nhưng sẵn sàng để các môn đệ
của mình theo Đức Giê-su. Thánh nhân đã ý thức được rằng các môn đệ của mình cần
trở thành môn đệ của Đức Giê-su để cộng tác với Người trong việc loan báo Tin Mừng
Nước Thiên Chúa. Sự kiện hai môn đệ từ biệt thầy mình là thánh Gio-an Tẩy Giả rồi
theo Đức Giê-su đáng để chúng ta quan tâm. Bởi vì, thông thường, môn đệ là người
trung tín với thầy mình. Nhưng ở đây, hai môn đệ của thánh Gio-an Tẩy Giả đã
vâng lời thầy mình và sẵn lòng ra đi dù chưa biết tương lai thế nào. Chắc rằng
khi Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, họ mới hiểu biết đầy đủ tâm tư và viễn kiến
của thầy mình, nhất là hiểu biết hơn lời giới thiệu của thầy mình khi gặp Đức
Giê-su: 'Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xóa tội trần gian'.
Trước khi trở thành môn đệ của Gio-an Tẩy Giả,
hai môn đệ đã tìm hiểu và phân định đường đi nước bước cho mình. Đối với họ, đường
của thánh Gio-an Tẩy Giả là đường chuẩn mực rồi. Tuy nhiên, thánh Gio-an Tẩy Giả
đã giới thiệu Đường tốt nhất cho họ là Đường Đức Giê-su, Đường Chiên Thiên
Chúa, Đường của Đấng xóa tội trần gian. Đây là bài học lớn lao cho chúng ta. Mỗi
người chúng ta hãy tự đặt câu hỏi và trả lời: Chúng ta đang là môn đệ của ai, của
hiện tượng nào, của biến cố nào? Chúng ta đang theo đường của ai và đường đó
đem lại gì cho chúng ta cũng như cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại?
Đường chúng ta đang theo dẫn chúng ta tới chỗ nào? Quả thật, chỉ có Đường Chiên
Thiên Chúa mới thỏa mãn khát vọng và hoài bão của chúng ta. Do vậy, chúng ta
hãy đi Đường đó, đồng thời, chúng ta được mời gọi trở nên những chứng nhân của
Đường đó trong mọi hoàn cảnh của đời sống mình.
Tác giả sách Công Vụ Tông Đồ trình thuật rằng
Phi-líp-phê gặp một viên thái giám người Ê-thi-óp lên Giê-ru-sa-lem hành hương
và đang trên đường trở về nhà. Viên thái giám đang đọc sách ngôn sứ I-sai-a,
trong đó có đoạn: "Như chiên bị đem
đi làm thịt, như cừu câm nín khi bị xén lông, Người chẳng mở miệng kêu ca"
(Cv 8,32; Is 53,7). Khi viên thái giám không hiểu ý nghĩa của đoạn sách này
thì Phi-líp-phê đã giải thích rằng đoạn sách nói về Đức Giê-su. Sau đó, viên
thái giám đã tin vào Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và ông xin Phi-líp-phê làm
Phép Rửa. Như vậy, nhờ sự hiểu biết về sự liên kết giữa Cựu Ước và Tân Ước, giữa
chiên hiến tế của người Do-thái và Đức Giê-su, Chiên Thiên Chúa, Phi-líp-phê đã
làm cho viên thái giám hoán cải và trở thành môn đệ và tông đồ của Đức Giê-su
giữa dòng đời.
Đường Chiên Thiên Chúa là niềm hy vọng lớn lao
cho tất cả mọi người trong môi trường ô nhiễm vì tội Nguyên Tổ và hậu quả của tội
này. Chính tội lỗi là chướng ngại lớn nhất ngăn cản con người đến gần Thiên
Chúa, gần anh chị em mình, gần muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo. Chỉ
có Đường Chiên Thiên Chúa mới cho phép con người vượt qua các hình thức chướng
ngại để nối lại các tương quan tốt lành vốn có của con người khi tội lỗi chưa
hiện diện trên trần gian. Hơn nữa, Đường Chiên Thiên Chúa cho phép con người được
'nâng cấp phẩm giá' là trở thành con cái Thiên Chúa. Như vậy, Đường Chiên Thiên
Chúa chính là Đường Hy Vọng của tất cả mọi người. Đường Chiên Thiên Chúa là Đường
duy nhất cho phép con người sống xứng đáng với phẩm giá của mình là được dựng
nên theo hình ảnh Thiên Chúa và được mời gọi trở thành con cái Thiên Chúa. Ai
đi trên Đường này, người đó sẽ tìm được bình an và hạnh phúc thực sự giữa những
bấp bênh và đau khổ của cuộc sống hằng ngày.
Chúng ta có thể kết luận rằng chiên là hình ảnh thân thương và gần gũi của nhiều dân tộc trên thế giới. Đặc biệt, dân Do-thái dùng chiên như là tế phẩm thanh sạch, tinh tuyền, hoàn hảo dâng lên Thiên Chúa để cảm tạ Người, cũng như tỏ lòng thần phục suy tôn, xin ơn tha thứ tội lỗi, đồng thời tưởng nhớ đến những kỳ công Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử của họ, nhất là biến cố Vượt Qua. Trong thời Tân Ước, khi gặp Đức Giê-su, thánh Gio-an Tẩy Giả đã chứng thực Người là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian. Theo thánh nhân, nhờ Đức Giê-su là Chiên Thiên Chúa, con người không cần phải sát tế chiên hay dâng bất cứ lễ vật nào khác để giao hòa với Thiên Chúa. Cùng với tác giả thư gửi tín hữu Do-thái, chúng ta xác tín rằng "chúng ta được thánh hóa nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ" (Dt 10,10). Đồng thời, chúng ta cũng tin tưởng rằng Đường của Đức Giê-su là Đường Chiên Thiên Chúa. Đường này hướng tới Nguồn Tình Yêu, Hạnh Phúc và Bình An vô tận: "Hạnh phúc thay kẻ được mời đến dự tiệc cưới Con Chiên!" (Kh 19,9).