ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ - ĐƯỜNG NHẬP THỂ

Gm. Phêrô Nguyễn Văn Viên

WHĐ (01.12.2021) - Nội dung đức tin Ki-tô Giáo đặt trên nền tảng Biến Cố Nhập Thể của Ngôi Hai Thiên Chúa. Trong tiếng La-tinh, danh từ nhập thể là ‘incarnatio’; động từ là ‘incarno’, bao gồm tiền tố ‘in’ (trong) và ‘caro’ (thể xác/flesh). Nhập thể có nghĩa là nhập vào thể xác hay sống trong thân xác. Đối với Ki-tô Giáo, nói đến nhập thể là nói đến việc Thiên Chúa trở thành con người và sống thân phận con người. Cách cụ thể hơn, nói đến nhập thể là nói đến giáo lý trọng tâm của Ki-tô Giáo: Đức Giê-su là Lời của Thiên Chúa đã trở thành con người trong gia đình nhân loại. Theo thánh Gio-an Tông Đồ: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” [ὁ λόγος σὰρξ ἐγένετο καὶ ἐσκήνωσεν ἐν ἡμῖν] (Ga 1,14). Ngôi Lời (λόγος/Logos) trở nên người phàm có nghĩa là Ngôi Lời ‘mặc lấy’ hay ‘mang lấy’ những gì thuộc về con người. Đặc biệt, Ngôi Lời mặc lấy ‘xác phàm’ (בָּשָׂר/σὰρξ/caro/flesh) có nghĩa là Ngôi Lời mặc lấy cả những gì ‘mọn hèn nhất’ của con người chứ không chỉ những gì siêu việt nơi con người mà thôi. Bởi vì, những gì siêu việt, tinh anh, cao cả nơi con người (nhân linh ư vạn vật), chẳng hạn như linh hồn, tinh thần, tình yêu, lý trí, ý chí thì ‘gần’ với Thiên Chúa hơn những gì được xem là thuộc về ‘thể xác’.

Trong tiếng Do-thái, בָּשָׂר (basar/flesh/thể xác, xác phàm hay xác thịt) tương đương với từ σὰρξ (sarx) tiếng Hy-lạp. Thỉnh thoảng, người ta cũng phân biệt giữa những gì thuộc về thể xác và ‘trái tim’ hay thể xác và tâm hồn. Tuy nhiên, trong bối cảnh Cựu Ước, בָּשָׂר (basar) không chỉ bao gồm những gì thuộc thể xác mà còn những gì thuộc về tâm sinh lý của con người nữa. Basar không những chỉ điều con người ‘có’ mà còn chỉ điều con người ‘là’. Đối với văn hóa Do-thái, nói về thể xác thì cũng như nói về con người vậy. Do đó, thể xác cũng có nghĩa là con người toàn thể. Tân Ước thỉnh thoảng đề cập đến ‘thể xác’ dễ bị tổn thương về mặt luân lý, chẳng hạn như tại vườn Ghết-sê-ma-ni, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Anh em hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu đuối” (Mc 14,38).

Theo mặc khải Kinh Thánh, bản tính con người hư hoại vì Tội Nguyên Tổ và hậu quả của Tội này. Đặc biệt, khi nói đến ‘xác thịt’, người ta thường liên tưởng đến ‘xác thịt nhuốm màu tội lỗi’, chẳng hạn như trong cụm từ ‘ma quỷ, thế gian, xác thịt’. Theo thánh Phao-lô: “Khi chúng ta còn bị tính xác thịt chi phối, thì các đam mê tội lỗi dùng Lề Luật mà hoạt động nơi các chi thể chúng ta, để chúng ta sinh hoa kết quả đưa tới cái chết” (Rm 7,5) hay: “Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa; nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi” (Rm 7,22-23). Đối với thánh Phao-lô, luôn có sự xung khắc giữa xác thịt và tinh thần bởi vì xác thịt đặt cho mình những tiêu chuẩn và tìm cách thỏa mãn theo những tiêu chuẩn đó, trong khi tinh thần lại hướng về điều tốt, điều thiện. Hơn nữa, thánh nhân cũng cho biết rằng, tự thân, ngài không thể giải quyết được mâu thuẫn nội tâm mình nhưng nhờ Đức Giê-su mà ngài vượt thắng tất cả (Rm 7,24-25).

Người ta thường nói ‘cũ như trái đất’. Tuy nhiên, chúng ta nhận thức rằng Thiên Chúa luôn mặc khải những điều mới mẻ cho trái đất, cho gia đình nhân loại, cho con người. Đặc biệt, Ngôi Lời Thiên Chúa đi Đường Nhập Thể đến với con người là điều mới mẻ nhất, vượt quá sự tưởng tượng của con người. Bởi vì, tâm thức tôn giáo phổ biến của con người qua muôn thế hệ vẫn là vực thẳm sâu rộng giữa Thiên Chúa và con người. Theo một số tôn giáo quanh vùng Địa Trung Hải thời Đức Giê-su, các thực thể thuộc thế giới thần thiêng hay thế giới linh tượng có thể gần gũi hay giao tiếp với con người. Tuy nhiên, các thực thể đó không thể trở thành những con người và sống cảnh bấp bênh của thế sự. Chẳng hạn, theo nhãn quan của một số tôn giáo Hy-lạp hay Rô-ma, thần thánh có thể đến với con người nhưng trong tâm thế vinh quang, rực rỡ, chứ không thể trong cảnh mọn hèn, yếu đuối. Bổn phận chính của con người trong dòng lịch sử là tìm cách để về với thế giới linh tượng, thế giới thần thánh chứ không thể ngược lại. Tuy nhiên, mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta nhận thức rằng những điều không thể đối với con người thì luôn có thể đối với Thiên Chúa, cụ thể nhất là việc Đức Giê-su trút bỏ chính mình để hiện diện và hoạt động giữa lòng nhân loại.

Theo nội dung đức tin Ki-tô Giáo, Đức Giê-su nhập thể không có nghĩa rằng thiên tính của Người ngừng tồn tại, bị giảm thiểu hay không còn khả năng thực thi các tác vụ liên quan. Quả thực, với Đường Nhập Thể, Đức Giê-su vẫn luôn là Thiên Chúa. Trong lời chứng cuối cùng, thánh Gio-an Tẩy Giả nói về Đức Giê-su: “Đấng được Thiên Chúa sai đi, thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn” (Ga 3,34). Còn thánh Phao-lô thì minh định: “Nơi Người, tất cả sự viên mãn của thần tính hiện diện cách cụ thể, và trong Người, anh em được sung mãn: Người vốn là đầu mọi quyền lực thần thiêng” (Cl 2,9-10). Như vậy, với sự khiêm hạ, trút bỏ trong tinh thần vâng phục, Đức Giê-su mang lấy thân phận con người trong khi thiên tính của Người vẫn luôn hiện diện. Đó là lý do tại sao trong hành trình loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su đã thực thi những công việc của Thiên Chúa như Người khẳng định với người Do-thái: “Thật, tôi bảo thật các ông: Người Con không thể tự mình làm bất cứ điều gì, ngoại trừ điều Người thấy Chúa Cha làm; vì điều gì Chúa Cha làm, thì người Con cũng làm như vậy” (Ga 5,19).

Sự nhận diện căn tính, đời sống và sứ mệnh của Đức Giê-su trải qua lịch sử lâu dài với nhiều tranh luận. Một số lạc thuyết phổ biến xuất hiện trong những thế kỷ đầu của Ki-tô Giáo: (1) Chối bỏ nhân tính của Đức Giê-su (Docetism: Ảo thân thuyết, thuộc nhóm Ngộ Đạo), (2) chối bỏ thiên tính của Đức Giê-su (Arianism: Arius và trường phái của ông) và (3) cho rằng Đức Giê-su có hai ngôi vị, ngôi vị nhân loại và ngôi vị thần linh, liên kết với nhau (Nestorianism: Nestorius và những người theo ông). Đến năm 451, Công Đồng Can-xê-đô-ni-a đã tuyên tín những điểm quan trọng nhất về Ki-tô học, trong đó điều chúng ta cần quan tâm là sự hòa hợp tuyệt hảo giữa thiên tính và nhân tính của Đức Giê-su. Trong sự hòa hợp này, thiên tính của Người không che khuất hay làm lu mờ nhân tính và ngược lại nhân tính của Người cũng không che khuất hay làm lu mờ thiên tính. Đức Giê-su, Thiên Chúa thật và con người thật, trở thành nền tảng của niềm tin Ki-tô Giáo. Là Thiên Chúa, Đức Giê-su đánh bại quyền lực của ma quỷ, tội lỗi và sự chết. Là con người, Đức Giê-su thông phần đau khổ với mọi người vì hậu quả của tội lỗi. Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II viết rằng Đức Giê-su là “khuôn mặt nhân loại của Thiên Chúa và khuôn mặt Thiên Chúa của nhân loại” [the human face of God and the divine face of man] (Ecclesia in America 67). Nhờ Đường Nhập Thể của Đức Giê-su, con người hiểu biết Thiên Chúa và chính mình nhiều hơn. Đồng thời, con người nhận ra sự cần thiết để nhìn nhận và củng cố tương quan giữa mình với Thiên Chúa, với tha nhân và với muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo. Chúng ta cùng nhau xem xét cách khái quát chương trình kỳ diệu của Thiên Chúa được thực hiện nhờ Đường Nhập Thể của Đức Giê-su.

Khởi đầu trình thuật Tin Mừng, thánh Gio-an viết về sự tiền hữu của Đức Giê-su (the Pre-existence of Jesus), Ngôi Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa như sau: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa... Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại” (Ga 1,1-4). Còn thánh Phao-lô diễn tả Đức Giê-su như là Nguyên Ủy của vạn vật: “Trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình. Dẫu là hàng dũng lực thần thiêng hay là bậc quyền năng thượng giới, tất cả đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người. Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người” (Cl 1,16-17). Theo tác giả thư gửi tín hữu Do-thái: “Thiên Chúa đã nhờ Người [Đức Giê-su] mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài. Người là phản ánh vẻ huy hoàng, là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa. Người là Đấng dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật” (Dt 1,2-3). Chúng ta cũng tìm được những trình thuật với ý nghĩa tương tự như vậy nơi các tác giả khác của sách Tin Mừng.

Với Đường Nhập Thể của Đức Giê-su, Thiên Chúa không chỉ là Hữu Thể vô hình, trừu tượng, xa lạ với con người nữa. Thiên Chúa trở thành Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, Thiên Chúa hiện diện bằng xương bằng thịt giữa gia đình nhân loại. Thiên Chúa đã đến với thế giới khả giác, thế giới mà con người có thể tiếp cận và thiết lập mối tương quan liên vị với Người. Quả thật, thư gửi tín hữu Do-thái khẳng định: Người “không phải là Ðấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, chỉ trừ tội lỗi” (Dt 4,15). Đức Giê-su hiện diện và hoạt động trong môi trường nhân loại theo cách thức tự hạ đến mức những người Hy-lạp gọi là điên rồ và những người Do-thái coi là ô nhục (1 Cr 1,17-25). Tại sao những người Hy-lạp và Do-thái lại có não trạng như vậy? Thưa, tại vì họ muốn Thiên Chúa hiện diện theo tâm thức triết học và tôn giáo của họ. Họ muốn vị Thiên Chúa mà con người phải tìm kiếm để gặp gỡ Người chứ không phải là vị Thiên Chúa đi tìm con người để gặp gỡ. Hơn nữa, họ không muốn vị Thiên Chúa yếu đuối, đơn sơ và khiêm hạ như Đức Giê-su thể hiện trong hành trình trần thế của Người, nhất là Biến Cố Thập Giá.

Đức Giê-su là Con Thiên Chúa đã trở thành con người để con người trở thành con Thiên Chúa. Đức Giê-su là Con Thiên Chúa có nghĩa rằng Người có trước muôn vật muôn loài như Kinh Tin Kính diễn tả: ‘Được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha’ (ὁμοούσιον τῷ Πατρί). Đức Giê-su là con người có nghĩa rằng, với Đường Nhập Thể, Người được sinh ra trong không gian, thời gian và chung sống với mọi người trong gia đình nhân loại. Nhờ Đức Giê-su, con cái loài người được cứu độ, được giải thoát và trở thành con cái Thiên Chúa. Sau khi sống lại, Đức Giê-su phục sinh căn dặn Ma-ri-a Mác-đa-la đi nói với các môn đệ của Người rằng: “Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (Ga 20,17). Trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô viết: “Theo ý muốn và lòng nhân ái của Người [Thiên Chúa], Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử nhờ Đức Giê-su Ki-tô” (Ep 1,5).

Như đã được đề cập ở trên, là Thiên Chúa, Đức Giê-su làm những công việc của Thiên Chúa, chẳng hạn như Người chữa bệnh, trừ quỷ, chọn Nhóm Mười Hai, công bố những tiêu chuẩn luân lý mới và tha tội. Là con người, Đức Giê-su được sinh ra và lớn lên trong bối cảnh văn hóa và truyền thống Do-thái. Thánh Lu-ca trình thuật rằng: “Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52). Thời thơ bé, Người được tiến dâng cho Thiên Chúa. Khi trưởng thành, Người tham dự các buổi cử hành phụng vụ nơi các hội đường hay lên Giê-ru-sa-lem để thờ kính Thiên Chúa. Công Đồng Vatican II khẳng định: “Người đã làm việc với bàn tay con người, đã suy nghĩ bằng trí óc con người, đã hành động với ý chí con người, đã yêu mến bằng quả tim con người” (GS 22). Bắt đầu sứ mệnh công khai loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su đã chịu phép rửa bởi Gio-an Tẩy Giả tại sông Gio-đan. Những cử chỉ và hành động của Người tương tự như bao người khác, chẳng hạn như Người ngạc nhiên (Mt 8,10), cầu nguyện (Lc 6,12), vâng phục (Mt 26,39), phó thác (Lc 23,46), đói khát (Mt 4,2), mệt nhọc (Ga 4,6), khóc thương (Ga 11,35), đau khổ cùng cực (Mt 26,38), chịu chết (Mc 15,37). Trong hành trình loan báo Tin Mừng, Người cho mọi người biết rằng nhờ sự hiện diện và hoạt động của Người, lề luật và lời các ngôn sứ trong Cựu Ước được kiện toàn (Mt 5,17).

Với Đường Nhập Thể, Đức Giê-su đã đưa ‘văn hóa trời’ đến với ‘văn hóa người’ hầu biến đổi ‘văn hóa người’ theo nhịp điệu ‘văn hóa trời’. Đức Giê-su đã nói với con người bằng ngôn ngữ mà ai cũng có thể nhận biết được. Người đã dùng những biểu tượng quen thuộc của con người để chuyển tải nội dung mặc khải của Thiên Chúa. Chẳng hạn, Người dùng hình ảnh người gieo giống và các loại đất để diễn tả về sự đón nhận Lời Chúa của những hạng người khác nhau trong xã hội (Mt 13,1-23); Người dùng hình ảnh cửa chuồng chiên và mục tử để nói về tương quan giữa Người với đoàn chiên là các tín hữu (Ga 10,1-21); Người dùng hình ảnh cây nho và cành nho để diễn tả sự liên kết mật thiết giữa Người và các môn đệ (Ga 15,1-8); Người dùng dụ ngôn hạt cải gieo vào lòng đất và men trong bột để diễn tả sự lớn lên và mở rộng của Nước Thiên Chúa giữa dòng đời (Mt 13,31-33). Qua các hình ảnh, biểu tượng hay dụ ngôn đơn sơ, gần gũi, Đức Giê-su giúp con người tiếp cận các thực tại Người mặc khải để suy niệm, học hỏi và thực thi trong cuộc sống hằng ngày.

Trong hành trình loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su không chỉ thiết lập tương quan với những người Do-thái mà còn tất cả mọi người trong miền Pa-lét-tin. Người đã ‘nhập thế’ để đến với mọi người trong các nền văn hóa. Người đã vượt qua não trạng của những người Do-thái đương thời để đến với những người mà dân Do-thái xem như ‘đồ bị ruồng bỏ’, chẳng hạn như người đến với dân miền Thập Tỉnh, Người đến với dân miền Tia và Xi-đôn. Người gặp gỡ người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp và cho bà biết chương trình của Thiên Chúa cũng như dạy bà thờ phượng Thiên Chúa cách phù hợp (Ga 4,1-42). Như vậy, với Đường Nhập Thể và việc nhập thế, Đức Giê-su cho mọi người biết rõ hơn về chương trình hoàn vũ, chương trình phổ quát của Thiên Chúa cứu độ nhân loại. Thấm nhuần Đường Nhập Thể của Đức Giê-su, thánh Phao-lô ý thức sự cần thiết phải đến với mọi người theo cách thức của Đức Giê-su để loan báo Tin Mừng. Trong thư gửi tín hữu Cô-rin-tô, ngài viết: “Với người Do-thái, tôi đã trở nên Do-thái, để chinh phục người Do-thái. Với những ai sống theo Lề Luật, tôi đã trở nên người sống theo Lề Luật, dù không còn phải sống theo Lề Luật nữa, để chinh phục những người sống theo Lề Luật. Đối với những kẻ sống ngoài Lề Luật, tôi đã trở nên người sống ngoài Lề Luật, dù tôi không sống ngoài luật Thiên Chúa, nhưng sống trong luật Đức Ki-tô, để chinh phục những người sống ngoài Lề Luật” (1 Cr 9,20-21).

Với Đường Nhập Thể, Đức Giê-su không chỉ là A-đam Mới, Đấng vô tỳ tích, mà còn là Mô-sê Mới, Đấng kiện toàn lời của Thiên Chúa và lề luật Cựu Ước. Những gì Người kiện toàn được tóm gọn trong Tám Mối Phúc mà chính Người đã sống và diễn tả trong hành trình dương thế. Mô-sê thời Cựu Ước là hình ảnh Đức Giê-su thời Tân Ước. Mô-sê là người đứng đầu một dân tộc (Do-thái), còn Đức Giê-su là người đứng đầu mọi dân tộc trong gia đình nhân loại. Mô-sê hiện diện và hoạt động nhân danh dân Do-thái, còn Đức Giê-su hiện diện và hoạt động nhân danh toàn thể mọi người từ tạo thiên lập địa cho đến tận thế. Trong khi thi hành thẩm quyền của mình, Mô-sê quan tâm lề luật, còn Đức Giê-su quan tâm tình yêu (Mc 12,28-34). Mô-sê cầu xin Thiên Chúa để Người ban Man-na cho dân Do-thái trên đường về đất hứa, còn Đức Giê-su trao ban chính mình làm của ăn cho mọi người trong hành trình về với Nước Thiên Chúa. Mô-sê chịu chết bên ngoài đất hứa trước khi dân Do-thái chiếm hữu đất này, còn Đức Giê-su chịu chết tại Giê-ru-sa-lem, thành đô của Thiên Chúa, hầu dẫn đưa mọi người về với Đất Hứa vĩnh cửu là Nước Thiên Chúa.

Trong số các môn đệ Đức Giê-su, thánh Gio-an là Người diễn tả Đường Nhập Thể của Đức Giê-su cách rõ ràng nhất nhờ kinh nghiệm của ngài trong ba năm ở với Người và những kiến thức uyên bác của ngài về văn hóa Do-thái, La-tinh, Hy-lạp. Khởi đầu thư thứ nhất, ngài viết: “Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống… sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi. Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người” (1 Ga 1,1-3). Theo ngài, với Đường Nhập Thể, Đức Giê-su vốn là Thiên Chúa vô hình đã trở nên hữu hình; vốn là khó có thể để con người tiếp cận lại trở nên dễ dàng để mọi người gặp gỡ. Chính thánh nhân đã nghe, đã thấy, đã chiêm ngưỡng, đã đụng chạm và làm chứng cho Đức Giê-su bằng cuộc sống mình cho đến hơi thở cuối cùng. Các tác phẩm liên quan đến Đức Giê-su mà ngài để lại cho hậu thế trở thành những bút tích quý giá giúp mọi người ngày càng hiểu biết Đức Giê-su hơn và đi vào mối tương quan liên vị với Người.

Nhờ sự gặp gỡ Đức Giê-su phục sinh trên đường Đa-mát và dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, thánh Phao-lô đã diễn tả sâu sắc về chương trình của Thiên Chúa đối với gia đình nhân loại. Thánh nhân không chỉ trình bày sứ mệnh của Đức Giê-su lịch sử mà còn giới thiệu Đức Giê-su tiền hữu (the Pre-existent Jesus) cũng như sự khiêm hạ của Người (Cl 1,15-20; Pl 2,5-11). Trong thư gửi tín hữu Ga-lát, thánh nhân viết: “Đức Ki-tô đã chuộc chúng ta cho khỏi bị nguyền rủa vì Lề Luật, khi vì chúng ta chính Người trở nên đồ bị nguyền rủa, vì có lời chép: Đáng nguyền rủa thay mọi kẻ bị treo trên cây gỗ” (Gl 3,13). Hơn nữa, đối với thánh nhân, Đức Giê-su là khuôn mặt cánh chung. Điều này có nghĩa là, nhờ Đức Giê-su, cánh chung đã hiện diện nơi dương thế. Cũng trong thư gửi tín hữu Ga-lát, thánh Phao-lô viết: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4,4-5). ‘Thời gian tới hồi viên mãn’ là một ý tưởng hết sức quan trọng và độc đáo: Thời gian có khởi đầu và thời gian tới hồi viên mãn. Tương tự như vậy: Không gian có khởi đầu và không gian tới hồi viên mãn. Đối với thánh nhân, không gian, thời gian và những gì trong đó không ngừng được biến đổi và quy tụ trong Đức Giê-su bởi vì tất cả đều phát xuất từ Người theo ý định Đức Chúa Cha từ muôn thuở.

Như đã được trích dẫn ở trên, đối với tác giả thư gửi tín hữu Do-thái, trong Cựu Ước, lời của Thiên Chúa đến với dân Do-thái theo nhiều cách thức khác nhau, chẳng hạn như qua các ngôn sứ, qua các vị lãnh đạo hay qua các biến cố trong cuộc sống. Tuy nhiên, ‘vào thời sau hết này’, Thiên Chúa nói với con người qua Thánh Tử Yêu Dấu (Dt 1,1-2). Tương tự như thánh Phao-lô, tác giả thư gửi tín hữu Do-thái cũng trình bày về sự tiền hữu của Đức Giê-su và vai trò của Người đối với thế giới thụ tạo. Đặc biệt, chương trình của Thiên Chúa nhờ Đức Giê-su là chương trình cho muôn dân muôn nước. Hơn nữa, những trình thuật trong thư gửi tín hữu Do-thái giúp chúng ta có được tầm nhìn sâu rộng hơn về mặc khải của Thiên Chúa. Theo đó, mặc khải của Người dồi dào hơn những gì được định hình trong Kinh Thánh, Truyền Thống và Giáo Huấn của Giáo Hội. Nói cách khác, mặc khải của Thiên Chúa đối với gia đình nhân loại được Đức Giê-su kiện toàn phong phú và sâu rộng hơn những gì con người có thể đón nhận, thu thập và biên soạn. Do đó, điều chúng ta cần quan tâm là: Những gì thuộc Kinh Thánh, Truyền Thống và Giáo Huấn của Giáo Hội là những gì cần thiết để con người suy niệm, học hỏi và đem ra thực hành nhằm nuôi dưỡng đời sống đức tin của mình.

Với Đường Nhập Thể của Đức Giê-su, Thiên Chúa không chỉ hồi phục phẩm giá con người về với tình trạng nguyên thủy là được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa mà còn cho phép con người trở thành con cái Thiên Chúa. Thánh Phê-rô minh định rằng nhờ Đức Giê-su, chúng ta được “thông phần bản tính Thiên Chúa” (2 Pr 1,4). Đức Giê-su ‘đi xuống’ để con người được ‘đi lên’. Đây là Tin Mừng lớn lao cho tất cả mọi người trong gia đình nhân loại. Bởi vì, nhờ Đức Giê-su, con người được ‘thần hóa’, được siêu thăng, được thông phần vinh phúc Quê Trời. Các Thánh Giáo phụ nhấn mạnh điểm này, chẳng hạn thánh I-rê-nê viết rằng Lời của Thiên Chúa đã làm người và Người là Con Thiên Chúa trở thành con loài người. Nhờ được liên kết với Lời của Thiên Chúa, con người trở thành con cái Thiên Chúa (Against Heresies III, 19, 1). Còn thánh Cờ-lê-men-tê (A-lê-xan-đờ-ri-a) thì khẳng định rằng nhờ Con Thiên Chúa, con người được trở nên [như] Thiên Chúa (Paedagogus III, 1). Nói cách khác, Đức Giê-su đi Đường Nhập Thể đến với gia đình nhân loại không chỉ để cứu chuộc mà còn thánh hóa con người, làm cho con người được biến đổi và nên một với Người. Theo Công Đồng Vatican II, “bằng đường lối nhập thể đích thực, Con Thiên Chúa đã đến để làm cho loài người thông phần vào bản tính Thiên Chúa; dù giàu sang, Người đã trở nên nghèo hèn vì chúng ta, để nhờ sự thiếu thốn đó mà chúng ta được sang giàu” (AG 3).

Cũng theo Công Đồng Vatican II: “Nơi Đức Giê-su bản tính nhân loại đã được mặc lấy chứ không bị tiêu diệt, do đó chính nơi chúng ta nữa, bản tính ấy cũng được nâng lên tới một phẩm giá siêu việt. Bởi vì, chính Con Thiên Chúa khi nhập thể, một cách nào đó đã kết hợp với tất cả mọi người” (GS 22). Với Đường Nhập Thể, Đức Giê-su mặc khải cho nhân loại biết Thiên Chúa là Ai, con người là ai và tương quan giữa Thiên Chúa và con người như thế nào. Với Đường Nhập Thể, tình yêu của Thiên Chúa đối với con người và muôn vật muôn loài đạt tới đỉnh điểm mà con người có thể cảm nhận. Đặc biệt, với Đường Nhập Thể, Thiên Chúa đã hội nhập vực thẳm của thân phận con người là vực thẳm sự chết hầu giải thoát và ban ơn cứu độ cho con người. Khi so sánh cái chết của Đức Giê-su và cái chết của con người, chúng ta nhận thức rằng con người chết ‘vì’, Đức Giê-su chết ‘cho’: Con người chết vì tội lỗi; Đức Giê-su chết cho con người. Nói cách khác, với đường tội lỗi, con người phải chết vì tội lỗi; với Đường Nhập Thể, Đức Giê-su đã chết cho con người khỏi chết. Thánh Phao-lô khẳng định: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5,21). Như vậy, nếu không có Đường Nhập Thể của Đức Giê-su, con người vẫn luôn ở dưới quyền lực sự chết.

Với Đường Nhập Thể, Đức Giê-su cho mọi người biết rằng Người không phải là Đấng Mê-si-a theo nhãn quan của những người Do-thái đương thời, nghĩa là Đấng Mê-si-a quan tâm chủ yếu đến lợi ích của họ. Quả thực, Đức Giê-su không phải là Đấng Mê-si-a đem lại cho dân Do-thái sự giải phóng và hồi phục vương quốc hùng mạnh theo nghĩa chính trị, văn hóa, xã hội. Người là Đấng Mê-si-a đem lại sự hiệp nhất giữa những gì phân biệt, chẳng hạn giữa Do-thái và Hy-lạp, nô lệ và tự do, người nam và người nữ, kẻ sang và người hèn. Với Đường Nhập Thể, Đức Giê-su vừa diễn tả tình yêu Thiên Chúa vừa cho con người biết hậu quả khôn lường của tội lỗi; vừa tiêu diệt sự chết, vừa trả lại cho con người sự sống đời đời; vừa đẩy lui bóng tối của ma quỷ, thế gian, xác thịt vừa trao ban ánh sáng thường hằng bất biến cho những ai tin tưởng và thực thi thánh ý Thiên Chúa.

Nhờ Đường Nhập Thể của Đức Giê-su, chúng ta nhận ra rằng không chỉ con người được biến đổi mà muôn vật muôn loài trong thế giới cũng được biến đổi và tiến tới hoàn thiện. Điều này có nghĩa là những gì Thiên Chúa sáng tạo không bị tiêu diệt, không đi vào cõi hư vô nhưng được biến đổi, được quy tụ trong trời mới đất mới, Giê-ru-sa-lem mới (Rm 8,18-25; Ep 1,9-10; Kh 21,1-6). Thiên Chúa yêu thương con người, đồng thời, Người cũng yêu thương những gì Người dựng nên cho con người nữa. Người mời gọi chúng ta luôn ý thức rằng gia đình nhân loại là thành phần trong gia đình thế giới thụ tạo do Người dựng nên. Mỗi vật mỗi loài đều có chỗ đứng trong chương trình của Thiên Chúa được thực hiện nhờ Đức Giê-su. Hơn nữa, chúng ta cần ý thức rằng muôn vật muôn loài không phải là những thực thể tĩnh mà là những thực thể động, những thực thể biến hóa khôn lường, nằm ngoài sự kiểm soát của con người. Do đó, chúng ta không thể nói về lịch sử nhân loại mà không đề cập đến lịch sử của thế giới thụ tạo, bởi vì tất cả cùng chung một nguồn gốc, cùng đồng hành và hướng về Thiên Chúa (1 Cr 15,28). Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II quả quyết rằng với sự nhập thể, Đức Giê-su là Con Thiên Chúa đã quy tụ và đưa về cho Thiên Chúa tất cả những gì thuộc về con người cũng như muôn vật hữu hình và vô hình. Cũng theo ngài, Trưởng Tử sinh ra trước mọi loại thọ tạo là Đức Giê-su đã liên kết với tất cả những gì thuộc ‘xác phàm’, nghĩa là liên kết với muôn vật muôn loài (Dominum et Vivificantem 50).

Tại sao Đức Giê-su lại đi Đường Nhập Thể để đến với con người và muôn vật muôn loài? Câu trả lời đơn giản nhất theo nội dung đức tin Ki-tô Giáo dựa trên hai khía cạnh căn bản: (1) Vì muốn giao hoà con người phạm tội với Thiên Chúa, và (2) vì Thiên Chúa yêu thương con người (GLGHCG 457). Theo khía cạnh thứ nhất, thánh Phao-lô cho chúng ta biết rằng vì A-đam thứ nhất, tội lỗi xâm nhập trần gian; nhờ A-đam Thứ Hai hay A-đam Mới, ân sủng lan tràn mặt đất. Ngài khẳng định: “Ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội” (Rm 5,20). Trong thư thứ nhất gửi tín hữu Cô-rin-tô, ngài biện luận như sau: “Như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống. Nhưng mỗi người theo thứ tự của mình: Mở đường là Đức Ki-tô, rồi khi Đức Ki-tô quang lâm thì đến lượt những kẻ thuộc về Người” (1 Cr 15,22-23). Đặc biệt, ngài giải thích: “Khi sai chính Con mình đến mang thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta để đền tội chúng ta, Thiên Chúa đã lên án tội trong thân xác Con mình” (Rm 8,3). Còn thánh Gio-an thì viết: “Nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: Đó là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính” (1 Ga 2,1). Quả thực, vì mọi người trong gia đình nhân loại đều bị đau khổ, ốm yếu, bệnh tật về mặt tâm linh và đương đầu với cái chết mà Đức Giê-su đã đi Đường Nhập Thể hầu cứu giúp tất cả. Người đã trở nên đồng hình đồng dạng với mọi người. Điều khác biệt duy nhất là Người lấy đi tội lỗi của con người và biến đổi con người trở nên khí cụ tình yêu của Người giữa dòng đời. Hơn nữa, nhờ Đường Nhập Thể của Đức Giê-su, con người có được tầm nhìn sâu rộng hơn về đau khổ, tội lỗi, sự chết cũng như vô số hình thức sự dữ khác trong thế giới thụ tạo.

Theo khía cạnh thứ hai, Đường Nhập Thể của Đức Giê-su diễn tả tình yêu vô bờ của Thiên Chúa. Người không chỉ yêu con người bằng tình yêu trừu tượng nhưng bằng tình yêu mà con người có thể cảm nghiệm được. Khi trò chuyện với Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su nói về tình yêu Thiên Chúa như sau: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Như vậy, Đường Nhập Thể của Đức Giê-su cũng chính là Đường Tình Yêu của Thiên Chúa. Chúng ta biết rằng thuở ban đầu theo Đức Giê-su, sự hiểu biết của các môn đệ về căn tính, đời sống và sứ mệnh của Thầy mình rất hạn chế. Dần dần, họ nhận ra Thầy Giê-su vừa giống mọi người, vừa khác mọi người mà họ từng gặp gỡ. Đường Nhập Thể của Đức Giê-su cho phép con người cảm nghiệm được tình yêu của Người (cũng là tình yêu Thiên Chúa) khác biệt với các hình thức tình yêu mà con người từng cảm nghiệm trong dòng lịch sử. Lời cầu xin của thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô diễn tả điều đó: “Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Ki-tô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Ki-tô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa” (Ep 3,17-19).

Đường Nhập Thể của Đức Giê-su vẫn luôn là Đường khó hiểu đối với tất cả mọi người trong gia đình nhân loại, bởi vì: Đức Giê-su là Đấng vô hạn đã trở nên hữu hạn; Đấng dựng nên muôn vật muôn loài lại trở thành thành phần trong muôn vật muôn loài; Đấng mà cả thế giới thụ tạo không chứa nổi lại trở thành trẻ thơ bé bỏng được bọc trong khăn, nằm trong máng cỏ; Đấng ở khắp mọi nơi lại trở thành người không nhà cửa; Đấng dựng nên mọi sự lại trở thành người nghèo khó hơn tất cả mọi người; Đấng là Nguồn Sống lại chết đau đớn trên thập giá. Chúng ta không bao giờ có thể liệt kê hết những điều khó hiểu về Đường Nhập Thể của Người.

Như đã được đề cập ở trên, một mặt, Đức Giê-su gần gũi con người đến nỗi con người có thể tiếp cận, gặp gỡ và đi vào mối tương giao thân mật. Mặt khác, Đức Giê-su vẫn là Ngôi Vị mà con người không bao giờ thấu hiểu cách tường tận. Ngôn ngữ và kinh nghiệm con người không bao giờ đủ để kín múc cách toàn diện mặc khải Thiên Chúa nơi Đức Giê-su. Do đó, con người cần biết thinh lặng, cần biết chiêm ngưỡng, cần biết ngạc nhiên và để Người soi đường dẫn lối giữa ba đào thế sự. Đức Giê-su là Thiên Chúa thật và là con người thật: Tuyên xưng thì dễ nhưng hiểu được tường tận thì khó. Đó là lý do tại sao những lạc thuyết hay những ý tưởng trái ngược với mặc khải Kinh Thánh luôn nảy sinh từ thời Giáo Hội sơ khai cho tới hôm nay. Nhìn chung, các lạc thuyết hay những ý tưởng trái ngược với mặc khải Kinh Thánh nảy sinh trong lịch sử Giáo Hội không phải vì quá đào sâu một chiều kích nào của Biến Cố Đức Giê-su nhưng trong khi nhấn mạnh một chiều kích nào đó lại phủ nhận các chiều khích khác, hậu quả là căn tính, đời sống và sứ mệnh của Đức Giê-su được lượng định, đánh giá và xác quyết cách lệch lạc, xa rời nội dung Thiên Chúa mặc khải.

Trong hành trình loan báo Tin Mừng, khi trình bày về mầu nhiệm Nước Trời, Đức Giê-su thân thưa cùng Đức Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Mt 11,25). Quả thực, nếu chúng ta không đủ tinh thần bé mọn, tinh thần ngạc nhiên, tinh thần khiêm tốn thì khó có thể nhận ra rằng Đức Giê-su đã đi Đường Nhập Thể để đến với gia đình nhân loại, đến với mỗi người chúng ta. Người luôn mời gọi chúng ta hãy đi Đường của Người để đến với Thiên Chúa, đến với anh chị em và đến với muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo. Như Đức Giê-su đã trút bỏ chính mình, chúng ta được mời gọi trút bỏ cách suy nghĩ vốn có của bản thân để đón nhận Đức Giê-su như chính Người hiện diện và hoạt động trong lịch sử nhân loại.

Nhờ Đường Nhập Thể của Đức Giê-su, chúng ta nhận ra rằng ơn cứu độ hệ tại ở việc Thiên Chúa làm cho con người, chứ không phải con người tự sức đạt được. Thánh Phao-lô viết: “Không phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới. Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy, một khi nên công chính nhờ ân sủng của Đức Ki-tô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời, như chúng ta vẫn hy vọng” (Tt 3,5-7). Điều này có nghĩa rằng con người hoàn toàn lệ thuộc Thiên Chúa. Con người được mời gọi cộng tác với Thiên Chúa trong việc cứu độ bản thân mình cũng như cộng tác với Người trong việc đem ơn cứu độ tới cho anh chị em đồng loại.

Con người sẽ không bao giờ hiểu được căn tính, đời sống và sứ mệnh đích thực của mình nếu không đặt sự hiểu biết đó trên nền tảng mầu nhiệm Đức Giê-su nhập thể. Nói cách tổng quát hơn, nhân loại học chỉ có thể tiến triển và mang lại hiệu quả thiết thực cho con người nhờ Ki-tô học. Điều này có nghĩa rằng nhờ sự hiểu biết về Đường Nhập Thể của Đức Giê-su, con người mới có thể hiểu biết đúng đắn hơn về khởi thủy, hành trình và đích đến của mình. Công Đồng Vatican II khẳng định: “Mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể. Bởi vì A-đam con người đầu tiên đã là hình bóng của A-đam sẽ đến, là Chúa Kitô. Chúa Kitô, A-đam mới, trong khi mạc khải về Chúa Cha và tình yêu của Ngài, đã cho con người biết rõ về chính con người và tỏ cho họ biết thiên chức rất cao cả của họ” (GS 22). Thánh Gio-an nhắc nhở các tín hữu: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1 Ga 3,2). Như vậy, nhờ Đức Giê-su, con người mới có thể nhận diện được quá khứ, hiện tại và tương lai mình cũng như mọi người trong gia đình nhân loại cách đầy đủ nhất.

Là Hiền Thê, là bí tích và là Thân Thể Mầu Nhiệm của Đức Giê-su, Giáo Hội được mời gọi đi Đường Nhập Thể để đến với muôn dân muôn nước. Theo Công Đồng Vatican II, “nhờ loại suy xác thực, chúng ta có thể ví Giáo Hội với mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể. Thực vậy, nhân tính mà Ngôi Lời mặc lấy phục vụ Người như cơ quan cứu rỗi sống động và kết hợp với Người cách bất khả phân ly; cũng thế, toàn thể cơ cấu xã hội của Giáo Hội phục vụ Thánh Thần Chúa Kitô, Ðấng làm cho Giáo Hội sống động để tăng triển thân thể” (LG 8). Đường Nhập Thể của Đức Giê-su tiếp tục hiện diện trong Giáo Hội cho đến tận thế, bởi Giáo Hội là thực tại được Đức Giê-su thiết lập để tiếp tục chương trình lịch sử của Người. Nhờ quy chiếu về Đức Giê-su, Giáo Hội trở thành dấu chỉ hữu hiệu cho mọi người về Đường của Người. Trong Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tiếp tục loan báo và diễn tả Đường Nhập Thể của Đức Giê-su cho mọi người khắp cùng cõi địa cầu cho đến tận thế.

Những ai được tháp nhập vào Giáo Hội nhờ Bí Tích Thanh Tẩy được mời gọi đi Đường Nhập Thể của Đức Giê-su và trở nên khí cụ tình yêu của Người đối với anh chị em mình. Nói cách khác, các thành phần trong Giáo Hội được mời gọi ‘nhập thế’ để làm cho những giá trị từ Đường Nhập Thể của Đức Giê-su thẩm thấu mọi chiều kích của cuộc sống con người cũng như các tương quan giữa con người với muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo. Nhờ vậy, các hình thái xã hội loài người và tất cả những gì liên quan đến con người trong thế giới thụ tạo đều được biến đổi và ngày càng hoàn thiện hơn trong chương trình của Thiên Chúa. Cách thức tốt nhất để con người hướng về trời trong khi ở với đất là hãy sống theo những giá trị mà Đường Nhập Thể của Đức Giê-su diễn tả. Có như thế, mỗi người mới xứng đáng được gọi là môn đệ và tông đồ của Đức Giê-su giữa dòng đời.

Mượn lời của Công Đồng Vatican II, chúng ta có thể kết luận rằng: "Mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể" (GS 22). Vì con người và cho con người, Đức Giê-su đã đi Đường Nhập Thể để đến với gia đình nhân loại. Nhờ Đường Nhập Thể của Người, chúng ta nhận ra những điều chính yếu như sau: (1) Phẩm giá cao quý của con người trong chương trình Thiên Chúa sáng tạo, (2) tội lỗi con người và hậu quả nghiêm trọng của tội lỗi là sự chết, (3) tình yêu diệu kỳ của Thiên Chúa đối với con người trong tiến trình lịch sử, (4) đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa được diễn tả nơi Đường Nhập Thể của Đức Giê-su, (5) hiệu quả của Đường này đối với con người và muôn vật muôn loài, (6) sự tiếp tục Đường Nhập Thể của Đức Giê-su qua trung gian Giáo Hội mà Người thiết lập và (7) sự quy tụ của con người và muôn vật muôn loài nhờ Đường Nhập Thể của Đức Giê-su trong thời cánh chung. Quả thực, nhờ Đường Nhập Thể của Đức Giê-su, con người được biến đổi tận căn từ nô lệ tội lỗi và sự chết trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa để được chung hưởng sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu với Người. Đường Nhập Thể của Đức Giê-su mãi mãi là Đường của mỗi người, của Giáo Hội, của gia đình nhân loại cũng như của muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo.