ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ – ĐƯỜNG ÂN SỦNG
Gm. Phê-rô Nguyễn Văn Viên
WHĐ (25.02.2022) - Trong tiếng Do-thái, từ ‘חֵ֖ן/
hen’ có nhiều nghĩa và nghĩa phổ biến nhất là ‘ân sủng’. Chẳng hạn, Bản Bảy
Mươi dịch חֵ֖ן/ hen sang tiếng Hy-lạp
là χάρις/ charis (St 6,8). Từ tương đương với χάρις trong tiếng La-tinh là
gratia (tiếng Anh là grace và tiếng Pháp là grâce). Khi chuyển ngữ sang tiếng
Việt, חֵ֖ן/ χάρις/ grace/ grâce thường được dịch là
ân/ơn sủng, thánh sủng, ơn Chúa hay ơn thánh. Ngoài ra, từ này còn được dịch là
ân/ơn huệ, ân/ơn nghĩa, ân/ơn phúc, ơn lành, phúc lành, đặc ân, thiện ý, đẹp
lòng, quý mến, ưu ái. Mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa ban
ân sủng cho con người cách tự do, vô điều kiện hầu giúp đỡ, biến đổi con người
yếu đuối, tội lỗi, nghĩa là tha thứ, chữa lành con người khỏi những thương tích
trong tâm hồn, đồng thời, cho con người sự sống con cái Thiên Chúa khi còn
trong hành trình trần thế này và siêu thăng phẩm giá con người cho đến khi đạt tới
sự viên mãn siêu nhiên là hạnh phúc vĩnh cửu trong Nước Thiên Chúa. Với ân sủng
của Bí Tích Rửa Tội, con người được trở thành con cái Thiên Chúa và tham dự sự
sống của Người. Theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo: “Ân sủng cho chúng ta tham dự vào sự sống Thiên Chúa, vào đời sống thâm
sâu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Nhờ Bí Tích Thánh Tẩy, người Ki-tô hữu tham dự vào
ân sủng của Đức Ki-tô, Đầu của Thân Thể” (GLGHCG 1997). Ân sủng giúp phát
sinh, duy trì và hoàn thiện nơi con người đức tin, đức cậy và đức mến hầu con
người có thể thực thi đời sống vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Do đó, sống trong
thế giới tự nhiên, con người cần luôn ý thức và quan tâm đến ân sủng của Thiên
Chúa.
Khi xem xét mối tương quan giữa ân
sủng và tự nhiên, mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta biết rằng những gì thuộc trật
tự ân sủng hay siêu nhiên không mâu thuẫn với những gì thuộc tự nhiên. Thánh
Tô-ma A-qui-nô (1225-1274) viết: “Như
ân sủng không phá hủy tự nhiên nhưng hoàn thiện tự nhiên, lý trí tự nhiên phải
phục vụ đức tin cũng như khuynh hướng tự nhiên của ý chí phải phục vụ đức ái”
(St. Thomas Aquinas, Summa Theologiae
I, q.1, a.8.2). Cũng theo thánh nhân: “Ân
sủng không phá hủy tự nhiên nhưng hoàn thiện tự nhiên theo cách thức tự nhiên”
[Gratia perfecit naturam secundum modum naturae] (St. Thomas Aquinas, Summa Theologiae I, q.62, a.5). Điều này
có nghĩa rằng ân sủng biến đổi tự nhiên mà không làm cho tự nhiên bị méo mó, biến
dạng, mất đi bản chất vốn có nhưng được trở nên tốt đẹp, vượt quá sự hoàn hảo
theo khả năng của tự nhiên. Ân sủng và tự nhiên không tách biệt nhau nhưng kết
hợp mật thiết với nhau đến mức con người (trong nhiều trường hợp nơi hiệu quả của
cả hai) khó phân biệt rạch ròi đâu là của ân sủng và đâu là của tự nhiên.
Chương trình sáng tạo và cứu độ đều là công trình ân sủng của Thiên Chúa dù
theo những lý lẽ khác nhau. Quả thực, đối với loài người, ân sủng kiện toàn tự
nhiên, định hướng tự nhiên quy về Thiên Chúa và thúc đẩy, dẫn dắt tự nhiên hướng
về Người là Nguồn hạnh phúc tuyệt đối. Điều này có nghĩa rằng, nếu không có ân
sủng, con người sẽ không thể hoàn thiện mình xét theo bản tính tự nhiên, ít nữa
đứng trước thực trạng sa ngã của Nguyên Tổ và đương nhiên con người lại càng
không thể đạt được ơn cứu độ đời đời hay hạnh phúc vĩnh cửu.
Dưới nhãn quan Kinh Thánh, nhất là
nơi các thư của thánh Phao-lô, ân sủng trước hết đến với con người để giải
thoát con người khỏi tội lỗi và án phạt đời đời do tội lỗi gây nên. Ân sủng
thanh tẩy con người khỏi những gì là của ‘xác thịt’, của ‘thế gian’ hư hoại. Nhờ
ân sủng, con người có được sự sống mới và sức mạnh của Thánh Thần. Nhờ đó, tư
tưởng, lời nói và hành động của con người ngày càng được hoàn thiện về mặt siêu
nhiên và trở nên đồng hình, đồng dạng với Đức Giê-su, Trưởng Tử sinh ra trước mọi
loài thụ tạo (Cl 1,15). Theo thánh Tô-ma A-qui-nô, ân sủng là nguồn gốc,
là nền tảng, là động lực, là một thứ nguyên lý nội tại giúp con người ngày càng
sống xứng đáng hơn với danh hiệu là con cái Thiên Chúa. Không có sự trợ giúp
hay thúc đẩy của Thiên Chúa (auxilium Dei), con người không thể biết bất kỳ sự
thật nào kể cả những sự thật thuộc khả năng hiểu biết của mình. Không có ánh
sáng của ân sủng (lumen gratiae) thì con người không thể nhận biết những sự thật
vượt quá khả năng tự nhiên của mình (St. Thomas Aquinas, Summa Theologiae I-IIae, q.109, a.1). Không có ân sủng của Thiên Chúa, con người
không thể có được niềm tin siêu nhiên vào Thiên Chúa (bao gồm cả việc nhận thức
được chương trình của Người cho mình cũng như muôn vật muôn loài), lại càng
không thể kiên vững trong niềm tin đó. Thánh nhân khẳng định rằng con người
cũng không thể làm được việc gì tốt hay có giá trị siêu nhiên, nếu không nhờ ân
sủng của Thiên Chúa (St. Thomas Aquinas, Summa Theologiae I-IIae, q.109, a.2). Cũng theo thánh nhân, con người
không thể yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, nếu không được ân sủng của Thiên
Chúa nâng đỡ (St. Thomas Aquinas, Summa Theologiae I-IIae, q.109, a.3).
Tùy theo ngữ cảnh, người ta đề cập
đến các hình thức hay các loại ân sủng phân biệt nhau, chẳng hạn như ơn hiện sủng,
ơn thường sủng, ân sủng công chính nguyên thủy, ân sủng công chính hóa, ân sủng
cứu độ, ân sủng thánh hóa, ân sủng bí tích, ân sủng phục vụ, ân sủng tha thứ,
ân sủng chữa lành, ân sủng hòa giải, ân sủng kiện toàn, ân sủng siêu thăng. Đặc
biệt, ân sủng thánh hóa hay ơn thánh hóa hay thánh sủng (gratia sanctificans/
sanctifying grace) là ơn quan trọng nhất, cần thiết nhất và được đề cập phổ biến
nhất. Ơn thánh hóa thuộc loại ơn thường sủng (gratia habitualis/ habitual grace), phân biệt với một loại ơn khác
là ơn hiện sủng (gratiae actuales/
actual graces). Theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo: “Ơn thánh hóa là một ân huệ thường tồn, một trạng thái siêu nhiên bền vững,
hoàn thiện linh hồn để chúng ta có thể sống với Thiên Chúa và hành động nhờ
tình yêu của Người. Chúng ta phân biệt ơn thường sủng và ơn hiện sủng. Ơn thường
sủng là trạng thái thường xuyên để sống và hành động theo tiếng gọi của Thiên Chúa,
và ơn hiện sủng là những can thiệp của Thiên Chúa lúc khởi đầu cuộc hoán cải hoặc
trong quá trình thánh hóa” (GLGHCG 2000).
Lịch sử Do-thái bắt đầu với việc
Thiên Chúa kêu gọi và ban ân sủng cho Áp-ra-ham. Người hứa làm cho tên tuổi ông
được rạng rỡ, đồng thời, Người cũng cho biết rằng, qua ông, mọi người sẽ được
chúc phúc (St 12,3). Hậu duệ của ông cũng luôn được Thiên Chúa thương yêu, phù
trợ (St 50,20; Xh 34,6; Ds 6,24-27; Đnl 7,7-11). Quả thực, các sách Cựu Ước cho
chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Đấng từ bi, nhân hậu, ban dồi dào ân sủng cho
dân Do-thái, trong khi đó họ thường là những kẻ vô ơn: “Đức Chúa! Đức Chúa! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu
nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34,6). Đặc biệt, Thiên Chúa luôn là Đấng giàu
lòng thương xót: “Đức Chúa, Thiên Chúa của
anh em, là Đấng từ bi nhân hậu, Người sẽ không ngoảnh mặt làm ngơ, nếu anh em
trở lại với người” (2 Sbn 30,9); “Đức
Chúa phán thế này: Đám dân thoát cảnh gươm đao đã được ân nghĩa trong sa mạc,
đó là Ít-ra-en trên đường về chốn nghỉ ngơi” (Gr 31,2). Ân sủng của Thiên
Chúa ăn sâu vào tâm trí của con cháu Áp-ra-ham qua muôn thế hệ, chẳng hạn: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, chớ khá
quên mọi ân huệ của Người. Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa
lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng
ân nghĩa với lượng hải hà, ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc, khiến tuổi
xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng” (Tv 103,2-5); ”Xưa bên Ai-cập, tổ tiên chúng con đã không hiểu những kỳ công của Chúa,
đã chẳng nhớ ân huệ vô vàn, và phản loạn ở nơi Biển Đỏ” (Tv 106,7).
Sách Sáng Thế cho chúng ta biết rằng
Nguyên Tổ của con người đã phạm tội, tức là tự mình quyết định ý nghĩa cuộc đời
hay hạnh phúc cho mình, không muốn lệ thuộc và vâng phục đối với Thiên Chúa, do
đó, từ khước tương quan nghĩa thiết với Người theo ân sủng. Tuy nhiên, vì lòng
thương xót, Thiên Chúa đã hứa khôi phục ân sủng cho con người nhờ Đấng Cứu Thế
tương lai cũng thuộc dòng giống con người (St 3,15). Quả thực, mặc khải ngay từ
giai đoạn đầu đã cho thấy lờ mờ rằng nhờ cái chết của Đấng Cứu Thế tương lai mà
Thiên Chúa trong chừng mực nào đó đã ban lại ân sủng cho Nguyên Tổ đã sa ngã
nhưng biết nhận tội, khi kể rằng: “Đức
Chúa là Thiên Chúa làm cho con người và vợ con người những chiếc áo bằng da và
mặc cho họ” (St 3,21). Hình ảnh ‘những chiếc áo bằng da’ cho phép chúng ta
hiểu rằng Thiên Chúa mặc cho con người ân sủng, bao phủ con người với ân sủng hầu
giúp con người sống xứng đáng hơn với phẩm giá của mình là được dựng nên theo
hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26-27). Để con người có được áo da thì con vật phải
chết, con vật phải hy sinh cho con người. Đây là hình ảnh ‘chết chóc thể lý’ được
đề cập đầu tiên trong Kinh Thánh sau khi con người phạm tội. Cũng theo sách
Sáng Thế, việc sát tế súc vật làm của lễ hiến tế là dấu chỉ con người tùng phục
Thiên Chúa là Chủ Thể của vạn vật. Khi Áp-ra-ham định giết con trai duy nhất của
mình hầu diễn tả sự trung tín đối với Thiên Chúa thì Người đã cho sứ thần ngăn
cản. Áp-ra-ham thấy con cừu đực mắc sừng trong bụi cây thì ông đã giết nó để
dâng lễ toàn thiêu thay cho con mình (St 22,1-19). Đây là hình ảnh giúp chúng
ta nhận ra cách thức mầu nhiệm Thiên Chúa trao ban ân sủng sau khi con người phạm
tội: Để bao phủ con người bằng ân sủng, Đức Giê-su đã phải chết. ‘Con vật vô tội’
đã phải chết để bảo vệ phẩm giá con người là hình ảnh Đức Giê-su, Con Một Thiên
Chúa, phải chết để giải thoát con người khỏi tội lỗi và sự chết đời đời, đồng
thời, giúp con người trở thành con cái của Thiên Chúa trong Đức Giê-su (filii in
Filio).
Trong trình thuật Tin Mừng theo
thánh Lu-ca, sau phần ‘Lời Tựa’, thánh nhân kể lại biến cố sứ thần Thiên Chúa
truyền tin cho Da-ca-ri-a và báo cho ông biết rằng vợ ông là bà Ê-li-sa-bét sẽ
sinh hạ Gio-an (Gio-an Tẩy Giả). Chúng ta biết rằng, trong tiếng Do-thái,
Gio-an (יוֹחָנָן/ yohhanan, Ἰωάννης/
Ioannes, John) vừa có nghĩa là ‘Gia-vê nhân từ’ hay ‘Thiên Chúa ân sủng’ (God
is gracious), vừa có nghĩa là ‘quà tặng của Thiên Chúa’ (gift from God) hay ân
sủng của Thiên Chúa (grace of God). Nhiều trình thuật Kinh Thánh cho chúng ta
biết ân sủng được diễn tả như là ‘quà tặng’ của Thiên Chúa cho con người (Đnl
8,17-18; Is 55,1-3; Ga 1,16-17; Gc 4,6). Quả thực, vợ chồng Da-ca-ri-a và
Ê-li-sa-bét đã già nua mà không có con nhưng Thiên Chúa trao ban cho ông bà
‘quà tặng’ cao quý là Gio-an. Quà tặng này nhằm báo trước (tiền hô) Quà Tặng lớn
nhất mà Thiên Chúa ban cho con người là Đức Giê-su, Con Một vĩnh cửu của Thiên
Chúa. Trong tiếng Do-thái, Giê-su có nghĩa là Đấng Cứu Độ (יֵשׁוּעַ/ Yeshua, Ἰησοῦς/ Iēsous, Jesus). Như vậy, đây là Quà Tặng
lớn lao nhất, là Ân Sủng kỳ diệu nhất mà Thiên Chúa trao ban cho mọi người. Dĩ
nhiên, trong thân phận con người, xét theo nhân tính, Đức Giê-su đã đón nhận, sống
và lớn lên trong ân sủng của Thiên Chúa. Trình thuật thời niên thiếu của Đức
Giê-su theo thánh Lu-ca cho chúng ta biết: “Hài
Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa
[χάρις/ ân sủng] cùng Thiên Chúa” (Lc 2,40) hay “Đức Giê-su ngày càng thêm khôn ngoan, thêm cao lớn và thêm ân nghĩa
[ân sủng] đối với Thiên Chúa và người ta” (Lc 2,52).
Chúng ta biết rằng, từ ‘present’
trong tiếng Anh vừa có nghĩa là hiện diện, vừa có nghĩa là quà tặng. Đức Giê-su
hiện diện trong gia đình nhân loại là Quà Tặng mà con người không bao giờ nghĩ
tới bởi vì quà tặng không phải là ‘cái gì đó’ (what) mà là ‘ai đó’ (who). Trong
cuộc sống, ai cũng có kinh nghiệm về việc nhận quà hay tặng quà cho người khác.
Giữa quà tặng và người tặng quà phân biệt nhau. Nơi Đức Giê-su thì không phải
như vậy, Người vừa là Quà Tặng, vừa là Người Tặng Quà, bởi vì Người là Thiên
Chúa thật và là con người thật đã hiện diện giữa trần gian vì con người và cho
con người. Quà Tặng của Đức Giê-su cũng là Hiến Tế giúp con người được hòa giải
với Thiên Chúa, với nhau và nhờ đó mà muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo
được giao hòa với Thiên Chúa. Với ngôn ngữ phụng tự, tác giả thư gửi tín hữu
Do-thái cho chúng ta biết Đức Giê-su vừa là Tư Tế (người tặng quà), vừa là Bàn
Thờ (nơi để quà), vừa là Con Chiên (quà tặng) trong Hiến Tế duy nhất và vĩnh cửu
dâng lên Thiên Chúa nhân danh toàn thể gia đình nhân loại (Dt 7,27; Dt
9,11-10,18). Chúng ta biết rằng nói đến quà tặng là nói đến tình yêu của người
tặng quà. Trong cuộc đối thoại với Ni-cô-đê-mô, Đức Giê-su nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con
Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”
(Ga 3,16).
Mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta biết
rằng tương quan thích hợp giữa Thiên Chúa và con người là tương quan ân sủng.
Tuy nhiên, trong Cựu Ước, ân sủng của Thiên Chúa hoạt động cách vô hình, huyền
nhiệm và mang tính chuẩn bị. Con người chỉ có thể nhận diện, phân định và hiểu
biết ân sủng của Thiên Chúa cách đầy đủ hơn trong ánh sáng và sứ mệnh của Đức
Giê-su khi ‘thời gian tới hồi viên mãn’. Trong Tân Ước, với Biến Cố Đức Giê-su,
ân sủng của Thiên Chúa đã ‘trở nên hữu hình’ giữa gia đình nhân loại. Trong ‘Lời
Tựa Tin Mừng’, thánh Gio-an viết: “Ngôi Lời
đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh
quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng
và sự thật” (Ga 1,14). Với ngôn ngữ ân sủng, chúng ta có thể diễn tả lại lời
của thánh Gio-an rằng Đức Giê-su là ‘Ân Sủng
đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta’. Như vậy, khi thời gian tới
thời viên mãn, Thiên Chúa diễn tả ân sủng của Người nơi Đức Giê-su là sự diễn tả
huyền diệu và cao trọng nhất. Quả thật, Đức Giê-su hiện diện giữa nhân loại như
là ‘Ân Sủng hữu hình’ của Thiên Chúa. Bởi vì, với Đức Giê-su, con người có thể
nhìn thấy, lắng nghe, chiêm ngắm và đi vào mối tương quan mật thiết với Thiên
Chúa (1 Ga 1,1). Nói cách khác, Đức Giê-su là Ân Sủng của Thiên Chúa ‘được sinh
ra từ trước muôn đời’, nhờ Đức Giê-su, muôn vật muôn loài được tạo thành và
cũng nhờ Người, con người cũng như muôn vật muôn loài được cứu độ, giải thoát
và quy tụ trong Vương Quốc Thiên Chúa.
Lời Tựa Tin Mừng theo thánh Gio-an
cũng cho chúng ta biết: “Từ nguồn sung
mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn [ân sủng] này đến ơn [ân sủng]
khác” [ὅτι ἐκ τοῦ πληρώματος αὐτοῦ ἡμεῖς πάντες ἐλάβομεν, καὶ χάριν ἀντὶ χάριτος]
(Ga 1,16). Trong thư của ngài, thánh Gio-an viết: “Thiên Chúa là Cha và Đức Giê-su Ki-tô là Con Chúa Cha sẽ cho chúng ta
được hưởng ân sủng, lòng thương xót và bình an, trong sự thật và tình thương”
(2 Ga 1,3). Tương tự như thánh Gio-an, tác giả thư gửi tín hữu Do-thái viết về
nguồn ân sủng trong tương quan giữa Chúa Cha và Đức Giê-su như sau: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng
không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi
phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại
gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi
khi cần” (Dt 4,15-16). Đặc biệt, Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo tóm lược tương
quan giữa Đức Giê-su và A-đam, giữa nguồn gốc ân sủng và căn nguyên tội lỗi
cách mạch lạc như sau: “Phải biết Đức
Ki-tô là nguồn ân sủng mới nhận ra A-đam là căn nguyên của tội lỗi” (GLGHCG
388) hay “ân sủng cao quý nhất nơi Đức
Ma-ri-a chính là sự hiện diện của Đấng là nguồn mạch mọi ân sủng” (GLGHCG
2676).
Thấm nhuần căn tính, đời sống và sứ
mệnh của Thầy mình, thánh Gio-an viết: “Lề
luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức
Giê-su Ki-tô mà có” (Ga 1,17). Quả
thực, con người được Thiên Chúa sáng tạo để sống trong ân sủng và nhờ sức mạnh
của ân sủng mà theo sự thật hầu đạt được hạnh phúc trong Nước Thiên Chúa, là sự
viên mãn của ân sủng và sự thật. Thánh Gio-an cho chúng ta biết Đức Giê-su là
Ân Sủng, Ân Sủng Bất Thụ Tạo (Gratia Increata/ Uncreated Grace/ Grâce Incrée) của
mọi ân sủng; Đức Giê-su là Sự Thật vô cùng trọn hảo, Sự Thật nguyên ủy của mọi
sự thật. Trong hành trình loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su cho mọi người biết như
vậy (Ga 5,19-28; Ga 14,6). Quả thực, Cựu Ước cho chúng ta biết rằng Mô-sê đón
nhận lời của Thiên Chúa và truyền lại cho dân Do-thái, còn Đức Giê-su là Lời Ân
Sủng của Thiên Chúa cho mọi người trong gia đình nhân loại. Mô-sê là hình bóng,
Đức Giê-su là Thực Tại. Nói cách khác, Đức Giê-su cao trọng hơn các thiên thần
(Dt 1,5); Đức Giê-su cao trọng hơn Mô-sê (Dt 3,1-6); Đức Giê-su cao trọng hơn
các thượng tế Do-thái (Dt 7,1-8); giao ước ân sủng được Đức Giê-su thiết lập là
giao ước vĩnh cửu (Dt 8,1-13); hiến tế của Đức Giê-su huyền diệu hơn các hình
thức hiến tế trong Cựu Ước (Dt 9,11-28). Đó là lý do tại sao tác giả thư gửi
tín hữu Do-thái viết: “Đức Giê-su Ki-tô vẫn
là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời. Đừng để cho đủ
thứ học thuyết xa lạ mê hoặc anh em. Điều tốt là củng cố tâm hồn bằng ân sủng,
chứ không phải bằng đồ ăn thức uống, là những thứ chẳng sinh ích gì cho những
người giữ luật Mô-sê về chuyện ăn uống” (Dt 13,8-9).
Với tác giả thư gửi tín hữu
Do-thái, ưu tiên cần thiết cho con người là chức tư tế và hy tế ban ân sủng tha
tội của Đức Giê-su hơn là chức tư tế và hy tế theo lề luật của Mô-sê, chỉ là dấu
chỉ và tự chúng không có sức tẩy xóa tội lỗi (Dt 7,15-19; Dt 10,1-18). Quả thực,
ân sủng và lề luật là hai chủ đề quan trọng trong Kinh Thánh và lắm lúc con người
nhầm lẫn nội hàm cũng như ý nghĩa của chúng. Trong hành trình trần thế, ưu tiên
của Đức Giê-su là sự hoán cải nhờ ân sủng và đời sống theo ân sủng, còn những
người lãnh đạo Do-thái là việc tuân giữ lề luật. Mặc khải của Thiên Chúa qua
các thư của thánh Phao-lô khẳng định rằng lề luật tự nó không có khả năng cứu độ
hay công chính hóa nhân loại tội lỗi. Theo thánh nhân, ân sủng của Đức Giê-su
kiện toàn lề luật của Thiên Chúa trong Cựu Ước theo nghĩa là cung cấp cho con
người những cái mà lề luật tự nó không thể có hay có không đầy đủ. Nếu không nhờ
ân sủng, lề luật được ban ra chỉ để kết án con người vì họ biết lề luật mà
không thực hành dù đáng phải thực hành (nhưng trong thực tế lại không có sức thực
hành). Hơn nữa, giả như nếu có giới luật nào mà con người có thể tự mình tuân
giữ được thì sự tuân giữ đó cũng không có giá trị gì cho sự cứu độ con người.
Thật vậy, vì Tội Nguyên Tổ, mọi người (ngoại trừ Đức Ma-ri-a) đã phạm tội, ở
ngoài tình trạng ân sủng và bị án phạt đời đời. Nếu không được Thiên Chúa ban
ân sủng tha thứ cách hoàn toàn nhưng không nhờ Đức Giê-su, mọi việc tuân giữ lề
luật về phía con người đều không có khả năng giao hòa với Thiên Chúa, nghĩa là
được công chính hóa. Không có ân sủng, việc tuân giữ lề luật vừa không có sức
công chính hóa, vừa trở thành cớ vấp phạm cho nhiều người, nhất là giới
Pha-ri-sêu, khi họ cậy dựa vào việc tuân giữ lề luật để tự phụ rằng họ được
công chính hóa. Thánh Phao-lô kết án thái độ ‘tự công chính hóa’ dựa vào việc
tuân giữ lề luật này là cậy dựa vào ‘xác thịt’, là nô lệ cho ‘xác thịt’ (Rm
8,1-13). Quả thực, sự sống ân sủng được ban cho con người nhờ niềm tin vào Đức
Giê-su bởi vì Người không chỉ ban sức mạnh siêu nhiên để con người tuân giữ mọi
lề luật của Thiên Chúa mà còn làm cho con người thành nghĩa tử của Người, sống
trong tương quan tin, cậy, mến cách phù hợp với Người. Nhờ vậy, động lực tuân
giữ lề luật của con người không gì khác hơn là tình yêu mến của con cái đối với
Cha mình theo gương Trưởng Tử là Đức Giê-su, vì mục đích hướng đến là sự kết hiệp
với Thiên Chúa theo đức mến khi diện kiến Người trong Nước Thiên Chúa, hơn là
vì sợ hình phạt hay hướng đến phần thưởng ngoại tại nào khác như những người
Pha-ri-sêu. Thánh Phao-lô viết: “Yêu
thương là chu toàn lề luật” (Rm 13,10). Đặc biệt, để nhấn mạnh vai trò ưu việt
của ân sủng nhờ Đức Giê-su so với lề luật, thánh Phao-lô viết những dòng này: “Anh em mà tìm sự công chính trong lề luật,
là anh em đoạn tuyệt với Đức Ki-tô và mất hết ân sủng” (Gl 5,4) hay “Anh em là những người sống đã từ cõi chết
trở về, anh em hãy hiến toàn thân cho Thiên Chúa, và dùng chi thể của anh em
như khí cụ để làm điều công chính, phục vụ Thiên Chúa. Tội lỗi sẽ không còn quyền
chi đối với anh em nữa, vì anh em không còn lệ thuộc vào lề luật, nhưng lệ thuộc
vào ân sủng” (Rm 6,13-14).
Đức Giê-su là Ngôi Lời và là Ân Sủng
vĩnh cửu của Thiên Chúa hiện diện trong gia đình nhân loại. Do đó, mọi lời từ
miệng Người đều là ‘lời ân sủng’, được hiểu là lời ban Thánh Thần, lời sự thật,
lời có sức mạnh diệu kỳ, tự động phát sinh mọi hiệu quả siêu nhiên như trừ quỷ,
giúp con người thống hối, hoán cải, tái sinh trong sự sống mới, sự sống siêu
nhiên, chứ không chỉ là lời đem đến hiệu quả tự nhiên, chẳng hạn như chữa lành
bệnh tật. Nhiều trích đoạn Tân Ước cho phép chúng ta hiểu rõ hơn về điều này,
chẳng hạn: “Mọi người đều tán thành và
thán phục những lời ân sủng [τοῖς λόγοις τῆς χάριτος] thốt ra từ miệng Người” (Lc
4,22); “Mọi người đều kinh ngạc đến nỗi họ
bàn tán với nhau: Thế nghĩa là gì?
Giáo lý thì mới mẻ, người dạy lại có uy quyền” (Mc 1,27) hay “Các vệ binh trả lời: Xưa nay chưa hề đã có
ai nói năng như người ấy!” (Ga 7,26). Hai môn đệ trên đường Em-mau cũng khẳng
định về ‘những lời ân sủng của Đức Giê-su’: “Người
là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa
và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người
bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá” (Lc 24,19-20). Ngay từ
thời sơ khai, các môn đệ Đức Giê-su đã ý thức rõ về sự cần thiết trong việc
loan báo Đức Giê-su và lời ân sủng của Người. Chẳng hạn, tác giả sách Tông Đồ
Công Vụ cho chúng ta biết Phao-lô và Ba-na-ba loan báo Tin Mừng tại I-cô-ni-ô
như sau: “Hai ông ở lại một thời gian khá
lâu, mạnh dạn vì dựa vào Chúa, là Đấng chứng nhận lời giảng về ân sủng của Người,
khi cho tay các ông thực hiện những dấu lạ điềm thiêng” (Cv 14,3). Thánh
Phao-lô cũng nhắn nhủ các tín hữu rằng: “Giờ
đây, tôi xin phó thác anh em cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng của Người, là lời
có sức xây dựng và ban cho anh em được hưởng phần gia tài cùng với tất cả những
người đã được thánh hiến” (Cv 20,32). Khi trả lời câu hỏi của Đức Giê-su,
thánh Phê-rô tuyên xưng rằng chỉ ‘Thầy mới
có những lời đem lại sự sống đời đời’ nghĩa là chỉ Thầy mới có lời ân sủng
(Ga 6,68). Quả thực, chính lời ân sủng của Đức Giê-su đã biến đổi đời sống tất
cả những ai khiêm tốn lắng nghe, tin tưởng và đặt trọn niềm hy vọng nơi Người.
Trong cuộc đối thoại giữa Đức
Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp, Đức Giê-su nói với chị: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và
ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người
ấy đã ban cho chị nước hằng sống" (Ga 4,10); “Nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại
sự sống đời đời” (Ga 4,14). Lời Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a vang vọng
trong cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri: “Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận nguồn ơn cứu
độ” (Is 12,3) hay “Đến cả đi, hỡi những
người đang khát, nước đã sẵn đây!” (Is 55,11). Như vậy, để lãnh nhận ân sủng
của Đức Giê-su cũng như để được duy trì và tăng trưởng trong ân sủng đó, con
người cần có nhận thức sống động, mạnh mẽ theo đức tin về giá trị vô song của
ân sủng, hết lòng quý trọng và cộng tác với ân sủng để ân sủng thâm nhập mọi
khía cạnh của đời sống mình, biến đổi và sinh hoa kết trái (hoa trái của Thánh
Thần) cho bản thân cũng như cho anh chị em đồng loại. Quả thực, việc nhận ra ân
sủng mà Thiên Chúa ban cho con người và vai trò của ân sủng trong đời sống mình
thật là điều quan trọng, bởi vì con người thường đóng cửa lòng mình đối với ân
sủng.
Sau khi phục sinh, Đức Giê-su sai
phái các môn đệ của Người loan báo Tin Mừng ân sủng cho mọi người. Vâng theo lệnh
truyền của Người, các môn đệ đã trung tín thực thi điều đó. Chẳng hạn, khi rao
giảng cho những người quy tụ tại nhà ông Co-nê-li-ô là viên đại đội trưởng người
Rô-ma ở Xê-da-rê, thánh Phê-rô nói: “Quý
vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giu-đê, bắt đầu từ miền Ga-li-lê,
sau phép rửa mà ông Gio-an rao giảng. Quý vị biết rõ: Đức Giê-su xuất thân từ
Na-da-rét, Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người.
Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm
chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người. Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc
Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giê-ru-sa-lem. Họ đã treo
Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy,
và cho Người xuất hiện tỏ tường” (Cv 10,37-40). Là môn đệ theo Thầy Giê-su
ngay từ đầu, thánh Phê-rô đã tóm lược sứ mệnh chính yếu của Thầy mình: ‘Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó’.
Quả thực, trong ba năm của hành trình loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su đã ban phát
ân sủng cho biết bao người, đặc biệt những người bị tầng lớp ‘đạo đức’ hay ‘giữ
luật’ trong xã hội Do-thái khinh thường và cho là nhơ uế, tội lỗi, thiếu thốn
hay vắng bóng ân sủng, điển hình là những người xứ Sa-ma-ri, những người thu
thuế và gái điếm.
Dưới nhãn quan của thánh Phê-rô,
Thiên Chúa là Đấng khoan dung và giàu ân sủng, đã ban tặng cho gia đình nhân loại
Đức Giê-su là Ân Sủng của mọi ân sủng, để nhờ Người mà mọi người được thông phần
bản tính Thiên Chúa. Thánh Phê-rô viết: “Đức
Ki-tô đã lấy thần lực của Người mà ban tặng chúng ta tất cả những gì giúp chúng
ta được sống và sống đạo đức, khi Người cho chúng ta biết Đấng đã dùng vinh
quang và sức mạnh của mình mà kêu gọi chúng ta. Nhờ vinh quang và sức mạnh ấy,
Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa,
để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi đã thoát khỏi cảnh
hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian” (2 Pr 1,3-4). Nói cách khác, nhờ
Đức Giê-su là Ân Sủng của mọi ân sủng đã mang lấy bản tính con người mà con người
được thông phần bản tính Thiên Chúa. Tư tưởng này của thánh Phê-rô cũng được
tìm thấy trong các thư của thánh Phao-lô (Rm 8,29; 2 Cr 3,18; Cl 3,10). Quả thực,
khi con người được thông phần bản tính Thiên Chúa cũng là khi con người lập tức
nhận được dồi dào ân sủng của Người trong hành trình hướng về sự sống đời đời
trong Nước Thiên Chúa như lời của thánh Phao-lô: “Lương bổng mà tội lỗi trả cho người ta, là cái chết; còn ân huệ Thiên
Chúa ban không, là sự sống đời đời trong Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (Rm
6,23).
Việc Thiên Chúa trao ban Đức Giê-su
là Ân Sủng của mọi ân sủng cho nhân loại được thực hiện cách cụ thể và nhiệm mầu,
nhất là nơi sự đau khổ và cái chết của Người. Quả thực, nhờ sự đau khổ và cái
chết của Người vì vâng phục hoàn hảo đối với ý muốn của Chúa Cha, Đức Giê-su đã
lập công phúc đem lại ơn cứu độ cho mọi người, kể cả những người công chính trước
Người còn bị cầm giữ trong cõi chết, kể cả những linh hồn đang ở trong luyện ngục
cho đến lúc đó. Thật là kỳ diệu, với sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su,
Ân Sủng của mọi ân sủng từ Thiên Chúa đã xuống tận vực thẳm ghê rợn nhất của
thân phận con người là vực thẳm sự chết. Mặc khải Kinh Thánh cho chúng ta biết
rằng vì vô ơn, bất tuân, kiêu ngạo, Nguyên Tổ đã từ chối ân sủng của Thiên Chúa
và phải gánh chịu cái chết và cái chết đó lan tràn đến mọi người (Rm 5,12).
Trái lại, với tinh thần khiêm hạ, vâng phục và tạ ơn, Đức Giê-su đã đi ngược lại
con đường Nguyên Tổ đã đi và Người đã đến vực thẳm sự chết, vực thẳm ‘vắng bóng
ân sủng’, để thông phần trọn vẹn đau khổ của con người hầu giải thoát con người
khỏi vực thẳm này. Nhờ Đức Giê-su là Ân Sủng của mọi ân sủng, là căn nguyên của
mọi ân sủng, không chỉ phẩm giá tự nhiên của con người theo hình ảnh Thiên Chúa
được khôi phục mà phẩm giá siêu nhiên là con cái Thiên Chúa cũng được ban tặng
cho con người. Thánh Phao-lô diễn tả kế hoạch ân sủng của Thiên Chúa được thực
hiện nhờ Đức Giê-su như sau: “Theo ý muốn
và lòng nhân ái của Người [Thiên Chúa], Người đã tiền định cho ta làm nghĩa tử
nhờ Đức Giê-su Ki-tô, để ta hằng ngợi khen ân sủng rạng ngời, ân sủng Người ban
tặng cho ta trong Thánh Tử yêu dấu” (Ep 1,5-6). Cũng theo thánh nhân: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa
đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới lề luật, để
chuộc những ai sống dưới lề luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử”
(Gl 4,4-5).
Đức Giê-su là Ân Sủng cứu độ bởi vì
nhờ máu Người đổ ra trên thập giá mà ơn cứu độ cho nhân loại được thiết lập.
Trong diễn từ tại Giê-ru-sa-lem, thánh Phê-rô viết: “Chính nhờ ân sủng Chúa Giê-su mà chúng ta tin mình được cứu độ”
(Cv 15,11). Tương tự như thánh Phê-rô, thánh Phao-lô viết: “Trong Thánh Tử, nhờ máu Thánh Tử đổ ra chúng ta được cứu chuộc, được
thứ tha tội lỗi theo lượng ân sủng rất phong phú của Người. Ân sủng này, Thiên
Chúa đã rộng ban cho ta cùng với tất cả sự khôn ngoan thông hiểu” (Ep
1,7-8). Cũng theo thánh Phao-lô: “Thiên
Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết
vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô. Chính do ân
sủng mà anh em được cứu độ!” (Ep 2,4-5).
Quả thực, con người phải lệ thuộc vào ân sủng của Thiên Chúa ban qua Đức
Giê-su, phải hoàn toàn cậy dựa vào sức mạnh của ân sủng Người thì mới được ơn cứu
độ đời đời, nghĩa là được thừa hưởng ‘gia tài vĩnh cửu’ trong Nước Thiên Chúa.
Nói cách khác, con người được tha thứ tội lỗi, được giải thoát khỏi vực thẳm sự
chết, được chung hưởng sự sống đời đời của Thiên Chúa không phải nhờ nỗ lực hay
công đức mình mà là nhờ ân sủng và hiệu quả của ân sủng. Thánh Phao-lô viết cho
Ti-mô-thê: “Người đã cứu độ và kêu gọi chúng
ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm,
nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng
ta từ muôn thuở trong Đức Ki-tô Giê-su, nhưng giờ đây mới được biểu lộ” (2
Tm 1,9-10).
Trong thư gửi Ti-tô, thánh Phao-lô
biện luận rằng Đức Giê-su là Ân Sủng của Thiên Chúa tỏ mình trên trần gian để
đem ơn cứu độ. Đồng thời, ngài mời gọi con người hoán cải để sống xứng đáng hơn
với ân sủng của Thiên Chúa mà Đức Giê-su trao ban: “Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho
mọi người. Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê
trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này” (Tt
2,11-12). Khi diễn giải những dòng này của thánh Phao-lô, chúng ta có thể nói rằng
ai lãnh nhận ân sủng của Thiên Chúa mà Đức Giê-su trao ban thì được mời gọi sống
theo ân sủng, tức là theo sự thúc đẩy bên trong được khơi dậy bởi giáo huấn và
đời sống của Đức Giê-su hầu làm cho ân sủng của Người dần dần thẩm thấu mọi chiều
kích của cuộc sống mình. Hơn nữa, người lãnh nhận ân sủng cũng là người luôn sống
trong hy vọng cánh chung. Thánh Phao-lô giải thích: “Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi,
ngày Đức Ki-tô Giê-su là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện
vinh quang” (Tt 2,13). Quả thực, với thánh Phao-lô, Đức Giê-su là Cội Nguồn
của mọi ân sủng giúp con người có sự sống và sức mạnh của con cái Thiên Chúa để
có thể đi theo Người trên con đường cứu độ mà cao điểm là diện đối diện với Người
trong Nước Thiên Chúa.
Khi tìm hiểu Kinh Thánh, chúng ta
biết rằng từ ‘ân sủng’ được sử dụng nhiều hơn và với nghĩa cụ thể hơn trong Tân
Ước so với Cựu Ước. Đặc biệt, thánh Phao-lô là người dùng từ ‘ân sủng’ nhiều nhất
(hơn 100 lần nơi các thư của ngài). Thánh nhân dùng từ ‘ân sủng’ trong tương
quan với các chủ đề trọng tâm thuộc nội dung đức tin Ki-tô Giáo, chẳng hạn như
ân sủng và sự thật, ân sủng và tội lỗi, ân sủng và đức tin, ân sủng và lề luật,
ân sủng và sự công chính hóa, ân sủng và sự cứu độ, ân sủng và tự do, ân sủng
và phục vụ, ân sủng và đời sống cá nhân, ân sủng và đời sống cộng đoàn, ân sủng
và sứ vụ loan báo Tin Mừng. Với thánh nhân, ân sủng của Thiên Chúa được trao
ban và đem lại hiệu quả nhờ Đức Giê-su là nền tảng của đời sống người Ki-tô hữu.
Câu hỏi đặt ra là tại sao thánh nhân lại dùng từ này nhiều lần với ý nghĩa sâu
sắc như vậy? Thưa, tại vì ngài được Đức Giê-su trực tiếp mặc khải và hoán cải,
nghĩa là được giải thoát khỏi ách nô lệ của lề luật và biến đổi, siêu thăng
thành thụ tạo mới trong ân sủng. Nói cách khác, chính ngài đã cảm nghiệm đầy đủ
hoa trái phong phú và sâu xa của ân sủng nơi bản thân mình và đã trình bày cảm
nghiệm của ngài cho mọi người được biết. Đó là lý do tại sao người ta thường gọi
ngài là ‘vị tông đồ của ân sủng’.
Thánh Phao-lô nhận thức rằng mặc khải
và ân sủng mà ngài nhận được từ Đức Giê-su thật phi thường và điều đó làm cho
ngài nhiều lúc băn khoăn, trăn trở vì thấy sự bất tương xứng quá lớn giữa con
người tự nhiên của ngài và hồng ân siêu nhiên của Thiên Chúa (Rm 7,14-25).
Trong hành trình loan báo Đức Giê-su và Tin Mừng ân sủng của Người, thánh nhân
phải chịu nhiều cám dỗ cũng như đối diện với biết bao hình thức đau khổ về tinh
thần cũng như thể xác. Ngài chia sẻ kinh nghiệm của ngài với các tín hữu ở
Cô-rin-tô như sau: “Để tôi khỏi tự cao tự
đại vì những mặc khải phi thường tôi đã nhận được, thân xác tôi như đã bị một
cái dằm đâm vào, một thủ hạ của Xa-tan được sai đến vả mặt tôi, để tôi khỏi tự
cao tự đại. Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này. Nhưng Người quả
quyết với tôi: Ơn [ân sủng/ χάρις] của Thầy đã đủ cho anh, vì sức mạnh của Thầy
được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối. Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào vì
những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki-tô ở mãi trong tôi” (2 Cr
12,7-9). Quả quyết này của Đức Giê-su phục sinh đem lại cho thánh nhân xác tín
đầy an ủi về tính cách nghịch thường, vượt quá lô-gích của con người mà qua đó
ân sủng Thiên Chúa được thể hiện: Đối với những gì mà thế gian xem thường,
khinh rẻ thì Thiên Chúa lại dùng để phục vụ cho hoạt động của ân sủng Người, vì
nhờ vậy mà quyền năng thật diệu kỳ, thật mạnh mẽ của ân sủng mới được biểu lộ
cách rõ ràng, nguyên tuyền, không pha tạp, lẫn lộn với sức lực của người phàm
hay các thế lực bóng tối. Trong thư thứ nhất gửi các tín hữu Cô-rin-tô, ngài viết:
“Những gì thế gian cho là điên dại, thì
Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là
yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh; những gì thế
gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ
diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người”
(1 Cr 1,27-29).
“Lòng có đầy,
miệng mới nói ra” (Lc 6,45).
Vì lòng trí thánh Phao-lô luôn đầy tràn ân sủng, trong các thư gửi cho các cộng
đoàn, thánh nhân thường bắt đầu với lời nguyện xin ân sủng của Đức Giê-su đổ
vào lòng trí các tín hữu, chẳng hạn: “Kính
gửi tất cả anh em ở Rô-ma, những người được Thiên Chúa yêu thương, được kêu gọi
làm dân thánh. Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho
anh em ân sủng và bình an” (Rm 1,7). Chúng ta cũng gặp những khởi đầu tương
tự như vậy ở các thư khác của thánh nhân (1 Cr 1,3; 2 Cr 1,2; Gl 1,3; Plm 1,3).
Không chỉ ở phần mở đầu, ‘điệp khúc ân sủng’ như vậy cũng xuất hiện thường
xuyên ở phần kết của các thư thánh nhân viết, chẳng hạn: “Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô,
đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần. A-men” (2
Cr 13,13). Trong một số thư khác, thánh nhân cũng viết như vậy (1 Cr 16,23; 1
Tx 5,28). Tương tự như thánh Phao-lô, thánh Phê-rô cũng kết thúc thư của ngài với
lời cầu chúc ân sủng: “Nhờ tay anh
Xin-va-nô mà tôi coi là một người anh em trung tín, tôi viết ít lời để khuyên
nhủ anh em và làm chứng rằng đó thật là ân sủng của Thiên Chúa: Anh em hãy sống
vững vàng trong ân sủng đó” (1 Pr 5,12) hay “Anh em hãy lớn lên trong ân sủng và trong sự hiểu biết Đức Giê-su
Ki-tô là Chúa và là Đấng Cứu Độ chúng ta. Xin kính dâng Người vinh quang, bây
giờ và cho đến muôn đời. A-men” (2 Pr 3,18). Chung nhịp với thánh Phao-lô
và thánh Phê-rô, lời cuối cùng của tác giả thư gửi tín hữu Do-thái là lời cầu
chúc ân sủng: “Chúc tất cả anh em được đầy
tràn ân sủng của Thiên Chúa” (Dt 13,25).
Viết thư cho Ti-mô-thê, thánh Phao-lô
diễn tả và khẳng định sự trở lại và hoán cải của ngài thuần túy đến từ ân sủng
của Đức Giê-su do lòng thương xót hoàn toàn nhưng không của Thiên Chúa: “Trước kia, tôi là kẻ nói lộng ngôn, bắt đạo
và ngạo ngược, nhưng tôi đã được Người thương xót, vì tôi đã hành động một cách
vô ý thức, trong lúc chưa có lòng tin. Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta, đã ban
cho tôi đầy tràn ân sủng, cùng với đức tin và đức mến của một kẻ được kết hợp với
Người” (1 Tm 1,13-14). Cũng theo thánh nhân: “Sở dĩ tôi được thương xót, là vì Đức Giê-su Ki-tô muốn tỏ bày tất cả
lòng đại lượng của Người nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những
ai sẽ tin vào Người, để được sống muôn đời” (1 Tm 1,16). Sức mạnh của ân sủng
Đức Giê-su đã biến đổi hoàn toàn não trạng của Sao-lô [Phao-lô] vốn xác tín sâu
sắc, mạnh mẽ về sự tự công chính hóa nhờ tuân giữ lề luật, xác tín cuồng nhiệt
đến nỗi tra tay bách hại các Ki-tô hữu (Cv 9,1-2). Hiệu quả của sự hoán cải là
một Phao-lô mà từ nay chỉ Đức Giê-su và việc thuộc trọn vẹn về Người nhờ ân sủng
mới là quan trọng, là giá trị đích thực, vô song, trường cửu. Thánh nhân viết: “Những gì xưa kia tôi cho là có lợi, thì
nay, vì Đức Ki-tô, tôi cho là thiệt thòi. Hơn nữa, tôi coi tất cả mọi sự là thiệt
thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Ki-tô Giê-su, Chúa của tôi. Vì
Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác, để được Đức Ki-tô và được kết
hợp với Người” (Pl 3,7-9).
Hơn ai hết, thánh tông đồ dân ngoại
là người trình bày cách rõ ràng và khúc chiết mầu nhiệm ân sủng của Thiên Chúa
được thể hiện nơi Đức Giê-su cách phong phú và hoàn hảo nhất. Chẳng hạn, khi so
sánh tương quan giữa A-đam và Đức Giê-su, thánh nhân viết: “Sự sa ngã của A-đam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa.
Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân
sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giê-su Ki-tô, còn dồi dào
hơn biết mấy cho muôn người” (Rm 5,15). Đồng thời, thánh nhân cũng viết: “Lề luật đã xen vào, để cho sự sa ngã lan
tràn; nhưng ở đâu tội lỗi đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội. Như
vậy, nếu tội lỗi đã thống trị bằng cách làm cho người ta phải chết, thì ân sủng
cũng thống trị bằng cách làm cho người ta nên công chính để được sống đời đời,
nhờ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (Rm 5,20-21). Giáo Lý Giáo Hội Công
Giáo khẳng định việc Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Người nơi Đức Giê-su cũng
chính là việc Người biểu lộ quyền năng vĩ đại của ân sủng trên sự dữ: “Tình yêu của Thiên Chúa được mặc khải
trong Đức Ki-tô đã biểu lộ một trật cả trương độ của sự dữ và sự vĩ đại của ân
sủng” (GLGHCG 385). Còn thánh Tô-ma A-qui-nô thì quả quyết rằng nhờ sự
hiện diện và hoạt động của ân sủng mà chiến thắng sau cùng và toàn diện trên sự
dữ là con người đạt được hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu, nghĩa là được diện kiến
và chiêm ngưỡng Thiên Chúa (St. Thomas Aquinas, Summa Theologiae I-IIae, q.3, a.8).
Với thánh Phao-lô, quyền năng ân sủng
của Thiên Chúa được Đức Giê-su thể hiện hay biểu lộ lớn hơn tội lỗi của con người
rất nhiều, bởi vì ‘ở đâu tội lỗi đã lan
tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội’ (Rm 5,20). Dĩ nhiên, thánh
Phao-lô nói như vậy không có nghĩa rằng con người cứ đắm mình trong tội để nhận
được nhiều ân sủng hơn. Chính ngài giải thích: “Chúng ta cứ ở mãi trong tội lỗi, để ân sủng càng lan tràn ư? Không phải
thế! Chúng ta là những kẻ đã chết đối với tội lỗi, thì làm sao còn sống mãi
trong tội được” (Rm 6,1-2). Ngài tiếp tục biện luận: “Chúng ta cứ phạm tội ư, vì chúng ta không còn lệ thuộc vào lề luật,
nhưng lệ thuộc vào ân sủng? Không đời nào! Anh em không biết sao? Khi đem thân
làm nô lệ để vâng phục ai, thì anh em là nô lệ của người mà anh em vâng phục:
hoặc làm nô lệ tội lỗi, thì sẽ phải chết; hoặc làm nô lệ phục vụ Thiên Chúa,
thì sẽ được nên công chính” (Rm 6,15-16). Ngài cũng khẳng định: “Con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh
vào thập giá với Đức Ki-tô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ
diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa” (Rm 6,6).
Như được đề cập ở trên, một trong
những chủ đề trọng yếu và xuyên suốt các thư của thánh Phao-lô là biện giải cho
tầm quan trọng trổi vượt của ân sủng và đức tin đối với lề luật và công việc.
Tuy nhiên, đạo lý của thánh nhân không có gì chung chạ với chủ trương của những
người cho rằng chỉ một mình ân sủng (sola gratia), chỉ một mình đức tin (sola
fides) hay chỉ một mình Kinh Thánh (sola Scriptura) là cần thiết cho đời sống
Ki-tô hữu, cho sự cứu độ của họ, cho chính Ki-tô giáo. Sống trong ân sủng, sống
bởi đức tin chính là sống theo Thần Khí của Thiên Chúa, là mặc lấy Đức Ki-tô,
là sống cho Người, với Người, vì Người và do đó tất yếu phát sinh hoa trái của
Thần Khí trong mọi mặt của đời sống tức là các nhân đức và các việc làm trong sạch,
công chính, thánh thiện. Sống trong ân sủng, sống bởi đức tin là tất yếu đối
nghịch với thần khí của thế gian, tất yếu chết đi đối với xác thịt, tất yếu loại
trừ và triệt tiêu mọi việc làm tội lỗi. Hơn ai hết, thánh nhân mời gọi mọi người
thực thi đức mến (ἀγάπη/ agapē) như Đức Giê-su đã truyền dạy khi ban cho các
môn đệ Người giới răn yêu thương (Ga 13,34). Giới răn này không loại trừ mà bao
hàm và kiện toàn mọi lề luật khác của Thiên Chúa. Chỉ khi nhờ ân sủng được đón
nhận trong đức tin vào mầu nhiệm cứu độ được Đức Giê-su thực hiện mà người Ki-tô
hữu mới có thể trung tín thực thi và hoàn thiện đức mến nhờ sự kết hiệp mật thiết
cũng như ở lại với Người trong mọi hoàn cảnh (Gl 2,20; Pl 1,21).
Thông thường, chúng ta nói nhiều về
ân sủng nhưng lại ít đề cập đến thái độ hay phản ứng của con người đối với ân sủng.
Một khi ân sủng đã được ban thì đâu là tương quan của người lãnh nhận đối với
ân sủng? Đây thật là câu hỏi rất quan trọng được thánh Phao-lô trả lời: “Vì được cộng tác với Thiên Chúa, chúng tôi
khuyên nhủ anh em: Anh em đã lãnh nhận ân huệ [τὴν χάριν] của Thiên Chúa, thì đừng
để trở nên vô hiệu” (2 Cr 6,1) hay "Chúng
tôi không cư xử theo lẽ khôn ngoan người đời, nhưng theo ân sủng của Thiên
Chúa" (2 Cr 1,12). Để được cứu độ, con người cần thiết phải cộng tác với
ân sủng như nhận xét sau của Thánh Au-gút-ti-nô (354-430): Thiên Chúa sáng tạo con người mà không cần sự cộng tác của con người
nhưng Thiên Chúa cứu độ con người thì cần sự cộng tác của con người (St.
Augustine, Sermon 169,13). Công Đồng Vatican II mời gọi mọi người đáp lại ân sủng
của Thiên Chúa bằng cả đời sống của mình (LG 12). Chính vì ân sủng tuyệt đối cần
thiết cho việc phục hồi và hoàn thiện hình ảnh Thiên Chúa trong chúng ta nên việc
đáp trả tích cực đối với ân sủng là bổn phận của chúng ta như Giáo Lý Giáo Hội
Công Giáo khẳng định: “Dù được dựng nên
theo hình ảnh Thiên Chúa, nhưng phải nhờ ân sủng chúng ta mới được phục hồi nét
giống Thiên Chúa hơn, nên chúng ta có bổn phận đáp lại ân sủng này” (GLGHCG
2784) hay “Chúng ta phải đáp lại ‘ân sủng
và sự thật’ mà Người ban tặng ‘nhờ Đức Giê-su Ki-tô’ bằng lòng yêu mến và trung
thành” (GLGHCG 2787).
Dưới nhãn quan của thánh Phao-lô,
Thiên Chúa là Đấng khởi sự những điều tốt lành nơi con người và cũng là Đấng hướng
dẫn con người tới chỗ hoàn thành. Thấm nhuần sứ điệp Tin Mừng của Đức Giê-su về
tình yêu và quyền năng ân sủng của Thiên Chúa, thánh Phao-lô viết: “Ai đã cho Người trước, để Người phải trả lại
sau? Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người”
(Rm 11,35-36). Trong thư gửi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô viết: “Tôi tin chắc rằng: Đấng đã bắt đầu thực hiện
nơi anh em một công việc tốt lành như thế, cũng sẽ đưa công việc đó tới chỗ
hoàn thành cho đến ngày Đức Ki-tô Giê-su quang lâm” (Pl 1,6). Theo thánh
Au-gút-ti-nô, ân sủng của Thiên Chúa luôn đi bước trước. Nhờ ân sủng của Thiên
Chúa, con người mới thực sự là chính mình. Đồng thời, những gì tốt lành con người
có thể làm được cũng là nhờ ân sủng của Thiên Chúa. Nói cách khác, ân sủng luôn
đi bước trước để trợ giúp và hướng dẫn con người trong hành trình trần thế (St.
Augustine, Sermon 298,4). Theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo: “Chuẩn bị cho con người đón nhận ân sủng cũng đã là một công trình của
ân sủng” (GLGHCG 2001). Cũng theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo: “Trên bình diện ân sủng, không ai lập được công
trạng để đáng lãnh nhận ân sủng tiên khởi mở đầu cho các ơn hoán cải, tha thứ
và công chính hóa, vì sáng kiến là do Thiên Chúa” (GLGHCG 2010). Nhờ gắn bó
mật thiết với Đức Giê-su và suy niệm Kinh Thánh, nhất là các thư của thánh
Phao-lô, thánh Tê-rê-sa Hài Đồng Giê-su đã ghi trong nhật ký câu: ‘Tout est
grâce’/ everything is a grace/ tất cả là ân sủng (hồng ân), tất cả đều phát xuất
từ tình yêu của Thiên Chúa. Kinh nghiệm của thánh Phao-lô và thánh Tê-rê-sa Hài
Đồng Giê-su giúp người Ki-tô hữu ý thức rằng mình cần kết hợp mật thiết với Đức
Giê-su để có được cảm thức đúng đắn và phù hợp hơn về ân sủng mà Người ban tặng.
Nhờ đó, người Ki-tô hữu càng ngày càng ý thức hơn về thân phận tội lỗi của mình
trong hành trình trần thế này và càng khiêm nhường, càng tín thác mà trung
thành cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa trong việc định dạng bản thân sao cho
ngày càng xứng đáng hơn với tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được Đức Giê-su thể
hiện và biểu lộ trong hành trình trần thế của Người.
Quả thực, ân sủng và tội lỗi được đề
cập ngay từ những trang đầu của sách Sáng Thế. Câu chuyện ân sủng và tội lỗi vẫn
tiếp tục trong suốt chiều dài của lịch sử nhân loại cho đến tận thế. Do đó, ai
không ý thức mình là tội nhân thì cũng không màng quan tâm đến ân sủng của
Thiên Chúa. Các trình thuật Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng con người từ chối
ân sủng của Thiên Chúa, không chỉ trong buổi ban đầu, mà còn tiếp tục xuyên
dòng lịch sử vì đời sống đời bất tín (St 3,1-7; Ga 1,10-11; Lc 18,8). Kinh
Thánh cũng cho chúng ta nhận thức rằng khi con người bất tuân thánh ý Thiên
Chúa cũng là khi con người không có khả năng nhận ra ân sủng của Người và ý thức
sự cần thiết của ân sủng cho đời sống mình. Trái lại, khi con người tuân phục
Thiên Chúa cũng là khi con người ‘mở cửa’ cho ân sủng của Thiên Chúa phát huy
tác dụng trong đời sống mình. A-đam và E-và từ chối ân sủng của Thiên Chúa và tội
lỗi xâm nhập trần gian; vì tội lỗi, mọi người phải chết. Tội của A-đam và E-và
có thể được gọi là ‘tội từ chối ân sủng’, từ chối sự giúp đỡ của Thiên Chúa, bằng
việc từ chối lệ thuộc vào Người, từ chối theo kế hoạch, chương trình của Người
để chạy theo ngẫu tượng và muốn tự thân mưu cầu hạnh phúc mà không quan tâm đến
ân sủng của Thiên Chúa. Hôm nay cũng vậy, biết bao người đang lãnh đạm trước sự
hiện diện và hoạt động của ân sủng Thiên Chúa nơi mình, nơi tha nhân, nơi các
thụ tạo khác và nhất là nơi Giáo Hội của Người.
Tương quan giữa con người và Thiên
Chúa trong nhiệm cục cứu độ cũng chính là tương quan giữa tự do của con người
và ân sủng được Thiên Chúa trao ban. Như đề cập ở trên, Thiên Chúa trao ban ân
sủng cho con người cách nhưng không. Tuy nhiên, con người luôn có tự do đón nhận
hay không đón nhận, vâng theo thánh ý Thiên Chúa hay bàng quan lãnh đạm. Đức
Giê-su giúp chúng ta hiểu thêm điều này: “Không
phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả
đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được
vào mà thôi” (Mt 7,21). Như vậy, tâm thức của người đón nhận ân sủng rất
quan trọng trong việc làm cho ân sủng của Thiên Chúa được bén rễ và trổ sinh
hoa trái nơi bản thân mình. Trong bối cảnh Kinh Thánh, tự do của con người bao
gồm khả năng từ chối ân sủng của Thiên Chúa, nghĩa là tự do nói ‘không’ trước lời
đề nghị hay mời gọi lãnh nhận ân sủng, đóng mình trước tình thương và lòng nhân
hậu của Người. Theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo: ”Trong công trình của ân sủng, Thiên Chúa có sáng kiến khởi xướng, chuẩn
bị và gợi lên lời đáp trả tự do của con người. Ân sủng đáp ứng những khát vọng
sâu xa của con người tự do. Ân sủng kêu gọi con người tự do cộng tác và kiện
toàn sự tự do của họ” (GLGHCG 2022). Do đó, khi con người không biết dùng
khả năng tự do của mình mà cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa cũng là khi con
người không chỉ xa rời Thiên Chúa, mà còn xa rời chính mình, nghĩa là phản bội
lại chính căn tính sâu thẳm nhất của mình.
Trong tương quan giữa ân sủng
(χάρις/ grace) và sự công chính (δικαιοσύνη/ righteousness), thánh Phao-lô viết:
“Mọi người đã phạm tội và bị tước mất
vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ [ân sủng/ χάρις]
Thiên Chúa ban không, nhờ công trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Ki-tô
Giê-su” (Rm 3,23-24). Cũng theo thánh nhân: “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ
Đức Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy, một khi nên công chính nhờ ân
sủng của Đức Ki-tô, chúng ta được thừa hưởng sự sống đời đời, như chúng ta vẫn
hy vọng” (Tt 3,6-7). Theo Công Đồng Tren-tô (1545-1563), chính ân sủng của
Thiên Chúa giúp con người trở nên công chính (DS 1525). Tiếp tục với tư tưởng của
thánh Phao-lô và truyền thống của Giáo Hội liên quan đến vai trò của ân sủng đối
với việc công chính hóa, Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo khẳng định: “Chúng ta được công chính hóa nhờ ân sủng của
Thiên Chúa. Ân sủng là một ân huệ, một trợ giúp nhưng không mà Thiên Chúa ban để
chúng ta đáp lại tiếng gọi của Người” (GLGHCG 1996). Cũng theo Giáo Lý Giáo
Hội Công Giáo: “Ơn công chính hóa mở đầu
cho sự cộng tác giữa ân sủng Thiên Chúa và sự tự do của con người” (GLGHCG 1993).
Như vậy, Thiên Chúa là Đấng Công Chính làm con người vốn là tội lỗi trở nên
công chính nhờ ân sủng được Đức Giê-su mặc khải và đem lại cho con người trong
mầu nhiệm nhập thể và cứu độ. Kho tàng ân sủng đó được Người ủy thác cho Giáo Hội
mà Người thiết lập như Thân Thể Người,
được Người thanh tẩy và hiến thánh như Hiền Thê của Người (Ga 17,17-19; Rm
5,17; Mt 28,18-20; Ep 1,21-23; Cl 1,18).
Giáo Hội trên đường lữ hành là thực
tại tiếp tục sự hiện diện lịch sử của Đức Giê-su. Do đó, các thành phần trong
Giáo Hội cần ý thức rằng, nhờ ân sủng mà Giáo Hội được hiện diện, tiếp tục tăng
trưởng và vươn tới tầm vóc viên mãn là Đức Ki-tô (Ep 4,13). Qua Bí Tích Rửa Tội,
con người được tháp nhập vào Giáo Hội, Thân Thể Mầu Nhiệm Đức Ki-tô, con người
được sống trong ân sủng của Thiên Chúa. Trong đời sống hằng ngày, con người được
mời gọi đón nhận ân sủng, cộng tác với Đức Giê-su trong việc duy trì ân sủng và
làm cho ân sủng sinh hoa kết trái dồi dào trong đời sống mình cũng như anh chị
em đồng loại. Để nên một với Đức Giê-su là Ân Sủng của Thiên Chúa, con người cần
ý thức sự hiện diện và hoạt động của Người, gắn bó với Người trong đời sống cầu
nguyện, hoán cải, thực thi bác ái, tham dự các bí tích, nhất là Bí Tích Thánh
Thể. Quả thực, ân sủng Đức Giê-su vừa cho phép con người được gắn bó với Người
cũng như với anh chị em đồng loại, vừa thánh hóa con người để con người ngày
càng xứng hợp hơn với căn tính, đời sống và sứ vụ Ki-tô hữu của mình (LG 8).
Trong cộng đoàn của những người tin
tưởng và gắn bó với Đức Giê-su, mỗi người được mời gọi sử dụng ân sủng cách xứng
hợp nhất. Thánh Phê-rô viết: “Ơn riêng
Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy,
anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên
Chúa. Ai có nói, thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh
Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc, chúng ta tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức
Giê-su Ki-tô” (1 Pr 4,10-11). Là thành phần của Giáo Hội, Nhiệm Thể Đức
Giê-su, người Ki-tô hữu không thể tôn vinh Thiên Chúa ở ngoài tương quan gắn bó
với Giáo Hội, với Đức Giê-su, bởi vì ân sủng nơi mỗi người được ban theo mức độ
mà Người là Đầu xếp đặt. Trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phao-lô viết: “Mỗi người chúng ta đã nhận được ân sủng tùy
theo mức độ Đức Ki-tô ban cho. Vì thế, có lời Kinh Thánh nói: Người đã lên cao,
dẫn theo một đám tù; Người đã ban ân huệ cho loài người” (Ep 4,7-8). Tương
tự như vậy, trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh nhân viết: “Chúng ta có những đặc sủng khác nhau, tùy theo ân sủng Thiên Chúa ban
cho mỗi người. Được ơn làm ngôn sứ, thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin”
(Rm 12,6). Phân tích sâu hơn, việc sử dụng ân sủng xứng hợp không thể không nhằm
đến việc tôn vinh Thiên Chúa bởi vì ân sủng dù thuộc loại nào, được thể hiện và
thực thi qua thừa tác vụ hay hoạt động nào thì cũng đều phát xuất từ một Cội
Nguồn duy nhất và quy về Cội Nguồn này là Thiên Chúa Ba Ngôi như thánh Phao-lô
viết: “Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng
chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có
nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi
người” (1 Cr 12,4-6). Quả thực, Thiên Chúa Ba Ngôi là Cội Nguồn và Cùng
Đích của sự hợp nhất Giáo Hội. Do đó, để tôn vinh Thiên Chúa Ba Ngôi, mỗi Ki-tô
hữu phải sử dụng ân sủng không phải vì hư danh hay tư lợi nhưng để thật sự giúp
ích cho Giáo Hội, cho việc duy trì và kiện toàn sự hợp nhất đích thực của Giáo
Hội trên bình diện các Giáo Hội địa phương (particular churches) cũng như trên
bình diện Giáo Hội phổ quát (universal Church).
Sức mạnh của ân sủng là sức mạnh vĩ
đại nhất bởi vì đây là sức mạnh siêu nhiên, tạo ra những hiệu quả vượt quá mọi
khả năng của thụ tạo (kể cả các thiên thần). Chỉ có Thiên Chúa mới là nguyên
nhân duy nhất của ân sủng; không một thụ tạo nào theo nghĩa thích hợp có thể là
nguyên nhân, dù là nguyên nhân đệ nhị; cùng lắm chỉ là nguyên nhân dụng cụ mà
vai trò chỉ cần thiết xét về phía thụ tạo chứ không phải về phía Thiên Chúa (vì
Người có thể ban ân sủng mà không cần có sự tham dự nào của thụ tạo). Như đề cập
ở trên, không phải đợi đến khi Đức Giê-su nhập thể làm người để cứu độ nhân loại
thì ân sủng mới hiện diện. Thực ra, ân sủng đã hiện diện ngay từ giây phút đầu
tiên của chương trình Thiên Chúa sáng tạo, đặc biệt, Nguyên Tổ của loài người
được sáng tạo trong tình trạng ân sủng. Mặc khải Kinh Thánh cho chúng ta nhận
thức rằng, khi con người biết cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa thì con người
có thể làm được những điều tốt lành vượt khả năng tự nhiên của mình. Nói cách
khác, chỉ nhờ ân sủng mà Thiên Chúa ban thì con người mới thực thi những điều kỳ
diệu mà với sức riêng của mình hay sự trợ giúp của thụ tạo nào đó vẫn không thể
làm được. Thánh Phao-lô viết: “Tôi có là
gì, cũng là nhờ ơn Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu; trái lại,
tôi đã làm việc nhiều hơn tất cả những vị khác, nhưng không phải tôi, mà là ơn
Thiên Chúa cùng với tôi” (1 Cr 15,10). Còn thánh Phê-rô thì viết: “Thiên Chúa là nguồn mọi ân sủng, cũng là Đấng
đã kêu gọi anh em vào vinh quang đời đời của Người trong Đức Ki-tô. Phần anh em
là những kẻ phải chịu khổ ít lâu, chính Thiên Chúa sẽ cho anh em được nên hoàn
thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường” (1 Pr 5,10). Quả thực, nhờ ân sủng
của Thiên Chúa được Đức Giê-su thể hiện và thiết lập mà các môn đệ của Người
nguyên là những người bất toàn, tài hèn, sức mọn cùng với muôn khiếm khuyết về
luân lý đã trở thành những vị tông đồ thánh thiện, mạnh mẽ, can trường tiếp tục
công việc của Đức Giê-su cho đến hơi thở cuối cùng, bất chấp mọi thứ cản trở, tấn
công của ma quỷ, thế gian, xác thịt. Lịch sử Giáo Hội cũng cho chúng ta biết rằng
những ai mở lòng đón nhận ân sủng của Thiên Chúa và sống theo ân sủng của Người
thì sức mạnh của ân sủng sẽ điều khiển và biến đổi mọi suy nghĩ, lời nói và việc
làm của người đó để họ không chỉ vượt thắng những yếu hèn của bản thân mà còn
thể hiện ngày càng hoàn hảo hơn hình ảnh của Đức Giê-su trong đời sống mình
trên mọi phương diện. Nói cách khác, sự cộng tác với ân sủng không nhằm đem lại
cho con người một thứ an nhàn thiêng liêng, loại trừ mọi gian nan, vất vả, trái
lại, ân sủng mà con người lãnh nhận qua các bí tích, khởi sự là Bí Tích Rửa Tội,
giúp con người đương đầu với các kẻ thù thiêng liêng, nhất là ‘xác thịt’ và
kiên cường giữa muôn vàn khó khăn cho đến khi toàn thắng như khẳng định sau của
Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo: “Khi ban cho con người đời sống ân sủng của
Đức Ki-tô, Bí Tích Thánh Tẩy cũng xóa bỏ nguyên tội và quy hướng con người về
Thiên Chúa; nhưng hậu quả của nguyên tội trên bản tính bị suy yếu và nghiêng
chiều về sự dữ, vẫn tồn tại nơi con người và đòi buộc con người phải chiến đấu
luôn mãi” (GLGHCG 405).
Chủ đề ân sủng được nhiều thần học
gia từ cổ chí kim quan tâm. Dưới nhãn quan của thần học gia Karl Rahner
(1904-1984), ân sủng không gì khác hơn là Thiên Chúa tự thông truyền chính mình
(God's self-communication) nhờ Đức Giê-su và trong Chúa Thánh Thần cho con người
hầu biến đổi và định hướng con người về với Thiên Chúa (Karl Rahner, Foundations of Christian Faith: An
Introduction to the Idea of Christianity (New York, Crossroad Publishing Company, 1984), 116-126). Con người được dựng
nên để quy hướng về hạnh phúc siêu nhiên và tuyệt đối. Do đó, con người không
bao giờ thỏa mãn với những gì thuộc về thế giới thụ tạo. Con người không ngừng
hướng về những thực tại siêu việt, không lệ thuộc vào thế giới vật chất. Nói
cách khác, con người là thụ tạo bị giới hạn trong không gian, thời gian và
không bao giờ thỏa mãn với những gì trong không gian, thời gian. Với ân sủng của
Thiên Chúa được Đức Giê-su thực hiện và trao ban, con người có thể vượt qua những
giới hạn của bản thân mình để được chung hưởng bình an và hạnh phúc vĩnh cửu.
Trước khi bước vào cuộc khổ nạn, Đức
Giê-su cho các môn đệ biết Người là Đường (Ga 14,6). Với những gì được trình
bày ở trên, chúng ta có thể khẳng định rằng Đường của Đức Giê-su là Đường Ân Sủng.
Hơn ai hết, thánh Phao-lô là người được Đức Giê-su phục sinh mặc khải và hoán cải
để thể hiện và diễn tả Đường Ân Sủng cách đầy đủ, sâu sắc và hùng hồn nhất. Đời
sống và lời giảng dạy của thánh nhân giúp mọi người nhận ra rằng chính ân sủng
của Đức Giê-su đã biến đổi ngài từ người bắt bớ các Ki-tô hữu trở thành chứng
nhân vĩ đại, bất khuất của Đức Giê-su, thành sứ giả hữu hiệu nhất trong việc
loan báo Tin Mừng ân sủng của Người. Nhờ trọn vẹn và trung thành đi Đường Ân Sủng
của Đức Giê-su, thánh Phao-lô đã để lại cho hậu thế tấm gương sống động và hoàn
hảo trong việc đón nhận ân sủng, cộng tác với ân sủng và để cho ân sủng thấm đượm
mọi chiều kích của đời sống mình. Đặc biệt, thánh nhân đã minh chứng cho Đường
Ân Sủng của Đức Giê-su bằng cái chết tử vì Đạo (Đường). Quả thực, thánh nhân sống
theo Đường Ân Sủng thế nào thì cũng chết cho Đường Ân Sủng như vậy.
Thánh Phao-lô tuyên bố trong sách
Tông Đồ Công Vụ: “Mạng sống tôi, tôi coi
thật chẳng đáng giá gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi
đã nhận từ Chúa Giê-su, là long trọng làm chứng cho Tin Mừng về ân sủng của
Thiên Chúa” (Cv 20,24). Trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, ngài viết: “Tôi là kẻ rốt hết trong toàn thể dân thánh,
thế mà Thiên Chúa đã ban cho tôi ân sủng này là loan báo cho các dân ngoại Tin
Mừng về sự phong phú khôn lường của Đức Ki-tô, và soi sáng cho mọi người được
thấy đâu là mầu nhiệm Thiên Chúa đã an bài” (Ep 3,8-9). Trong thư gửi tín hữu
Cô-lô-xê, thánh nhân viết: “Tin Mừng này
đang sinh hoa trái và lớn lên trên toàn thế giới như thế nào, thì nơi anh em
cũng vậy, từ ngày anh em được nghe nói và nhận biết ân sủng của Thiên Chúa thực
sự là gì” (Cl 1,6). Còn trong thư gửi Ti-mô-thê, thánh nhân khuyên dạy: “Hỡi anh, người con của tôi, anh hãy nên mạnh
mẽ trong ân sủng của Đức Ki-tô Giê-su. Những gì anh đã nghe tôi nói trước mặt
nhiều nhân chứng, thì hãy trao lại cho những người tin cẩn, những người sẽ có
khả năng dạy cho người khác” (2 Tm 2,1-2). Như thế, thánh tông đồ dân ngoại
không chỉ trung thành và trọn vẹn thể hiện sức mạnh và sự phong phú của Đường
Ân Sủng bằng cuộc đời ngài, bằng cả lời rao giảng và hành động phù hợp với lời
rao giảng mà còn cố gắng giúp các Ki-tô hữu khác cũng diễn tả Đường Ân Sủng giống
như ngài. Không chỉ những vị tông đồ tiêu biểu như thánh Phao-lô và thánh
Phê-rô, các môn đệ khác của Đức Giê-su thời Giáo Hội sơ khai cũng là những tấm
gương minh chứng cho hoa trái phong phú và mạnh mẽ mà ân sủng của Đức Giê-su đã
tác động và phát sinh trong đời sống của các ngài, khiến các ngài thực hiện được
những gì mà tự thân các ngài không thể làm được. Chẳng hạn, về thánh Tê-pha-nô,
phó tế tiên khởi, sách Tông Đồ Công Vụ cho chúng ta biết: “Ông Tê-pha-nô được đầy ân sủng và quyền năng, đã làm những điềm thiêng
dấu lạ lớn lao trong dân” (Cv 6,8). Noi gương các thánh tông đồ và các
Ki-tô hữu can trường trong thời sơ khai của Giáo Hội, những ai theo Đức Giê-su
thì được mời gọi làm chứng cho Đường Ân Sủng của Người giữa lòng thế giới.
Như đề cập ở trên, ân sủng của Đức
Giê-su không chỉ đến với mỗi cá nhân Ki-tô hữu mà còn hiện diện và hoạt động
nơi các cộng đoàn Giáo Hội địa phương. Quả thực, ân sủng được ban cho từng
Ki-tô hữu nhờ các cộng đoàn cụ thể của Giáo Hội hoàn vũ và cũng chính trong
tương quan không thể tách rời khỏi các cộng đoàn đó mà ân sủng được duy trì,
phát sinh hoa trái và tăng trưởng nơi các Ki-tô hữu cho đến khi đạt đến Cùng
Đích là Nước Thiên Chúa. Sở dĩ như vậy là vì, xét như là Thân Thể Mầu Nhiệm của
Đức Ki-tô và là Hiền Thê trung tín của Người, Giáo Hội là thực tại đón nhận kho
tàng ân sủng của Người; Giáo Hội sống, hoạt động và tăng trưởng không ngừng nhờ
ân sủng của Người. Giáo Hội vừa rao giảng Tin Mừng ân sủng, vừa thông truyền ân
sủng của Đức Giê-su hầu giúp mọi người trở nên chi thể trong Thân Thể Mầu Nhiệm
của Người. Theo Công Đồng Vatican II: “Dựa
vào sứ mệnh Chúa ủy thác, Giáo Hội rao giảng Phúc Âm cho mọi người và phân phát
các kho tàng ân sủng” (GS 89). Cũng theo Công Đồng Vatican II: “Sứ mệnh của Giáo Hội nhằm cứu độ con người,
sự cứu độ thành đạt được nhờ đức tin vào Chúa Kitô và nhờ ân sủng Người. Vậy việc
tông đồ của Giáo Hội và của tất cả các chi thể trong Giáo Hội trước hết nhằm
loan báo sứ điệp của Chúa Kitô bằng lời nói, việc làm và nhằm chuyển thông ân sủng
của Người cho trần gian” (AA 6). Thánh Giáo Hoàng Phao-lô VI khẳng định: “Rao giảng Tin Mừng là ơn huệ và ơn gọi
riêng của Giáo Hội, là chân tính sâu xa nhất của Giáo Hội” (Evangelii Nuntiandi 14). Cũng theo ngài:
“Việc Phúc Âm hóa luôn luôn hàm chứa một
công bố rõ ràng rằng nơi Đức Kitô, Con Thiên Chúa làm người, Đấng đã chết và đã
sống lại, ơn cứu độ đã được ban cho mọi người như ân sủng và lòng nhân lành của
Thiên Chúa. Sự công bố này là nền tảng, trung tâm và chóp đỉnh của việc Phúc Âm
hóa” (Evangelii Nuntiandi 27).
Chúng ta có thể kết luận rằng tương quan giữa Thiên Chúa và con người cũng như muôn vật muôn loài là tương quan ân sủng, nghĩa là nhờ ân sủng của Thiên Chúa mà con người và muôn vật muôn loài được hiện hữu, tiến triển và thành toàn. Tuy nhiên, Nguyên Tổ của gia đình nhân loại đã phạm tội và tự đoạn tuyệt với ân sủng của Thiên Chúa. Dầu vậy, chương trình ân sủng của Người vẫn tiếp tục trong lịch sử nhân loại cũng như lịch sử thế giới thụ tạo. Đặc biệt, khi thời gian tới hồi viên mãn, Đức Giê-su là Con vĩnh cửu và là Ân Sủng vĩnh cửu của Thiên Chúa đã đến trần gian. Với sự hiện diện và hoạt động của Đức Giê-su, Thiên Chúa vốn là vô hình đã trở nên hữu hình và cho phép con người tiếp cận, hầu thiết lập mối tương quan liên vị với Ba Ngôi Thiên Chúa. Chính Đức Giê-su đã diễn tả Người là Nguồn ân sủng, là Ân Sủng và là Đấng trao ban ân sủng. Quả thực, trong hành trình loan báo Tin Mừng, Người đã đến với mọi người và ban phát ân sủng cho tất cả, nhất là những người tội lỗi, đau khổ, bệnh tật, bị bỏ rơi, bị loại trừ hay bị ma quỷ hành hạ. Đường của Người trong hành trình trần thế là Đường Ân Sủng, Đường nối kết con người với Thiên Chúa, với nhau và với muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo. Nhờ Đức Giê-su là Đường Ân Sủng, con người được khôi phục phẩm giá là hình ảnh Thiên Chúa, đặc biệt, được thông phần bản tính Thiên Chúa và trở nên con cái của Người. Mọi người trong gia đình nhân loại được mời gọi đến với Đức Giê-su và đi trên Đường Ân Sủng của Người để đến với Quê Hương vĩnh cửu là Nước Thiên Chúa. Ước gì lời cuối cùng trong cuốn sách cuối cùng của bộ Kinh Thánh (sách Khải Huyền) trở nên hiện thực nơi các thành phần của gia đình nhân loại: “Chúc mọi người được đầy ân sủng của Chúa Giê-su” (Kh 22,21).