ĐỨC CHA PIERRE LAMBERT DE LA MOTTE NGƯỜI MÔN ĐỆ YÊU MẾN VÀ HƯỚNG TRỌN LÒNG TRÍ, CUỘC SỐNG VÀO “ĐỨC GIÊSU KITÔ CHỊU ĐÓNG ĐINH”

Nữ tu Cecilia Trần Thị Thanh Hương,
Hội dòng Mến Thánh Giá Gò Vấp


KÝ HIỆU VIẾT TẮT

NHẬP ĐỀ. 2

I. THẾ KỶ TÂM LINH. 2

     1. Xã hội Pháp thế kỷ XVII 3

     2. Giáo hội Pháp thế kỷ XVII 3

II. GIA ĐÌNH, CUỘC ĐỜI VÀ CÁC BẬC THẦY ĐẠO ĐỨC. 5

     1. Gia đình và cuộc đời của Đức cha Lambert 5

     2. Các bậc thầy đạo đức. 6

III. ĐỨC CHA PIERRE LAMBERT - “MỘT NGƯỜI SAY MẾN THÁNH GIÁ” 7

     1. Kinh nghiệm về Thánh giá. 7

     2. Yêu mến Thánh Giá. 9

     3. Khao khát cho nhiều người yêu mến Thánh Giá. 10

IV. ĐỨC CHA PIERRE LAMBERT - NGƯỜI MÔN ĐỆ YÊU MẾN VÀ HƯỚNG TRỌN LÒNG TRÍ, CUỘC SỐNG VÀO “CHÚA GIÊSU KITÔ CHỊU ĐÓNG ĐINH” 11

     A. CHIỀU KÍCH CHIÊM NIỆM.. 12

          1. Tâm hồn chiêm niệm sâu sắc

          2. Tâm thế quảng đại

     B. TINH THẦN KHỔ CHẾ. 16

          1. Khổ chế mang tính cách tự nguyện

          2. Khổ chế biểu hiện tình yêu thực tiễn đối với Thánh Giá Con Thiên Chúa

          3. Khổ chế gắn liền với tinh thần thờ phượng

          4. Khổ chế nhằm mục đích đồng hóa trọn vẹn với Chúa Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh

          5. Khổ chế theo mục đích luân lý tu đức

          6. Khổ chế mang ý hướng tông đồ

     C. TINH THẦN TÔNG ĐỒ.. 22

          1. Hồn tông đồ

          2. Sống sứ vụ tông đồ thừa sai

KẾT LUẬN


KÝ HIỆU VIẾT TẮT

I. KINH THÁNH

Theo hệ thống viết tắt trong bản dịch của Nhóm Phiên dịch Các Giờ Kinh Phụng vụ, năm 1993.

II. GIÁO HUẤN CỦA GIÁO HỘI

Các văn kiện của Công đồng Vaticanô II, theo hệ thống viết tắt trong quyển Công đồng Vaticanô II, bản dịch của Ủy ban Giáo Lý Đức Tin, trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam, năm 2012;

III. TÀI LIỆU DÒNG MẾN THÁNH GIÁ

1. Tiểu sử

- T.sử: Tiểu sử-Bút tích Đức cha Phêrô Maria Lambert de la Motte, Đấng Sáng Lập Dòng Mến Thánh Giá, tái bản năm 1998.

- Tiểu sử-Bút Tích-Linh đạo, Lưu hành nội bộ

2. Những Di Cảo của Đức cha Pierre Lambert de la Motte, trong Nhóm NCLĐMTG, Tuyển tập Bút tích (Di cảo), của Đức cha Pierre Lambert de la Motte, vị Đại diện Tông tòa Đàng Trong, Đấng Sáng Lập Dòng Mến Thánh Giá 1624 - 1679, 2017.

- Blt: Bức Luân Thư

- Ltk: Luật Tiên Khởi

- Btt: Bức Tâm Thư

- 1Nng: Bài nguyện ngắm 1

- 2Nng: Bài nguyện ngắm 2

- 3Nng: Bài nguyện ngắm 3

- T.Pal: Thư gửi Đức cha Héliopolis (François Pallu)

- Ltt: Luật Hiệp Hội Mến Thánh Giá Tại Thế.

- T.Clem: Thư đệ trình Đức Giáo Hoàng Clêmentê IX.

- 1T.Hal: Thư gửi cha Hallé.

- 1Sn: Suy nghĩ

- 1Cb: Cảnh báo

- 1Dl: Dốc lòng

- Đl: Động lực

- 2Dl: Dốc lòng

- 2Sn: Suy nghĩ

- 1T.ĐT: Thư thứ nhất gửi Giáo đoàn Đàng Trong

- 4Nng: Việc nguyện ngắm

- Tytt: Hiệu quả của tình yêu tinh tuyền

- Tcnt: Tập chú Nội tâm.

- Xm: Bản xét mình

- 2T.ĐT: Thư thứ hai gửi Giáo đoàn Đàng Trong.

- Đk : Những đau khổ của một thừa sai Tông Tòa.

- 2Cb: Cảnh báo

- 2T.Hal: Thư gửi cha Hallé.

- Dc: Di chúc của Đức cha Pierre Lambert de la Motte.

3. Hiến Chương Dòng Mến Thánh Giá

HC: Hiến Chương Bảy Hội Dòng Mến Thánh Giá, Tổng Giáo Phận Thành Phố Hồ Chí Minh năm 2000.

 

NHẬP ĐỀ

Một hôm đang đi dạo trên đường, tôi bước ngang qua cổng một ngôi biệt thự, bên ngoài có đề hàng chữ “Căn nhà của tình yêu tuyệt hảo”. Tôi vội vã bước đi, không dám quay nhìn lại. Xin bạn đừng hỏi vì sao tôi không dám dừng chân để bước vào căn nhà đó.

Sáng hôm sau, khi vừa bước chân ra khỏi nhà, tôi gặp một người ăn xin ở dưới chân đồi, tôi dừng lại, cho ông ta một chút tiền, người ăn xin hỏi tôi: “Tại sao bạn lại khóc?” “Tôi đâu có khóc đâu!”, “Bạn không nhỏ lệ bên ngoài, nhưng bạn đang khóc ở trong lòng”.

Đúng vậy, tôi đang khóc trong nội tâm tôi, vì tôi đã không đủ can đảm bước chân vào ngôi biệt thự chiều qua. Bởi vì tôi sợ rằng, khi bước vào, tôi sẽ bắt gặp một cây Thánh giá.

Khi tôi thú nhận điều này với người hành khất, ông trấn an tôi và nói: “Tôi hiểu bạn lắm. Trước kia tôi vẫn được mệnh danh là Người Sợ Hãi”. Tôi hiểu rằng nhiều khi chúng ta không dám bước vào những nơi kỳ ảo, nhưng lại có can đảm bước vào những chỗ có thật. Mặt khác, chúng ta có thể đương đầu với những nơi kỳ ảo, mà lại không dám đương đầu với những Sự Thật. Tại sao bạn không ngồi xuống đây cạnh tôi. Rồi chúng ta sẽ cùng nhau bước vào Căn Nhà của tình yêu tuyệt hảo...”[1].

Vâng, con xin kính mời Đức cha Giuse, quý cha, quý thầy và quý chị, cùng với Chúa Giêsu bước vào Căn nhà của Tình yêu Tuyệt hảo, để khám phá cuộc đời của Đức cha Lambert - người môn đệ yêu mến và hướng trọn lòng trí, cuộc sống vào Chúa Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh.

I. THẾ KỶ TÂM LINH

Chúng ta sẽ nói sơ qua về môi trường làm phát sinh linh đạo của Đức cha Lambert, và nói đến một vài điểm nổi bật trong hoàn cảnh

xã hội Pháp thế kỷ XVII, vì chính trong thời điểm này đã tạo nên một sức sống mãnh liệt trong đời sống tâm linh của Đức cha Lambert, nó giống như cái nôi mà người mẹ chuẩn bị cho đứa con sắp sinh ra, như mảnh đất mà người nông phu chăm bón cho hạt gieo sinh hoa kết quả. Đất không tốt làm sao cây đượm quả. Kẻ được hưởng trái ngon ngọt sẽ nhớ ơn người chăm bón đất. Qua đó, chúng ta sẽ nói đến ba chiều kích linh đạo mà chính Đức cha Lambert đã sống, đã cảm nghiệm, đã say mến, và sống trọn tình yêu, một tình yêu phi thường dành riêng cho Chúa Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh trong suốt cả cuộc đời.

1. Xã hội Pháp thế kỷ XVII

1.1. Thế kỷ vĩ đại

Cuộc đời Đức cha Pierre nằm gọn trong lòng thế kỷ XVII (1624-1679). Ngài sinh ra và lớn lên dưới triều đại Vua Louis XIII (trị vì từ 1610-1643). Ngài chọn hướng đi cho đời mình và thể hiện sự lựa chọn đó dưới triều đại Vua Louis XIV (trị vì từ 1643-1715).

Trong lịch sử nước Pháp và lịch sử Giáo hội, thế kỷ XVII được coi là vĩ đại về nhiều phương diện: chính trị, quân sự, văn chương và nghệ thuật, và có người còn gọi là thế kỷ của tâm linh[2].

1.2. Niềm vinh dự đích thực

Thế kỷ XVII của nước Pháp được đánh dấu bởi những cuộc hoán cải kỳ diệu và sự thấm nhuần tinh thần Phúc âm.

Cuối cùng “Phúc âm được người ta am hiểu lần đầu tiên tại nước Pháp”[3]. Điều đó mang lại cho nước này niềm vinh dự đích thực và bền bỉ, đến nỗi thi sĩ Charles Péguy đã mô tả nước Pháp như “một dân tộc làm vườn, vun trồng được những bông hoa đẹp nhất của sự thánh thiện”[4].

2. Giáo hội Pháp thế kỷ XVII

2.1. Những tác phẩm tu đức

Những tác phẩm tu đức đã góp phần hữu hiệu, hun đúc được nhiều tâm hồn đạo đức, thánh thiện:

- Sách Gương Chúa Giêsu: được viết vào thế kỷ XV, nhưng đã chiếm một vị trí đặc biệt trong đời sống người Công giáo thế kỷ XVII. Chúng ta được biết Pierre Lambert ham đọc và suy niệm quyển sách này từ thuở thiếu thời[5].

- Dẫn Vào Đời Sống Đạo Đức của Thánh François de Sales (1608). Tác phẩm này đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử tu đức, vì thánh nhân đặc biệt quan tâm hướng dẫn cách nên thánh cho các Kitô hữu sống giữa đời.

- Những tác phẩm thần bí của Thánh nữ Têrêsa Avila, được phiên dịch và phổ biến rộng rãi: Con Đường Hoàn Thiện, Lâu Đài Nội Tâm (1577).

2.2. Lòng sùng kính Mẹ Maria

Từ thời Thánh Bênađô (1091-1153), Vua Thánh Louis IX (1214-1270) và Thánh nữ Jeanne d'Arc (1412-1431), nước Pháp sống trong bầu khí rất sùng kính Đức Mẹ Maria. Truyền thống lâu đời ấy đạt tới cao điểm vào thế kỷ XVII: Vua Louis XIII long trọng dâng cả nước Pháp cho Đức Mẹ ngày 10.02.1638.

Thật vậy, Đức Trinh Nữ Maria đã chiếm một vị trí rất đặc biệt trong đời sống Giáo hội Pháp thế kỷ XVII, vì thế, một tác giả phải thốt lên: “Nước Pháp là lãnh địa của Đức Mẹ và là vương quốc tôn kính Đức Mẹ nhiều nhất trên khắp cả thế giới[6].

Trong bầu khí đó, Đức cha Lambert cũng có lòng tôn sùng Đức Maria cách đặc biệt, qua việc siêng năng lần hạt Mân Côi và hành hương kính viếng các nhà thờ được dâng kính Đức Mẹ. Ngài còn chỉ thị cho các chị em Mến Thánh Giá “lần hạt Mân Côi”, như một việc đạo đức của ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc (x. Ltk IV,6).

Vào cuối năm 1671, trước khi lập Dòng Mến Thánh Giá tại An Chỉ ở Đàng Trong, ngài dạy các ứng sinh hãy làm tuần cửu nhật kính Đức Mẹ và Thánh Giuse để xin ơn soi sáng[7]. Chính ngài cùng với Đức cha François Pallu, đã tôn vinh Đức Mẹ với tước hiệu đầy vinh dự “Đấng Sáng lập các miền truyền giáo của chúng tôi”[8].

2.3. Sinh hoạt của các dòng tu

Sinh hoạt của các dòng tu cũng thổi vào Giáo hội Pháp thế kỷ XVII một luồng sinh khí mới. Đó là những dòng mới như Dòng Tên, Dòng Bé Mọn... và những dòng kỳ cựu nhưng được canh tân như Dòng Biển Đức, Dòng Xitô, Dòng Đaminh, Dòng Phanxicô... Sự đóng góp của các dòng tu rất đa dạng nhưng tập trung vào hai lãnh vực chính: truyền giáo cho lương dân và huấn luyện đời sống đạo đức cho dân Chúa.

Trau dồi và đào sâu đời sống cầu nguyện trong các nhà tĩnh tâm do tu sĩ hoặc giáo dân hướng dẫn. Theo nhận định của một sử gia, thế kỷ XVII là thời đại hoàng kim của phong trào tĩnh tâm và nguyện ngắm có phương pháp[9].

Giáo hội Pháp thế kỷ XVII thật phong phú về tinh thần hăng say phấn khởi, về đời sống cầu nguyện, về chủ nghĩa anh hùng và các nhân đức thầm kín[10]. Chỉ trong giai đoạn đó, nước Pháp đã cống hiến cho Giáo hội ít nhất 27 vị thánh và chân phước được tuyên phong chính thức, và biết bao tâm hồn đạo đức thánh thiện khác dấn thân phục vụ Giáo hội[11].

II. GIA ĐÌNH, CUỘC ĐỜI VÀ CÁC BẬC THẦY ĐẠO ĐỨC

1. Gia đình và cuộc đời của Đức cha Lambert

Pierre Lambert de la Motte sinh ngày 28.01.1624, trong một gia đình thuộc dòng họ quý tộc giàu có, đã lâu đời gắn bó với nghề thẩm phán tại vùng Normandie, tây-bắc nước Pháp[12].

Sống trong gia đình đạo đức, Pierre Lambert thường hay tiếp xúc với giới nông dân và chia sẻ của cải vật chất cho người nghèo. Pierre thích tản bộ trong rừng vắng để cầu nguyện[13]. Đặc biệt Pierre say mê đọc và suy niệm sách Gương Phước, một tác phẩm linh đạo đã ảnh hưởng sâu sắc trên đời sống Giáo hội từ hai thế kỷ trước. Lúc lên chín tuổi, năm 1633, Pierre Lambert được ơn Chúa soi sáng cho biết: những người yêu mến Thánh Giá Chúa Giêsu nên quy tụ lại thành một Dòng mang tên Mến Thánh Giá, lấy từ đầu đề chương 11, quyển II của tác phẩm đó[14].

Sớm mồ côi cha mẹ và là trưởng nam trong gia đình gồm bảy chị em, Pierre Lambert phải gánh vác việc nhà, nên không hề nghĩ tới ơn gọi làm linh mục hay tu sĩ. Tuy nhiên, trong thời gian theo học chương trình trung học tại trường Dòng Tên ở Caen, Pierre được cha Julien Hayneuve, đồ đệ của cha Louis Lallemant, khai tâm về đời sống cầu nguyện để tìm ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần. Sau đó, Pierre được cha Simon Hallé Dòng Bé Mọn hướng dẫn vào đời sống khổ hạnh, đặc điểm nổi bật của dòng này[15]. Nhờ vậy, Pierre tập được thói quen tốt lành: nguyện gẫm mỗi ngày hai giờ, ăn chay nhiều lần trong tuần và rước lễ hằng ngày, điều hiếm thấy trong thế kỷ XVII.

Pierre Lambert làm luật sư lúc mới 22 tuổi, theo đúng truyền thống gia đình thẩm phán, quý phái. Sau khi trở thành bạn tâm giao của Thánh Jean Eudes, Pierre Lambert bỏ nghề thẩm phán và xin vào Chủng viện.

Thầy Pierre Lambert được thụ phong linh mục ngày 27.12.1655 tại Nhà thờ Bayeux. Sau đó, ngài trở thành một nhà hoạt động xã hội với chức danh Giám đốc Trung tâm Xã hội Rouen (1655-1660), chăm lo cho người nghèo thuộc nhiều loại, từ trẻ mồ côi, thiếu niên thất học, người vô gia cư và thất nghiệp, đến những phụ nữ lầm lỡ[16].

Ngày 29.07.1658 với sắc lệnh Apostolatus Officium, Đức Thánh cha Alexandre VII chọn cha François Pallu làm Giám mục hiệu tòa Heliopolis và cha Pierre Lambert de la Motte làm Giám mục hiệu tòa Béryte[17]. Và ngày 09.09.1659 với sắc lệnh Super Cathedram, Đức Thánh cha Alexandre VII lại bổ nhiệm hai vị tân Giám mục này làm Đại diện Tông tòa đi truyền giáo cho lương dân. Đức cha François Pallu đảm nhiệm Đàng Ngoài Việt Nam, Lào và năm tỉnh miền nam Trung Hoa. Đức cha Pierre Lambert phụ trách Đàng Trong Việt Nam, Cambốt, bốn tỉnh miền tây nam Trung Hoa và đảo Hải Nam[18], và ngày 11.06.1660, ngài được Đức cha Bouthillier, Tổng Giám mục Tours tấn phong Giám mục tại nguyện đường Dòng Thăm Viếng ở Paris.

Với tinh thần hăng say và đầy nhiệt huyết, ngày 24.11.1660, đoàn thừa sai gồm Đức cha Pierre Lambert, cha Jacques de Bourges, cha François Deydier và một người giúp việc rời Pháp, vượt biển Địa Trung Hải, lên bờ Alexandrette (Thổ Nhĩ Kỳ) rồi mạo hiểm bằng đường bộ qua Iraq, Iran, đến Ấn Độ và tới Ayutthaya thủ đô Xiêm La (Thái Lan) ngày 22.08.1662.

Quả thật, cuộc đời và sự nghiệp của Đức cha Lambert chắc chắn đã trải qua những khó khăn và thử thách, nhưng ngài cũng được ảnh hưởng bởi các bậc thầy đạo đức của nước Pháp thời bấy giờ.

2. Các bậc thầy đạo đức

Vị linh hướng đầu tiên của Đức cha Pierre Lambert là cha Julien Hayneuve, thuộc Dòng Tên có thế giá qua “đời sống siêu thoát trần gian, kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa, khiêm nhường thẳm sâu, nguyện ngắm cao siêu...”[19]. Chính ngài đã khai tâm cho Pierre Lambert về đời sống cầu nguyện, xin ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần và sống trong sự lệ thuộc hoàn toàn vào Đức Kitô: “Ngôi Lời Nhập Thể phải điều khiển chúng ta như đã điều khiển nhân tính của Người”[20]. Tư tưởng này của cha Hayneuve được phản ánh rõ nét trong quan niệm tu đức của Đức cha Lambert.

Ông Jean de Bernières (1602-1659), một giáo dân đạo đức, là bạn đồng hương của Thánh Jean Eudes và Đức cha Pierre Lambert. Ông nổi bật giữa Giáo hội vùng Normandie và cả nước Pháp với một tâm hồn chiêm niệm sâu sắc và tinh thần tông đồ nhiệt thành, thể hiện bằng những việc:

- Xây Ẩn viện Caen làm nơi tĩnh tâm để cổ võ việc nguyện ngắm.

- Lập Hiệp hội Khổ Nhục để phát huy đức khiêm nhường và tinh thần khổ chế, và lập hội giúp đỡ người nghèo khổ bệnh tật.

- Tận tình yểm trợ chương trình truyền giáo ở Canada. Các bài huấn đức ông giảng cho thành viên Hiệp hội Thánh Thể hoặc cho môn sinh tại Ẩn viện Caen được thu thập và xuất bản với nhan đề: “Người Kitô Hữu Nội Tâm”. Chính Đức cha François Pallu đặc biệt giới thiệu quyển sách này với các cha Giám đốc Chủng viện Thừa sai Paris để làm tài liệu giảng dạy và sách thiêng liêng cung cấp đề tài nguyện ngắm[21].

Giáo huấn và gương sáng của ông Jean de Bernières ghi đậm nét trên tâm hồn Đức cha Lambert, mặc dầu quan niệm tu đức và phương pháp nguyện ngắm của ông có vài điểm hơi thái quá.

Thánh Jean Eudes là gạch nối quan trọng giữa linh đạo trường phái Pháp và Đức cha Pierre Lambert. Thánh nhân là môn đệ trực tiếp của Đức Hồng y de Bérulle, đã sống trong Hội Nguyện Đường 20 năm (từ 1623-1643) trong nhiệm kỳ Bề trên của Đức Hồng y và cha Condren; còn Đức cha Lambert là môn đệ của Thánh Jean Eudes, đã từng cộng tác với ngài trong việc mở chủng viện đào tạo các linh mục tại Rouen. Ảnh hưởng của thánh nhân trên Đức cha Lambert thuộc ba lãnh vực: tu đức, mục vụ và xã hội[22].

Một vị linh hướng khác của Đức cha Lambert là cha Simon Hallé, đã hướng dẫn ngài vào đời sống khổ hạnh là đặc điểm nổi bật của Dòng Bé Mọn. Các tu sĩ Dòng Bé Mọn tạo được ảnh hưởng tốt tại Pháp trong thế kỷ XVII. Khi Đức cha Lambert sang Thái Lan, tiếp xúc với giới tăng ni Phật Giáo Tiểu thừa, ngài liên tưởng tới Dòng Bé Mọn có nếp sống khổ hạnh, gần giống như họ.

III. ĐỨC CHA PIERRE LAMBERT - “MỘT NGƯỜI SAY MẾN THÁNH GIÁ”

Đức cha Pierre Lambert là một người say mến Thánh Giá, theo Đức cha Laneau là người đã sống cận kề bên Đức cha Lambert suốt 15 năm tại Thái Lan (1664-1679), đã nhận định về vị Bề trên và vị thầy của mình như sau: “...Chính Chúa Kitô để cho Đức cha Lambert cảm nếm tột độ sức nặng của Thánh giá Chúa, mà ngài đã say mến suốt đời”. Vì thế, hai đặc điểm nổi bật trong cuộc đời Đức cha Lambert là ngài đã “sống giữa muôn vàn thập giá và gian truân”“say mến Thánh Giá Chúa Giêsu suốt đời”. Do đó, Đức cha Lambert đúng là “một người say mến Thánh giá”.

1. Kinh nghiệm về Thánh giá

1.1. Lúc lên 9 tuổi[23]

Lúc lên 9 tuổi, năm 1633, ngài được ơn Chúa soi sáng cho biết: những người yêu mến Thánh giá Chúa Giêsu nên quy tụ lại thành một Hội dòng mang tên Mến Thánh Giá, lấy từ đầu chương 11, quyển II của tác phẩm đó[24].

Ba mươi năm sau, trong cuộc tĩnh tâm 40 ngày tại Ayutthaya vào năm 1663, vị Giám mục thừa sai đầu tiên của miền Đông Á lại được thôi thúc để thành lập một Hiệp hội mang tên Những Người Yêu Mến Thánh Giá.

Từ đó, ngài hay dùng châm ngôn “Chúa Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh phải là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta”, để mở đầu cho các bức thư (1T.ĐT 1).

1.2. Khi làm việc tông đồ

Đức cha Pierre Lambert có kinh nghiệm về Thập giá khi làm việc tông đồ, ngài nói: Một thừa sai Tông tòa phải là một hy lễ đau khổ xứng với bậc sống của mình, và việc chỉ biết một mình Chúa Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh là khoa học thần linh cho bậc sống của họ (x. Đk 1-3). Ngài nêu lên các phương thế để ứng xử với hai loại thập giá: Thập Giá tự nguyện và Thập giá đến từ Thiên Chúa mà một thừa sai phải đương đầu (x. Đk 4-13).

Thập giá tự nguyện là “những kỷ luật về việc đền tội thể xác như thức khuya, ăn chay, đánh tội, mặc áo nhặm, chịu nóng, chịu lạnh, mệt nhọc, đói khát, cô đơn, nguyện ngắm, phó thác sức khỏe cho Thiên Chúa, coi bệnh tật như trang phục bên ngoài hay y phục lễ hội mặc vào để trình diện với Thiên Chúa” (Đk 5). Đặc biệt, để thực hành lâu dài những hy sinh và khổ chế tự nguyện, Đức cha Lambert khuyên nhủ: “Điều cần lưu ý ở đây là những việc hãm mình ép xác phải phù hợp với sức lực của mỗi người để có thể thực hành lâu dài, tuy nhiên không được hèn nhát. Cần phải thực thi công bằng với Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chịu chết vì tội chúng ta, bởi lẽ chính chúng ta là thủ phạm gây ra cái chết của Người” (Đk 6-7).

Thập giá đến từ Thiên Chúa là “những thập giá không tùy thuộc vào chúng ta đến từ bốn nguyên nhân: ma quỷ, loài người ta, chính chúng ta và Thiên Chúa (x. Đk 8-14)

- Nguyên nhân thứ nhất: phải làm dấu Thánh giá, cậy nhờ công nghiệp và cuộc chiến thắng của Đức Giêsu Kitô, mà linh hồn hoàn toàn tín thác, phải dâng về cho Người vinh dự của cuộc chiến thắng đó bằng việc thú nhận sự bất lực và hư vô của mình.

- Nguyên nhân thứ hai: phải thắng vượt nó bằng sự nhẫn nại với tâm tình sẵn lòng vâng phục và tạ ơn Thiên Chúa. Phần thượng nơi con người phải kết hợp với Thiên Chúa duy nhất.

- Nguyên nhân thứ ba: phải thắng vượt nhờ tác động của Chúa Thánh Thần.

- Nguyên nhân thứ tư đến từ Thiên Chúa: phải được đón nhận với tâm tình hoàn toàn vui thỏa, và trong tâm thế của Đức Giêsu Kitô khi Người chịu đựng đau khổ do lệnh của Thiên Chúa Cha (x.Phil 2,8; Mc 14,36//Mt 26,39//Lc 22,42). Nhưng vì linh hồn không có khả năng lĩnh hội được những điều đó, nên phải kết hợp với những trực giác của Chúa Giêsu bằng một sự kết hợp hoàn toàn thụ động.

Vị thừa sai Tông tòa thường gặp loại thập giá cuối cùng này, và đó là thập giá cao cả nhất. Bởi lẽ, nếu linh hồn ở trong một tâm thế sẵn sàng dâng mình làm hy lễ, theo gương Chúa Giêsu chấp nhận chịu chết vì vâng lời Chúa Cha, thì linh hồn được kết hợp với tình yêu diễm phúc của Chúa Giêsu ở mức độ cao nhất (Đk 14-23).

2. Yêu mến Thánh Giá

Yêu mến Thánh giá là điều mà nhân loại ngày hôm nay sợ hãi, tránh né và trốn tránh, “có người không vác Thánh giá của mình hay của người khác mà tưởng tượng Thánh giá mình quá nặng. Có người vác Thánh giá cả làng mà không vác Thánh giá của mình. Có người vác Thánh giá cả làng và gán Thánh giá của mình bắt kẻ khác vác”[25].

Ngày kia, trong lúc thuyết giảng, Đức cha Fulton Sheen, vị đại tông đồ nước Mỹ, đã chỉ vào Thánh giá bạc đang đeo trên ngực và nói: “Tôi đeo Thánh giá này là để đền tạ”. Khi được hỏi lý do, ngài đã kể lại rằng: một lần nọ, ngài đến thăm người bạn gốc Do Thái bán đồ nữ trang ở New York. Ông ta nói với ngài: “Tôi có ít Thánh giá bạc tặng Đức cha”. Đức cha hỏi: “Ở đâu mà ông có những Thánh giá này?”. Ông ta trả lời: “Từ các nữ tu. Họ mang đến và nói: chúng tôi không còn đeo những Thánh giá này nữa. Vì những Thánh giá này làm chúng tôi bị ngăn cách với thế giới hôm nay”[26].

Quả thật, Thánh giá không làm cho chúng ta bị ngăn cách với thế giới như câu chuyện trên, nhưng: “Thánh giá là nguồn an ủi từ trên trời, là sức mạnh của lý trí, là niềm vui của trái tim”. Và, “không con đường nào đưa đến sự sống và bình an thật cho tâm hồn, ngoài con đường Thánh giá và từ bỏ mình liên lỉ”[27].

Đức cha Lambert tha thiết yêu mến Thánh giá Chúa Giêsu và khát khao đồng hóa với Người trong mầu nhiệm Tử Nạn. Ngài muốn tiếp nối cuộc đời đau khổ của Chúa Cứu Thế, và sẵn sàng cho Người mượn thân xác để tiếp tục hy sinh. Có lần ngài nói với các linh mục của mình: “Hãy học hỏi Chúa Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh, đó là phương thế chắc chắn đem lại sự khôn ngoan và lòng yêu mến”. Thậm chí ngài còn quả quyết: “Người Kitô hữu nào không chịu đau khổ thì chỉ có cái vỏ của lòng đạo đức[28].

Châm ngôn mà ngài chọn sau cuộc tĩnh tâm 40 ngày tại Ayutthaya năm 1662: “Chúa Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh phải là đối tượng duy nhất của lòng trí tôi” và tên gọi “Mến Thánh Giá” ngài đặt cho Hiệp hội giáo dân tông đồ và Dòng Nữ đầu tiên được thành lập tại châu Á, mang dấu ấn kinh nghiệm thiêng liêng của ngài về cuộc gặp gỡ ân tình với Chúa Cứu Thế trong Mầu Nhiệm Tự Hạ (x. Pl 2,6-8).

Hơn nữa, Đức cha Lambert còn dùng hình ảnh núi Sọ và núi Tabor để nói đến lòng yêu mến Thập giá. Ngài nói: Yêu mến Chúa Giêsu Kitô trong những lúc tăm tối, thập giá, hy sinh và uống chén đắng của Người, thì một trật chúng ta cũng được Người lấp đầy những ân tình dịu dàng cho chúng ta (x. Tytt 4). '“Chúng ta phải hối tiếc đến hơi thở cuối cùng vì đã hiểu biết quá ít, yêu mến quá ít, tôn thờ quá ít, tạ ơn quá ít Đấng Tạo hóa của chúng ta. Nhưng trái tim chúng ta phải bị đâm thâu bởi sự vô ơn chúng ta đã phạm đổi với Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã đến trong thế gian để dạy chúng ta bằng lời nói, gương sáng và cái chết lạ lùng nhất và trở thành con đường mà chúng ta phải đi” (2Dl 39-40).

3. Khao khát cho nhiều người yêu mến Thánh Giá

Đức cha Lambert ao ước có thật nhiều người hiểu biết và yêu mến Thánh giá, nên ngài khao khát các Giám mục, linh mục, nữ tu và giáo dân thuộc đủ mọi thành phần phổ biến khắp nơi tình yêu thực tiễn đối với Thánh giá Con Thiên Chúa. Hơn nữa, '“là để tái hiện sự đau đớn và ân sủng gắn liền với cuộc Thương Khó của Người” (Bts VI,1), bằng việc “chuyên chú suy gẫm cuộc Thương Khó và thông dự những nỗi khổ đau của Người hằng ngày trong suốt cuộc đời” (Ltk I,4)

3.1. Các Giám mục và linh mục (Hội Tông đồ)

Đức cha Lambert muốn thành lập Hội Tông Đồ vì ngài thấy tình trạng sa sút đời sống đạo đức của người Công giáo và lối sống quá thoải mái của các vị thừa sai tại vùng Đông Á. Đồng thời, ngài lại thấy tăng lữ Phật giáo Thái Lan hâm mộ sự chiêm niệm, sống khắc khổ, không dùng thuốc chữa bệnh, ăn chay kiêng thịt và rượu suốt đời. Vì thế, họ được dân chúng quý trọng và tin tưởng.

Hai vấn đề nêu trên giúp Đức cha Lambert xác tín rằng, để có được những người tông đồ kiến hiệu trong việc rao giảng Tin Mừng, các thành viên cần phải tuyên ba lời khấn: nghèo khó, khiết tịnh, vâng lời; nguyện ngắm ba giờ mỗi ngày, không nằm giường nệm, không dùng thuốc chữa bệnh khi đau ốm, nhưng chỉ tìm đến với linh dược Đức tin, Thánh lễ và các Á Bí tích của Giáo hội; ăn chay, kiêng thịt, kiêng rượu quanh năm kể cả Chúa nhật, trừ những lúc đi xa và ba ngày lễ: Giáng sinh, Phục sinh, Hiện xuống là những ngày họ biến nước mắt đền tội thành nước mắt vui mừng tạ ơn (x. Lý tưởng Hội Tông đồ, chương II).

3.2. Các nữ tu (Dòng Nữ Mến Thánh Giá)

Theo Đức cha Lambert: “...những gì là ân sủng và thánh đức nơi những người đã, đang hoặc sẽ hiện hữu trên đời, đều xuất phát từ Thánh giá Đức Giêsu Kitô. Thế nên, thật rất đáng kinh ngạc, vì người ta đi tìm ở đâu đâu những phương thế cần thiết cho việc nên thánh, chứ không tìm nơi Thánh giá” (Bts II,1-2). Hơn nữa, “các thừa sai Pháp rất xác tín về chân lý lớn lao ấy, và nhận thức rằng vác Thánh giá Chúa Cứu Thế trong tâm hồn và ngoài thể xác là việc đạo đức vượt trên các việc đạo đức, nên đã khuyến khích các tín hữu đi theo con đường diễm phúc và chắc chắn đó” (Bts II,3).

Từ đó, “một vài tâm hồn say mê con đường này, đã khẩn thiết yêu cầu phải hình thành một Hiệp hội gồm những người chuyên chú đi theo con đường ấy suốt đời. Lời khẩn cầu tốt đẹp ấy là hiệu quả của ân sủng phi thường trong họ, buộc các nhà thừa sai đặt nền tảng đầu tiên cho một Hiệp hội tại Xiêm La, để phổ biến khắp nơi trong các miền truyền giáo, và Hiệp hội được mệnh danh là Hiệp hội Những Người Mến Thánh Giá Đức Giêsu Kitô” (Bts II,4-5).

Mục đích mà Đức cha Lambert thành lập Dòng nữ Mến Thánh Giá là để “phổ biến khắp nơi tình yêu thực tiễn đối với Thánh giá Con Thiên Chúa, và làm sao cho các thành thị cũng như xóm làng đều có một sổ tín hữu không những hằng ngày suy gẫm, mà còn thực sự thông phần các đau khổ của Đức Giêsu Kitô bằng việc chế ngự thân xác” (Bts III,1-2). Bên cạnh đó, “sự thực hành việc đạo đức thánh hảo này có tác dụng tạo ra nhiều ơn lành trong các địa phương ở đây, đến độ những ai có diễm phúc lãnh nhận các ơn ấy, đều chỉ tiếc rằng đã bắt đầu thực hành quá muộn, hay nói đúng hơn đã không biết điều đó sớm hơn nữa. Nhưng cuối cùng, “bây giờ chính là lúc những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Chân Lý, vì Chúa Cha chỉ muốn gặp thấy những kẻ thờ phượng Ngài như thế” (Ga 4,23; Bts III,3-4).

Ngay sau khi việc suy gẫm và noi theo Thánh giá Đức Giêsu Kitô được đề nghị với những Kitô hữu tại đây, để họ thực hành hằng ngày, nhiều người đã ôm ấp điều đó với lòng trung thành không thể ngờ được. Như vậy, họ đã thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và Chân Lý theo đúng cách thờ phượng Ngài muốn (x. Ga 4,23).

3.3. Các tín hữu đủ mọi thành phần (Hiệp hội Tín hữu Mến Thánh Giá)

Đối với các tín hữu đủ mọi thành phần, Đức cha Lambert mong ước họ yêu mến Thánh Giá với mục đích chính yếu là “để thôi thúc các tín hữu khắp nơi hướng tới tình yêu thực tiễn đối với Thánh giá Con Thiên Chúa, và làm sao cho các thành phố cũng như xóm làng đều có một số tín hữu hằng ngày suy gẫm sự Thương Khó Đức Giêsu Kitô, rồi thể hiện sự suy gẫm ấy ra bên ngoài bằng một hành động hãm mình phạt xác” (Ltt II,1-2).

Hơn nữa, “sự thực hành việc đạo đức này mang lại những hoa trái phong phú trong các địa phương ở đây, đến nỗi những ai đáng được hưởng thành quả ấy đều chỉ tiếc rằng đã bắt đầu thực hành quá muộn, hay nói đúng hơn, đã không biết điều đó sớm hơn nữa” (Ltt II,3). Và “ngay sau khi Thánh giá Đức Giêsu Kitô được đề nghị cho các tín hữu tại các địa phương ở đây hằng ngày tưởng nhớ bằng suy gẫm và noi theo, thì nhiều người đã ôm ấp Thánh giá với tâm hồn nhiệt thành không thể ngờ được, và như vậy họ đã thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và Chân Lý theo đúng cách thờ phượng Ngài muốn” (Ltt II,5-6).

Quả thật, Đức cha Lambert không những là một người say mến Thánh giá, mà còn là người môn đệ yêu mến và hướng trọn lòng trí, cuộc sống vào “Chúa Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh” được thể hiện qua ba chiều kích: Chiêm niệm, khổ chế và tông đồ mà chúng ta sẽ nói sau đây:

IV. ĐỨC CHA PIERRE LAMBERT - NGƯỜI MÔN ĐỆ YÊU MẾN VÀ HƯỚNG TRỌN LÒNG TRÍ, CUỘC SỐNG VÀO “CHÚA GIÊSU KITÔ CHỊU ĐÓNG ĐINH”

A. CHIỀU KÍCH CHIÊM NIỆM

1. Tâm hồn chiêm niệm sâu sắc

Đức cha Lambert de la Motte có một tâm hồn chiêm niệm sâu sắc: từ thời trẻ tuổi, ngài có thói quen nguyện ngắm mỗi ngày[29] và trải qua những cuộc tĩnh tâm 30 hoặc 40 ngày. Kinh nghiệm sa mạc này được lặp lại nhiều lần trong đời ngài, kể cả trong thời gian làm Giám mục thừa sai tại châu Á[30], với mong ước để trở nên một lễ vật hiến dâng cho Thiên Chúa.

1.1. Trở nên một lễ vật hiến dâng

Trong Bài nguyện ngắm ngày 07.09.1662 Đức cha Pierre Lambert ý thức mình là một “lễ vật hiến dâng” (2Nng 1)[31], ngài nói: “Tôi đã thấy mình được hạnh phúc trở nên một lễ vật hiến dâng, một lễ vật được chiếu nhận và với sổ phận sẽ bị tan biến vào một ngày nào đó, nhờ lòng thương xót đặc biệt của Thiên Chúa, nhằm làm sáng danh Ngài và cứu độ anh chị em đồng loại”. Đồng thời, ý thức về sứ vụ chuyển cầu và nêu gương cho muôn dân, vì thế ngài quả quyết: “... không những tôi phải mang trong nội tâm một tinh thần liên lỉ sám hối đền tội, tạ ơn và chuyển cầu hơn nữa cho muôn dân đạt được sự hoàn thiện; hằng ngày dâng hy tế Thánh lễ cầu nguyện cho họ hiểu biết và yêu mến Chúa Giêsu Kitô mỗi ngày một hơn, và xin Người khấng ban ơn soi sáng cho những ai chưa có được hạnh phúc duy nhất ấy; mà tinh thần đó còn phải sinh hoa kết quả thiết thực ra bên ngoài để nêu gương cho mọi người nữa” (2Nng 2).

Đặc biệt, “ở đỉnh cao của giờ nguyện ngắm, tôi thấy rằng tôi sẽ không đạt được sự trọn lành cao độ mà Chúa Giêsu Kitô đòi hỏi nơi tôi, nếu tôi không thể hiện ra bên ngoài ý nghĩa của ba lời khấn nội tâm mà tôi tuân giữ hết sức mình với sự trợ giúp của ơn thánh Chúa, nghĩa là, đổi với lời khấn nghèo khó: chổi bỏ, khước từ, đánh mất liên tục và trọn vẹn các năng lực của linh hồn[32]; đối với lời khấn khiết tịnh: không bao giờ chấp nhận một sự quyến luyến với chính mình hoặc với một thụ tạo nào khác; đổi với lời khấn vâng lời: luôn luôn làm theo sự thôi thúc nội tâm” (2Nng 3).

Hơn nữa, để trở nên một lễ vật hiến dâng đòi hỏi phải sống khổ chế nhiệm nhặt nữa, ngài nói: “Thiên Chúa tốt lành đòi hỏi thân phận sống đời đền tội công khai mà Ngài dành cho tôi do lòng thương xót của Ngài, phải mang lại hiệu quả thiết thực. Ngài ước muốn tôi kiêng thịt và ăn chay suốt đời, kể cả các ngày Chúa nhật, bởi vì lòng nhân lành của Ngài bị xúc phạm mọi ngày quanh năm, thì không lý gì lại để một ngày trôi qua mà không đền bù phạt tạ; có chăng là trừ các ngày lễ Giáng sinh, Phục sinh và Hiện xuống có thể ăn thịt, vì trong các ngày ấy dường như được phép biến nước mắt sám hối thành nước mắt vui mừng và tạ ơn (x. 2Nng 4).

1.2. Nhạy bén trong sự tác động của ơn thánh

Nhờ ân sủng thần bí Chúa ban, từ lúc thiếu thời, tâm hồn Đức cha Lambert đã sớm trở nên nhạy bén và tỏ ra ngoan nguỳ trước những tác động của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, lúc mới lên 9 tuổi tại Lisieux, ngài được ơn Chúa soi sáng để hình dung ra một Hội dòng gồm Những Người Yêu Mến Thánh Giá. Ba mươi năm sau, trong cuộc tĩnh tâm 40 ngày tại Ayutthaya vào năm 1663, vị Giám mục thừa sai đầu tiên của miền Đông Á lại được thôi thúc để thành lập một Hiệp hội mang tên Những Người Yêu Mến Thánh Giá. Cuộc tĩnh tâm này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lộ trình thiêng liêng của Đức cha Lambert, làm phát sinh nơi ngài “một ước nguyện lớn lao là chứng tỏ một tình yêu phi thường đổi với Chúa Giêsu Kitô” (Bts I,1).

Với tâm hồn chiêm niệm, vị tông đồ thừa sai chân chính luôn cảm nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng tốt lành hằng soi tỏ cho ngài biết phải sống thế nào cho đẹp lòng Ngài. Trong cuộc hành trình đến miền truyền giáo, Đức cha Lambert thường xuyên có được những cảm nghiệm nội tâm sâu sắc về sự tác động của Thiên Chúa trong tâm hồn, như ngài từng chia sẻ với vị linh hướng của mình: “con phải thưa với cha rằng, dường như Thiên Chúa toàn năng làm chủ nội tâm và các hoạt động của nội tâm chúng ta. Cách Ngài tác động trong chúng ta thật là tuyệt đối, không còn có vấn đề vận dụng ý chí để muốn, nhưng một khi linh hồn thấy, hoặc cảm nghiệm được thánh ý Thiên Chúa thì hướng ngay về đó, chẳng những không cần suy nghĩ gì cả, mà còn cảm thấy thích thú một cách khôn tả nữa” (IT.Hal 3-5).

Đối với Đức cha, cuộc hành trình thừa sai này còn là một cuộc hành hương đặc biệt, giúp ngài nhận thức được những đòi hỏi của Thiên Chúa trong việc hoán cải không ngừng, để có được một đời sống hoàn hảo, thánh thiện, xứng hợp với bậc sống. Bên cạnh đó, việc vun trồng đời sống nội tâm sâu sắc luôn là nhu cầu thiết yếu để tâm hồn vị thừa sai ngày càng trở nên nhạy bén và trung thành với tác động của ân sủng (x. 1Sn 3).

2. Tâm thế quảng đại

2.1. Lắng nghe Thần Khí

Đức cha Lambert xác tín rằng, Chúa Thánh Thần hằng cư ngụ và hoạt động trong nội tâm mỗi người, “để tiếp nổi những hoạt động mà Ngài đã thực hiện trong nội tâm Chúa Giêsu Kitô ” (IT.Hal 3-5). Khi nhận thức được sự hiện diện và linh hoạt của Thần Khí trong nội tâm, linh hồn sẽ có thái độ nội tâm thích hợp, đó là “hoàn toàn chú tâm vào việc lắng nghe Thần Khí” (4Nng 12). Nhờ đó, linh hồn sẽ nhận được tác động của Thần Khí và “chỉ cần làm theo sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần là Đấng sẽ ở lại và cư ngụ trong họ” (1Nng 5).

Lắng nghe Thần Khí là thái độ tất yếu trong cầu nguyện cũng như trong mọi hoạt động của nội tâm. Chính Thần Khí Đức Giêsu Kitô không ngừng thôi thúc những tâm hồn luôn khao khát tìm kiếm Thiên Chúa và hướng dẫn họ cách thức thờ phượng đẹp lòng Ngài. “Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong Thần Khí và Sự Thật” (Ga 4,23-24). Việc lắng nghe Thần Khí cũng là cách thức tìm kiếm Thiên Chúa trong Thần Khí và Chân Lý, giúp các tâm hồn thiện chí dễ dàng đi vào trong tương quan mật thiết với Thiên Chúa, qua Con Một yêu dấu của Ngài, được chìm sâu trong sự hiện diện của Ngài, được tan biến trong Ngài và liên lỉ được Thần Khí của Ngài linh hoạt.

Cũng chính trong Thần Khí và Chân Lý mà mọi tâm tình, trạng thái, hoạt động của con người được hướng dẫn đến một sự kết hợp trọn vẹn với Thiên Chúa. Trong hành trình thừa sai cũng như trong các hoạt động truyền giáo, Đức cha Lambert luôn chú tâm tìm kiếm sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Đối với ngài, mỗi chặng dừng chân trên hành trình truyền giáo là một dịp tĩnh tâm để lắng nghe Thần Khí[33].

2.2. Chiêm ngắm Chúa Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh

Tình yêu đối với Đấng chịu đau đớn, hấp hối và chết trên giá gỗ còn gợi lên trong tâm trí Đức cha Lambert tước hiệu đặc biệt của Chúa Giêsu Kitô trên Thánh giá. Ba chữ “Chịu-Đóng-Đinh” là sáng kiến đầy ý nghĩa đã được ngài thêm vào sau tên Chúa Giêsu, trong khẩu hiệu ngài thường viết đầu lá thư: “Chúa Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh phải là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta”[34]. Quả vậy, kinh nghiệm thiêng liêng của Đức cha Pierre Lambert là một kinh nghiệm về tình yêu phi thường dành riêng cho Chúa Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh. Chính tình yêu ấy là linh hồn và động lực của đời sống chiêm niệm, khổ chế và tông đồ của ngài.

Với khuynh hướng tập trung vào đối tượng duy nhất là Đức Chúa Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh, Đức cha Lambert còn tìm ra những nguyên tắc hữu hiệu cho đời sống nội tâm, những phương pháp cầu nguyện đặc biệt, đồng thời cũng khám phá được những bí quyết thánh thiêng, mới mẻ, đem lại lợi ích thiêng liêng cho tâm hồn: “Thật vậy, chúng ta hãy nhìn xem ở đâu mình có thể nhận được nhiều ánh sáng hơn để chiếu soi cho trí hiểu, nhiều tình yêu hơn để nung nấu ý chí, và nhiều đề tài hơn để nhắc chúng ta nhớ lại nghĩa vụ của mình đối với Đức Giêsu-Kitô, Chúa chúng ta? Có gì có thể sánh với việc liên lỉ nhìn thấy Chúa hiện diện, chịu đau đớn, hấp hổi và chết trên giá gỗ? Nếu chúng ta muốn giục lòng tin, cậy, mến là ba nhân đức hướng thần, điều gì có khả năng gây nhiều ấn tượng hơn là việc liên lỉ nhìn ngắm cảnh tượng đó?'” (Tcnt 7-9).

Việc chiêm ngắm ấy cũng đem lại cho đời sống thiêng liêng một hiệu quả chắc chắn, đó là khi linh hồn chỉ tập trung vào Chúa Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh, chỉ nhìn thấy những đau đớn của Người trên Thánh giá, thì sẽ kết hợp với Thiên Chúa một cách rất đặc biệt (x. Tcnt 4). Mặt khác, nhờ ân sủng nhận được qua việc chiêm ngắm ấy, chúng ta sẽ học được cách làm chủ hoàn toàn mọi đam mê của mình, “để từ nay chỉ làm vui lòng Chúa Chịu-Đóng-Đinh, và chỉ tìm kiếm những điều có thể làm cho mình yêu mến Chúa hơn” (Tcnt 12). Thật vậy, đây là cách thực hành thánh thiện của người môn đệ Chúa Giêsu trong việc nguyện ngắm, là bí quyết lớn nhất của đời sống nội tâm và trọn lành, và là nét đặc thù trong linh đạo của Đức cha Lambert.

2.3. Nguyện ngắm thụ động

Việc liên lỉ chiêm ngắm Đấng Chịu Đóng Đinh trên Thánh giá không những làm phát sinh nơi Đức cha những trực giác hoặc những kinh nghiệm thiêng liêng sâu sắc, mà còn hình thành nơi ngài một phương pháp nguyện ngắm đặc biệt. Đó là nguyện ngắm thụ động. Đức cha quan niệm rằng: “Sự trọn lành của nguyện ngắm hệ tại việc kết hợp hiện tại và thụ động với Thiên Chúa luôn hiện diện nơi linh hồn [...]. Bởi vì linh hồn khi bị lôi kéo vào sự nguyện ngắm thụ động, thì luôn luôn tìm được những đề tài mới mẻ để tập trung vào các thuộc tính của Thiên Chúa, mang lại cho linh hồn một sự vui thích và mãn nguyện không thể tưởng tượng được” (Tcnt 3-4).

Tâm thế thụ động trong lúc nguyện ngắm là thái độ nội tâm cần thiết, là yếu tố quyết định cho sự kết hợp trọn vẹn với Đức Kitô. Đặc biệt, theo kinh nghiệm của Đức cha Lambert, trong trạng thái cho Chúa Kitô mượn lấy thân xác, để Người tiếp tục thực hiện việc hãm mình đền tội cho nhân loại, Đức cha nhận thấy rằng: “Thiên Chúa, Cha của Người khi nhìn vào thân xác và cánh tay Người mượn, thì chỉ thấy trực diện các đau đớn của Con mình; sự kiện Chúa Cha hằng hữu ưng nhận như thế, phải là quy tắc hướng dẫn tôi về cách ứng xử đối với trường hợp đó và dạy tôi phải giữ tâm thế hoàn toàn thụ động cả bề trong lẫn bề ngoài” (Bts

Trong chiều kích chiêm niệm của Đức cha Lambert, nguyện ngắm thụ động là một đề tài quan trọng, xuyên suốt trong các kinh nghiệm thiêng liêng và quan niệm tu đức của ngài. Đó là thái độ của một tâm hồn luôn đặt mình dưới tác động của Thần Khí để “hoàn toàn mặc lấy Chúa Kitô, hoàn toàn tan biến trong Người và liên lỉ được Thần Khí của Người linh hoạt, hoàn toàn bị hủy ra không và luôn luôn giữ vai trò thụ động chứ không phải vai trò chủ động trong mọi sinh hoạt” (1Cb 3).

Tinh thần chiêm niệm của Đức cha Lambert cũng được diễn tả trong các bản luật mà ngài soạn thảo cho Hiệp hội Nam Nữ Tín hữu Mến Thánh Giá Đức Giêsu Kitô Chúa Chúng Ta (Hiệp hội Tín hữu Mến Thánh Giá) cũng như cho Dòng Nữ Mến Thánh Giá, và trong chính lá thư mà ngài viết cho hai chị nữ tu Mến Thánh Giá đầu tiên. Mức tối thiểu ngài đòi hỏi các nữ tu Mến Thánh Giá là suy niệm mỗi ngày một giờ, theo bài soạn sẵn đọc cho mọi người nghe. Đối với Hiệp hội Tín hữu Mến Thánh Giá, ngài xin anh chị em suy niệm mỗi ngày nửa giờ về cuộc đời đau khổ của Chúa Giêsu (x. Bts IV,3). Ngài cũng khuyến khích các tín hữu khác suy niệm về sự thương khó Chúa, ít nhất vào các ngày lễ buộc[35].

Như được trình bày trên đây, chiều kích chiêm niệm của Đức cha Lambert diễn tả tình yêu phi thường đối với Đấng Chịu Đóng Đinh, là động lực thúc đẩy những ai muốn bước theo linh đạo Mến Thánh Giá trong những hành động cụ thể: thông phần cuộc khổ nạn của Đức Kitô và tiếp nối cuộc đời đau khổ của Người. Đó là khía cạnh thực tiễn của tình yêu trong linh đạo của Đức cha Lambert, là chiều kích khổ chế mà chúng ta sẽ bàn tới sau đây.

B. TINH THẦN KHỔ CHẾ

Sau khi cảm nghiệm tình yêu phi thường của Đức Giêsu Kitô trên Thánh giá, Đức cha Lambert được thôi thúc đáp lại tình yêu ấy bằng những thực hành thiết thực, để diễn tả tình yêu đặc biệt và lớn nhất của ngài dành riêng cho Chúa Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh. Đó là ý nghĩa và giá trị của chiều kích khổ chế trong linh đạo Đức cha Lambert được thể hiện qua những đặc điểm sau đây.

1. Khổ chế mang tính cách tự nguyện

1.1. Tự nguyện đánh tội để thông dự cách thiết thực với Chúa Kitô

Sau kinh nguyện thiêng liêng xảy ra trong cuộc tĩnh tâm 40 ngày tại Ayutthaya năm l662, ngài tự nguyện đánh tội hằng ngày để thông dự cách thiết thực vào cuộc Thương khó của Chúa Kitô: “Tôi biết điều Chúa đòi hỏi nơi tôi là hằng ngày, vào giờ nguyện ngắm buổi chiều hay ban đêm, tôi phải làm việc đánh tội trong khoảng thời gian đọc Thánh vịnh Sám hối (Tv 50), để long trọng suy tôn Hy lễ Thánh giá cao cả của Chúa và cũng để hoàn tất điều duy nhất còn thiếu nơi hy tế bàn thờ là phải có sự đau khổ” (Bts I,7). Hơn nữa, Đức cha Lambert xem việc đánh tội là cho Chúa Giêsu Kitô mượn ‘thân xác và cánh tay' của ngài để Chúa Giêsu Kitô dâng lên Thiên Chúa Cha những đau khổ cứu độ trần gian. Ngài vui mừng khi khám phá ra việc khổ chế này như ngài đã tâm sự ra với Đức cha Pallu: “Chúng tôi nguyện ngắm mỗi đêm hai tiếng đồng hồ, từ một đến ba giờ sáng, để suy gẫm về những đau khổ của Chúa và những lý do thúc đẩy Người chịu đựng vì chúng tôi. Sau đó, chúng tôi thông dự phần nào vào những đau khổ của Người như một của lễ hy sinh bé nhỏ, đó là khi đọc mỗi câu trong Thánh vịnh Sám hối (Tv 50) thì đánh tội năm roi. Chúng tôi nhận được nhiều ơn và tiếc rằng không được biết việc đạo đức này sớm hơn” (T.Pal III,2-3).

Đặc biệt, việc thực hành đánh tội cũng được áp dụng cách hài hòa, không cứng nhắc: “Chúng tôi nhận thấy rằng các việc thành công cách hoàn hảo, mặc dầu người ta có thể giảm số roi xuống còn một, hai, ba roi cho mỗi câu Thánh vịnh Sám hối, nếu nhận thấy sự hãm mình phạt xác đó quá nặng đối với người mới bắt đầu hoặc người có thể trạng yếu ớt” (T.Pal III,5).

1.2. Tự nguyện sống nhiệm nhặt để mong ước nên trọn lành

Trong thư gởi cha Hallé, Đức cha Lambert cảm thấy vui sướng vì có cơ hội thực hành tinh thần khổ chế tinh tuyền của Dòng Bé Mọn: “Con rất vui sướng có cơ hội tuân giữ và noi theo sát hơn tinh thần chay tịnh tinh tuyền của Dòng Bé Mọn trong vấn đề ăn uống tại đây hơn ở Pháp, ít nhất vào các ngày giữ chay theo Giáo luật [...]. Chúng con thấy rằng thói quen giải quyết được mọi việc: hầu như suốt ngày mệt mỏi, thức uống chỉ có nước lã, nơi nghỉ đêm là ngoài trời, thức ăn dọc đường không bao giờ có thịt cá; luôn luôn phập phồng lo sợ đủ mọi thứ chuyện” (IT.Hal 34-38).

Đức cha Lambert thực hành khổ chế để mong ước nên trọn lành, ngài cảm thấy rằng: “Thiên Chúa tốt lành [...] ước muốn tôi kiêng thịt và ăn chay suốt đời, kể cả các ngày Chúa nhật, bởi vì lòng nhân lành của Ngài bị xúc phạm mọi ngày quanh năm, thì không lý gì lại để một ngày trôi qua mà không đền bù phạt tạ; có chăng là trừ các ngày lễ Giáng sinh, Phục sinh và Hiện xuống có thể ăn thịt, vì trong các ngày ấy dường như được phép biến nước mắt sám hối thành nước mắt vui mừng và tạ ơn” (2Nng 4).

1.3. Tự nguyện sát tế và tử đạo để tùng phục triệt để thánh ý Thiên Chúa

Mong ước được tử đạo giữa đoàn chiên là điều mà Đức cha Lambert muốn thực hiện. Miền truyền giáo Đàng Trong là trách nhiệm của ngài, nhưng lúc đó, tình hình tại Việt Nam đang bị bách hại đạo gay gắt, nên ngài viết thư cho các tín hữu, bày tỏ niềm ao ước được sống và chết giữa họ: “Cha chỉ hoàn toàn sung sướng khi được hiến mạng sống vì lợi ích của linh hồn anh chị em. Thật thế, nếu quả là cha khao khát hết sức được sống giữa anh chị em, lòng cha càng ước ao hơn nữa được chết cho anh chị em” (2T.ĐT 3-4).

Tự nguyện sát tế là tâm tình sâu xa mà Đức cha Lambert bộc lộ cho cha Simon Hallé, vị linh hướng của mình, trước quyết định của Tòa Thánh trong việc bác bỏ Hội Tông đồ. Mặc dù vui lòng chấp nhận, nhưng ngài vẫn cảm thấy được thôi thúc phải khuôn mình một cách sâu sát theo thái độ bên trong và bên ngoài của Đức Giêsu Kitô đau khổ (x.2T.Hal 5), để sát tế tất cả các năng khiếu của linh hồn và thân xác (x.2T.Hal 4), chứ không chấp nhận sống một đời sống tầm thường (x.2T.Hal 6). Và trong tâm thế tùng phục triệt để thánh ý Chúa, ngài sẵn lòng đón nhận thập giá mà Thiên Chúa đã dọn sẵn nơi miền truyền giáo Đàng Trong (x. 2T.Hal 8-11).

Đặc biệt, Đức cha Lambert cảm nhận điều Chúa muốn ngài thực hiện. Ngài viết cho cha Hallé: “Thưa cha kính mến, chung quy thì con thấy rằng, dường như đã đến lúc chúng con dâng tiến hy tế bé mọn của mình, và Chúa muốn chúng con thực hiện hy tế ấy tại xứ Đàng Trong như con đã viết cho cha trong vài lá thư gần đây. Ngày mai con sẽ lên đường đi tới nơi thực hiện dự tính ấy, và con rùng mình khi thấy những thập giá được dọn sẵn cho con tại đó. Tuy nhiên, con thấy rõ ràng, Chúa Cứu Thế muốn con chịu đựng các thập giá ấy, vì những động lực làm con say mê. Con xin tùng phục triệt để Thánh Ý Chúa” (2T.Hal 8-11).

2. Khổ chế biểu hiện tình yêu thực tiễn đối với Thánh Giá Con Thiên Chúa

Trong Bản luật viết cho Hiệp hội Tín hữu Mến Thánh Giá, Đức cha Lambert đã nêu lên một chân lý: “Mọi ân sủng và thánh đức nơi hết thảy mọi người [...] là hoa quả của Thánh giá Đức Giêsu Kitô mà thôi”. Theo đó, “lòng đạo đức chân thật và vững chắc dựa trên Thánh giá Chúa Cứu Thế, mà mỗi người phải vác cả trong tâm hồn lẫn ngoài thể xác, [...] là con đường cứu độ diễm phúc và chắc chắn...” (Ltt I,1-4). Chân lý ấy là nền tảng cho những quan niệm tu đức của Đức cha về việc thực hành khổ chế trong đời sống Kitô hữu cũng như trong hành trình bước theo Đấng Chịu Đóng Đinh của những người yêu mến Thánh giá Đức Giêsu Kitô.

2.1. Tình yêu đối với Đức Giêsu-Kitô-Chịu-Đóng-Đinh

Trong Tông huấn Vita Consecrata, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II xác nhận: “Việc chiêm ngưỡng Đức Kitô chịu đóng đinh là một nguồn cảm hứng cho tất cả các ơn gọi, là khởi điểm của mọi ân điển, tiên vàn là ơn Thánh Thần được trao ban, cũng như ơn sống đời thánh hiến” (VC 23). Cũng vậy, trong kinh nghiệm của Đức cha Lambert, việc chiêm ngắm Chúa Giêsu Kitô trên Thánh giá đã khơi nguồn cảm hứng và làm phát sinh nơi ngài một tình yêu đặc biệt đối với Chúa Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh: “Tôi đã có một ước nguyện lớn lao là chứng tỏ một tình yêu phi thường đổi với Chúa Giêsu Kitô. Thế nên, tôi xin Người soi tỏ cho biết có thể làm cách nào để biểu lộ mối tình ấy” (Bts I,1-2).

Tình yêu đối với Chúa Giêsu trên Thánh giá chiếm một vị trí quan trọng và tuyệt đối trong tâm hồn cũng như trọn cuộc sống của Đức cha Lambert. Theo ngài, tất cả mọi ước muốn của con người đều phải đạt đến cùng đích là làm cho mình yêu mến Chúa hơn (x.Tcnt 13). Đó quả là thú vui chân thật, thánh thiện và duy nhất của những tâm hồn hằng chiêm ngắm Đức Kitô trên Thánh giá và ước ao được sống kết hợp với Người cách đặc biệt.

2.2. Phổ biến tình yêu thực tiễn đối với Thánh giá Con Thiên Chúa

Tình yêu phi thường đối với Chúa Giêsu Kitô còn thúc đẩy Đức cha thành lập các Hiệp hội Những Người Yêu Mến Thánh Giá, để “phổ biến khắp nơi tình yêu thực tiễn đối với Thánh giá Con Thiên Chúa” (Bts III,1). Ngài cũng thao thức cho các tín hữu tại các nơi thuộc miền truyền giáo của các thừa sai, hàng ngày chuyên cần cầu nguyện và nhiệt tình thực hành những hy sinh để diễn tả tình yêu dành cho Đức Kitô trong một cách thức sống động và thiết thực nhất (x. Bts III,1-2; Ltt II,1-2). Nhiều lần trong lúc nguyện ngắm, Đức cha Lambert được soi sáng để thấy rằng: “... trên đời này không có gì làm sáng danh Thiên Chúa hơn việc thành lập Hội Tông Đồ và Hiệp Hội Những Người Mến Thánh Giá... ” (Bts VII,1).

Trong thư gửi Đức Giáo hoàng Clêmentê IX, ngày 12.10.1670, Đức cha viết: “Con cũng đệ trình lên Đức Thánh cha bản luật sống của hai tổ chức: Một tổ chức đã được khởi xướng để giúp ích cho dân Kitô giáo trong những địa sở của các miền truyền giáo. Thật vậy, vì có những người mang nặng một tình yêu đặc biệt đổi với cái Chết và Thập giá của Chúa Giêsu, nên không có gì hợp lý bằng việc cổ võ lòng sùng kính vững chắc như thế” (T.Clem 22-24).

Đức cha thật sự tâm đắc và say mê đời sống của Những Người Mến Thánh Giá mà ngài được soi sáng và được thúc đẩy để thành lập. Đối với ngài, đời sống của họ “là một họa ảnh hoàn hảo của cuộc đời Chúa Giêsu Kitô khi còn ở trần gian” (1Nng 11).

3. Khổ chế gắn liền với tinh thần thờ phượng

Khổ chế gắn liền với tinh thần thờ phượng vì theo Đức cha Lambert, “suy niệm và bắt chước Thánh giá Chúa Giêsu-Kitô là thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Chân Lý, theo đúng cách thờ phượng Người muốn” (Bts III,8) . Do đó, việc đánh tội hằng ngày phải xảy ra trong giờ nguyện ngắm (x.Bts I,7) và được tiến hành đồng thời với việc đọc thánh vịnh sám hối và những kinh nguyện khác (x.Bts V,4; Ltk III,8).

Đức cha Lambert viết: “Trong giờ nguyện ngắm, Chúa cho biết trên đời này không có gì làm sáng danh Thiên Chúa hơn việc thành lập Hội Tông đồ và Hiệp hội Những Người Mến Thánh Giá. Sự hiểu biết ấy buộc tôi cầu nguyện ngay và tha thiết xin Ngài cho thực hiện điều đó. Đồng thời, tôi thoáng thấy lời cầu nguyện của tôi sẽ được chấp nhận; nhưng tôi phải dâng một sự hy sinh phi thường trong giờ nguyện ngắm ban đêm suốt chín ngày liền. Mỗi ngày một người anh em rất thân yêu cùng với tôi được diễm phúc làm thừa tác viên dâng của lễ hy sinh ấy lúc màn đêm buông xuống” (Bts VII,1-4).

Nói cách khác, hy sinh và cầu nguyện đi đôi với nhau như hai khía cạnh thiết yếu của cùng một hành vi tế hiến và cứu thế. Vì thế, “đối với những thừa sai khát mong ơn tử vì đạo, phương thế tối ưu để đạt mục đích là chuyên cần nguyện ngắm và siêng năng hãm mình cả bên trong lẫn bên ngoài” (Bts VII,12).

Đức Kitô đã tôn vinh Chúa Cha và cứu độ loài người bằng cầu nguyện và hy sinh: cuộc thương khó và cái chết của Người xảy ra trong bầu khí cầu nguyện, và là một hành vi tế tự (x. Lc 23,34.26...). Những người sống theo linh đạo Mến Thánh Giá tiếp nối hành vi thờ phượng và cứu thế của Đức Kitô cũng bằng hy sinh và cầu nguyện, cả hai khía cạnh này đều mang ý nghĩa tông đồ hướng về công cuộc cứu rỗi loài người.

4. Khổ chế nhằm mục đích đồng hóa trọn vẹn với Chúa Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh

Khi linh hồn kết hợp với Chúa Kitô và để cho tinh thần liên lỉ thâm nhập vào tinh thần của Chúa Kitô, hoàn toàn tan biến trong Người, thì chính Chúa Kitô, không những chiếm lấy các năng lực của linh hồn, mà còn trở thành chủ nhân của thân xác người ấy, để tiếp nối cuộc đời lữ thứ và đau khổ nhờ những hy sinh lao nhọc mà Người thực hiện theo ý muốn qua các lễ vật được thần hóa đó (x. Bts VI,9). Và bằng sự kết hợp với những lễ vật thánh như thế mà Chúa Kitô sẽ hoàn tất hy lễ hoàn hảo của Người.

Đức cha Lambert viết cho cha Hallé: “Điều kỳ diệu nhất con thấy được là: ý muốn của con người trở nên đồng hình đồng dạng, đồng khuôn mẫu và đồng bản tính với ý muốn của Thiên Chúa, và trong sự đồng hóa ấy linh hồn vẫn thường xuyên có những tâm tình trân trọng cao nhất và những thái độ thờ lạy sâu thẳm nhất đổi với Thiên Chúa uy linh cao cả. Con cũng thấy rằng linh hồn ngày càng lớn lên trong sự hiểu biết chính mình một cách sâu sắc và hữu ích nhất, đồng thời ghét bỏ được cái tôi cách rất thánh hảo và dứt khoát. Các hiệu quả này xuất phát từ nguyên nhân của chúng, tức trạng thái của linh hồn đang kết hiệp với Đấng là tất cả của mình” (1T.Hal 6-9).

5. Khổ chế theo mục đích luân lý tu đức

5.1 Sống đời đền tội công khai

Phát xuất từ nhận thức sâu xa về sự yếu hèn, tội lỗi của mình, Đức cha Lambert cảm thấy cần phải quyết tâm sống đời đền tội công khai bằng những thực hành cụ thể. Vì thế, tất cả những việc hy sinh, đánh tội của chính Đức cha Lambert hay của Những Người Mến Thánh Giá, được thực hành trong ý thức là để hãm mình, đền tội cho chính mình và cầu nguyện cho tha nhân (1Nng 7). Theo Đức cha, “chúng ta phải hối tiếc đến hơi thở cuối cùng vì đã hiểu biết quá ít, yêu mến quá ít, tôn thờ quá ít, tạ ơn quá ít Đấng Tạo Hóa của chúng ta” (2Dl 39). Mỗi ngày chúng ta phải xét xem, “chúng ta đã dành bao nhiêu giờ để nguyện ngắm, làm việc hãm mình đền tội và hy sinh cho mục đích đó.” (Xm 26).

Hơn nữa, sự quyết tâm sống đời đền tội toàn diện là để có được bí quyết “chết đẹp và sống tuyệt vời” (2Sn 21) cho Chúa Kitô. Thế nên, sống đời khổ hạnh, sống đời đền tội công khai còn là điều kiện thiết yếu để chúng ta đạt tới sự trọn lành theo bậc sống của mình (x. Tytt 21).

5.2. Chế ngự thân xác

Mục đích luân lý tu đức của những thực hành khổ chế là làm cho thân xác phục tùng tinh thần và tinh thần phục tùng Thiên Chúa[36]. Việc chế ngự thân xác là cách thức cụ thể và là đòi hỏi căn bản để đạt được những mục tiêu thiêng liêng hay những giá trị tinh thần của khổ chế. Nếu một người sống theo bản tính tự nhiên hoặc theo lý trí thuần tuý, không thể gọi là một Kitô hữu đích thực. Do đó, trong ý hướng của Đức cha Lambert, Những Người Mến Thánh Giá được mời gọi mỗi ngày thông phần các đau khổ của Đức Giêsu Kitô bằng việc chế ngự thân xác (2T.Hal 4).

Chế ngự thân xác còn là để chết đi đối với chính mình, chết đi đối với thế gian, “nghĩa là đổi với các giác quan, bản tính tự nhiên và lý trí người đời” (Btt 10), để chỉ sống cho một mình Thiên Chúa. “Bởi lẽ chúng ta thường yêu mến Thiên Chúa nhiều hơn khi phải chết đi đổi với một xu hướng xấu, so với khi chịu chết để tuyên xưng Đức Tin, lý do là đề tài này không quan trọng và ràng buộc bằng sự tử vì đạo. Và chính trong nghĩa này mà người ta có thể nói rằng cả cuộc đời người Kitô hữu là một cuộc tử vì đạo liên lỉ, bởi không thể là một môn đệ hoàn hảo của Đức Giêsu Kitô, nếu không từ bỏ mình và chết đi trong mọi hoàn cảnh đổi với những ước muốn của bản thân và cái tôi của mình” (Tytt 9-10).

Không chỉ là việc chế ngự thân xác, khổ chế còn là việc sẵn sàng đón nhận những đau khổ vất vả, là những thập giá hằng ngày của thân phận con người, như những phương thế đích thực để đạt được thiên đàng. Vì không gì làm ta xa sự dính bén thế gian và không gì làm ta chạy đến Chúa liên lỉ bằng những đau khổ. Cho nên phương thế duy nhất để thắng bản tính tự nhiên là cố gắng sống một cách phù hợp với Vị Thủ-Lãnh Đội-Mão-Gai, để Thiên Chúa hoàn toàn thống trị trong ta (x. 1T.ĐT 20.27).

6. Khổ chế mang ý hướng tông đồ

6.1 Chứng tá Phúc Âm

Khi đặt chân đến Ayutthaya, Đức cha Lambert được thôi thúc để thành lập một Hiệp hội gồm những người tông đồ đích thực, những nhà truyền giáo chân chính và những Kitô hữu hoàn hảo, để cải tổ Kitô giáo tại đây và cách riêng để chấn chỉnh đời sống sa sút của các thừa sai trong miền truyền giáo. Những ai gia nhập Hiệp hội này phải có một đời sống trổi vượt và ““nhiệm vụ chính yếu của các tâm hồn thánh thiện ấy là năng trao đổi với Thiên Chúa về những phương thế làm sáng danh Ngài và cứu độ anh chị em đồng loại. Hãm mình đền tội cho chính mình và cho muôn dân” (1Nng 7).

Vị thừa sai Tông tòa là hình ảnh sống động của Đức Giêsu Kitô. Theo gương Thánh Phaolô Tông đồ, ngài chỉ biết một mình Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào Thập Giá (x. 1Cr 2,2), vì thế ngài không thể trở thành một thừa sai Tông tòa đích thực, nếu không là một hy lễ đau khổ xứng với bậc sống của mình. Khổ chế là yếu tố thuộc căn tính của nhà thừa sai và là phương thế hữu hiệu cho lời chứng của ngài về Chúa Kitô và về Phúc Âm của Người (x. Đk 1-2).

6.1. Phương thế chuyển cầu

Chuyển cầu cho lương dân cùng người tội lỗi ăn năn trở lại và cho Giáo hội được mọi điều cần thiết là một trong những mục đích của Đức cha Lambert từ khi có ý tưởng về Hiệp hội mang tên Những Người Mến Thánh Giá.

Trong bản xét mình của các thừa sai, nhiệm vụ chuyển cầu cũng được đề cập đến: “Chúng ta có cầu xin Thiên Chúa chấm dứt các cuộc ly giáo, lạc giáo và ban ơn hoán cải cho tội nhân và lương dân, cách riêng cho những người được trao phó cho chúng ta không?” (Xm 24). Về phần mình, để góp phần làm sáng danh Thiên Chúa và cứu rỗi anh chị em đồng loại, Đức cha cũng ý thức, ngài phải mang trong nội tâm “một tinh thần liên lỉ sám hối đền tội, tạ ơn và chuyển cầu hơn nữa cho muôn dân đạt được sự hoàn thiện” (2Nng 2). Chuyển cầu cho lương dân cùng người tội lỗi ăn năn trở lại cũng là đặc nét trong sứ mạng của người nữ tu Mến Thánh Giá.

Khổ chế là yếu tố quan trọng trong linh đạo của Đức cha Lambert, linh đạo Mến Thánh Giá. “Những người tập sự sẽ tìm thấy nơi đây phương thế tuyệt vời giúp chế ngự tật xấu và rèn luyện nhân đức; những người đang tấn tới sẽ tìm thấy phương thế kết hợp với Thiên Chúa mỗi ngày một hơn; những người thành toàn sẽ tìm thấy phương thế đạt tới sự hiệp nhất mật thiết với Đức Giêsu Kitô chịu Khổ Nạn” (Bts VII,19-21). Dù hình thức khổ chế nào, thì đó cũng là một đòi hỏi thực tiễn của đời sống chiêm niệm, vì trái tim phải được thanh luyện để có khả năng lắng nghe, chiêm ngắm Chúa và kết hợp với Người. Nơi Đức cha Lambert, khổ chế cũng như cầu nguyện, luôn là điều kiện và phương thế cần thiết cho hoạt động tông đồ, như chúng ta sẽ thấy trong phần trình bày về chiều kích tông đồ trong linh đạo của Đức cha Pierre Lambert.

C. TINH THẦN TÔNG ĐỒ

Khi lãnh nhận thiên chức linh mục, nhất là chức Giám mục Đại diện Tông tòa, Đức cha Pierre Lambert ý thức mình là người tông đồ của Chúa Kitô qua sự ủy nhiệm của Giáo hội. Hội Thừa sai Hải ngoại Paris do ngài cùng với Đức cha François Pallu và Nhóm Bạn Hiền sáng lập, là một hội đời sống tông đồ. Cũng thế, Đại gia Đình Mến Thánh Giá do Chúa soi sáng riêng cho ngài lập ra, là một Dòng gồm những người tông đồ. Đức cha Pierre Lambert là khuôn mặt tiêu biểu nhất cho cả hai tổ chức đó, vì ngài có một tâm hồn nhiệt thành, sống chết cho ơn gọi thừa sai và có ý niệm trổi vượt về đời sống người tông đồ. Chính quan niệm và kinh nghiệm của ngài về lãnh vực này đã đúc kết nên tinh thần thâm thuý cho người tông đồ thừa sai và làm mẫu mực cho con cái của ngài.

1. Hồn tông đồ

1.1. Dung hòa giữa chiêm niệm và hoạt động

Theo Đức cha Pierre Lambert, chiêm niệm và hoạt động bổ túc cho nhau và đan kết vào nhau. Chiêm niệm phải là linh hồn của hoạt động và hoạt động là kết quả của việc kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa. Khi nói đến những đức tính cần có của các thừa sai, Đức cha khẳng định, họ phải quyết tâm cách chân thành vươn tới sự trọn lành của người Kitô hữu, và phải thực hành quyết tâm ấy trước khi dấn thân vào những nghĩa vụ cao cả của người tông đồ. Do những đòi hỏi cần thiết đối với đức tính của người tông đồ, nên đối với Đức cha “một người có thiện chí, sốt sắng và đạo đức thì chưa đủ, nhưng còn cần phải trải qua hơn 10 năm liên tục chuyên chăm nguyện ngắm thân tình với Chúa và phục vụ tha nhân, bằng không thì e rằng đời sống nội tâm của các thừa sai ấy sẽ sa sút” (1Sn 3). Trong kinh nghiệm bản thân, nhiều lần Đức cha Lambert cũng đã khuyên dạy các thừa sai của mình: anh em hãy dùng lời cầu nguyện làm cho mưa móc từ trời sa xuống trên cánh đồng[37]. Đức cha còn tự nhủ rằng: '“Người tông đồ thừa sai hãy làm mọi việc trong khuôn khổ ơn gọi của mình theo sự thúc đẩy nội tâm. Sự thúc đẩy này luôn gắn liền với bậc sống của người được Chúa kêu gọi thật sự vào đời sống tông đồ”[38].

Với Đức cha Lambert, nguyện ngắm không chỉ là một phương thế cần thiết và hữu hiệu để kết hiệp với Đức Kitô Chịu Đóng Đinh và Thiên Chúa Ba Ngôi, cùng đạt tới sự trọn lành nội tâm, nhưng còn là một nguồn cung cấp ánh sáng soi dẫn hành động thực tiễn trong lãnh vực tông đồ. Suốt đời, ngài đã triệt để áp dụng nguyên tắc: luôn hành động dưới sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần, biểu hiện trong những trực giác và xác tín nội tâm mà ngài cảm nhận được khi nguyện ngắm.

Một yếu tố khác chứng tỏ tính thực tiễn, trong phương pháp nguyện ngắm theo linh đạo của Đức cha Lambert, là thái độ nài xin trước mặt Thiên Chúa để chuyển cầu cho tha nhân. Việc chuyển cầu này là một nhiệm vụ chính yếu của người nữ tu Mến Thánh Giá. Chính Đức cha Lambert đã truyền dạy cho con cái ngài: hằng ngày dâng việc suy gẫm cầu nguyện của các con, nước mắt của các con, các việc làm của các con và các hy sinh của các con, để cầu xin [Thiên Chúa] ban cho lương dân và những Kitô hữu bất hảo được ơn ăn năn trở lại” (Btt 8).

1.2. Tinh thần của người tông đồ

Đức cha Pierre Lambert de La Motte luôn quan tâm đến đời sống của người tông đồ. Theo ngài, người tông đồ phải là người có đời sống trổi vượt phi thường, để tạo uy tín và gây ảnh hưởng tốt nơi môi trường truyền giáo[39]. Đồng thời có ảnh hưởng quan trọng đối với chính sự canh tân của Giáo hội và thế giới[40]. Vì thế, Tông huấn Loan báo Tin mừng số 31 khuyên nên lưu tâm tới những liên hệ sâu xa giữa việc Phúc âm hóa và thăng tiến con người. Quên những mối liên hệ này có nghĩa là không biết gì về “bài học của Tin Mừng nói đến lòng thương yêu đối với đồng loại đang đau khổ hay thiếu thốn”. Hơn nữa, Giáo hội còn khuyên rằng: “Các con phải mở rất rộng tầm mắt ra trước những nhu cầu của loài người, trước những vấn đề, những tìm tòi của họ để nhờ cầu nguyện và hoạt động mà chúng con cho họ thấy rằng: Tin Mừng tình thương, công lý và hòa bình, có một mãnh lực cao cả[41].

Đức cha Lambert cũng quan niệm rằng: phải có tinh thần canh tân, thích nghi, khổ chế, nghèo khó, để chung mọi của cải[42] và sẵn sàng hy sinh vì đoàn chiên. Chính ngài có kinh nghiệm thấm thía trong những năm tháng hăng say hoạt động tại Ayutthaya.

Quá trình của các nhà thừa sai đã từng bước cho ngài thấy chỉ mình Thiên Chúa có khả năng hoán cải các tâm hồn, chứ không phải hoạt động của con người làm được điều đó. Vì thế, ngài không tuyệt vọng mà còn chỉ rõ phương thế phải dùng, khi ngài viết: “Thiên Chúa thường gắn liền sự ăn năn trở lại của nhiều người với những hy sinh hãm mình, kinh nguyện và đức bác ái phi thường của thừa tác viên[43].

1.3. Biết kết hiệp giữa hy sinh và cầu nguyện

Đức cha Pierre Lambert de la Motte đã có một xác tín rằng, người tông đồ phải kết hợp hy sinh với cầu nguyện thế nào cho “thân xác phục tùng tinh thần nhờ khổ chế và tinh thần phục tùng Thiên Chúa nhờ cầu nguyện. Đời sống người tông đồ phải là một cuộc chết đi liên lỉ”[44]. Và khi hoạt động, cần ý thức như Thánh Phaolô: Không phải tôi sống nhưng chính Chúa Kitô sống và hoạt động trong tôi (x. Gl 2,20).

Người tông đồ không cậy dựa vào tiền bạc và sự thông thái của mình hoặc thế lực quan quyền vua chúa, trái lại, “chỉ dùng những phương tiện Phúc âm đề ra”, đó là rao giảng lời Thiên Chúa với lòng tín thác vô biên vào sức mạnh thần linh, với tinh thần bác ái vô hạn dành cho mọi người, kể cả những kẻ chống đối, với tinh thần sẵn sàng hiến dâng mạng sống để minh chứng tình yêu và với tâm hồn cầu nguyện liên lỉ.

Nhiều lần Đức cha Pierre Lambert de la Motte khuyên nhủ các vị thừa sai của mình: “Trước khi gieo vãi hạt giống Phúc âm, anh em hãy dùng lời cầu nguyện làm cho mưa móc từ trời sa xuống trên cánh đồng”[45].(1)

Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, ra đời sau ngài hơn hai thế kỷ rưỡi cũng có một ý nghĩ tương tự: “Tôi muốn làm thừa sai bằng tình yêu và hy sinh hãm mình”. Trước khi chết, Thánh nữ hứa sẽ mưa những trận mưa hoa hồng cho Giáo hội nhờ lời cầu nguyện của mình trên trời[46].

1.4. Sống theo tinh thần Phúc Âm

Sống theo tinh thần Phúc âm là một việc làm cần thiết đối với mỗi người chúng ta khi loan báo Tin Mừng. Tông huấn Chứng tá Phúc Âm mời gọi: “Đổi với những ai hiến thân làm việc tông đồ trong sứ mệnh chính yếu nhất, tức là rao giảng Lời Thiên Chúa cho những ai mà Thiên Chúa ủy thác cho người ấy, phải tiếp đón để dẫn đưa họ về với đức tin. Một ơn vĩ đại như thế đòi hỏi phải sống kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, để có thể truyền thông sứ điệp của Ngôi Lời Nhập Thể, tùy sử dụng ngôn ngữ mà thế gian có thể hiểu được. Tất cả đời sống chúng con rất cần được tham dự vào cuộc thương khó, sự chết và sự vinh quang của Chúa”[47].

Thật vậy, Đức cha Pierre Lambert cũng nhấn mạnh rằng: người tông đồ thấm nhuần tinh thần Phúc âm sẽ có thái độ hiền lành, khiêm nhường khi tiếp xúc với tín đồ các tôn giáo bạn. Đức cha Lambert còn khuyên các vị thừa sai, nên đối xử với những người Phật tử như “những người đã có màu sắc chân lý Kitô giáo” và phải kính trọng, bắt chước những đức tính cao quý của họ[48]. Chính ngài đã sống Phúc âm đến cực điểm và thể hiện ở mức độ cao mẫu người tông đồ phác họa trên đây. Ngài là một trong những vị thừa sai đáng kể nhất của thời đại mới[49].

2. Sống sứ vụ tông đồ thừa sai

2.1. Đức Kitô là trung tâm điếm

Người tông đồ phải đặt Chúa Kitô làm trung tâm của mọi hoạt động. Từ quan điểm Kitô trung tâm quen thuộc, Đức cha Pierre Lambert nhìn người tông đồ trong mối liên hệ mật thiết với Chúa Kitô, trong sự tiếp nối sứ mạng cứu thế của Người. Vì Chúa Kitô đã cứu độ thế giới bằng hy sinh, thì người tông đồ cũng có sứ mạng '“tiếp nổi cuộc đời lữ thứ và hy sinh của Người cho đến tận thế”, bằng cách tự nguyện và chủ động “dâng tiến, trao gởi và cổng hiến thân xác [tôi] cho Đức Giêsu Kitô” (Bts I,4) vì mục đích ấy. Theo đó, đời sống của người tông đồ sẽ luôn tập trung vào Chúa Kitô trong cuộc khổ nạn bằng một tình yêu thực tiễn.

2.2. Hoàn tất mọi việc “thay cho” Chúa Kitô

Trong quan điểm Kitô trung tâm như vừa trình bày trên đây, mọi sinh hoạt của người tông đồ sống linh đạo của Đức cha Lambert là tiếp nối và “hoàn tất những gì còn thiếu trong các nỗi gian truân Đức Kitô phải chịu cho thân mình Người là Hội Thánh” (Cl 1,24). Đức cha Pierre Lambert ý thức mình đang đi trong linh đạo của Thánh Phaolô, là linh đạo đặc biệt thích hợp cho linh đạo của Đức cha Pierre Lambert: tập trung vào Đức Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh.

Theo linh đạo này, Đức cha Lambert quan niệm, chính Đức Kitô sử dụng người tông đồ để tiếp nối công cuộc cứu chuộc của Người bằng đời sống đức tin, bằng những thực hành hãm mình, đền tội; bằng những hy sinh cho công cuộc rao giảng Tin mừng. Các khía cạnh này của đời sống người tông đồ đều bao hàm đau khổ và gian truân thử thách. Trong cái nhìn của đức tin, đời sống ấy luôn luôn được bao trùm dưới bóng Thánh giá Đức Kitô Cứu Thế, như yếu tố cần thiết đem lại hiệu năng của việc tông đồ. Đức cha Lambert cũng cảm nghiệm: “Thiên Chúa thường gắn liền sự ăn năn trở lại của nhiều người với những hy sinh hãm mình, kinh nguyện và đức bác ái phi thường của thừa tác viên[50].

2.3. Thông dự vào tinh thần trung gian với Chúa Kitô

Thiên Chúa đã dùng Đức Kitô làm trung gian giao ước mới và vĩnh cửu, đem lại cho loài người ơn tha tội, ơn nghĩa tử, ơn bình an và hiệp nhất để làm thành Nhiệm Thể Người là Hội Thánh. Người tông đồ sống theo linh đạo của Đức cha Lambert được mời gọi thông dự vào tinh thần trung gian của Đức Kitô. Tinh thần đó phải được thể hiện trong đời sống cụ thể bằng cách phấn đấu liên lỉ, để sống trong trạng thái được giải hoà với Thiên Chúa và mọi người; thực thi luật bác ái và tha thứ, cách riêng đối với kẻ thù ghét và làm hại mình; đồng thời kiến tạo hòa bình và hoà giải trong môi trường mình sống và hoạt động (x. Bts V,6).

KẾT LUẬN

Đức cha Pierre Lambert sinh ra và lớn lên giữa các bậc thánh nhân, vào một thời đại huy hoàng của giới Công giáo tại Pháp[51]. Thật vậy, có những anh hùng do thời thế tạo nên. Nhưng cũng có những anh hùng tạo nên thời thế. Nếu được phép xem Đức cha Pierre Lambert như một anh hùng, thì chúng ta phải nói: ngài tổng hợp nơi bản thân mình hai loại người ấy[52]. Đúng thế, trong thời gian sống tại quê hương Normandie, ngài đã được môi trường phong phú phi thường của Giáo hội Pháp thế kỷ XVII hun đúc thành người có chí lớn, đức cao và tài rộng[53]. Rồi khi nhận nhiệm vụ do Tòa Thánh trao phó tại Châu Á, ngài đã tạo ra cho Giáo hội ở vùng đất rộng lớn này một thế đứng mới, bằng cách tổ chức thành một Giáo hội có cơ cấu vững chắc[54]. Ngài có tâm hồn cởi mở với mọi đường hướng tu đức, các trào lưu tư tưởng và những vấn đề lớn của thời đại. Nhưng ngài tiếp nhận những yếu tố đó một cách chủ động, sáng tạo và ngài in đậm bản lĩnh mình trên sự nghiệp Thiên Chúa đã dùng ngài để thực hiện.

Người xưa thường nói: “Hữu xạ tự nhiên hương”, những ai đã một lần được biết, nghe, đọc về cuộc đời của Đức cha Lambert, người môn đệ yêu mến và hướng trọn lòng trí, cuộc sống vào Đức Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh, đều cảm nhận được sức lan tỏa hương thơm nhân đức thánh thiện nơi ngài, và qua việc ngài sống chết cho sứ mạng Loan báo Tin mừng tại Châu Á nói chung, đặc biệt đối với Giáo hội Việt Nam.

Đức Thánh cha Bênêđictô XVI đã khẳng định: “Hội Thánh phát triển không phải bằng việc chiêu dụ, nhưng bằng sức thu hút”[55]. Quả thật, một cuộc sống thánh thiện, chứng tá đức tin lúc nào cũng có âm hưởng và có sức đánh động trên người khác.

“Xem quả thì biết cây”, nhìn vào Giáo hội Việt Nam và Dòng Mến Thánh Giá hôm nay, người ta có thể thấy được cuộc đời đạo hạnh và con đường từ bỏ mà Đức cha đã để lại. Bởi vì hoa trái đạo đức đích thực, phải là kết quả của cả một cuộc sống lâu dài bền bỉ và sâu thẳm từ trong tâm hồn. Chúa Giêsu cũng đã khẳng định rằng: “Cây tốt sinh trái tốt. Cây tốt không thể sinh trái xấu được” (Mt 7,17-18).

Linh đạo Mến Thánh Giá cuối cùng chính là Linh đạo Phúc âm tinh ròng, với sự tập trung đặc biệt vào sự kiện trọng tâm của chương trình cứu độ là mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Kitô, Đấng đã sống, đã chết và sống lại vì mọi người (x. 2Cr 5,15; Ltk I,2). Nếu Phúc âm có giá trị cho mọi thời, thì Linh đạo Mến Thánh Giá sẽ không bao giờ lỗi thời. Cũng thế, Đức cha Lambert đã để lại cho Giáo hội văn kiện Huấn dụ gửi các thừa sai rất có giá trị, khiến Tòa thánh hài lòng đến nỗi nhận in ấn và tái bản nhiều lần cho các thế hệ thừa sai mang theo như cẩm nang[56]. Đặc biệt đối với Giáo hội Việt Nam, “Huấn dụ gửi các thừa sai”, chính là chứng từ rõ nét phản ảnh chính tâm tư, nguyện vọng, đời sống tu đức trọn hảo tập trung vào mầu nhiệm Đức Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh, với đường lối mục vụ đúng đắn và thức thời còn lưu lại, đang là kim chỉ nam cho công tác huấn luyện chủng sinh và mục vụ truyền giáo tại các Giáo phận. Linh mục Giuse Trương Đình Hiền cũng đã viết: “Huấn thị Monita ad missionarios của Công nghị Ayutthaya 1664 đã để lại cho Dân Chúa Việt Nam hôm nay (và cả Á châu) như một gia tài quý báu. Chắc chắn, tư liệu lịch sử liên quan đến buổi đầu loan báo Tin Mừng tại Châu Á này sẽ chỉ cho chúng ta những con đường, những định hướng mục vụ truyền giáo mang giá trị vượt thời gian”[57].

Vâng, đời sống và sức phát triển kỳ diệu của Giáo hội Việt Nam, đã trải qua biết bao thăng trầm và thử thách, là một dấu hiệu chứng tỏ sự thích hợp Linh đạo Mến Thánh Giá với tâm hồn người Việt, là mẫu người có sự bén nhạy đặc biệt đối với huyền nhiệm tình yêu và đau khổ, hai yếu tố có khả năng cứu độ con người.

Hơn nữa, Giáo hội Việt Nam hôm nay là hoa trái từ những lao nhọc của các vị Thừa sai đầu tiên này. Tiếp nối các ngài, liên tục có các vị thừa sai dấn thân hy sinh để phục vụ cộng đoàn tín hữu tại Việt Nam. Trải qua những cuộc bách hại đau thương suốt ba thế kỷ 17, 18, 19, mặc dù phải hy sinh mạng sống, những tín hữu Việt Nam vẫn can đảm trung thành với Đức tin đã lãnh nhận từ các vị Thừa sai. Thật vậy, từ những hạt mầm đầu tiên Đức cha Lambert gieo trồng tuy trong vất vả nhưng tỏa hương thơm nhân đức, nay đã phát triển mau lẹ nhờ ẩn nấp dưới bóng Thánh Giá Đức Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh.

Đã có hơn 130.000 vị tử đạo gắn bó với Thập giá Chúa Giêsu. Các ngài đã cầu nguyện, hy sinh, khổ chế, phục vụ cho sự phát triển Giáo hội, và nhất là dâng cả mạng sống mình để phụng sự Đức Kitô và Nhiệm Thể của Ngài. Mặc dù tên các vị chưa được ghi vào danh sách các Thánh Tử đạo nhưng lòng trung thành với Thiên Chúa bằng cái chết anh dũng, hoặc chấp nhận tù tội, tra tấn, đã nên gương chói ngời và để lại một đức tin vững mạnh cho mọi tín hữu Việt Nam hôm nay.

Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông huấn “Đời Sống Thánh Hiến” năm 1996, số 23 đã viết: “Chiêm ngưỡng Đức Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh là một nguồn cảm hứng cho tất cả các ơn gọi, nhờ ơn căn bản do Thánh Thần ban cho, việc chiêm ngưỡng Đức Giêsu Kitô Chịu Đóng Đinh là khởi điểm của mọi ơn huệ, đặc biệt nhất là ơn sống đời thánh hiến...”. Ý tưởng này rất phù hợp với điều Đức cha Lambert viết ở đầu bản Luật Hiệp hội Tín hữu Mến Thánh Giá: “Mọi ân sủng và thánh đức nơi hết thảy mọi người ... là hoa quả của Thánh giá Đức Giêsu-Kitô mà thôi” (Ltt 1,1).

Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 132 (Tháng 11 & 12 năm 2022)

WHĐ (11.3.2023)

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. A. LAUNAY, Histoire de la mission de Cochinchine, Documents historiques I (1658-1728), Paris, Téqui, 1923

2. A. LAUNAY, Histoire de la mission du Tonkin, Documents Historiques, tome I, Paris, Téqui, 1927

3. B. JACQUELINE, L'esprit missionnaire de Monseigneur Lambert de la Motte, Saint - Lô 1966

4. CH. QUILLET, Expression et Transmission de l'expérience mystique dans le milieu normand de 1630 à 1960, Luận án tiến sĩ, Đại học Paris IV, Sorbonne, 1993

5. DANIEL- ROPS, Histoire de l'Eglise du Christ, Tome VII, Le Grand siècle des âmes, Paris, Fayard

6. D. POINSENET, France Religieuse du XVIIe siècle, Paris 1952

7. ĐÀO QUANG TOẢN, Đức cha Lambert de la Motte, giai đoạn tại Pháp 1624-1660, Toulouse, 2002, tr. 51.

8. ĐÀO QUANG TOẢN, Đặc sủng Mến Thánh Giá, lưu hành nội bộ, 2012

9. GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Bình vẫn chưa hề cũ, Huấn thị 1659, Công Nghị 1664, Kim chỉ nam truyền giáo thế kỷ XVII, Nxb Anton & Đuốc sáng, năm 2021

10. F. F. BUZELIN, Le père inconnu de la Mission moderne, Pierre Lambert de la Motte, premier vicaire apostolique de Cochinchine 1624-1679, Archives des Missions Étrangères, Paris 2006

11. F. F. BUZELIN, Aux Sources des Missions étrangères, Pierre Lambert de la Motte, 1624-1679, Perin, 2006

12. H. BREMOND, Histoire littéraire du sentiment religieux en France, tome 111: la Conquête mystique, L'école Franẹaise, Paris 1935

13. H. CHAPPOULIE, Aux origines d'une Église. Rome et les missions d'Indochine au XVIIe siècle, Paris, 1943

14. H. DE FRONDEVILLE, Đức cha Pierre Lambert de la Motte (1624-1679), Nguyễn Xuân Hùng dịch, lưu hành nội bộ, Tp. Hồ Chí Minh, 2007

15. LESTOCQUOY, La vie Religieuse en France du VIIe au XXe siècle, Paris 1964

16. P. POURRAT, La spiritualité Chrétienne III. Les Temps Modernes, Première Partie: de la Renaissance au Jansénisme, Paris, 1947

17. R. DEVILLE, Scuola francese di spiritualità, in Dizionario di spiritualità Montfortana, diretto da Stefano De Fiores, Edizioni Montfortane, Roma, 2005, col. 1570.

18. J. CH. DE BRISACIER, Vie de Mgr. Lamothe Lambert, Évêque de Béryte - Cuộc đời Đức cha Lambert de la Motte, Giám mục Hiệu tòa Béryte, vol. 122, Cao Kỳ Hương dịch, lưu hành nội bộ, 2006

19. J. GUENNOU, Missions Étrangères de Paris, Paris, Fayard, 1986

20. J. METZLER, Die Synoden in Indochina 1625- 1934 (Các Công nghị tại Đông Dương 1625 -1934)



[1] THEOPHAN THE MONK, Tales of a Magic Monastery, New York, Crossroad, 1988, p. 20.

[2] X. DANIEL- ROPS, Histoire de l'Eglise du Christ, Tome VII, Le Grand siècle des âmes, Paris, Fayard, pp. 55 - 56.

[3] LESTOCQUOY, La vie Religieuse en France du VIIe au XXe siècle, Paris 1964, pp. 167, 169.

[4] D. POINSENET, France Religieuse du XVIIe siècle, Paris 1952, p. 12.

[5] X. Tiểu Sử-Bút Tích Đức cha Phêrô Maria Lambert de la Motte, (T.sử) 1998, số 2 tr. 8.

[6] D. POINSENET, France Religieuse du XVIIe siècle, Paris, 1952, p. 363.

[7] Cf. A. LAUNAY, Histoire de la mission de Cochinchine, Documents historiques I (1658-1728) , Paris, Téqui, 1923, p.96.

[8] AMEP, vol. 118, p. 332.

[9] P. POURRAT, La spiritualité Chrétienne III. Les Temps Modernes, Première Partie: de la Renaissance au Jansénisme, Paris, 1947, pp.127.154.

[10] X. D. POINSENET, France Religieuse du XVIIe siècle, op. cit., p.16.

[11] X. Tiểu sử-Bút Tích-Linh đạo số 5, tr.71.

[12] X. Nhóm Nghiên cứu Linh đạo Mến Thánh Giá (NNCLĐMTG), Lịch sử Dòng Mến Thánh Giá, 2018, tr. 60; Trích từ bài viết: “Dòng Mến Thánh Giá Việt Nam” của linh mục Phi Khanh Vương Đình Khởi chia sẻ tại khóa thường huấn Linh Mục Đà Lạt tháng 5.2016, tr. 2.

[13] X. B. JACQUELINE, L'esprit missionnaire de Monseigneur Lambert de la Motte, Saint - Lô 1966, p. 219.

[14] X. H. CHAPPOULIE, Aux Origines d'une Eglise: Rome et les Missions d' Indochine au XVII siècle, Tome I, Paris 1943, p. 140.

[15] X. J. GUENNOU, Monseigneur Lambert de la Motte, Maĩtre spirituel, trong Echos de la rue du Bac, tháng 3, 1991, p.36, cước chú 4.

[16] X. Trích từ bài viết: “Dòng Mến Thánh Giá Việt Nam” của linh mục Phi Khanh Vương Đình Khởi chia sẻ tại khóa thường huấn Linh Mục Đà Lạt tháng 5.2016, tr. 2.

[17] X. ĐÀO QUANG TOẢN, Đức cha Pallu và Dòng Mến Thánh Giá, Lưu hành nội bộ, năm 2010, tr. 67.

[18] X. ĐÀO QUANG TOẢN, Đức cha Pallu và Dòng Mến Thánh Giá, sđd, tr. 67.

[19] J. CH. BRISACIER, Cuộc đời Đức cha Lambert de la Motte, sđd., số 14.

[20] P. POURRAT, La spiritualité Chrétienne III. Les Temps Modernes, op. cit., pp. 60-61.

[21] Cf. J. GUENNOU, Missions Étrangères de Paris, Paris, Fayard, 1968, pp.103- 104.

[22] Cf. H. BREMOND, Histoire littéraire du sentiment religieux en France, Tome 111: la Conquête mystique, L'école Franẹaise, Paris 1935, pp. 641-644.

[23] Ai chưa biết nhiều về Đức cha Lambert chắc sẽ giật mình thắc mắc: Có thực là Đức cha Lambert lúc mới chín tuổi đã được Chúa gọi để lập dòng Mến Thánh Giá tại Việt Nam sau này không? Đó có phải là một “ơn thần bí”, “ơn Chúa soi sáng”, hay chỉ là chuyện “hình dung và ước muốn” của một cậu bé chín tuổi? Căn cứ vào đâu mà cha Jean Guennou đã dám viết ra những lời như trên?

Theo giải thích của cha Giuse Đào Quang Toản: cậu bé Lambert là một cậu bé trưởng thành trước tuổi. Người viết tiểu sử đầu tiên về Đức cha Lambert nói rằng: “Những ai từng may mắn lãnh trách nhiệm giáo dục cậu bé Lambert đều công nhận tuổi thơ ấu của ngài không có chút gì là ấu trĩ cả. Từ năm lên tám [tức năm 1632], ngài đã có tính cách chững chạc của một con người trưởng thành chín chắn” (Trích từ bài viết Lúc lên 9 tuổi của cha Giuse Đào Quang Toản, năm 2008, tr. 2).

[24] X. J. GUENNOU, Missions Étrangères de Paris, Fayard Paris 1968, pp. 111-112.

[25] Trích Đường Hy Vọng, số 18, tr. 26.

[26] Trích từ bài viết “Thánh Giá: điểm hẹn tình yêu”, trong https://www.giaophanbaria.org

[27] Trích sách Gương Chúa Giêsu, quyển II, chương 12, tr. 172.

[28] B. JACQUELINE, L'esprit missionnaire de Monseigneur Lambert de la Motte, Saint - Lô 1966, p. 226

[29] X. J. CH. BRISACIER, Cuộc đời Đức cha Pierre Lambert de la Motte, sđd., số 22.

[30] Cf. H. CHAPPOULIE, Aux origines d'une Église. Rome et les missions d'Indochine au XVIIe siècle, Paris, 1943, pp.141-142.

[31] Đức cha Pierre Lambert đã có ý tưởng này trong ngày chịu chức linh mục. (x. J. Ch. BRISACIER, Cuộc đời Đức cha Pierre Lambert de la Motte, bản dịch của Cao Kỳ Hương, Đào Quang Toản giới thiệu, 2006, số 69, tr. 42-43).

[32] Các năng lực của linh hồn (các năng khiếu tâm linh) gồm có: cảm giác, cảm xúc, trí nhớ hoặc ký ức, trí tưởng tượng và óc sáng tạo.

[33] T. sử, số 8, tr.15.

[34] Đây là khẩu hiệu mà ngài kế thừa của linh đạo trường phái Pháp: “Chúa Giêsu- Kitô phải là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta” (J. GUENNOU, Missions Etrangères de Paris, op. cit., p.112).

[35] X. Nghị quyết Công nghị Đàng Ngoài 1670, điều 21, trong A. LAUNAY, Histoire de la mission du Tonkin, Documents Historiques, Tome I, Paris, Téqui, 1927, p.97.

[36] T.sử, số 31, tr. 56.

[37] X. T.sử, số 31, tr. 57.

[38] H. CHAPPOULIE, Aux Origines d'une Église: Rome et les Missions d'Indochine au XVIIe siècle, Tome I, Paris 1943, p. 142.

[39] X. T.sử, số 31, tr. 57.

[40] X. Tông huấn Loan Báo Tin Mừng 52.

[41] Tông huấn Loan Báo Tin Mừng 52.

[42] X. Công nghị Đàng Ngoài, điều 10.

[43] J. GUENNOU, Missions Étrangères de Paris, op. cit., p. 142.

[44] T.sử, số 31, tr. 57.

[45] T.sử, số 31, tr. 57.

[46] X. T.sử, số 31, tr. 57.

[47] Tông huấn Chứng tá Phúc âm 9.

[48] X. B. JACQUELINE, L'esprit missionnaire chez Mgr Lambert de la Motte, op. cit., pp. 223-224.

[49] X. J. GUENNOU, Missions Étrangères de Paris, op. cit., p. 208.

[50] J. GUENNOU, Missions Étrangères de Paris, op. cit., p.142.

[51] X. ĐÀO QUANG TOẢN, Đức cha Pierre Lambert de la Motte, sđd., tr. 169.

[52] X. Linh Đạo Lâm Bích số 32, tr.122.

[53] X. Tiểu sử-Bút Tích-Linh đạo số 19, tr. 81.

[54] X. Tiểu sử-Bút Tích-Linh đạo số 27-28, tr. 25-26.

[55] Evangelii Gaudium, số 14.

[56] X. Trích từ bài viết “Dòng Mến Thánh Giá Việt Nam” của linh mục Phi Khanh Vương Đình Khởi chia sẻ tại khóa thường huấn Linh Mục Đà Lạt tháng 5.2016, tr. 4.

[57] Linh mục GIUSE TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Bình vẫn chưa hề cũ, Huấn thị 1659, Công Nghị 1664, Kim chỉ nam truyền giáo thế kỷ XVII, Nxb Anton & Đuốc sáng, năm 2021, tr. 61.