ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN
SỐNG CHỨNG NHÂN CHO CÔNG LÝ
VÀ HOÀ BÌNH
THEO GIÁO HUẤN XÃ HỘI CÔNG GIÁO (GHXHCG)
Sr. Mary Josephine Trần Thị Thanh Lương, O.P.
WHĐ (1.2.2021) - “Nhiều người nam nữ sống đời thánh hiến đã dâng
hiến và còn tiếp tục dâng hiến cuộc sống mình để ôm ấp những
giấc mơ của những người bị loại trừ, như là dấu chỉ tội đỉnh của
tình yêu và của sự nhất quán với lý tưởng của cuộc sống (LG 42).
Các giấc mơ của những người bị loại trừ đối với chúng ta - những con
người thánh hiến nam nữ - chính là một đòn giáng xuống sự an toàn
và yên ổn của chúng ta. Chúng là một lời mời gọi hãy ra khỏi mình,
hãy cúi xuống, hãy lột bỏ mình." ĐHY Franc Rodé
Thời đại của thế kỷ XXI hôm nay là Kỷ
nguyên được đánh dấu bởi hiện tượng Toàn Cầu Hoá, đây là một hiện tượng phức tạp
chi phối mạnh mẽ, toàn diện cuộc sống con người trên bình diện cá nhân cũng như
cộng đồng. Dù là người chống đối hay ủng hộ, tất cả đều nhận thức rõ ràng sự tồn
tại và những ảnh hưởng tiêu cực lẫn tích cực của nó. Khởi đầu là hiện tượng
toàn cầu hoá về kinh tế và tài chính, với sự phát triển mạnh mẽ, năng động đến
mức bùng nổ của nền khoa học công nghệ thông tin, thế giới dường như bị thu nhỏ
lại mọi thông tin trên thế giới được tiếp cận nhanh chóng, chính xác, đa diện,
đa chiều. Tưởng chừng như mọi biên giới quốc gia, mọi rào cản ngôn ngữ, mọi
ngăn cách địa lý không còn nữa. Thế giới như bị san phẳng[1].
Trước những thực tại của xã hội và thời đại, đời sống thánh hiến như là một chứng từ sống động về niềm tin cho công lý- hoà bình và những giá trị cao quý của Tin Mừng, trở nên dấu chỉ nước trời và khơi lên niềm hy vọng cho thế trần. “Ơn tận hiến của các tu sĩ hiện lên trong suy tư chung như là dấu chỉ đặc trưng và có tính cách ngôn sứ của giáo huấn xã hội công giáo: khi phó thác mình hoàn toàn cho việc phục vụ mầu nhiệm Đức Ái của Chúa Kitô đối với con người và thế giới, các tu sĩ được hưởng trước và cho thấy trong đời sống của họ một số nét của nhân tính mới mà giáo huấn xã hội ao ước được thể hiện” [2]
1. GHXHCG và sự dấn thân Ki-tô hữu
Thiên Chúa đã tạo nên con
người như một hữu thể xã hội; họ cần đến sự giúp đỡ tương quan liên
đới với nhau để phát triển bản thân. Thực tại tự nhiên này đã
được đảm nhận lấy trong chương
trình cứu chuộc, như là điều được nói đến rõ ràng trong Cựu Ước cũng
như Tân Ước.[3] Như vậy, Đức Giê-su đã
mặc khải tình yêu của Chúa Cha và ơn gọi cao quí của con người xuyên
qua những khía cạnh tầm thường nhất: Ngài sử dụng ngôn từ và các
hình ảnh của đời sống thường nhật, thánh hóa các mối tương quan nhân
loại, cách riêng là những tương quan trong gia đình, Ngài đã sống cuộc
sống của người lao động, qui phục các luật của đất nước Ngài; đàng
khác, lệnh truyền tột đỉnh của Ngài hay cách khác di chúc của Ngài để lại
được tóm lại trong tình yêu thương lẫn nhau giữa các con người, một
tình yêu ôm ấp lấy tất cả và thậm chí cả các kẻ thù[4].
Nếu chúng ta muốn nhận định
khia cạnh nền tảng của mối liên hệ hỗ tương giữa thực tại xã hội
và thực tại Ki-tô hữu, , thì cần thiết phải bắt đầu với yếu tính
của thực tại Kitô hữu. Như chúng ta quá biết, đời sống Ki-tô hữu
không hệ tại nhiều ở giáo thuyết hay lý thuyết, mà nó chính là một
đời sống trong Đức Ki-tô, tức là
việc đi theo, việc đồng nhất và việc chuyển biến trong Đức Giê-su.
Theo nghĩa đó, sự dấn thân xã hội của người Ki-tô hữu là một cái
gì đó vượt lên trên sự hiểu biết về một chuỗi những nguyên tắc,
những phán đoán và những chỉ dẫn; nó trên hết phải là một quyết
định đồng nhất mình với Đức Giê-su – tức đi tìm sự thánh thiện –
xuyên qua sự thực hành trung thành các bổn phận xã hội.[5] Mọi đời sống Ki-tô hữu
phải lưu tâm đến những mối liên hệ xã hội, bởi lẽ chính Đức Ki-tô
đã đảm nhận và cứu chuộc chúng và như vậy, chính bản thân con người
cũng có thể – và phải – xuyên qua các mối liên hệ này đồng nhất
mình với Đức Giê-su. ThánhGiáo Hoàng Gio-an XXIII khi tổng kết lại một
xác tín bền vững và liên tục của Huấn Quyền, đã dạy rằng “giáo huấn
xã hội chính là một phần toàn diện của quan niệm Ki-tô hữu về cuộc
sống”[6], bao lâu giáo huấn này
không là gì khác hơn là nêu rõ các hậu quả xã hội của sự dấn thân
Ki-tô hữu và việc áp dụng các giá trị Ki-tô hữu vào lãnh vực xã
hội.
Do đó việc tham dự của mọi
Ki-tô hữu vào trong sự tiến bộ thiêng liêng và vật chất của toàn thể
xã hội chính là một phần toàn diện của ơn gọi mà Thiên Chúa đã
gọi mỗi người nam nữ hãy đạt tới sự hoàn thành bản thân của mình,
tức là thánh hóa mình: Hiến Chế
Ánh Sáng Muôn Dân rút ra các hậu quả của thực tại này: “Do đó
các tín hữu phải học hỏi ý nghĩa sâu xa nhất và giá trị của toàn
thể tạo thành, và làm sao liên kết tạo thành với việc ca ngợi Thiên
Chúa. Họ phải giúp đỡ lẫn nhau để sống đời sống thánh thiện hơn,
ngay cả trong các bổn phận hằng ngày của họ. Bằng cách này thế
giới được thấm nhuần tinh thần của Đức Ki-tô và hoàn thành một cách
hữu hiệu hơn mục tiêu của nó trong công lý, bác ái và hòa bình”.[7] Cùng trên đường nét này,
Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng cảnh
báo: “Mỗi người hãy coi như là một sự bó buộc thánh thiêng là phải
coi các nhu cầu cầu xã hội như là trong số các bổn phận chính yếu
của con người hiện đại, và lưu tâm đến chúng”.[8]
Trên thực tế các bó buộc này chính là một trách nhiệm chuyên biệt mà vì chúng, chúng ta sẽ
phải chịu phán xét trong ngày sau hết (Mt 25: 31-16): không có cuộc
sống Ki-tô hữu nào hiện hữu cả (thậm chí không có một cuộc sống
nhân bản nào nữa là đàng khác), nếu ta thờ ơ đối với những nhu cầu,
các luật lệ và cơ chế xã hội và
do đấy thờ ơ với chính Thiên Chúa nữa, và đặt ơn cứu độ đời đời
của chúng ta trong sự nguy hiểm”[9].
Thêm vào đó, điều ngược: một
xã hội lành mạnh đòi hỏi một nhân vị - nhân phẩm đúng đắn về phía
những nhân tố hình thành ra nó: tức là những con người và những
nhóm xã hội. Chúng ta không có thể đánh lừa chính mình được: không
thể nào đạt tới được công bình và bác ái xã hội, ở bên trên và
vượt ra bên ngoài cái con người đạt được trong sự công bình và trong
đức bác ái cá nhân.[10] Thái độ luân lý của
cộng đồng lệ thuộc vào sự hoán cải cá vị, vào sức mạnh của lời
cầu nguyện, vào ân sủng của các bí tích, vào lòng can đảm hay sức
mạnh tinh thần của các nhân đức, vào các yếu tố cấu thành nên tinh
thần đó.[11] Theo nghĩa này, giáo
huấn của Hội Thánh luôn luôn kêu gọi cần có một ý thức chính trị đúng đắn
và hữu hiệu song song với với một lối sống luân lý cốt yếu[12];
ý chí chính trị mà thôi có thể sản sinh ra một số những thay đổi
nào đó, nhưng kinh nghiệm cho thấy
rằng nó chỉ có tính cách tạm bợ và thường những sự bất công
do nó tạo nên thường là nhiều hơn những cái đúng đắn; còn quyết
định luân lý mà không có sự thay đổi cơ cấu thì sẽ hoàn toàn không
sinh hoa kết quả bởi lẽ nó không là một thực tại chân chính: sẽ
không có sự hoán cải nội tâm đích thực một khi không phát sinh ra
được những chuyển biến tốt hơn về mặt xã hội[13].
Tất cả những gì đã nói có
giá trị cho tất cả các Ki-tô hũu, thì cũng có giá trị cho tất cả
mọi người; nhưng chúng ta có thể tự hỏi: “Phải chăng những trách
nhiệm này áp dụng trong một mức độ đồng đều cho tất cả các Ki-tô
hữu?”. Câu trả lời chắc chắn là không, giống y như chuyện không có
một mức độ y hệt nhau cho tất cả các Ki-tô hữu trong việc đồng nhất
mình với Đức Ki-tô. Cuộc sống của ngôi Lời nhập thể có một sự duy
nhất sâu xa; nhưng đối với cùng một chuyện đó theo một quan điểm nhất
định nào đó, chúng ta có thể phân biệt ra ba lãnh vực:
(1) mức căng
thẳng của nó để hướng tới phía bên kia tự biểu lộ ra trong việc tìm
kiếm không ngừng một sự liên kết thâm sâu với Chúa Cha, và trong các giáo huấn về sự
sống đời đời (Mt. 14-15; Lc. 6:12);
(2) sự dấn
thân của Ngài để tuân giữ các bổn phận hay các bó buộc trần thế mà
chúng ta đã đan cử ra ở trên;
(3) sứ vụ của
Ngài là chuyển giao ơn sủng của Thiên Chúa cho con người và dẫn họ
tới Chúa Cha.
Cả ba lãnh vực này tạo thành sự sống
của Hội Thánh – cánh chung, trần thế và tác vụ[14],
phải được cổ xúy bởi tất cả những người đang tìm kiếm để bản thân
mình nên đồng nhất với Chúa Ki-tô. Trên thực tế, tất cả mọi tín đồ
Ki-tô hữu đều có ít nhất là chức tư tế chung[15],
tất cả đều phải sống trong sự ý thức được rằng “Không có thành trì
vững bền cho chúng ta tại đây; chúng ta đang đi tìm kiếm một thành
trì tương lai” (Dt 13:14); và người ta có thể sao nhãng các bổn phận
dấn thân trần thế: với tất cả những gì đã nói tới, chúng ta có
thể nói thêm bằng những lời lẽ của Vaticanô II rằng tất cả mọi Ki-tô hữu (không chỉ là
hàng giáo dân) đều phải biết rằng “Họ sai lầm khi biết được rằng
chúng ta không có thành trì vững bền tại đây nhưng còn phải đi tìm
kiếm thành trì tương lai, họ đã vội nghĩ rằng do đó họ có thể sao
nhãng các trách nhiệm trần thế. Bởi lẽ họ quên rằng chính đức tin
cho họ thấy được rằng họ càng có bổn phận hơn khi nào hết phải chu
toàn đúng mức các bổn phận này, mỗi người thể theo ơn gọi của
mình”.[16]Quả vậy, ơn kêu gọi Ki-tô
hữu là một, nhưng đa diện” theo
như chương trình của Thiên Chúa”[17].
Sự duy nhất và sự đa diện
của các ơn gọi trong Hội Thánh chứng tỏ rằng trong lãnh vực xã hội,
tất cả mọi người, trong tư cách là những người bước theo Đức Giê-su,
đều có những bổn phận phải hoàn thành; nhưng họ phải làm những bổn
phận đó “thể theo ơn gọi của mỗi người”: Người lãnh nhận giáo huấn xã hội thứ nhất chính là cộng đoàn
Hội Thánh gồm tất cả mọi phần tử, bởi lẽ tất cả đều có các
trách nhiệm xã hội mà mình phải đảm nhận. Lương tâm bị chất vấn
bởi giáo huấn xã hội để mà phải nhìn nhận và hoàn thành các bổn
phận của Công bình và Bác ái trong đời sống xã hội. Lời giáo huấn
này chính là ánh sáng của chân lý luân lý khơi dậy những sự đáp
trả thích đáng tùy theo ơn gọi và thừa tác vụ của mỗi Ki-tô hữu.
Trong những nhiệm vụ của việc loan báo Tin Mừng, nghĩa là các nhiệm
vụ giáo huấn, dạy giáo lý và đào tạo mà Giáo huấn xã hội công giáo
khơi dậy, nhiệm vụ này đều được dành cho mỗi một người Ki-tô hữu,
tùy theo các các khả năng chuyên môn, các đặc sủng, các chức vụ và
sứ mệnh loan báo của riêng mỗi người”[18].
Hiển nhiên là cách thức cộng tác vào việc xây dựng, dạy dỗ và thực
hành Giáo huấn xã hội công giáo, thì mỗi người đảm nhận một cách cá
biệt, người giáo dân thì khác với người được thánh hiến, một nữ tu
dòng Kín Carmêlô thì khác với một thành viên của Tu hội đời[19].
2. Đời sống thánh hiến và Giáo huấn xã hội công giáo
Qua các thời đại có những người
nam và những người nữ, sẵn sàng nghe tiếng gọi của Chúa Cha và được thúc đẩy bởi
Chúa Thánh Thần, đã chọn cho mình con đường bước theo Đức Ki-tô, để tự hiến đời
mình cho Ngài, với con tim không chia sẻ. Họ đã từ bỏ mọi sự như các tông đồ, để
ở với Ngài và giống như Ngài, phục vụ Thiên Chúa và anh chị em đồng loại. Như
thế họ góp phần vào việc biểu lộ mầu nhiệm, và sứ mạng của Giáo Hội bằng muôn
vàn ân sủng, thuộc đời sống thiêng liêng và tông đồ mà Chúa Thánh Thần đã ban
cho họ, nhờ đó họ góp phần vào việc canh tân xã hội[20].
Với GHXH của mình, Giáo Hội tìm
cách công bố Tin Mừng và làm cho Tin Mừng hiện diện trong hệ thống phức tạp các
môi quan hệ xã hội. Không chỉ là làm sao đem Tin Mừng đến được với con người
trong xã hội - con người là kẻ tiếp nhận Tin Mừng được công bố - mà còn làm sao
cho xã hội được thấm nhuần Tin Mừng và được phong phú lên nhờ Tin Mừng. [21]
GHXHCG vừa bắt nguồn từ Kinh
Thánh, vừa tích lũy những suy tư và kinh nghiệm của Giáo hội suốt dọc lịch sử,
vừa trung thành với sứ vụ muôn thuở của Ki-tô giáo, vừa thích nghi và đổi mới
không ngừng để trả lời cho những thách đố của mỗi thời đại. Hơn nữa thế kỷ vừa
qua, GHXHCG đã chứng tỏ cho mọi người thấy rằng ước muốn đọc những dấu chỉ thời
đại dưới ánh sáng Tin Mừng và quyết tâm đối thoại với nhân loại hôm nay là một
trong những mục tiêu của Hội Thánh trong thời hiện đại[22].
Do đó, chúng ta nên nhớ lại
những đặc điểm của ba loại ơn gọi mà Tông huấn Đời Thánh Hiến nói đến: “Bậc
giáo dân, vì lẽ tính chất trần thế của ơn gọi của họ, phản ánh
cách riêng mầu nhiệm ngôi Lời Nhập thể, trong mức độ Ngài là Khởi
đầu và cùng đích của thế giới, nền tảng và là mức độ của giá
trị của các vất thọ tạo. Các thừa
tác vụ thánh thì có phận vụ là những hình ảnh sống động của
Đức Ki-tô, Đấng là Thủ lãnh và Mục tử hướng dẫn dân Ngài trong thời gian “đã và còn chưa
đến” này, khi người ta còn đang đợi việc ngài đến trong vinh quang.
Còn đời sống thánh hiến thì
được trao phó nhiệm vụ cho thấy Con Thiên Chúa Nhập thể chính là mục tiêu cánh chung mà mọi sự phải
vươn tới, là sự rực rỡ mà mọi ánh sáng so với nó chỉ là mờ nhạt,
là vẻ đẹp mà chỉ cần một mình nó đã là đủ để hoàn toàn thỏa
mãn trái tim con người”.[23] Từ những lời trên,
chúng ta có thể rút ra hai hệ quả có liên hệ với giáo huấn xã hội
của Hội Thánh. Hệ quả thứ nhất
chính là “những trách nhiệm liên
quan đến việc xây dựng, tổ chức và bước hoạt động của xã hội […]
cách riêng thuộc về trách nhiệm của giới giáo dân, vì lý do điều
kiện trần thế của ơn gọi của họ: qua các trách nhiệm đó, các người
giáo dân đem giáo huấn xã hội vào hành động và hoàn tất sứ mệnh
trần thế của Hội Thánh”[24].
Hệ quả thứ hai liên quan đến
hạt nhân của mối liên hệ này: đó là mối tương quan giữa đời thánh
hiến và Giáo huấn xã hội công giáo xuất phát từ các mối dây liên kết
hiện có giữa thực tại xã hội trong mỗi thời điểm của lịch sử và
đích nhắm cánh chung. Những mối dây liên kết này thật rất chặt chẽ
bởi lẽ chúng thuộc về chân lý toàn diện của con người, như giáo
thuyết Ki-tô giáo đã dạy và kinh nghiệm của con người đã cho thấy.
Xét về quan điểm giáo thuyết, chúng ta chỉ cần nhớ đến giáo huấn
của Công đồng Vaticanô II: cuộc sống trần thế có một sự giới hạn; tuy
nhiên chúng ta biết được rằng Thiên Chúa chuẩn bị một nơi cư ngụ mới
và một đất mới, trong đó sự công chính cư ngụ, và hạnh phúc của
nó sẽ làm thỏa mãn cách dư tràn
tất cả mọi khát vọng hòa bình nẩy sinh trong lòng con người. Tuy
nhiên việc chờ đợi một đất mới không được phép làm yếu đi, mà trái
lại nó phải kích thích mối quan tâm đến công việc có liên hệ đến
trái đất hiện nay, nơi một cơ thể nhân loại mới tăng trưởng, một nhân
loại cống hiến một hình ảnh báo trước tỏa bóng của một thế giới
mới. Dù cho chúng ta vẫn còn phải phân biệt một cách chính xác giữa
tiến bộ trần gian với sự phát triển của Nước Chúa Ki-tô, tuy nhiên
một bước tiến bộ trần thế nêu ở trên, trong mức độ nó góp phần để
sắp đặt một trật tự tốt hơn cho xã hội của con người, quả có một
tầm mức quan trọng rất lớn cho Vương Quốc của Thiên Chúa[25].
Ngay cả kinh nghiệm cụ thể
cũng nêu rõ thực tại của các mối dây liên kết này; chúng ta có thể
nhìn từ hai góc nhìn bổ sung cho nhau: một bên là tiêu cực, là những
xáo trộn của xã hội xuất phát từ sự lơ là đối với chúng; còn bên
kia là phía tích cực, tức là các hiệu năng có lợi của việc nhìn
nhận chúng và thi hành chúng. Xét về phương diện tiêu cực, bằng
chứng hiển nhiên của lịch sử và giáo huấn bền bỉ của Huấn Quyền
cho thấy nền vô thần là một trong những hiện tượng nghiêm trong hơn cả
của thời đại chúng ta, nó tạo nên những hậu quả nghiêm trọng nhất
cho đời sống xã hội[26]. Một nền nhân học không
biết đến sự mở ra cho siêu việt tính của nhân vị tất không nhận biết
được yếu tố quan trọng nhất: đó là tinh thần. Khi điều đó xẩy ra,
thì mọi sự tăng trưởng nhân bản và xã hội đều được phó thác cho
tiến bộ kỹ thuật và đi đến kết cuộc là quay trở lại chống đối con người. Kết luận hiển nhiên nhất của
nó chính là kế hoạch về một xã hội thực sự nhân bản phải phát
xuất từ những giá trị siêu việt, để rồi đi xuống các giá trị xã
hội và vật chất. Việc không chịu xây dựng xã hội theo cách thế như
vậy tất sẽ kéo theo “những sự mất trật tự” hiển nhiên trong thế
giới hiện tại: Nếu chúng ta bỏ Thiên Chúa ra bên ngoài, thì tất chỉ
còn có quyền hành quá đáng, sự ép buộc conngười về mặt thể xác hoặc tinh vi hơn, dươi hình
thức của các áp đặt hay giới hạn
khác nhau về diện kinh tế – xã hội và về phương diện truyền thống.
Điều này hiển nhiên trong lịch sử mới đây cũng như hiện tại: một khi
các căn rễ tôn giáo của một nhóm bị đánh mất đi, thì các mối tương
quan giữa các thành phần của nhóm trở thành căng thẳng và đầy bạo
lực, bởi vì khi đó sức mạnh luân lý để mà hành động sẽ bị suy
giảm hay phân tán mất. Đức Thánh Giáo Hoàng Gio-an XXIII đã nói như vậy:
“Khía cạnh thê thảm đặc trưng của thời đại tân thời nằm ở trong nỗ
lực phi lý muốn tái thiết lập một trật tự trần thế vững mạnh và
phong phú trong khi không lý gì đến Thiên Chúa, Đấng là nền tảng độc
nhất dựa trên đó họ mới có thể đứng vững; và muốn cử hành sự vĩ
đại của con người bằng cách làm khô cạn nguồn mạch làm vọt trào lên
và nuôi dưỡng chính sự vĩ đại của nó, nghĩa là bao có thể kìm hãm, hoặc nếu có thể tiêu diệt sự
hít thở của con người vươn tới Thiên Chúa. Chẳng phải là kinh nghiệm
của mỗi ngày tiếp tục chứng minh, giữa những sự vỡ mộng cay đắng
nhất và không hiếm khi kể cả sự đổ máu nữa, tất cả những gì mà
sách mặc khải đã nói: “Nếu Thiên
Chúa không xây dựng nhà cửa, thì thợ nề làm việc cũng uổng công
thôi” (Tv 126:1)”[27]. Các Đức Thánh Giáo
Hoàng Phaolô VI[28], Gioan –Phaolô II[29] và Nguyên Giáo Hoàng
Bênêđitô XVI[30] cũng đều lên tiếng như
vậy. Điều trên cắt nghĩa tại sao Huấn Quyền đã nhắc đi nhắc lại
rằng sự tách lìa giữa đức tin và cuộc sống hằng ngày chính là một
trong những lầm lạc nghiêm trọng nhất của thế giới hiện nay.
Hệ quả lập tức của sự đánh
mất cảm thức về Thiên Chúa chính là sự mất cảm thức về tội và
tính cách tiêu cực của cuộc sống xã hội. Rõ ràng là bất chấp tiến
bộ mà xã hội đã kinh nghiệm được, hoàn cảnh hiện tại thật rất xa
với việc làm thỏa lòng mong ước: còn có hằng triệu những con người
không có được cả đến những của điều căn bản, đang chịu đối xử tàn
tệ, không được hưởng hòa bình và tự do xã hội sơ yếu nhất. Kết quả
này chính là một hậu quả rất hợp lý của tội lỗi: “tội của con
người, tức là sự đoạn tuyệt của họ với Thiên Chúa, chính là lý lẽ
tận căn của những thảm cảnh đánh dấu lịch sử của sự tự do”[31]. Chuyện là như vậy bởi
vì sự rối loạn luân lý đưa đến sự mất trật tự về mặt nhân bản
cũng như về mặt thể lý: Con người “trong khi từ chối kế hoạch tình
yêu của Thiên Chúa, đã tự lừa dối chính mình, trở thành nô lệ của
tội lỗi. Sụ tha hóa thứ nhất này sản sinh ra muôn vàn sự tha hóa
khác. Lịch sử nhân loại, khởi sự từ những lúc khởi nguồn, đã làm
chứng cho những bất hạnh và những sự đàn áp phát sinh từ trái tim
con người, là kết quả của việc sử dụng sai trái sự tự do”[32]. Đàng khác, các tội cá
nhân hướng đến việc thể chế hóa các “cơ cấu của tội lỗi”[33], là những cái trong khi
tác động sai trái tới hạnh kiểm của con người –tuy vẫn không lấy đi
sự tự do của họ – trở thành nguồn mạch của các tội lỗi khác[34]. Cho nên căn rễ của các
sự dữ của xã hội và cái tâm địa chấn của “vấn đề xã hội” chính
là số lượng và sự nghiêm trọng của các tội thế gian.
Chắc chắn “tội lỗi” và “các
cơ cấu tội lỗi” là những phạm trù không được thường xuyên áp dụng
vào hoàn cảnh của thế giới hôm nay. Tuy nhiên chúng ta sẽ không dễ
dàng hiểu được một cách sâu xa về thực tại diễn ra trước mắt chúng
ta nếu không trao bao một cái tên cho cái căn rễ của những sự dữ đang
làm khổ chúng ta”[35]. Hơn nữa môt sự chẩn
đoán xã hội mà không lưu ý đến mầu
nhiệm sự dữ tất yếu sẽ là
một sự chẩn đoán hời hợt trong đó nhân loại đầy dẫy nỗi bất an,
khốn đốn, nhưng lại chẳng biết được chuyện gì đã xẩy ra, thậm chí
chẳng tìm ra được phương dược trị bệnh. Theo nghĩa đó, quan trọng là
trong nỗ lực làm cho xã hội trở nên tốt lành hơn, chúng ta không được
quên thực tại của tội lỗi và sự bất lực trong việc xây dựng một
trật tự xã hội vững bền và xứng đáng với con người một khi mình
sao nhãng những gí trị luân lý và những nhân đức có liên hệ đến
chúng[36]. Một lý do nữa chính
là “khi mình chẩn đoán cái dữ như vậy có nghĩa là mình nhận ra một
cách chính xác trên bình diện hạnh kiểm của con người một hành trình mà mình phải theo đuổi
để vượt thắng được nó”[37].
Nếu bây giờ chúng ta chuyển
sang quan điểm tích cực, chúng ta cần phải nhấn mạnh tới sự cần
thiết là trật tự xã hội phải có một nền tảng vững chắc, để không
trở thành con mồi cho những quan điểm hay thay đổi hay những trò chơi
quyền lực: và chỉ có Thiên Chúa mới là nền tảng tuyệt đối đó[38]. Quả vậy, “chính mầu
nhiệm Thiên Chúa, Tình yêu Ba ngôi, tạo thành nền tảng cho ý nghĩa và
giá trị của con người, của xã hội và của hành động của con người
trong thế giới, như đã được mặc khải và được thông ban cho nhân loại
qua Đức Giê-su Ki-tô, trong Thần Khí của Ngài”[39].
Bởi thế chúng ta phải tránh tách lìa, nhất là còn phải tránh đem
đối lập giữa trật tự tôn giáo và trật tự xã hội, là những cái bao
hàm lẫn nhau và cổ xúy cho nhau.[40]
Trái lại cần phải sống hài hòa với cả hai lãnh vực thuộc chân lý
của con người: tức là mối liên hệ vô điều kiện cùng Thiên Chúa[41] và sự quan tâm đến đồng
loại và thế giới là cái không bị hư vô hóa, trái lại còn được củng
cố chắc chắn nhờ vào bình diện
của sự tập trung vào Thiên Chúa, bởi lẽ có một sự liên kết
bất khả phân “giữa mối liên hệ mà
con người được gọi để có với Thiên Chúa và trách nhiệm đối với
đồng loại, trong các hoàn cảnh cụ thể lịch sử”.[42]
Chúng ta có thể rút ra từ
những gì đã nói đến là đời sống thánh hiến có một vai trò đáng
kể trong việc xây dựng thế giới này. Công đồng Vaticanô II đã nhắc
nhở tới điều này: “Đừng có ai nghĩ rằng các tu sĩ với việc thánh
hiến của họ trở thành xa lạ với con người hay vô ích trong xã hội
trần thế. Bởi vì ngay cả khi họ không trực tiếp hiện diện bên cạnh
những người dương thời của họ, thì họ vẫn còn hiện diện một cách
thâm sâu hơn bằng sự dịu dàng của
Chúa Ki-tô, và cùng với những người đó, họ cộng tác cách thiêng
liêng, để cho việc xây dựng xã hội trần thế luôn luôn được đặt nền
tảng trong Chúa, và được hướng đến Ngài, để cho những người đang xây
dựng nó không làm việc luống công”.[43]
Rốt cuộc, sự kết hiệp hài hòa và đúng theo phẩm trật giữa bình
diện cánh chung và bình diện trần thế của cuộc sống Ki-tô hữu nêu
rõ rằng lãnh vực thứ nhất của sự dấn thân xã hội của các người
thánh hiến chính là làm cho thấy được xuyên qua đời
sống của họ, cái thực tại cánh chung và kế hoạch đầy yêu thương của
Thiên Chúa cho con người và cho thế giới. Đó sẽ là nhiệm vụ xã hội
chính yếu của các người được thánh hiến, bởi như công đồng đã dạy,
các công việc tông đồ sẽ không hữu hiệu nếu không được sinh động hóa
bởi một sự canh tân thiêng liêng.[44]
3. Đọc các dấu chỉ của thời đại
“Những niềm vui và hy vọng,
những buồn đau và lo lắng của con người hôm nay, nhất là của những
người nghèo và của tất cả những ai đau khổ, cũng chính là những
niềm vui và hy vọng, những nỗi sâu buồn và âu lo của các môn đệ Đức Ki-tô,
và không có bất cứ cái gì thuộc về con người một cách chân chính
mà lại không có vang âm trong cõi lòng của họ” (GS 1).
Đây có lẽ là một vài lời
trong số những lời được nêu lên nhiều nhất của Công Dồng Vaticanô II,
và đó là lời khai đề của Hiến Chế mục vụ về Hội Thánh trong thế
giới hiện tại.
Và số 4 của Hiến chế này còn
tiếp tục: “… Và bổn phận còn đó mãi của Hội Thánh chính là tìm
hiểu các dấu chỉ của các thời đại và cắt nghĩa chúng trong ánh
sáng của Tin Mừng, để sao cho thích hợp với mỗi thời đại, Hội Thánh
có thể đáp ứng được cho các câu hỏi luôn tồn tại của con người về
ý nghĩa của đời sống hiện tại và tương lai và về mối tương quan lẫn
nhau giữa chúng. Quả thực cần phải biết và hiểu thế giới trong đó
chúng ta sống, các nỗi mong chờ, các khát vọng và tính chất bi kịch
của nó. Đó chính là cách thức để có thể phác họa ra các đặc tính
nổi bật của thế giới hiện tại (GS 4).
Chúng ta phải luôn nhắc nhở
lại trong trí nhớ (khơi dậy lại, gợi lại trong đáy lòng, trong con
tim) rằng yếu tố thiết yếu của hành trình Ki-tô hữu chính là khả
năng bền bỉ biết thăm dò các dấu chỉ của các thời đại và cảm
nghiệm chúng trong ánh sáng của Tin Mừng.
Nếu đây là chuyện đúng cho
mọi người đã được rửa tội, thì lại càng đúng cách đặc biệt cho
những ai đã tuyên khấn muốn đi theo sát hơn Đấng Ki-tô chịu đóng đanh
và sống lại khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục. Như Đức Thánh Cha
Gioan – Phaolô II đã nhắc nhở trong Tông Huấn Đời Sống Thánh Hiến:
“Trên hết một đời sống thánh hiến cần phải để cho nó liên tục bị
chất vấn bởi Lời Thiên Chúa đã được mặc khải và bởi các dấu chỉ
của các thời đại…Việc Truyền bá Tin Mừng mới đòi hỏi các người
được thánh hiến nam nữ một ý thức đầy đủ về ý nghĩa thần học của
các thách đố của thời đại chúng ta. Những thách đố này phải được
đem ra xét nghiệm với một sự biện phân chăm chú và tập thể, nhằm
canh tân sứ mạng”[45].
Thật vậy, chính các biến cố
của cuộc sống đánh dấu một thời đại nhất định của lịch sử; xuyên
qua những biến cố này, người Kitô hữu, nhất là người Kitô hữu thánh
hiến, cảm thấy mình được chất vấn bởi Thiên Chúa và được gọi cống
hiến một sự đáp trả Tin Mừng. Chúng ta phải để cho mình bị chất
vấn bởi các dấu chỉ của các thời đại, bị đánh động, và bị làm
cho bất an…
“Có biết bao các nhu cầu
khẩn thiết! Nạn đói, bệnh tật, nạn thất nghiệp, những bất an đủ
loại. Có biết bao nhiêu những vết thương: những bất công, sự thiếu dân
chủ và tự do, sự thiếu văn hóa. Hơn thế: các trẻ thơ là nạn nhân
của bạo lực và của các sự đàn áp, các phụ nữ thiếu các quyền
bình đẳng của thế giới trong cảnh không thể chịu nổi. Chính cuộc
sống quá thường xuyên trở thành nhàm chán, tầm thường, khiến cho
chúng ta phải sáng tạo ra các kiểu nói “dễ nghe” để có thể biến
chúng thành những vùng có thể làm an ổn những nỗi day dứt của lương
tâm chúng ta: thế nên ngày nay người ta nói đến “điều hòa kinh nguyệt”
và “cái chết êm dịu” như thể bằng cách ấy họ làm cho con người
thoát được cái ách đè nặng của sự thánh thiêng của sự sống và của
nhân vị con người mà con người vi phạm. Thế nhưng đó chính là những
cái chết của thai nhi, của người già được hoạch định và được thi
hành một cách bi thảm!
Thế rồi thế giới của chúng
ta liên tục bị thách thức bởi một sự thờ ơ ngày càng gia tăng đối
với những đau khổ. Chúng ta đã trở nên quá quen nhìn những nỗi đau
khổ, bệnh tật và nạn đói khiến cho chúng ta ngày nay vẫn có thể đi
cách lạnh lùng ngay bên cạnh một hoàn cảnh ghê gớm nhất trong các
hoàn cảnh mà không hề nháy mắt. Chúng ta đã trở thành quen đi với
việc ngắm những tòa nhà chọc trời xừng xững đứng bên cạnh các khu
ổ chuột bi thảm. Nền văn hóa đương thời của chúng ta đầy dẫy những
ví dụ như thế. Ngày nay các phương tiện truyền thông trực tiếp đem
tới nhà chúng ta những cảnh rùng rợn của chiến tranh và bạo lực,
của đói khổ và nghèo nàn, của bệnh tật và bất ổn, các hình ảnh
của những thảm họa tự nhiên như lụt lội và động đất. Chúng ta đang
gặp nguy cơ bị mắc bẫy vào một nền văn hóa bị cai quản bởi sự thụ
động, không có hoạt động và hờ hững. Thay vì là những người hành
động, chúng ta chỉ còn là những kẻ bàng quang đứng nhìn”.[46]
4. Dấn thân cho công lý – hòa bình công bố Tin Mừng
Trong một thế giới đầy rẫy những
bất công và nghèo đói, các tu sĩ được mời gọi dấn thân loan báo Tin Mừng và làm
việc không ngừng cho công lý và hoà bình để thăng tiến phẩm giá của những người
nghèo khổ, kém may mắn. việc noi gương Chúa Giêsu yêu thương và phục vụ sẽ là
nguồn an ủi lớn lao cho mọi người, nhất là những người đang phải chịu nghịch cảnh
trong cuộc sống và cổ vũ một nền hoà bình và công lý cho xã hội hôm nay, trước
hết là mang khuôn mặt yêu thương của Chúa Kitô đến với mọi người[47].
Sự dấn thân cho công lý và
hòa bình nhất thiết gắn liền với việc công bố Tin Mừng, không chỉ
trong tư thế ‘của việc tiền loan báo Tin Mừng’, mà còn là chiều kích
nền tảng của đời sống của mỗi Ki-tô hữu[48].
Vì sự hiện diện và dấn thân trong mọi lãnh vực cuộc sống của Giáo Hội và xã hội,
các người thánh hiến xứng đáng với lòng biết ơn của cộng đồng Giáo Hội.
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II diễn
tả lòng biết ơn đó khi cầu nguyện với Thiên Chúa như sau: “Chúng con tạ ơn Cha
vì món quà đời sống thánh hiến. Họ hằng tìm kiếm Cha trong đức tin và mời gọi mọi
người đến gần Cha, nhờ sứ mạng của họ trên khắp hoàn vũ.”
Nguyên Đức Giáo Hoàng Bênêđictô
XVI cũng chia sẻ tư tưởng ấy khi nói về ba mục đích của Ngày thế giới Đời sống
Thánh Hiến 2010: “Ca tụng và tạ ơn Chúa về ân huệ đời sống thánh hiến; Thăng tiến
sự hiểu biết và lòng quí trọng của Dân Chúa đối với đời sống thánh hiến; Mời gọi
những ai hiến dâng cuộc đời cho Tin Mừng cử hành những điều kỳ diệu Chúa đã làm
nơi mình. Cha chào đón và cám ơn từng người các con với một niềm yêu thương lớn
lao, Cha thân ái gần gũi và tán dương những điều tốt lành các con đã phục vụ
Dân Chúa.”
Thông điệp “Thiên Chúa là
tình yêu” còn khẳng định: “Bản chất thâm sâu của Giáo Hội được diễn
tả trong ba nhiệm vụ: loan báo Lời Thiên Chúa, việc cử hành
các Bí tích, và việc phục vụ của đức ái. Đó là những nhiệm
vụ tương quan lien đới cần thiết và không có thể tách rời khỏi nhau.
Đối với Hội Thánh, Đức Ái không chỉ là một loại hoạt động cứu trợ
xã hội mà ta có thể đẩy sang cho người khác, mà thuộc về chính bản
chất của Hội Thánh, là biểu hiện không thể từ bỏ được của chính yếu
tính của Hội Thánh.”[49] Ngài cũng nêu bật rất
nhiều những gương sống của các dòng tu đã được thiết lập vào thế kỷ
XIX để bước vào mặt trận chống sự
nghèo khó, bệnh tật và những hoàn cảnh thiếu thốn trên lãnh vực
giáo dục và phát triển cuộc sống.[50]
Chúng ta trải qua một cảm nghiệm
sâu sắc với những thăng trầm kể từ sắc lệnh Đức Ai Hoàn Hảo của Vaticanô II, tại đó hạn từ “công lý” không được nói tới, cho đến ngày
hôm nay. Theo hướng này, sợi dây liên kết chặt chẽ giữa đời sống tu
sĩ và hoạt động cho công lý và hòa bình đã được nhấn mạnh đến
trong Tóm lược giáo huấn xã hội công giáo: “Ơn tận hiến bản
thân của các tu sĩ cũng được đề ra cho suy tư chung như là dấu chỉ
đặc trưng và ngôn sứ của Giáo huấn xã hội, xuyên qua việc người tu sĩ
đặt mình hoàn toàn vào trong việc phục vụ mầu nhiệm đức ái của
Chúa Ki-tô đối với loài người và đối với thế giới. Các tu sĩ thi
hành và tỏ lộ ra trong đời sống của họ một vài nét của nhân loại
mới mà Giáo huấn xã hội muốn khích lệ”.[51]
Đời sống thánh hiến nơi các tu
sĩ sẽ ý nghĩa hơn khi họ biết sống đúng bình diện thiêng liêng bằng hoạt
động cho Công lý một cách sâu xa hơn nhiều so với các nhóm khác. Về
điểm này tài liệu Khởi sự lại từ
Đức Ki-tô quả quyết như sau: “Một cuộc sống được biến đổi hình
dạng bởi các lời khuyên Phúc âm tất nhiên trở thành chứng tá ngôn sứ
và thinh lặng, và đồng thời cũng là một dấu chứng phản hồi hùng hồn
chống lại một thế giới bất nhân. Cuộc sống như vậy dấn mình thăng
hoa cho con người và làm thức tỉnh một ý thức phong phú hơn trong việc thể hiện đức ái. Sự việc
này biểu lộ ra không chỉ trong sự hữu hiệu của việc phục vụ, mà
nhất là trong khả năng biến bản thân mình nên liên đới với những ai
phải chịu đau khổ, nhờ thế mà cử chỉ giúp đỡ được cảm nhận như là
một sự đồng chia sẻ huynh đệ. Hình thức thông truyền Tin Mừng này
vốn được thực hiện xuyên qua tình yêu và sự tận tụy hy sinh trong các
công việc, đảm bảo một chứng tá sáng ngời cho đức ái diễn tả không
chỉ bằng lời lẽ mà bằng chính đời sống chứng nhân Tin Mừng.”[52]
Sứ mạng trước hết chính là
việc phục vụ cho phẩn giá của con người trong một xã hội đã bị
biến thành vô nhân, bởi lẽ sự nghèo khó thứ nhất và nghiêm trọng
nhất của thời đại chúng ta chính là việc chà đạp lên các quyền con
người bởi cả một sự dửng dưng. Với năng động lực của đức ái, của
tha thứ, của hòa giải, các người thánh hiến nam hay nữ cùng với tất
cả các thành phần của cộng đồng Hội Thánh, đều được gọi xây dựng
một thế giới trong công bình, đủ khả năng cống hiến những khả thể
mới và tốt đẹp hơn cho sự sống và cho sự phát triển của con người.[53]
5. Lên án sự bất công và thái độ dửng dưng
Đức Thánh Cha Phanxicô trong khi
mở ra Năm Đời Sống Thánh Hiến đã mời gọi những người tận hiến “đánh thức thế giới”
bằng chính đặc tính ngôn sứ trong đời sống chứng tá và lời rao giảng của mình
trong công cuộc truyền giảng Tin Mừng của giáo hội. Việc tận hiến trong đời sống
tu trì cho phép người tu sĩ sẵn sàng để đáp ứng với những khủng hoảng mang tính
ngôn sứ, trong việc loan báo và tố cáo, và một sự tự do theo Phúc Âm để thực hiện
điều đó: “Nhờ việc tận hiến, họ tự nguyện và tự do từ bỏ mọi sự và ra đi rao giảng
Tin Mừng cho đến tận cùng trái đất. … Người ta thường thấy họ ở những tiền đồn
truyền giáo, họ dám hy sinh sức khỏe và cả đến chính mạng sống mình để làm chứng
cho Tin Mừng”[54].
Con người ngày nay ngày càng đánh
mất đi cảm thức thánh thiêng về con người, về quà tặng Thiên Chúa đã ban tặng
thuộc về Thiên Chúa. Thái độ dửng dưng là đóng kín con tim trước tha nhân, nhắm
mắt không nhìn thấy xung quanh mình, hay tránh né không để bị đụng chạm bởi các
vấn đề của người khác, nhất là của những người cùng khổ, gặp nạn. Đức Thánh Cha
Phanxicô nói thái độ dửng dưng ngày nay đã vượt quá ngưỡng cá nhân, thềm gia
đình, để mang chiều kích toàn cầu[55] đã được Đức Thánh Cha
Bênêđitô nhắc lại trong thông điệp đầu tiên của Ngài: “Với những thời
gian trôi qua, và với việc Hội Thánh lan rộng, việc thực thi đức ái
được được xác nhận như là một trong những lãnh vực cốt yếu của Hội
Thánh bên cạnh việc cử hành các bí tích và việc loan báo Lời Chúa:
việc thực hành tình yêu đối với những góa phụ và những trẻ mồ côi,
đối với những người ốm đau và thiếu thốn thuộc đủ loại thuộc về
bản chất của Hội Thánh, y như việc trao ban các Bí tích và việc loan
báo Tin Mừng”.[56] Đức Thánh Cha đã xác quyết
hơn cho suy tư của Ngài bằng việc nêu lên một số dung mạo chứng tá
nổi tiếng của các thời kỳ ban đầu của Hội Thánh, những người kết
hợp hoạt động bác ái với Thánh Thể, trong khi khích lệ các người
giàu có đồng chia sẻ của cải của họ cho những người nghèo khổ,
thiếu thốn.[57]Sự liên đới này không
chỉ khiến cho những người ngoài Hội Thánh ngỡ ngàng và cảm phục, mà nó
còn được coi là một khía cạnh tạo thành chính bản chất của Hội
Thánh.
Đức Thánh Cha nêu lên vài hình thức
dửng dưng ngày nay:
– Trước hết là sự dửng dưng đối với
Thiên Chúa. Từ đó mà con người dửng dưng với tha nhân, với thiên nhiên, thế giới
thụ tạo. Con người hiện đại, hậu hiện đại thường cho mình là tác giả của chính
mình, của cuộc sống mình và của xã hội. Con người tự thấy mình đầy đủ không cần
đến Thiên Chúa.
– Nhiều người có thông tin về thảm
cảnh của đồng bào, đồng loại, nhưng mù mờ. Họ không cảm thấy được lôi cuốn,
không sống cảm thương, nghĩa là không có lòng từ bi lân ái. Đó là thái độ của
người biết, nhưng có cái nhìn, tư tưởng, hành động hướng tới chính mình. Thời đại
của chúng ta, rất tiếc, gia tăng thông tin quá nhiều, nhưng rất thiếu sự quan
tâm từ con tim biết liên đới, từ lương tâm rộng mở.
– Trường hợp khác: dửng dưng bởi
thiếu chú ý đối với các thực tại xung quanh, đặc biệt là các thực tại ở xa. Không
hỏi thăm tin tức, không tìm kiếm, họ điếc trước tiếng kêu than của nhân loại khổ
đau, chỉ biết hưởng thụ của cải mình có. Không có khả năng cảm thương, chạnh
lòng trước thảm cảnh, như thể tai hoạ, bất công xảy ra là trách nhiệm xa lạ của
ai đó khác, không phải của tôi.
– Sống trong một Ngôi Nhà Chung
là Trái Đất, chúng ta không thể dửng dưng về tình trạng sức khỏe của nó. Ô nhiễm
môi sinh: nguồn nước, không khí, khai thác rừng không phân biệt, là hậu quả của
sự dửng dưng đối với người khác.[58]
6. Sống Chứng nhân của Thiên Chúa cho công lý - hòa bình
Trong Sứ điệp gửi cho toàn thể thế
giới, nhân ngày Hòa bình Thế giới ngày 1/1/2016, với chủ đề: “Vượt thắng sự thờ
ơ để giành lấy hòa bình”, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã viết: “Đáng buồn thay, chiến
tranh và khủng bố, đi cùng với việc bắt cóc, sự bách hại sắc tộc và tôn giáo và
việc lạm quyền, đã đánh dấu năm qua từ lúc khởi sự cho đến khi kết thúc. Ở nhiều
nơi trên thế giới, những điều này đã trở nên quá bình thường đến nỗi tạo nên một
“cuộc thế chiến thứ ba đang diễn ra từng mảnh” (số 2). Theo ngài, chính sự thờ
ơ và sự thiếu liên kết giữa các thành phần xã hội đã làm cho sự bất công, cái
ác ngày càng lan mạnh và nền hòa bình đích thực sẽ bị đe dọa bởi sự thờ ơ mang
tính toàn cầu này, vì nền hòa bình đích thực là hoa trái của nền văn hoá liên đới
và cảm thương; đồng thời, ngài kêu gọi mọi thành phần xã hội, cách riêng các
Kitô hữu:
“Trong tinh thần của Năm Thánh
Lòng Thương Xót, tất cả chúng ta đều được mời gọi để nhận ra sự thờ ơ có thể tự
thể hiện chính nó thế nào trong đời sống của chúng ta và hành động cách cụ thể
để cải thiện thế giới quanh chúng ta, bắt đầu từ gia đình, nơi sinh sống và nơi
làm việc của chúng ta.
Xã hội dân sự cũng được mời gọi để
thực hiện những cử chỉ cụ thể và can đảm của sự quan tâm đến những thành viên
đang chịu tổn thương nhiều nhất của họ, như các tù nhân, những người di dân,
người thất nghiệp và những người khuyết tật” (số 8).
Để nhấn mạnh hơn nữa việc loan
báo Tin Mừng, nghĩa là mang Đức Ki-tô đến với muôn dân, những con người có những
lúc bị bỏ rơi bên lề xã hội. Trong tông huấn Đời sống Thánh hiến viết: “khi người
ta yêu mến Thiên Chúa, Đấng là Cha của mọi người, thì người ta không thể không
yêu mến đồng loại, nhận ra họ là anh chị em của mình. Vì vậy, khi thấy nhiều
người chưa được biết tình yêu Chúa tỏ bày trọn vẹn trong Đức Kitô thì người ta
không thể ngồi yên. Chính từ chỗ đó mà, vâng lệnh Đức Ki-tô, xuất phát phong
trào truyền giáo cho dân ngoại - Ad - Gentes - mọi Ki-tô hữu có ý thức điều
chia sẻ với Giáo Hội tự bản chất là truyền giáo. Nỗi thao thức này được nuôi dưỡng
đặc biệt nơi các người tận hiến, dù là thành viên chiêm niệm hay hoạt động. Thật
vậy, các người tận hiến phục vụ sứ mạng làm cho Đức Ki-tô khiết tịnh - khó
nghèo - vâng phục, cầu nguyện và truyền giáo được hiện diện ngay cả giữa những
người không phải Ki-tô hữu[59].”
Tuy nhiên có lẽ có một số
lần, thậm chí nhiều lần, cả chúng ta là những người thánh hiến đã
không loan báo Thiên Chúa bởi vì chúng ta đã không sống với sự táo
bạo và kiên trung cuộc sống hằng ngày vốn đòi hỏi chúng ta “phải
dám” gặp gỡ hầu xây dựng hòa bình. Dám gặp gỡ là một cái gì đó
đi xa hơn cả việc tiếp nhận cách lễ độ một ai đó khác lạ đối với
chúng ta. Nó giả thiết trước là mình phải đi gặp kẻ khác, đánh giá
tốt về họ, quí chuộng nền văn hóa của họ và tạo những mối liên
kết cùng họ.[60] Đôi khi, người tu sĩ rất dễ
có thể đi vào thái cực khi quá đề cao đến chiều kích hoạt động mà bỏ quên chiều
kích chiêm niệm, hoặc là quá nhấn mạnh đến chiều kích chiêm niệm mà phớt lờ đi
việc loan báo Tin Mừng. Để cân bằng hai chiều kích này Đức Thánh Cha Phanxico
nhận định:
“Chúng ta hôm nay đang thấy nhiều
nơi nhiều người hoạt động mục vụ, gồm cả những người sống đời thánh hiến, nam
cũng như nữ, một sự quan tâm quá mức về tự do và sự thoải mái của bản thân họ,
khiến họ coi công việc của họ chỉ là một cái gì phụ thuộc chứ không phải một
thành phần thuộc căn tính của họ. Đồng thời, đời sống thiêng liêng trở nên bị đồng
hoá với một ít việc thực hành tôn giáo có thể đem lại một sự an ủi nào đó chứ
không khuyến khích gặp gỡ người khác, dấn thân vào thế giới hay một niềm say mê
Tin Mừng[61].”
Quả vậy hòa bình không phải
chỉ là sự thiếu vắng chiến tranh, không phải đơn giản là sự phá hủy
các vũ khí, cũng chẳng phải hệ tại cùng chấp nhận sống bên nhau,
mà không biết về nhau, trái lại nó đòi hỏi phải biết về nhau, quí
chuộng nhau, nắm bắt những giá trị của mỗi người, và đón tiếp nhau.
Hòa bình cũng chẳng phải là sự phân phối đồng đều các của cải cho
tất cả những người cùng ngôi chung một bàn cơm của trái đất, mà là
ăn bánh của mình tại bàn ăn chung với những anh em khác. Hòa bình là
cùng chung sống giữa những khác biệt. Lời loan báo cũng đòi hỏi
phải liều mình vì ai đi gặp
những những người cùng khốn cũng gặp phải cái rủi ro là bị chối
từ và bị các người thân của mình tách lìa mình ra, để mặc cho
mình, và thế là mình mất đi sự an ổn.
Sau cùng lời loan báo Chúa
Ki-tô cũng đòi hỏi phải giải phóng để
cho người ta cơ hội tăng trưởng. Chính trong tự do, con người mới được
tăng trưởng, được củng cố và tìm thấy lý do để xây dựng hòa bình
nơi mình và ở xung quanh mình. Jean Vanier đã viết rất chí lý: “Chúng
ta có thể phân biệt những nhu cầu căn bản của con người với những nhu cầu mà một khi được tôn
trọng, sẽ cho phép không chỉ sự tồn tại, mà còn cả sự tăng trưởng
và sự tự thể hiện. Các nhu cầu căn bản của chúng ta là của ăn,
chốn ở, nền giáo dục và sự chăm sóc thuốc men; còn những nhu cầu
khác là chuyện được thương mến, được quí chuộng, được tôn trọng, kính
nể. Đảm bảo đáp ứng cho các nhu cầu căn bản là một hành vi của công
bình mà luật pháp có thể dự liệu, nhưng giúp một con người tự thể
hiện chính mình bằng sự yêu thương thì luật pháp không có thể dự
liệu hay áp đặt. Không ai có thể áp đặt chúng ta yêu mến một người
khác, bởi vì tình yêu là kết quả của tự do. Một đứa trẻ không
những cần đến một người khác lo liệu cho nó các nhu cầu căn bản, mà
còn cả cái nhu cầu tuyệt đối là
được thương mến. Hòa bình đích thực không thể thống trị, nếu không
có một tình yêu đích thực, hòa bình đích thực là điều không thể có
nếu công lý không được tôn trọng”.[62]
Chúng ta tự hỏi: làm sao
những cử chỉ này lại có thể được thực hiện, những cử chỉ mà
những con người nam nữ hôm nay không thể hiểu nổi? Từ đâu mà đến niềm can đảm dám liều,
dám làm và thay đổi?
Câu trả lời chỉ duy nhất là:
việc hiểu biết cá vị về Chúa Giê-su, sự gắn bó trong tự do với
Ngài và vì tình yêu cuộc sống của Ngài trước cả khi yêu mến lời
dạy bảo của Ngài bất chấp đủ loại bất trung và những mâu thuẫn,
xuyên qua một cuộc sống chân chính và mãnh liệt được từng trải ngày
này qua ngày khác trong công việc nặng nhọc nhưng vui tươi để kiên trì
gắn bó với một Thiên Chúa được nhận thức ra như là một Đấng khác
với cái mà chính mình từng nghĩ ra, một Thiên Chúa ở xa ta, nhưng
lại được cảm nghiệm thật gần ta, một Thiên Chúa được Đức Giê-su Ki-tô
kể lại, cắt nghĩa và rao giảng và đó là một cảm nhận của niềm tin
theo nguyên ngữ chữ “tin”của người Do thái xưa.
Đồng thời nhân đức thứ nhất
đặt nền tảng cho các cử chỉ này và nâng đỡ chúng chính là đức tin
nơi Thiên Chúa hằng sống, sự gắn bó cùng Ngài, một đức tin sống bởi
đức yêu thương, phục vụ, sự dâng tặng dấu ẩn ở trong cuộc sống
thường nhật, thường rất khiêm cung và kín đáo. Chúng ta cũng đừng
quên là đức tin Ki-tô hữu đã phát sinh và triển nở xuyên qua chứng tá
của những con người nam nữ đơn sơ từng mang nơi mình các ách nhẹ
nhàng của cuộc sống thể theo những gì Chúa Giê-su đã biểu lộ như là
một cuộc sống nhân loại theo kế hoạch của Thiên Chúa, một cuộc sống
phong phú về ý nghĩa và về tình yêu, một cuộc sống có thói quen
chăm nom đến tha nhân, một cuộc sống được nhân bản hóa một cách chân
chính, một cuộc sống hoàn toàn tận hiến cho việc theo duổi hòa bình
và công lý, bởi vì đó là một cuộc sống được sống trong Thiên Chúa
của sự an bình, Ngài là Đấng Công chính. Đây là một sự sống được
sống trong sự bình an, nhưng không phải là để cho đôi bàn tay không
phải bị dơ bẩn bởi công việc, hay là để khỏi có các vấn đề, đó là
cuộc sống vất vả giống như người thợ gốm nặn lên bình quí, biến nó
thành báu vật, mà không hề ngại làm bẩn đôi bàn tay, y như Đức Mẹ
và thánh Giuse.[63]
7. Sự chọn lựa Đức Khó Nghèo là không tính toán và không đi
theo lô-gích
Toàn cầu hoá đã thực sự tác động
đến mọi chiều kích của đời sống nhân loại trên trái đất này. Toàn cầu hoá ngày
nay đã mở rộng tầm ảnh hưởng, không chỉ trong lãnh vực kinh tế - tài chính thế
giới mà còn lan tỏa đến mọi lãnh vực văn hoá, xã hội, chính trị dẫn đến những
biến đổi quan trọng trong mô hình sản xuất, nếp sống, lối suy nghĩ cũng như
tiêu chuẩn đánh giá con người[64].
Một thực tại hiển nhiên trong
thế giới bị toàn cầu hóa này là việc tập trung quyền lực và sự
giàu có trong tay của rất ít người, mà đối với họ công ích chỉ là
sự giàu có của một số người. Kinh tế thị trường, được tự điều
hành ở ngoài mọi biên cương của luân lý, đang hoạt động với một
lô-gích của sự loại trừ vì lợi ích của số ít người này: đó là
những người quyền thế. Tuyệt đại đa số dân chúng của hành tinh sống
trong ngưỡng cửa của những cái tối thiểu cần cho sự sống. Khoảng
cách giữa giàu nghèo càng ngày càng rõ nét đến gây sốc. Trong xã hội
luôn có những thế lực, những nhóm đặc quyền, đặc lợi muốn chi phối toàn bộ ích
lợi cộng đồng, chiến đoạt cách bất công tài sản hoặc quyền lợi chính đáng của
người nghèo, của cộng đồng sắc tộc thiểu số hay của những quốc gia nhỏ bé, kém
phát triển. Những sự bất bình đẳng trước đây chỉ được trải nghiệm trong nội bộ
các quốc gia, nay đang trở nên mang tính quốc tế và càng làm cho tình hình bi
đát của Thế giới Thứ Ba thêm rõ rệt hơn bao giờ hết.[65]
Đứng trước cảnh này, chúng
ta những con người thánh hiến được kêu gọi “tham gia một cách vui tươi
vào sự nghèo khó của Chúa Ki-tô, Đấng giàu sang, đã trở nên nghèo
khó, để chúng ta được nên giàu có nhờ sự nghèo khó của Ngài (tc 2Cr
8,9; Mt 8,20).[66] Dấu của sự sống, dấu
của những cây cầu mà các người thánh hiến nam nữ tiếp tục dựng xây
chính là sự có mặt của biết bao những con người nam nữ tại các biên
cương, các nơi bị quên lãng, các nơi “không có cảnh sống nhân bản”,
trong khi từ bỏ cả đến các cơ cấu từng làm cho họ hiện lên như vĩ đại và quyền thế. Dấu chỉ của
sự sống đây chính là sự chọn lựa sống một cuộc sống đơn giản và
cốt yếu, với tính cách Tin Mừng tận căn và với tiếng gọi sống liên
đới với biết bao nhiêu người đang thiếu thốn cả đến các cái cần
thiết, trong khi chia sẻ thường xuyên không gian của cộng đoàn của mình
với các người nghèo, cung cấp cho họ của ăn, tiếp nhận những người
vô gia cư, chăm sóc cho họ, và hướng đến một công việc giúp con người nghèo khổ sống cuộc
sống xứng đáng với con người hơn.
Việc tái khám phá ra sự
nghèo khó như là con đường để đồng chia sẻ cuộc sống của những kẻ
nghèo và để xây dựng những giấc mơ công lý và hòa bình luôn luôn
phải là một sự chọn lựa cuộc sống. Lời khấn khó nghèo phải luôn
được cắt nghĩa như là một đời sống liên đới và công bình, với sự
hỗ tương cho nhau. Không có sự hỗ tương, tình liên dới có thể tạo nên
một sự lệ thuộc, và kết cuộc trở thành một sự ngại ngùng cho
những ai là “đối tượng” của sự chú tâm của chúng ta. Thánh Giáo Hoàng
Gio-an Phao-lô II, trong thông điệp “Bước khởi đầu của thiên niên kỷ thứ
III”, số 50 như sau: “Đây là giờ của một “sức tưởng tượng mới của
đức ái”, dẫn đưa tới việc lại gần với các người rốt hết và bị
loại trừ, tới một sự hiệp thông huynh đệ với tất cả những người bé
nhỏ của trái đất, để được cho và nhận.”
Chúng ta sẽ chẳng có được
nền hòa bình hằng mơ ước nếu không có công lý nhằm tạo nên những
màng lưới hiệp thông làm nổi bật giá trị việc lệ thuộc lẫn nhau về của cải và
tài nguyên nhắm đến mục tiêu cho phép một cuộc sống xứng đáng cho
tất cả mọi người, cách riêng là những người nghèo khổ nhất. Trong
bối cảnh này, nhiều người thánh hiến nam nữ đã dâng hiến và còn
tiếp tục dâng hiến cuộc sống mình để mà ôm ấp lấy những giấc mơ
của những người bị loại trừ, như là dấu chỉ tội đỉnh của tình yêu
và của sự nhất quán với lý tưởng của cuộc sống (tc LG 42). Các
giấc mơ của những người bị loại trừ đối với chúng ta những con
người thánh hiến nan, nữ, chính là một đòn giáng xuống sự an toàn
và yên ổn của chúng ta. Chúng là một lời mời gọi hãy ra khỏi mình, hãy cúi xuống, hãy lột
bỏ mình.
Ra khỏi mình – Đức ái, việc chăm sóc cho kẻ khác chính là
ra khỏi chính mình và nhận ra những người khác, những kẻ túng
thiếu, những người bị bạo lực áp bức thể xác và tâm hồn; là mang
lấy gánh nặng và những nỗi đau khổ của họ.
Cúi mình xuống – Cúi mình xuống là một cử chỉ mẫu tử
đặc trưng. Các bà mẹ cúi xuống, khiến cho chẳng mấy chốc mà vai họ
mang lấy các dấu vết. Cha Mazzolari bình luận: “Việc cúi xuống này
là dấu tích của đức ái, là dấu không thể lẫn lộn được của tình
mẫu tử hạ mình xuống và chiếu cố”.
Lột bỏ mình – Chẳng có tình yêu mà không có sự tự lột
bỏ khỏi các danh hiệu, các vai trò, uy tín, danh tiếng. Chúng ta gặp
gỡ những người khác cách đích thực chỉ ở trong chân lý của hiện
hữu chúng ta, trong sự chân chính của việc chúng ta tự hiến dâng.
Nhưng việc ra khỏi mình, cúi xuống và tự lột bỏ này đòi hỏi
ở nơi chúng ta sự can đảm, và một sự can đảm hằng ngày. Chúng ta cần
đến một nền văn hóa của sự can đảm… đây không phải là sự can đảm
mọi người đang có. Ai không có, không thể cho được.
“Chúng ta cần can đảm để
được trung thành và điều này muốn nói rằng trong mọi lúc, để mà
tiếp tục, thì sự trung thành đòi hỏi những việc dám khẳng định sự
can đảm của mình, dù là những sự dám khẳng định nhỏ bé đi nữa,
hầu chống lại tính tùy tiện, theo sở thích vô lối muốn thay đổi, sự
vô ơn, chống lại các thử thách của các nỗi đau đớn. Sự trung thành
là một sự can đảm được tiếp tục với cả sự kiên vững”.[67]
Ra khỏi chính mình, cúi mình xuống, lột bỏ chính mình, là
những lời lẽ làm chúng ta hướng ngay đến dụ ngôn Người Samaritanô nhân
hậu trong vẻ trong sáng tuyệt đối của nó đã là một trong những nhân
tố cốt yếu của nền văn hóa luân lý và của nền văn minh hoàn toàn
nhân bản. Mội khi chúng ta đọc dụ ngôn này, chúng ta ngay lập tức bị
chạm đến bởi tính chất đơn sơ của nó. Nó nói vào lòng ta và chất
vấn lương tâm của ta.
“Sự dấn thấn là một lời
diễn tả tốt nhất cách thức hành xử và những tình cảm của Người
Samaritanô nhân hậu. Con người này có thể cứ đi qua, giống như thầy tư
tế hay thầy Lê-vi. Ông ta có thể nhắm mắt, đóng cửa lòng lại và từ
chối đáp ứng cho nhu cầu đích thực của người đang ở trước mắt ông.
Nhưng ông quả đã dừng lại. Ông cúi xuống, và cúi xuống để làm cho
mình thêm phong phú. Trong lúc ông dừng lại và hạ mình xuống để chăm
sóc cho một người xa lạ bị đánh dập xuống đất do tay bọn cướp, thì
đúng khi ấy sinh ra một người thân cận. Lòng thương cảm, được kích
động bởi tình yêu, có sức sáng tạo. Nó tạo nên một người thân cận.
Đây kể như là một bí tích, như triết gia Romano Guardini đã viết, một
bí tích của tình yêu: khi con người cống hiến chính bản thân sinh
động của mình, trái tim mình, sức lực mình, thì Thiên Chúa cho phép
quyền năng sáng tạo của Ngài hạ cố
và thế là nẩy sinh phép lạ của mối hiên hệ cùng đồng loại”.[68]
Thế kỷ XXI chắc chắn là một
trong những thế kỷ khốc liệt nhất của lịch sử loài người. Và dấu
của bạo lực này còn tiếp tục ngày nay với một sức mạnh ngoại
thường, mà các dấu chỉ hiển nhiên nhất chính là sự phá hủy tàn
bạo thiên nhiên, các hình thức che dấu của việc loại trừ, các chủ
nghĩa sắc tộc, các cuộc chiến tranh giữa các sắc tộc và giữa các
tôn giáo, việc diệt chủng, sự đàn áp phụ nữ, việc lạm dụng tình
dục của tuổi vị thành niên, các bi thảm kịch đổ máu ẩn nấp dưới
hình thức chạy đua võ trang và nhiều hình thức bạo lực khác có nguy
cơ làm thương tổn vĩnh viễn đến nền hòa bình. Vâng, vĩnh viễn sẽ như
thế, nếu chúng ta không cùng nhau dấn thân cho “nền hòa bình phòng
ngừa”. Chúng ta được lớn lên trong một bầu khí đã đưa chúng ta tới ý
tưởng là có các cuộc chiến tranh chính đáng, thậm chí “các cuộc
chiến tranh phòng ngừa”, ngay cả những người Kitô hữu chúng ta, chúng
ta cũng cần phải quay ngược cuộc hành trình, và phải thật sớm, phải
quì gối xuống, để cho lời nguyện cầu đơn sơ và chân thành sẽ giúp
chúng ta khám phá ra rằng chúng ta quay trở về với Thiên Chúa, Đấng
là sự công chính và lòng thương xót.
Theo nhà nữ văn sĩ phân tâm
học Julia Kristeva, thì ngày hôm nay “nghĩ đến hòa bình đã trở thành
có vấn đề”, bởi vì diễn văn về sự sống đang mất đi trong thiên niên
kỷ thứ ba. Còn vượt xa cuộc đụng độ giữa các nền văn hóa, cái thiếu hụt của nền văn minh
hiện tại nằm ở chỗ chúng ta không có câu trả lời cho câu hỏi: Sự
sống là gì? “yêu sự sống” có nghĩa là gì? Do đó phải kết luận
rằng vượt trên cả việc chung sống hòa bình, việc phân tích về
lô-gích của sự sống mới có thể cứu vãn chúng ta”.[69]
Người thánh hiến chọn để
trở thành con người có trách nhiệm, bởi vì xoay quanh suy tư về trách
nhiệm, chúng ta có thể tổng kết cách cốt yếu nhiều khía cạnh của
diễn văn về sống công lý và hòa bình ngay hôm nay.
Trước hết trách nhiệm chính là câu trả lời, không phải là bất cứ
một câu trả lời nào, mà đây chính là câu trả lời trước tiên đến từ
sự khơi dậy, sự thách thức xuất phát từ nội tâm của chính mình, từ
cuộc gặp gỡ cùng Chúa Ki-tô chịu đóng đanh và Phục sinh, từ sự
thách đố có tính chất xã hội, một sự thách đố đến từ cuộc dấn thân đang được đòi hỏi
ở nơi chúng ta: việc thực thi trách
nhiệm là câu trả lời mà chúng ta liên tục được kêu gọi để đáp trả.
Đây thực tế là một câu trả lời đã đặt chúng ta trong một tư thế đối
thoại, thông đạt rất đáng kể, bởi vì không thể có trách nhiệm chân
chính nào mà lại không có sự đả thông, tức là không có khả năng
diễn tả chính mình trong tương quan với tha nhân, với thiên nhiên, với
thế giới, dưới muôn vàn hình thức khác nhau, những ghi nhận khác
nhau, không trong cùng một lúc, một lần thay cho tất cả.
Chúng ta được kêu gọi thi
hành một hành trình mà một đàng xóa bỏ đi sự cô lập, chủ nghĩa cá
nhân, sự lệ thuộc vào các cơ cấu được chấp nhận về mặt xã hội,
nhưng lại tha hóa, và đàng khác nó dẫn đến sự hiệp thông đích thực
cùng tha nhân. Đây là câu trả lời đích thực chúng ta phải cống hiến
trong cơn khủng hoảng về đức tin và về luân lý của thời đại chúng
ta. Chúng ta được thách thức phải
nhìn vào Chúa Ki-tô trong hoàn cảnh đau khổ của bất cứ con người nào
trên hành tinh này, và quay mặt về chính những khuôn mặt của khổ đau.
Thế nên chúng ta được kêu mời
phát triển một tâm trạng đối thoại nhất thiết đặt chúng ta trên hành
trình của sự thanh luyện. Cuộc đối thoại là một hành trình để loại
xa biết bao nẻo đường hiện tại của hận thù, thiên kiến, bóc lột và
bạo lực khỏi những con người. Điều này đòi chúng ta phải dừng lại
giữa các hoạt động thông thường của chúng ta, trong thói quen hằng
ngày, trong các hình thức quay cuồng của các mối tương quan đang là
đặc điểm của xã hội chúng ta. Cuộc đối thoại yêu cầu một việc đào
luyện và một thực hành bền bỉ trong kỷ luật của lắng nghe và của
tiếp nhận.
Hành trình đối thoại này,
dựa trên một niềm tin có khả năng giúp chúng ta thấy, ngầm yêu cầu
rằng chúng ta, những con người thánh hiến nam nữ, phải tái khám phá
ra sự vâng phục của chúng ta, trước
hết ở nơi Lời Thiên Chúa như là một lời hôm nay được nhập thể ở
trong phép Thánh Thể, ở nơi các anh em và các chị em của chúng ta, ở
nơi đồng loại. Chúng ta hãy dấn thân cho đức khó nghèo vốn mở lòng chúng ta cho sự phong phú của sự
trao đổi cá nhân, tình cảm và hữu hiệu, và cho sự đồng chia sẻ các
của cải, biến chúng ta nên những con người tiếp đón đứng trước quà
tặng của người bên cạnh, và đồng thời đòi hỏi chúng ta thực hành
các khả năng mà chúng ta đã lãnh nhận vì lợi ích đồng loại: “Anh em
đong bằng đấu nào cho kẻ khác, thì cũng sẽ nhận lại được như thế”
(Lc 6:38). Với việc thi hành đối thoại, đức khiết tịnh - là sự thanh luyện và sự hiến dâng các
tình cảm yêu thương của chúng ta – sẽ được mở ra cho cuộc đối thoại
cùng Thiên Chúa, cùng những con người nam nữ khác, cùng các nền văn
hóa, các tôn giáo và cùng cả tạo thành.
Đức khó nghèo của chúng ta
phải là một đức khó nghèo thánh hiến cho Thiên Chúa. Một đức khó
nghèo vì Thiên Chúa, với những người nghèo. Một đức khó nghèo nhắm
đến mục tiêu Nước Trời.
“Anh hãy là như thế và anh
sẽ sống” (Lc 10:28): đi tới tha nhân, tới biết bao nhiêu người, không
đếm nổi, đang lang thang và cùng
khốn, đang ở bên các vệ đường, đang chờ đợi ai đó chạy đến cứu giúp
cho họ, đấy chẳng phải là một chọn
lựa tùy hứng của người Kitô hữu. Đấy chẳng phải là một cái gì
đó mình có thể hững hờ. Nhưng đây là vấn đề sinh tử. Đức nghèo khó
của chúng ta, lối thoát của chúng ta chính là cúi mình xuống, lột
bỏ mình đi, biến mình nên người thân cận, hạ mình xuống trên kẻ đang
nằm “trong tối tăm và trong bóng sự chết” (Lc 1:79). Đây là chuyện
không để cho chúng ta tùy ý đảm đương.
Chúng ta không thể không nhìn,
cũng không thể giả vờ như chẳng thấy gì cả, chúng ta cũng không thể
đi qua phía bên kia con đường. Dĩ nhiên không một ai trong chúng ta có
khả năng chăm sóc mọi vết thương. Nhưng không một ai lại muốn cảm thấy
mình xứng với danh con người và danh Kitô hữu, với danh người thánh
hiến, lại có thể từ chối phận vụ tuy nhỏ bé, chẳng đầy đủ mà
mình phải làm, bởi nó mang lại cho chúng ta quyền công dân của Tin
Mừng, là cái duy nhất đem lại cho chúng ta danh hiệu của người môn đệ
chân chính của Đấng đã từ bỏ điều kiện trên trời đề xuống chia sẻ
cái bất hạnh của hoàn cảnh con người của chúng ta.
Cuộc sống được sống trong sự
gắn bó hằng ngày với cuộc sống thánh hiến để bước theo Chúa Kitô
thanh khiết, khó nghèo và vâng phục biến chúng ta nên dấu chỉ của
Nước Trời và nên những con người của tương lai.[70]
Đức nghèo khó của chúng ta
được sống “vì Chúa Ki-tô, của cải duy nhất của chúng ta” là vì nước
trời tương lai, nơi cảnh “sói sẽ ở chung với chiên, beo sẽ nằm cạnh dê, bò tót và sư tử con sẽ ăn
chung một cánh đồng và một hài nhi sẽ chăn dắt chúng” (Is 11:6) sẽ
là một đời sống khởi sự công việc xây dựng Vương Quốc của “chân lý
và sự sống, Vương quốc thánh thiện và ân sủng, tình yêu và hòa
bình”[71] vào ngay hôm nay, với ý
thức và tình yêu thương.
Thay lời Kết
Đã đến lúc các quốc gia, các chế
độ chính trị, các tôn giáo và tất cả mỗi người chúng ta phải làm sống lại niềm
hy vọng vào một tương lai tốt đẹp thực sự cho nhân loại, không phải đặt nền tảng
trên sự giàu có thịnh vượng về vật chất - vì chuyện đó có thể chỉ đến với một số
người, mà là trên nền tảng của Đức Ái của nhìn nhận và đề cao phẩm giá con người
như trong tông thư Giáo Hội tại Á Châu Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã
khẳng định: “Sự phát triển của con người không bao giờ chỉ là một vấn đề thuần
tuý kỹ thuật hay kinh tế, mà cơ bản đó là một vấn đề nhân bản và đạo đức.”
(EIA. 32)
Những người sống đời thánh hiến,
nhờ các lời khuyên Tin Mừng, họ được chọn gọi theo Đức Ki-tô để phục vụ mọi người,
đặc biệt nhưng người chưa tin, chưa biết và chưa nghe được Tin Mừng Cứu Độ,
cách vô vị lợi. Bằng việc sống như người nghèo giữa những bất trắc của đời sống
hằng ngày và từ khước mọi đòi hỏi về quyền lực, họ đem lại cho nhân loại ngày
nay chứng tá về niềm vui của Tin Mừng và một dấu chỉ tình yêu của Thiên Chúa.
Như là những chứng nhân sống động cho Công lý và Hoà Bình trong một thế giới
đang đầy tràn bất công và bạo lực. Sống đời sống thánh hiến với đúng sứ vụ của
mình là người được “sai đi” do chính sự thánh hiến của mình.[72] Luôn thao thức và đặt mình
trước mặt Chúa. Tôi tìm kiếm điều gì đây? Những chuyện trần thế? Những chuyện hời
hợt bên ngoài? chúng ta suy nghĩ về những chuyện này, đó là một sứ điệp cho tất
cả chúng ta. Những bụi tro này đặt ra cho chúng ta một câu hỏi: liệu có phải
tôi tìm kiếm một cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu, người sẽ làm cho cuộc sống của tôi
trọn vẹn và cho tôi hạnh phúc độc nhất không hề hư mất hay không? Hay tôi muốn
một lối sống tẻ nhạt hơn? Liệu có phải tôi đang sa lầy trong cuộc sống hời hợt
không?[73]
Cuối cùng xin trích lời của Đức
Hồng Y Rafaele Carlo Martino, Cựu Chủ tịch Uỷ Ban Công Lý và Hòa Bình
cũng ân cần nhắn nhủ chúng ta: Các Tu sĩ Nam nữ cũng cần phải đầu
tư một cách thỏa đáng cho Linh Đạo cũng
như cho Đào luyện về mặt Công
lý, Hòa bình và sự Toàn Vẹn Của Tạo Thành: “Trong lòng đời thánh
hiến cũng như trong các hành trình đào luyện cần vun trồng xác tín
rằng thế giới hiện tại, bị phương hại bởi hằng tỉ những vấn đề
bức thiết, đang cần không phải là ít, mà là thật nhiều đến đời sống thiêng liêng hay linh đạo để có thể đạt được đến
Công Lý và Hoà bình nhiều hơn. Việc
tông đồ xã hội khẩn thiết nhất và quan trọng nhất phải là sự thể
chúng ta phải hoàn toàn được thuộc về Thiên Chúa để có thể thông
truyền cho thế giới dựa trên một điểm chính xác sau đây: là loan báo
cho thế giới xã hội, kinh tế và chính trị của con người rằng nếu
không có Thiên Chúa, con người sẽ đứng lên chống lại lẫn nhau. Trong
viễn cảnh này, tất cả chúng ta đều phải ý thức rằng những ai đã
đáp trả tiếng gọi của Chúa Ki-tô để đón nhận một cuộc sống mà
hiện nay đã là hình bóng của sự hoàn hảo của Nước Thiên Chúa, thì
do đòi hỏi của đặc sủng mình, họ phải có nhiệm vụ duy nhất là Tin Mừng Hóa thực tại xã hội.
Việc làm biểu trưng cho sự hoàn hảo của Nước Thiên Chúa của các
người thánh hiến không bao hàm việc thoát ly khỏi thế giới, mà nó
chính là một cách mới mẻ để sống ở giữa những chuyện của thế
giới. Đây là một hình thức sâu đậm, không lẩn tránh, hay mơ hồ theo
nghĩa là những người sống đời thánh hiến phải thật sự giúp đỡ các
Kitô hữu khác nhìn vào các mối tương quan xã hội và các vấn đề kinh
tế không chỉ như chúng hiện là, mà
nhất là như chúng sẽ là, và do
đó như chúng đáng lý phải là.”[74]
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 96 (Tháng 9 & 10 năm 2016)
[1] Thomas L. Friedman, Thế Giới Phẳng Tóm lược lịch sử Thế giới
Thế kỷ 21, Nhà Xuất Bản Trẻ Tái bản lần thứ 3, 2008.
[13] H. Carrier, Hoc Thuyết Xã Hội (HTXH),
Việc tiếp cận mới với Học Thuyết
Xã Hội Của Hội Thánh (HTXHCHT), San Paolo, Ciniselo Balsano
1993, tr. 36-37.
[22] Vui mừng và hy vọng và Thượng Hội đồng Giám, Mục 1985, Bản
đúc kết; Hervé Carrier. Học thuyết xã hội công giáo, bản dịch của Định Hướng,
2000; Một cái nhìn về GHXHCG, GM. Phaolô Nguyễn Thái Hợp O.P, tr.11.
[60] Hòa bình chân thực giả thiết trước việc khám ph1
ra kẻ khác và bộc lộ cho họ chính bản thân mình.
[63] Thánh Giuse, người Công Chính, và Đức Maria, Trinh
Nữ, cả hai vị đều rộng mở hoàn toàn cõi lòng và ý muốn cho chương
trình khôn lường của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được kêu gọi dấn thân
để làm việc và yêu thương như thế.
[64] Gm, Nguyễn Thái Hợp OP, Một Cái nhìn về Giáo Huấn Xã Hội
Công Giáo, Nhà Xuất bản Phương Đông, 2010, tr. 389
[66] Gioan Phaolô II, Sứ
điệp gửi Đại Hội Quốc Tế về Đời sống Thánh hiến, 26-11-2004, số
6.
[74] Hồng Y Rafaele Carlo Martino, Toát yếu Học thuyết Xã hội của Giáo Hội,
NxbVaticana , 2004, trg . XI .