ĐỌC LẠI ĐỐI THOẠI VÀ RAO GIẢNG
BA MƯƠI NĂM SAU:
MỘT QUAN ĐIỂM CHÂU MỸ
Rita George-Tvrtković, Ph.D[1]
WHĐ (16.12.2023) - “Hội Thánh Công giáo... chân thành biểu lộ
sự trân trọng đối với những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới
và giáo thuyết (của các tôn giáo) khác, tuy có nhiều điểm khác với chủ trương
mà Hội Thánh duy trì, nhưng cũng thường đem lại một tia sáng của Chân Lý chiếu
soi cho hết mọi người. Tuy nhiên Hội Thánh rao giảng và có bổn phận phải kiên
trì rao giảng Chúa Kitô” (Nostra Aetate §2).
Ngay ở câu mở đầu, Văn kiện Đối Thoại và Rao Giảng (Dialogue and Proclamation, 1991 – từ đây
viết tắt là D&P) đã minh nhiên nhắc đến đoạn văn trên đây của Nostra Aetate (1965). Khi làm điều này,
D&P muốn khẳng định ý tưởng rằng người Công giáo phải gắn kết lại hai quan
niệm có vẻ tách rời nhau: cởi mở với các tôn giáo khác và trung thành với đức
tin của mình. Nhưng sự căng thẳng mà Nostra
Aetate chỉ khêu gợi ra, thì D&P đã nghiêm túc đặt nó vào tâm điểm thảo
luận thông qua nhan đề, chủ đề và tư cách đồng tác giả của văn kiện. Hơn nữa,
D&P thảo luận tính lưỡng cực này một cách minh nhiên và sâu rộng hơn, gồm
trọn ba đoạn dành để mô tả “thái độ quân bình” (gồm sự cởi mở với chân lý và niềm
xác tín tôn giáo) cần phải có cho việc đối thoại liên tôn tốt đẹp[2].
Bên cạnh sự cởi mở và xác tín, Đối Thoại và Rao Giảng biểu lộ một tính lưỡng cực quan trọng khác:
giáo thuyết và thực hành. Văn kiện 1991 phát triển một cách có hệ thống từ một
phần tư thế kỷ trải nghiệm thực hành của Hội Thánh về đối thoại – những trải
nghiệm được gợi hứng từ giáo thuyết của Nostra
Aetate[3].
Và chính Nostra Aetate (NA) đã được biên soạn bởi các chuyên gia,
các giám mục, và một vị giáo hoàng có nhiều kinh nghiệm thực tế và hiểu biết
sâu rộng về các tôn giáo khác[4]. Chu trình này đã tiếp tục từ
1991 (có thể nói là “đối thoại” không?) với một sự tác động qua lại bền bỉ giữa
các phát biểu giáo thuyết chính thức và những cuộc gặp gỡ liên tôn cụ thể.
Thông điệp mới đây của Đức giáo hoàng, Fratelli
Tutti (2020) diễn tả rất hay sự tác động qua lại này giữa giáo thuyết và thực
hành, như là thần học gặp gỡ của nó được tạo khuôn bởi hai cuộc gặp gỡ đời thực
giữa Kitô giáo và Hồi giáo: cuộc gặp giữa Thánh Phanxicô Assisi và vua Hồi giáo
Al-Malik vào thế kỷ 13, và giữa Đức giáo hoàng Phanxicô và lãnh tụ Hồi giáo
Al-Tayyeb năm 2019. Tóm lại, lộ trình từ Nostra
Aetate đến Dialogue and Proclamation
đến Fratelli Tutti và xa hơn nữa cho
thấy một sự tác động qua lại giữa giáo thuyết và thực hành.
Những ảnh hưởng năng động trong D&P từng gây âm hưởng mạnh
nhất với người Mỹ là ảnh hưởng giữa bốn hình thức đối thoại: đời sống, hành động,
trao đổi thần học, và trải nghiệm tôn giáo[5].
Mặc dù bốn hình thức này từng được giới thiệu lần đầu tiên trong một văn kiện
trước đó của Vatican[6], nhưng chính sự trình bày mạch
lạc và rõ ràng của D&P đã lôi cuốn trí tưởng tượng của nhiều người. Trong
ba mươi năm qua, bốn hình thức này đã được dùng làm đá thử vàng chính cho đối
thoại liên tôn tại Hoa Kỳ. Bốn hình thức này không chỉ được trích dẫn trong các
bài báo hàn lâm và bởi những chuyên gia và tổ chức liên tôn, nhưng nhiều người
Công giáo bình thường cũng nhận ra rằng họ đã có trải nghiệm bản thân về đối
thoại liên tôn thông qua một trong bốn hình thức này.
Bài viết này cung cấp một quan điểm Mỹ về Đối Thoại và Rao Giảng ba mươi năm sau
khi nó được ban hành. Trong khi lưu tâm tới những cặp lưỡng cực cởi mở – xác
tín và giáo thuyết – thực hành, bài viết sẽ xét xem các cuộc đối thoại bằng đời
sống, hành động, trao đổi thần học và trải nghiệm tôn giáo đã được diễn tả như
thế nào trong bối cảnh Mỹ, với sự chú ý tập trung đặc biệt vào các đại học Công
giáo và các mô hình đối thoại của giới phụ nữ bình thường, vì hai thành phần
này chứng tỏ rõ ràng sư giao thoa của bốn hình thức nói trên.
1. Đối thoại liên
tôn tại các Đại học Công giáo
Vào những năm sau khi Nostra
Aetate được công bố, các giáo phận Công giáo tại Hoa Kỳ đã bổ nhiệm các
quan chức đại kết hay thiết lập các văn phòng đại kết để lo các vấn đề về đại kết
và đối thoại liên tôn. Các văn phòng này đã là những địa điểm quan trọng cho
công việc đối thoại của Công giáo cả trong giới hàn lâm và trong giới bình dân.
Tuy nhiên, trong ba thập kỷ vừa qua, các đại học Công giáo – được thúc đẩy một
phần bởi [Tông hiến] Ex Corde Ecclesiae
vừa ban hành một năm trước văn kiện Dialogue
and Proclamation – đã xuất hiện như một đối tác sinh động cho các giáo phận
trong công việc này[7].
Nhiều đại học Công giáo tham gia vào công cuộc đối thoại
liên tôn đã công khai chấp nhận bốn hình thức của D&P. Một số trường thậm
chí đã thiết kế toàn bộ cách tiếp cận của họ về các mối quan hệ liên tôn dựa
trên một sơ đồ bốn phần, như Đại học Santa Clara ở California, mô tả hoạt động
liên tôn của trường như là chịu ảnh hưởng của cả Dòng Tên sáng lập trường này
và ảnh hưởng của bốn hình thức của D&P. Một ví dụ khác là Đại học Depaul tại
Chicago. Trường này có tờ bướm quảng cáo về các hoạt động trong chiến dịch liên
tôn nhan đề: “Bốn Con Đường Đối Thoại tại Depaul.”[8]
Các trường khác có các trung tâm đặc biệt về các mối quan hệ liên tôn, như
Center for Christian-Jewish Learning của Đại học Boston, Prince Alwaleed Bin
Talal Center for Muslim-Christian Understanding của
Đại học Georgetown, Jay Phillips Center for Interfaith
Learning của Đại học St. Thomas, Institute for Interreligious Study and
Dialogue của Catholic University of America: các Đại học này thường xuyên tham
gia cả bốn hình thức đối thoại. Những trường này và nhiều trường khác nữa không
chỉ cổ vũ các chương trình hàn lâm chuyên về đối thoại của các chuyên gia thần
học, tổ chức các sự kiện nuôi dưỡng đối thoại về các trải nghiệm tôn giáo, và
tài trợ các ký túc xá để các sinh viên có nơi tham gia vào đối thoại cuộc sống;
nhưng các trường này cũng khá tích cực trong hình thức đối thoại bằng hành động.
Trong hai thập kỷ qua, nhiều đại học Công giáo Mỹ cũng đã gia tăng sự tham dự của
họ vào hình thức đối thoại bằng hành động, nhờ sự gợi hứng từ các thực thể ngoài Công giáo. Một trong
những thực thể ảnh hưởng nhất trong số này tiếp tục là tổ chức Interfaith Youth
Core, một tổ chức phi lợi nhuận tại Chicago đã khơi dậy hay củng cố việc đối
thoại liên tôn tại các trường công lập và tư thục của Mỹ, bao gồm các trường
Công giáo, với tiêu điểm là các hình thức đối thoại bằng đời sống và hành động[9].
Hình thức đối thoại bằng hành động tại các trường đại học
Công giáo hôm nay đã phát triển theo những cách mà văn kiện D&P đã không hề
dự kiến trước, một lần nữa chứng minh sự tương tác qua lại giữa lý thuyết và thực
hành. Ví dụ, trong khi văn kiện năm 1991 thậm chí còn không hề nhắc đến từ “chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc”, thì các sinh viên đại học Công giáo Mỹ và các đối
tác liên tôn của họ vào năm 2021 đang cùng nhau chống lại tình trạng gia tăng gần
đây của xu hướng ghét Hồi giáo, chủ nghĩa bài Do Thái, địa vị ưu việt của người
da trắng, và xu hướng ghét phụ nữ tại Hoa Kỳ. Khi làm điều này, họ đang diễn tả
tốt đẹp bản chất tương quan chặt chẽ của các hình thức đối thoại được mô tả bởi
D&P số 43: “Sự tiếp xúc trong đời sống thường ngày và sự dấn thân chung cho
hành động sẽ thường mở cánh cửa cho sự hợp tác trong việc phát huy các giá trị
nhân bản và thiêng liêng.” Hơn nữa, các đại học đã giúp mở rộng sự tham dự của
người Công giáo vào đối thoại liên tôn, từ một “lãnh vực dành riêng cho các
chuyên gia”, sang một nhóm người Công giáo rộng rãi hơn, bao gồm những người
thuộc thế hệ thiên niên kỷ và thế hệ Z, những thế hệ này không còn coi đối thoại
như là một “đồ xa xỉ trong sứ vụ của Hội Thánh,” nhưng đúng hơn, nó là một công
cụ cần thiết trong bước tiến bộ của hòa bình và công lý[10].
Một khía cạnh bất ngờ khác nữa của D&P đang diễn ra hôm
nay tại các đại học Công giáo Mỹ liên quan đến tiềm năng ảnh hưởng của đối thoại
đối với việc rao giảng trên bình diện phương pháp và người nghe. Một trong những
mục tiêu chính của văn kiện D&P là nhắc nhở những người Công giáo đang tham
gia đối thoại liên tôn không được bỏ qua việc rao giảng. Nhưng khi văn kiện nói
về rao giảng, văn kiện có ý hiểu về rao giảng cho những người ngoài Kitô giáo.
Tuy nhiên, một nhận thức mới và sâu sắc đã xuất hiện từ các khuôn viên đại học
Mỹ trong ba mươi năm qua: đó là những người dấn thân rao giảng Tin Mừng (Phúc
âm hóa, theo nghĩa rộng) cho các sinh viên Công
giáo phải tận dụng các kỹ năng họ đã có được trong đối thoại tôn giáo để
làm đòn bẩy cho công việc này. Dù sao, khung cảnh tôn giáo tại các đại học Công
giáo tại Hoa Kỳ đã thay đổi từ năm 1991, với nhiều trường báo cáo rằng số sinh
viên Công giáo chiếm khoảng 50 phần trăm hay ít hơn. Số sinh viên còn lại không
chỉ gồm những người theo các tôn giáo khác, nhưng số sinh viên Công giáo đã bỏ
đạo hay ít hiểu biết giáo lý và cả những sinh viên “không theo đạo nào” cũng
gia tăng. Trong khung cảnh này, cả việc rao giảng cho những người ngoài Kitô
giáo cũng như việc “tân Phúc âm hoá” giữa những người trẻ Công giáo có thể được
hưởng lợi từ thái độ đối thoại: điều này giúp cân bằng giữa sự cởi mở và niềm
xác tín[11]. Tóm lại, các phương pháp
rao giảng tôn giáo trong nội bộ có thể
hưởng lợi từ việc thực hành đối thoại liên
tôn. Một thái độ đối thoại là thiết yếu trong việc tiếp xúc với các sinh
viên đại học hôm nay, vì rao giảng khó có thể được tiếp nhận nếu không được làm
trong tinh thần đối thoại[12]. Những sinh viên Công giáo
và những sinh viên khác trong các lớp học thuộc thế hệ thiên niên kỷ vẫn còn
đang làm thần học theo câu châm ngôn nổi tiếng của Thánh Anselmô: “đức tin tìm
kiếm sự hiểu biết”, nhưng đối với nhiều người, điểm xuất phát không phải là “đức
tin” nhưng là “tìm kiếm”[13].
Hơn nữa, tôi có kinh nghiệm bản thân ngay tại trường đại học
tôi đang giảng dạy, Đại học Benedictine ở ngoại ô Chicago, đó là đức tin của
các sinh viên Công giáo đôi khi có thể được loé lên hay đào sâu nhờ đối thoại với
các bạn học là các sinh viên đạo Hồi hay đạo Sikh. Đáng chú ý là việc đối thoại
tôi đang nói đến ở đây không phải là bằng các cuộc thảo luận về đạo Hồi hay đạo
Sikh, nhưng đúng hơn, là đọc các bản văn Công giáo chung với nhau (chẳng hạn bộ
Summa của Thánh Tôma Aquinô, quyển Showings của Julian of Norwich, hay quyển
Luật Dòng của Thánh Biển Đức), và bằng
cách xin các bạn người Hồi hay người Sikh chỉ ra cho các bạn Công giáo những khía cạnh của các bản văn Công giáo[14]. Tình hình này cho thấy rằng
việc rao giảng Tin Mừng có thể chịu ảnh hưởng bởi việc đối thoại liên tôn theo
những cách mà văn kiện D&P không ngờ tới, một lần nữa chứng tỏ sự tương tác
bền bỉ giữa thực hành và giáo thuyết. Có lẽ giáo thuyết Công giáo về Phúc âm
hóa cần phải được ảnh hưởng một cách hữu ý bởi các phương pháp của đối thoại
liên tôn chăng? Ví dụ, Văn kiện năm 2001 Go
and Make Disciple của HĐGM Hoa Kỳ về Phúc âm hóa bao gồm một danh sách các
chiến lược, thế nhưng cả đối thoại liên tôn hay thần học so sánh lại không hề
được nhắc đến như là có liên quan gì với việc tái rao giảng Tin Mừng của người
Công giáo (chỗ duy nhất nhắc đến đối thoại liên tôn thì rất vắn tắt: khuyến
khích sự tôn trọng, không khuyến khích việc cải đạo)[15].
Trong khi Dialogue and Proclamation số
77 nhấn mạnh cả đối thoại và rao giảng, ngôn từ của “đối thoại” vẫn chưa được
tích hợp thực sự tốt vào các cố gắng Phúc âm hóa. Tuy nhiên, tính đa nguyên
liên tôn đang trở thành chính bối cảnh cho các nỗ lực Phúc âm hóa giữa những
người Công giáo Mỹ, như đã là như thế rồi tại Châu Á trong nhiều thập kỷ[16]. Sự tương tác giữa lý thuyết
và thực hành có tiềm năng tạo ra những nhận thức mới, không chỉ cho việc đối
thoại liên tôn, mà cũng cho việc rao giảng nữa.
2. Đối thoại liên
tôn trong các nhóm đối thoại phụ nữ bình thường
Tại Mỹ, các nhóm liên tôn phụ nữ là một khung cảnh thuận lợi
biểu lộ sự giao thoa giữa bốn hình thức đối thoại nói trên. Các nhóm này đã
tăng số theo cấp lũy thừa trong ba mươi năm qua, cho thấy sự tham gia sâu nhưng
thường bị quên lãng của các phụ nữ Công giáo là các giáo dân, các nữ tu, và các
phong trào giáo hội trong đối thoại liên tôn ở cấp cơ sở.
Một số nhóm đối thoại của phụ nữ tại Hoa Kỳ đã được khởi xướng
thông qua các tổ chức tôn giáo truyền thống. Chẳng hạn, một cuộc đối thoại giữa
các phụ nữ Công giáo tại Nhà thờ Thánh Fabianô và các phụ nữ Hồi giáo tại Nhà
thờ (Hồi giáo) Foundation ở Bridgeview, Illinois, hội họp với nhau hằng tháng từ
năm 1997, được khởi xướng bởi một nữ thành viên của nhà thờ Hồi giáo này, bà đã
đến gặp cha xứ của Nhà thờ Thánh Fabianô bên cạnh để xin giúp tổ chức một cuộc
đối thoại giữa các phụ nữ. Nhóm này, được điều hành một cách độc lập bởi các
thành viên nữ của nhóm, tham gia trong tất cả bốn hình thức đối thoại. Các cuộc
gặp gỡ hằng tháng của họ, thường được tổ chức trong các giờ uống trà buổi trưa
hay các bữa ăn đồ nướng ngoài sân, là bản chất của đối thoại đời sống: họ bàn
luận các vấn đề của gia đình và địa phương họ như trường học, chính trị, và tội
phạm. Họ dự các đám tang, đám cưới, và các sự kiện đặc biệt khác để biểu lộ sự ủng
hộ đối với các bạn bè liên tôn của họ. Các phụ nữ cũng có một lập trường đối với
công bằng xã hội, ví dụ nói công khai chống lại phong trào ghét phụ nữ sau ngày
11 tháng 9. Đối thoại của nhóm phụ nữ Thánh Fabianô-Nhà thờ Hồi giáo Foundation
cũng tổ chức một bữa tiệc liên tôn hằng năm, người Hồi giáo gọi là iftar, cho các gia đình của địa phương,
có thể được coi là một đối thoại trải nghiệm tôn giáo.
Các nhóm đối thoại liên tôn khác của các phụ nữ tại Hoa Kỳ
đã được tổ chức bởi các phong trào giáo hội Công giáo. Ví dụ các cộng đoàn phụ
nữ Focolare sống tại Milwaukee, New York, và Chicago vẫn đang đứng ra bảo trợ
các cuộc đối thoại với các phụ nữ của nhóm Imam W. D. Muhammad Society (IWDM, một
nhóm người Hồi giáo Mỹ gốc Phi) từ những năm 1990. Các cuộc đối thoại liên tôn
Focolare – IWDM biểu lộ sự giao thoa không chỉ trong bốn hình thức đối thoại,
nhưng cũng bằng việc cổ vũ đối thoại liên tôn và liên sắc tộc. Trên thực tế,
các phụ nữ Focolare ở Chicago đã thực hành đối thoại đời sống từ ít là hai thập
kỷ trước khi văn kiện Đối Thoại và Rao Giảng
(D&P) mô tả hình thức đối thoại
này vào năm 1991. Các chị Focolare lần đầu tiên mở nhà của họ ở khu vực Hyde
Park phía nam của Chicago vào những năm 1960, là thời kỳ những người da trắng rời
bỏ khu vực phía nam và chạy về những vùng ngoại ô, tất cả vì sợ những người da
đen đang đổ về đó. Thoạt đầu, một số thành viên da trắng của nhóm Focolare nói
họ sẽ tránh đến thăm ngôi nhà mới của họ tại Hyde Park, trong khi những người
da đen thì ngờ vực những người hàng xóm mới của mình. Nhưng dần dần, các chị em
Focolare đã xây dựng được những mối quan hệ bằng đời sống, vượt qua cả những
chia rẽ sắc tộc và tôn giáo, và nhấn mạnh về gia đình và trẻ em; ví dụ, họ nổi
tiếng vì tổ chức các lễ hội đại kết mừng lễ Chúa Giáng Sinh hằng năm, một lễ hội
mà các trẻ em địa phương rất thích thú[17].
Cho tới hôm nay, Nhóm Focolare Mỹ vẫn duy trì đối thoại với những người hàng
xóm da đen của họ, cả Hồi giáo và Công giáo, không chỉ ở Chicago, mà còn ở những
nơi khác trên khắp nước Mỹ, bao gồm Atlanta, Pittsburgh, và Detroit. Một phụ nữ
da đen Mỹ gốc Phi tóm tắt mối quan hệ của cộng đồng bà với Nhóm Focolare như
sau: “Các chị Focolare đã giúp tôi không còn nhìn thấy màu da trước khi tôi
nhìn thấy tính tình. Chúng tôi đã trở nên quá gần gũi với các chị của Nhà
Focolare tại Hyde Park đến nỗi tôi đã nói với các con tôi, ‘Nếu mẹ hay gia đình
không ở quanh các con và các con có cần gì, cứ chạy đến Nhà Focolare. Đó cũng
là gia đình chúng ta đấy.’”[18]
Các nhóm phụ nữ đối thoại liên tôn khác tại Hoa Kỳ được tài
trợ bởi các cộng đoàn nữ tu, chẳng hạn như “Các Nữ Tu Phương Tây”, họ đã tổ chức
nhiều cuộc gặp gỡ giữa các ni cô Phật giáo và các nữ tu dòng Biển Đức tại
Hacienda Heights, California, và Rock Island, Illinois. Tập trung vào các cuộc
đối thoại về các trải nghiệm tôn giáo và các trao đổi thần học, các nữ tu này
đã thảo luận về chiêm niệm, kỷ luật nội tâm, cộng đoàn, và quyền bính. Một ví dụ
khác về nhóm đối thoại cơ sở của Mỹ gồm những nữ tu Công giáo là nhóm “Các Nữ
Tu và Những Người Không Đạo”, một tổ chức phi lợi nhuận được điều hành hợp tác
bởi các nữ tu Công giáo và dân thường thuộc các tôn giáo khác nhau. Liên minh
này tập hợp các nữ tu Công giáo (gồm các chị Dòng Đaminh, Dòng Biển Đức, và các
chị Tu Hội Lòng Chúa Thương Xót) và những người dân thường với các quan điểm
tâm linh khác nhau (gồm “những người không đạo” và những người Do Thái) để tập
trung vào các hình thức đối thoại đời sống, đối thoại hành động và trải nghiệm
tôn giáo. Sứ mạng tự nhận của tổ chức này là “tạo ra những cộng đồng chăm sóc
và chiêm niệm có khả năng kích thích hành động can đảm”, và họ đã giúp những
người thuộc thế hệ thiên niên kỷ tìm thấy được những người bạn tâm hồn đáng ngạc
nhiên nơi các chị nữ tu Công giáo.
Kết luận
Năm 1991, Đối Thoại
& Rao Giảng (D&P) đã gợi ý về tương lai của nước Mỹ khi đề nghị rằng
nhiều người trẻ hơn cần phải được đào tạo về đối thoại trong một bối cảnh đa
nguyên: “Dựa trên cơ sở những kết quả của các nghiên cứu này, các học viện cũng
phải tổ chức những khóa học và nghiên cứu đặc biệt để đào tạo những con người
cho cả Đối Thoại & Rao Giảng. Cần phải đặc biệt chú ý đến những người trẻ sống
trong môi trường đa nguyên, họ gặp gỡ những tín đồ của các tôn giáo khác tại
trường học, nơi làm việc, trong các phong trào giới trẻ và các hiệp hội khác và
thậm chí ngay trong các gia đình của chính họ.”[19]
Trên thực tế, tính đa nguyên tôn giáo đã trở thành bối cảnh cho cả việc đối thoại
liên tôn lẫn việc rao giảng tại nước Mỹ của thế kỷ 21, và giới trẻ là chìa khóa
cho cả hai công việc này. Và vì thế, các đại học và các nhóm phụ nữ liên tôn sẽ
tiếp tục là những nơi đặc biệt quan trọng để người Công giáo học cách sống sứ vụ
kép của họ là đối thoại và rao giảng.
Các ví dụ của bài này về cách mà Văn kiện D&P đã được
đón nhận như thế nào tại Mỹ cho thấy cái động năng phức tạp đang tác động trong
đối thoại liên tôn: giữa sự cởi mở và sự xác tín, giữa giáo thuyết và thực
hành, và giữa bốn hình thức của đối thoại. Tại Mỹ, chắc chắn một trong những di
sản lâu dài nhất của D&P là sự mô tả mạch lạc của nó về bốn hình thức đối
thoại. Lý do là vì bốn hình thức này, trong tính chất đơn giản, dễ tiếp cận và
hữu ích, đã giúp cho các tầng lớp đông đảo người Công giáo – từ các linh mục,
các học giả và các sinh viên, cho tới các phụ nữ, các nữ tu và các gia đình –
đáp lại lời kêu gọi ngàn đời của Hội Thánh về đối thoại, như được dạy trong
Tuyên Ngôn Nostra Aetate số 2 (“Vì thế,
Giáo hội khuyến khích con cái mình… đối thoại và hợp tác với tín đồ của các tôn
giáo khác…”), trong Văn kiện Đối Thoại
& Rao Giảng số 43 (“Tất cả các giáo hội địa phương, và tất cả các thành
viên của các giáo hội này, được mời gọi đối thoại, dù không phải theo cùng một
cách như nhau”), trong Thông điệp Fratelli
Tutti số 217 (“Chúng ta hãy trang bị cho con cháu chúng ta những vũ khí của
đối thoại!”), và trong nhiều văn kiện khác nữa.
Chuyển ngữ: Lm
Đaminh Ngô Quang Tuyên
Từ: Tập san Pro Dialogo số
167 (LVI) 01/2021 của Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn, link tại dimmid.org
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 136 (Tháng 7 & 8 năm 2023)
[3] Các nhà thiết kế văn kiện D&P gồm có các nhà thực
hành như Jacques Dupuis, một linh mục Dòng Tên sống nhiều thập kỷ tại Ấn Độ và
tham gia vào tiến trình đối thoại Ấn giáo–Kitô giáo. Xem Michael Fitzgerald,
“Dialogue and Proclamation: A Reading in the Perspective of Christian-Muslim
Relations,” trong In Many and Diverse
Ways, ed. Daniel Kendall and Gerald O’Collins (Orbis, 2003), tr. 181-193, ở
tr. 181.
[4] Ví dụ, hai trong số các chuyên gia viết Nostra Aetate, Georges Anawati, OP, và
Robert Caspar, M. Afr., là những nhà nghiên cứu về Hồi giáo từng có kinh nghiệm
sống rất sâu rộng trong thế giới Hồi giáo; Anawati sinh tại Ai Cập và Caspar đã
sống lâu năm tại Bắc Phi. Trước khi trở thành Giáo hoàng Phaolô VI, Hồng y
Giovanni Montini từng tham gia trong nhóm đối thoại Hồi giáo Kitô giáo, gọi là
Phong trào Cầu nguyện Badaliya, của Louis Massignon. Để biết thêm về Anawati,
xem Wilhelmus Valkenberg, Abuna Anawati:
A Catholic Theology of Islam (Catholic University of America Press, sắp
phát hành). Để biết thêm về Massignon, xem Christian Krokus, The Theology of Louis Massignon: Islam,
Christ, and the Church (Catholic University of America Press, 2017).
[6] Văn kiện năm 1984 của Văn Phòng về những người
ngoài-Kitô giáo nhan đề Thái độ của Hội
Thánh đối với các tín đồ của các tôn giáo khác: Các Suy tư và Đường hướng về Đối
thoại và Sứ vụ
[7] J. Michael Miller, “Catholic Universities and
Interreligious Dialogue,” America,
20-6-2005. Đối thoại liên tôn được nhắc đến một cách minh nhiên trong Ex corde ecclesiae, 47.
[8] Về trường Santa Clara, xem:
https://www.scu.edu/mcae/world-affairs/ religion/interfaith.cfm.html‘s. Về trường
Depaul, xem:
https://offices.depaul.edu/mission-ministry/religious-spiritual-life/religious/Documents/Four%20ways%20of%20dialogue.pdf
[9] Nhà sáng lập Interfaith Youth Core (IFYC) là Eboo
Patel, người Hồi giáo, nói rằng các quan điểm của ông về hoạt động công lý liên
tôn đã chịu ảnh hưởng bởi những người Kitô giáo như Dorothy Day và Martin
Luther King, Jr.
[12] David Hollenbach, “Dialogue and Proclamation in
Catholic Universities,” 153-2018, La
Civiltà Cattolica, tr. 63.
[13] Jeannine Hill Fletcher, “Among the Nones: Questing
for God in the TwentyFirst Classroom,” trong Comparative Theology in the Millennial Classroom, ed. Mara Brecht
and Reid B. Locklin (Routledge, 2016), tr. 141-152, ở tr. 143.
[14] Rita George-Tvrtković, “What Muslims Can Teach
Catholics about Christianity,” in Comparative
Theology in the Millennial Classroom, pp. 153164, at p. 160.
[16] The Federation of Asian Bishops Conferences has
repeatedly stressed Asia’s “triple dialogue” context (dialogues with the poor,
cultures, and religions), for example in its 2012 FABC paper #138, “FABC at 40
Years: Responding to the Challenges of Asia.
Liên Hội Đồng Giám Mục Châu Á
(FABC) đã nhiều lần nhấn mạnh bối cảnh “đối thoại ba chiều” của Châu Á (đối thoại
với người nghèo, với các nền văn hóa, và với các tôn giáo), chẳng hạn trong tài
liệu năm 2012 của FABC bài #138, “FABC at 40 Years: Responding to the
Challenges of Asia.”.
[17] Nori Henk, “The Practice and Meaning of Communitarian
Spirituality in the Focolare Movement,” (Loyola University Chicago PhD
Dissertation, 2010), tr. 70.
[18] Theo lời thuật lại của Tariq Najee-Ullah trong
“Evaluating the Impact of Interfaith Dialogue between the Muslim American
Society and the Catholic Church especially through the Focolare Movement,”
(Georgetown University Master’s Thesis, 2017), tr. 93.
[19] Dialogue and
Proclamation, 88.