ĐỌC LẠI ĐỐI THOẠI VÀ RAO GIẢNG
BA MƯƠI NĂM SAU:
MỘT QUAN ĐIỂM CHÂU Á - HAI MẶT CỦA ĐỒNG TIỀN
Giám mục Thomas Dabre[1]
WHĐ (04.11.2023) – Ba mươi năm trước, Hội đồng Giáo hoàng về
Đối thoại Liên tôn tại Rôma[2] đã biểu lộ một sự ý thức và
phân tích có căn cứ về hiện tình Hội Thánh vào thời điểm ấy, khi khẳng định
đúng tính cấp bách Tin Mừng của cả hai yếu tố đối thoại liên tôn và rao giảng
Tin Mừng trong cùng một hơi thở. Văn kiện Đối
Thoại và Rao Giảng[3]
của Hội đồng Giáo hoàng này cho thấy một cách thích hợp rằng đối thoại
không phủ nhận rao giảng, và ngược lại, rao giảng không phủ nhận đối thoại.
Trong tám mươi chín số của văn kiện, rất nhiều số cắt nghĩa cả hai tiêu điểm
này, giống như hai mặt của cùng một đồng tiền, chúng xuất phát từ sứ vụ được Đức
Giêsu Kitô uỷ thác cho Hội Thánh[4].
Mặc dù gặp nhiều khó khăn từ bên trong cũng như bên ngoài, Đối
thoại và Rao giảng là một mệnh lệnh mục vụ tất yếu. Theo tầm nhìn tạo sáng suốt
của Công đồng Vaticanô II, Hội Thánh có lý khi nhấn mạnh nhu cầu đối thoại liên
tôn trong sứ vụ của mình.
“Vì thế, Giáo hội khuyến khích con cái mình… đối thoại và hợp
tác… với tín đồ của các tôn giáo khác mà vẫn là chứng tá của đức tin và đời sống
Kitô giáo.”[5]
Văn kiện tha thiết khuyên “thực hiện các nghiên cứu chuyên
môn về mối tương quan giữa đối thoại và rao giảng, lưu tâm tới mỗi tôn giáo
trong bối cảnh địa lý và văn hóa xã hội của mỗi tôn giáo[6].
Đức Phaolô VI, vị giáo hoàng đầu tiên viếng thăm Châu Á, đã
nói trong cuộc gặp gỡ các đại diện của các tôn giáo khác như sau:
“Vùng đất của các bạn là một vùng đất có nền văn hóa lâu đời,
là cái nôi của những tôn giáo lớn, mái nhà của một quốc gia đã từng tìm kiếm
Thiên Chúa với một ước muốn khôn nguôi, trong suy niệm và thinh lặng, và trong
lời cầu nguyện bằng những bản thánh ca sốt sắng.” Đức giáo hoàng đã chiếm được
trái tim của những người Ấn Độ khi ngài trưng dẫn bản văn nổi tiếng của Ấn
giáo: “Từ hư ảo, xin dẫn tôi tới hiện thực; từ bóng tối dẫn tôi tới ánh sáng; từ
chết chóc dẫn tôi tới bất tử.” Trong Đức Kitô, chúng ta thấy hoàn thành niềm
khát vọng trong lời cầu nguyện này[7].
Thấm nhuần tinh thần Công đồng Vaticanô II, Đức Giáo hoàng
Phaolô VI nhấn mạnh quyết tâm của Hội Thánh bắc những nhịp cầu đối thoại xuyên
qua các nền văn hóa và các tôn giáo. Không lâu sau, vào năm 1965, Công đồng
Vaticanô II công bố Nostra Aetate (NA):
“Tuyên ngôn về mối Quan hệ của Hội Thánh với các Tôn giáo Ngoài Kitô giáo.” Văn
kiện này (D&P, 1991) đã được ban hành chính là để đánh dấu kỷ niệm 25 năm
công bố NA[8].
Tại một đất nước Ấn Độ đa tôn giáo, nơi mà các Kitô hữu chỉ
chiếm 2,3 phần trăm dân số và người Công giáo chỉ chiếm 1,99 phần trăm dân số[9], đối thoại liên tôn trở
thành một mệnh lệnh bắt buộc, cũng như trên toàn thể lục địa Á Châu với một
tình trạng tương tự.
Trong khi nhấn mạnh việc đối thoại, cũng không bao giờ được
làm lu mờ những đòi hỏi của việc rao giảng. Các giám mục Á Châu phát biểu rằng:
“Chúng ta rao giảng Tin Mừng vì chúng ta tin rằng Đức Giêsu là Chúa và Đấng Cứu
Thế, ‘mục tiêu của lịch sử nhân loại, …niềm vui của mọi tâm hồn, và sự hoàn
thành mọi khát vọng của con người’.”[10]
Đối thoại và Rao giảng không thể được xem xét biệt lập, tách
rời nhau, vì:
Đối thoại liên tôn và rao giảng, …là chính đáng và cần thiết.
Chúng liên hệ mật thiết với nhau, nhưng không thay thế cho nhau: đối thoại liên
tôn từ phía người Kitô hữu giả thiết ước muốn làm cho Đức Giêsu được người ta
biết đến nhiều hơn, được nhìn nhận và yêu mến nhiều hơn; rao giảng Đức Giêsu
Kitô phải được thực hiện trong tinh thần Tin Mừng của đối thoại. Hai hoạt động
này phân biệt với nhau, nhưng như kinh nghiệm cho thấy, cùng một giáo hội địa
phương, cùng một người, có thể tham gia vào cả hai bằng những cách thức khác
nhau[11].
Tuy nhiên, trong tình hình thực tế, đối với một số người thì
chỉ có đối thoại là ưu tiên chính, còn đối với một số người khác thì ưu tiên là
rao giảng, và cũng có những người khác nữa vẫn tiếp tục thi hành sứ vụ bí tích
trong cộng đoàn nhưng ít quan tâm tới đối thoại hay rao giảng.
Chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa (St
1,26-27). Chân lý không thể bị áp đặt trên những con người vì nhân phẩm của họ
là những con người tự do và có lý trí. Bên cạnh đó, ơn cứu độ Thiên Chúa ban
cho con người phải được chấp nhận, hấp thụ và sống để phát huy “sự sống dồi
dào” mà Đức Giêsu đem đến (Ga 10,10). Làm sao điều này có thể xảy ra nếu nó được
thông truyền mà không có đối thoại gì cả? Vì vậy, đối thoại là một điều kiện tất
yếu sine qua non. Với một sự cần thiết
cơ bản như thế của đối thoại dựa trên đức tin – vốn là một sự gặp gỡ và quan hệ
tự do với Thiên Chúa – đối thoại trước hết và trên hết là một mệnh lệnh thần học.
Ngay từ những trang đầu của Kinh Thánh, chúng ta biết rằng
Thiên Chúa liên tục đối thoại với con người. Thực vậy, cứu rỗi là cuộc đối thoại
có sức giải phóng với loài người. Biến cố Nhập Thể là cuộc đối thoại của Thiên
Chúa với loài người trong Đức Giêsu và nhờ Đức Giêsu. Tuy nhiên, sự đối thoại
liên tôn giữa các Kitô hữu với các tín đồ của các tôn giáo khác, như được hình
dung bởi Vaticanô II, mới chỉ dần dần được chúng ta hiểu rõ hơn. Đáng buồn
thay, đối thoại vẫn còn phải trở thành một nếp sống tại Châu Á, tại đây nó rất
cần phải là một nếp sống.
Văn kiện D&P có lý khi chỉ ra rằng đối thoại “vừa là chứng
tá vừa là sự tìm hiểu rõ hơn các niềm xác tín tôn giáo của mỗi tôn giáo[12]. Tính khả tín và hiệu quả của
nó sẽ được kích thích nhờ sự tương tác, tương quan với nhau, một thái độ tôn trọng
và thân thiện, bác ái và có lòng trắc ẩn đối với những người túng thiếu, nghèo
khổ, cùng nhau làm việc vì một mục đích chung và như thế nghiêm túc vâng theo
luật yêu thương như Đức Giêsu đã làm. Đối thoại và Rao giảng đều cho thấy khuôn
mặt yêu thương của Chúa Giêsu.
Đối thoại liên tôn là một tiến trình liên tục, chặt chẽ và
không thể chia cắt, nó bao gồm nhiều yếu tố tuy khác biệt nhưng liên hệ mật thiết
với nhau và không thể tách rời. Ngay từ khoảng 5 thập niên trước đó, FABC đã vạch
rõ nguyên tắc “đối thoại tam diện” là ưu tiên cho Hội Thánh tại Châu Á. (FABC,
Hội nghị toàn thể, 1974): (1) đối thoại với người dân Châu Á, đặc biệt người
nghèo, (2) đối thoại với các nền văn hóa Á Châu, và (3) đối thoại với các tôn
giáo Á Châu.
Nếu mang thái độ tiêu cực đối với các tôn giáo và các nền
văn hóa khác, chúng ta sẽ chỉ khơi dậy sự chống đối. Hơn nữa, Thiên Chúa là Đấng
yêu thương mọi người một cách vô điều kiện, Người không muốn chúng ta tỏ ra
tiêu cực với các tôn giáo và các nền văn hóa khác. Thiên Chúa đã làm chứng về
mình cho những người khác và Chúa Thánh Thần đang hoạt động trong các tôn giáo
và các nền văn hóa khác.
Tại Châu Á, nơi các tôn giáo đang trở nên tự khẳng định mình
mạnh mẽ, chúng ta phải tránh có cái nhìn tiêu cực về các nền văn hóa và các tôn
giáo địa phương.
“Các tôn giáo không chỉ đơn thuần hiện hữu, hay chỉ đơn thuần
sống sót. Trong một số trường hợp, chúng cho thấy rõ có một sự phục hưng. Chúng
vẫn tiếp tục tạo cảm hứng và ảnh hưởng tới đời sống của hàng triệu tín đồ của
chúng[13]. Vì vậy, cách tiếp cận của
chúng ta phải tỏ ra tôn trọng hơn, nhy cảm và cẩn thận hơn, với một sự ý thức mở
rộng về sự quan phòng của Thiên Chúa và sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong
các tôn giáo khác. Điều này đã được diễn tả rất rõ trong Vaticanô II: “…Chúa
Thánh Thần ban cho mọi người khả năng tham dự vào mầu nhiệm Phục Sinh ấy, cách
nào đó chỉ có Chúa biết thôi” (GS 22).
Năm 1984, trong bài diễn từ tại Hội nghị toàn thể của HĐGH về
Đối thoại Liên tôn, Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tuyên bố: “Đối thoại
(liên tôn) là hoạt động cơ bản đối với Hội Thánh, vì Hội Thánh được kêu gọi hợp
tác vào kế hoạch của Thiên Chúa bằng phương pháp hiện diện, tôn trọng và yêu
thương đối với mọi người.” Sự hiểu biết lẫn nhau và các mối quan hệ thân thiện
cũng như các cách thức nhân văn cao quý khác phải được hết sức quý trọng như là
thành phần của tiến trình đối thoại. Nhưng đối thoại liên tôn không được chỉ giới
hạn vào những điều ấy mà thôi, bởi vì các mối quan hệ liên tôn phải đạt tới đỉnh
điểm trong sự trao đổi và chia sẻ các trải nghiệm thiêng liêng cùng với các niềm
tin và sự xác tín của mình.
Các đoạn văn tiêu cực vì bối cảnh thời đại Nhập Thể đòi hỏi hội nhập văn hóa |
Mệnh lệnh Rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô
“Việc rao giảng Tin Mừng cũng luôn luôn bao hàm một sự công
bố minh bạch rằng trong Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người, chịu chết và
sống lại, ơn cứu độ được ban cho mọi người, như tặng phẩm của ân sủng và lòng
nhân lành của Thiên Chúa.”[14] Do đó, đối thoại không thể
thay thế cho việc làm chứng về Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế duy nhất.
Tuy nhiên, chúng ta phải biết đối thoại có nghĩa là gì và
không có nghĩa là gì. Ví dụ, việc rao giảng không phải là công kích hay chối bỏ
những giá trị cao quý trong các tôn giáo khác, trái lại, các khía cạnh tốt đẹp ấy
phải được giữ lại và sử dụng để phục vụ cho lợi ích chung. Tin Mừng không đe doạ,
cũng không công kích các tôn giáo khác, nhưng hoàn thiện và kiện toàn các tôn
giáo ấy. Không có mất mát, chỉ có lợi lộc trong tiến trình gặp gỡ.
Cần phải có một sự khẳng định không mơ hồ về Đức Giêsu Kitô
như là Đấng Cứu Độ duy nhất, như văn kiện D&P đã làm[15],
vì đã có một sự thờ ơ, một quan điểm hòa đồng tôn giáo sai lầm nơi một số người,
linh mục, tu sĩ và trí thức chịu ảnh hưởng bởi bầu khí tục hóa và một khái niệm
lệch lạc về ý muốn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa. Đồng thời chúng ta cũng phải
nhìn nhận rằng mình không hiểu được hoàn toàn mặc khải Kinh Thánh, cả khi chúng
ta rao giảng mặc khải ấy.
Mầu nhiệm thần linh của Đức Giêsu vượt quá sự hiểu biết.
Trong cả việc đối thoại và rao giảng, chúng ta không sở hữu sự thật đầy đủ của
Đức Giêsu. Tất cả chúng ta đều là những người đang tìm kiếm sự thật trong tình
yêu. Bản thân chúng ta không hiểu mầu nhiệm Đức Giêsu. Mầu nhiệm này luôn luôn
vượt quá chúng ta. Vì vậy, trong tất cả sự khiêm tốn và vui tươi, chúng ta diễn
tả điều chúng ta tin bằng cách này, không phải trong thái độ cao ngạo và tự phụ.
Quan tâm về sự “hoán cải”
Số 11 của văn kiện D&P định nghĩa đúng về “hoán cải” như
là “một sự thay đổi lòng trung thành tôn giáo, và đặc biệt là để chấp nhận đức
tin Kitô giáo.” Tuy nhiên, khái niệm hoán cải phải được cắt nghĩa đúng để nó
không thể tạo ấn tượng sai lạc về sự xóa bỏ đạo trước.
Trong tiến trình hoán cải, “người ta có thể quyết định rời bỏ
một tình trạng thiêng liêng hay tôn giáo trước kia của mình để đi theo một tình
trạng khác”[16]. Điều này phải được diễn tả
một cách cẩn thận và tinh tế bởi vì sự hoán cải về với Thiên Chúa trong Đức
Giêsu không bao giờ là một sự cắt đứt và xoá bỏ những gì cao quý trong đạo trước.
Hoán cải không phải là sự tha hóa nhưng là sự soi sáng và tăng trưởng trong việc
nắm giữ sự thật, được mặc khải trong Đức Giêsu.
Bởi vì: “Tất cả những gì là chân lý và ân sủng đã được tìm
thấy nơi các dân tộc như một sự hiện diện bí ẩn của Thiên Chúa… Bởi vậy, bất cứ
điều gì tốt đẹp được nhận biết là đã được gieo vãi trong tâm trí con người, hay
trong những lễ chế và văn minh riêng của các dân tộc, sẽ không bị hủy diệt, mà
còn được thanh tẩy, thăng tiến và hoàn tất, để Chúa được tôn vinh, …và con người
được hạnh phúc.”[17] Trong việc rao giảng Tin Mừng,
“…họ (các Kitô hữu) nhìn nhận, duy trì và cổ động cho những thiện ích thiêng
liêng cũng như luân lý và những giá trị xã hội văn hóa của các tín đồ thuộc các
tôn giáo khác…”[18]
Một cách chí lý, D&P nhắc đúng về những khó khăn phải
luôn luôn lưu tâm đến, đặc biệt tại một châu lục như Châu Á, nơi mà Hội Thánh
không ngừng phải đối diện.
a) Gánh nặng lịch sử khiến cho việc
rao giảng trở nên khó khăn hơn, vì các phương pháp loan báo Tin Mừng trong quá
khứ đôi khi gây sợ hãi và nghi ngờ cho những tín đồ của các tôn giáo khác.
b) Tín đồ của các tôn giáo khác có
thể sợ rằng sứ vụ truyền giáo của Hội Thánh rốt cuộc sẽ dẫn đến việc xóa bỏ tôn
giáo và văn hóa của họ.
c) Tại một số nơi, luật pháp cấm việc
cải đạo, hay những người trở lại Kitô giáo thường gặp nhiều vấn đề nghiêm trọng,
như bị những người đồng đạo cũ tẩy chay, bị nghi kỵ và chèn ép bởi môi trường
xã hội đa văn hóa[19].
Tuy nhiên, “không có loan báo Tin Mừng đích thực nếu không
rao giảng danh thánh, giáo huấn, đời sống, các lời hứa, Nước Trời và mầu nhiệm
của Đức Giêsu Nadarét, Con Thiên Chúa.”[20]
Do đó, việc rao giảng của Hội Thánh phải từ từ và kiên nhẫn, hợp với nhịp bước
của những người nghe sứ điệp, tôn trọng tự do của họ, thậm chí tôn trọng sự “chậm
tin” của họ.” (EN số 79).
Việc rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh đặt những đòi hỏi
nghiêm túc đối với cả Hội Thánh rao giảng và các thành viên của Hội Thánh đang
dấn thân trong việc loan báo Tin Mừng, cũng như đối với những người được Chúa
kêu gọi để vâng phục đức tin Kitô giáo.
Tại Ấn Độ, có một sự hiểu lầm rất thô thiển rằng sự hoán cải
diễn ra là bởi sự cưỡng bức, lừa gạt hay lôi kéo, hay thuần tuý bởi việc ban
nghi thức rửa tội.
Một vấn đề nghiêm trọng là sự hiểu sai về ý nghĩa của các
thuật ngữ nhạy cảm như hoán cải, rửa tội, đối thoại, v.v… Đây là điều cũng đáng
phải lưu tâm. Bất chấp mọi trở ngại trên đường, sứ vụ rao giảng Tin Mừng – tất
yếu bao gồm đối thoại và rao giảng – phải được tiếp tục, vì Đức Giêsu là Đấng Cứu
Độ phổ quát.
Đức Giáo hoàng Phaolô VI từng nói, “Việc trình bày sứ điệp
Phúc Âm không phải là một công việc tùy ý Hội Thánh. Nó là một bổn phận Hội
Thánh phải làm do lệnh truyền của Chúa Giêsu, để người ta có thể tin mà được cứu
độ.”[21] Văn kiện D&P có lý khi
dẫn chứng Tông đồ Gioan là người tự giới thiệu mình trước hết là một chứng
nhân, nghĩa là người đã thấy Đức Giêsu và khám phá mầu nhiệm của Đức Giêsu (x.
Ga 13,23-25; 21,24). “Chúng tôi công bố cho anh em điều chúng tôi đã thấy và đã
nghe” – về Lời sự sống – ”để cả anh em cũng được chia sẻ sự sống của chúng tôi”
(1 Ga 4,14).
Đối thoại và Rao giảng trở thành đáng tin và hiệu quả khi đó
là sự biểu lộ các niềm xác tín và cam kết của chúng ta. Đương nhiên thần học và
các khái niệm có ý nghĩa xác định của chúng, nhưng chúng phải được trình bày bằng
những hình thức hiện sinh và kinh nghiệm.
Các đoạn văn tiêu cực vì bối cảnh thời đại
Thánh Phaolô nói tiêu cực về những người đã không nhận biết
Thiên Chúa trong công trình tạo dựng của Người và đã rơi vào tình trạng sùng
bái ngẫu tượng và nếp sống đồi truỵ (x. Rm 1,18-32). Nhưng ngài cũng cho thấy một
thái độ tích cực đối với Dân Ngoại (x. Cv 14,8-18; và 17,22-34). Chắc chắn rằng
Đức Giêsu soi sáng cho hết mọi người (x. Ga 1,9). Đối với chúng ta, nhu cầu cấp
bách là có một cái nhìn phê bình về những đoạn văn tiêu cực trong Kinh Thánh,
liên quan đến những người ngoại giáo, những lương dân, những người Ai Cập, những
người tôn thờ ngẫu tượng, phụ nữ, v.v…
Do đó, đặc biệt khi các Kitô hữu chỉ là một thiểu số trong cộng
đồng, những người giảng thuyết và truyền giáo cần giúp cho người nghe hiểu đúng
những đoạn văn Kinh Thánh bị chi phối bởi bối cảnh thời đại như thế. Với sự
phân định sáng suốt, chúng ta cần tách riêng Lời của Thiên Chúa với những lời của
loài người mà qua đó Lời của Thiên Chúa đến với chúng ta. Lắm khi ngay cả người
Công giáo cũng không có khả năng cắt nghĩa đúng những đoạn văn như thế. Những
đoạn văn tiêu cực ấy được công bố trong Phụng vụ. Cần phải cẩn thận cắt nghĩa một
cách khôn ngoan để Lời của Thiên Chúa không gây ra tức giận, khó chịu, nhưng
soi sáng và an ủi người nghe.
Chắc chắn có những yếu tố và những phần trong các tôn giáo
khác mâu thuẫn, bất nhất, thậm chí không thể phù hợp với mặc khải Kitô giáo. Những
yếu tố ấy có thể được đưa ra xem xét đúng lúc, với thái độ khiêm tốn và khôn
ngoan và san khi đã dùng tình yêu chinh phục được sự tin cậy của các tín đồ
khác đạo, hãy nhớ rằng bản thân chúng ta cũng có những ý tưởng và những việc thực
hành cần được xét lại, vì Mặc Khải thì hoàn hảo, nhưng chúng ta thì không.
Lời xin lỗi của Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II có một ý
nghĩa đặc biệt cho người dân Châu Á. Ngài nói: “Chúng ta hãy xin được tha thứ …
vì hành vi bạo lực mà một số người đã sử dụng trong việc phục vụ sự thật, và vì
những thái độ nghi kỵ và thù nghịch đối với những tín đồ thuộc các tôn giáo
khác”[22] Người ta có thể sẵn sàng chấp
nhận một lời phê bình có cơ sở và xây dựng khi được nói ra với thái độ khiêm tốn,
nhưng những bình phẩm tiêu cực thì chỉ làm người nghe thêm cứng lòng và như thế
làm cho việc rao giảng Tin Mừng càng khó khăn hơn, như được chứng minh bởi sự
trỗi dậy hiếu chiến trong các tôn giáo khác.
Ở đây, cũng hữu ích để chỉ ra rằng cộng đồng Kitô giáo bắt
nguồn từ thời các tông đồ – nhiều thế kỷ trước khi nhiều quốc gia Châu Âu đón
nhận Kitô giáo – với các truyền thống bắt nguồn từ Thánh Tôma Tông đồ[23]. Mặc dù thế, khá nhiều người
vẫn coi Hội Thánh xa lạ với Châu Á[24].
So với tín đồ của các tôn giáo khác, các Kitô hữu thường tạo ấn tượng họ là một
cộng đồng rất Tây hóa tại những đất nước như Ấn Độ, Pakistan, Philippine,
Malaysia, Singapore, Sri Lanka, v.v…
Điều này một phần cũng là vì các trường học do Hội Thánh
trông coi chủ yếu dạy bằng tiếng Anh, và những người Công giáo thường theo nếp
sống cũng như các giá trị Phương Tây. Có những cộng đồng Công giáo địa phương bị
Tây hóa đến mức như là đã trở thành những thuộc địa của những công dân nói tiếng
Anh không có khả năng giao tiếp với nhau bằng bất cứ thứ tiếng Ấn Độ nào.
Nhập Thể đòi hỏi hội nhập văn hóa
Bằng việc nhập thể, Đức Giêsu đã hòa nhập vào mọi thực tại
và mọi nền văn hóa để kiện toàn những thực tại ấy. Vì vậy, Hội Thánh tại Châu Á
phải tiếp thu nhiều nền văn hóa của Châu Á để biến đổi chúng từ bên trong,
trong tinh thần của mầu nhiệm Nhập Thể. Các khuôn mẫu và phạm trù tư tưởng
La-Hy có những giá trị xứng đáng của chúng, nhưng chúng cần được tích hợp với
cách diễn tả và thực hành của Châu Á.
Trong một thế giới toàn cầu hóa, không có gì sai khi chấp nhận
tiếng Anh và các giá trị của xã hội Phương Tây, nhưng không được phương hại đến
cội nguồn của chúng ta. Tại một châu lục mà người Kitô hữu chỉ chiếm 3 phần
trăm dân số, nền văn hóa nổi trội được hình thành bởi các tôn giáo khác và các
nền văn hóa khác. Người ta thường nói: “Ở Rôma thì sống như người Rôma”, nghĩa
là nhập gia tùy tục. Vì vậy, ở Châu Á, chúng ta phải chấp nhận các nền văn hóa
khác nhau của Châu Á, và điều này dẫn đến các vấn đề của sự hội nhập văn hóa.
Hội nhập văn hóa đích thực giúp Kitô hóa các nền văn hóa địa
phương để các nền văn hóa địa phương cũng định hình đời sống của các cộng đồng
Kitô giáo. Một sự thâm nhập lẫn nhau như thế là điều bắt buộc để sứ vụ của Hội
Thánh phát triển và hôm nay nó càng trở nên cấp bách hơn vì hiện tượng toàn cầu
hóa đang đe dọa các nền văn hóa địa phương. Khó có thể thấy được làm thế nào sứ
điệp của Hội Thánh có thể trở nên dễ hiểu và viên mãn nếu không có một tiến
trình hội nhập văn hóa đúng đắn và sáng suốt. Như thế, chúng ta được kêu gọi đối
diện với những vấn đề phức tạp cả trong lãnh vực đối thoại và văn hóa[25].
Ngay từ thế kỷ 17 trở lại đây, đã có những cố gắng nghiêm
túc để hội nhập đức tin Kitô giáo vào các nền văn hóa Á Châu và chấp nhận một số
các việc thực hành, các khái niệm, âm nhạc và nếp sống của người dân bản địa.
Matteo Ricci, Roberto de Nobili, Stephen Thomas, Joseph Vaz, Brahmabandhab
Upadhyay và nhiều người khác đã có những cố gắng đáng khen ngợi nhằm tạo ra một
sự thẩm thấu và phối hợp đáng tin cậy giữa đức tin Kitô giáo và các tôn giáo lớn
khác. Chính nhờ tính đáng tin cậy của những nhà tiên phong tận tuỵ và thông
thái mà viễn ảnh về một Hội Thánh địa phương hội nhập đích thực tại Châu Á đang
dần dần được nhìn nhận[26].
Văn phòng Loan báo Tin Mừng của FABC đã tổ chức một Hội nghị
Tham vấn về đề tài “Loan báo Tin Mừng và Hội nhập văn hoá”, hợp tác với Trung
tâm Thánh Kinh Huấn giáo và Phụng vụ (National
Biblical Catechetical and Liturgical Centre – NBCLC), tại Bangalore, Ấn Độ,
năm 2000. Các thành viên tham dự Hội nghị cảm thấy rằng: “Vì rao giảng Tin Mừng
là nhiệm vụ trọng tâm của các Giáo hội Á Châu và vì thế là của tất cả các Văn
phòng của FABC, chúng tôi khuyến nghị rằng chiều kích hội nhập văn hóa phải hiện diện trong các hoạt động của tất cả các
Văn phòng khác của FABC.”[27]
Việc hội nhập văn hóa đáng tin cậy đòi hỏi hàng giáo phẩm phải
tránh tình trạng quá quan liêu, tự tôn, nhưng phải sống với tinh thần bình đẳng
và tính giản dị khiêm tốn, không phô trương. Vẫn còn tồn tại một khoảng cách giữa
lãnh đạo giáo hội và người dân. Lý do cũng có thể là vì các mối quan tâm về chức
vụ/quản trị, đây cũng là điều cần phải điều chỉnh lại.
Tại Châu Á, các lãnh đạo tôn giáo được tôn trọng như là những
người có trải nghiệm thiêng liêng thâm sâu về Thiên Chúa. Tại Châu Á, những người
lãnh đạo tôn giáo được mong đợi phải không dính bén với của cải, với con người
và địa vị. Các cộng đồng tôn giáo của họ không có một hệ thống tổ chức phức tạp
và quan liêu giống như trong Hội Thánh. Khía cạnh thể chế của Hội Thánh cần phải
được đơn giản hóa và những con người nắm giữ quyền bính không được phô trương địa
vị và ham muốn phô trương quyền lực bên ngoài. Mọi tác vụ của chúng ta phải được
thực thi trong tinh thần an bình, hài hòa, bình đẳng và huynh đệ[28]. Điều đáng mừng là những cố
gắng nghiêm túc đang được thực hiện theo hướng này.
Giải phóng con người
Chúng ta nhìn thấy tại Châu Á nói chung, và tại Ấn Độ nói
riêng: Một mặt là sự hiện diện tràn lan của vô số các truyền thống tôn giáo và
ý thức hệ khác nhau, và mặt khác là tình trạng đói nghèo và áp bức chính trị rộng
khắp.
Phần lớn dân Châu Á sống trong cảnh nghèo khổ. Thật đáng buồn,
tại Châu Á khoảng 40 phần trăm trong 780 triệu người dân sống dưới mức 2 US$ một
ngày, với tất cả những điều xấu xa, những đau khổ, tình trạng mù chữ, mất nhân
phẩm, bệnh tật, v.v… phát sinh từ đó[29].
Trong bối cảnh đáng sợ này, Hội Thánh phải nhất quán làm việc cho bác ái, trợ
giúp, công bằng xã hội và hòa bình với sự dấn thân mạnh mẽ hơn. Một chương
trình đáng tin cậy vì công lý và hòa bình đích thực phải bao gồm một hoạt động
toàn diện để xoá bỏ nghèo đói trong tình liên đới với người nghèo. Như thế, cần
phải nhấn mạnh tầm quan trọng của đối thoại vì sự phát triển toàn diện, công bằng
xã hội và giải phóng con người.
Cũng có nhu cầu liên kết với nhau trong cố gắng giải quyết
những vấn đề lớn mà xã hội và thế giới đang phải đối mặt, tình trạng nghèo đói,
nạn bạo hành phụ nữ, hệ thống đẳng cấp bất hợp lý, hệ sinh thái bị tàn phá,
v.v… Một nhu cầu cấp bách của Châu Á là phải hiểu ra rằng chúng ta không thể sống
và hoạt động cô lập với người khác, nhưng phải làm mọi sự trong tình liên đới với
những người khác thuộc các môi trường khác nhau. Do đó Hội Thánh tại Châu Á và Ấn
Độ phải liên kết với rất nhiều phong trào khác nhau đang hoạt động cho sự đổi mới
xã hội, công lý và hệ sinh thái đang kêu gọi sự công bằng và bảo vệ quyền con
người. Tình hình địa chính trị tại Châu Á rất mong manh. Khủng bố và bạo lực
đang tràn lan trong xã hội Châu Á ở mọi bình diện. Có những cuộc chiến và xung
đột địa chính trị, tôn giáo và cộng đồng tại các quốc gia như Ấn Độ, Sri Lanka,
Pakistan, Trung Quốc, Triều Tiên và Hàn Quốc, Đài Loan, Hong Kong, Philippine,
Thái Lan, v.v… Trong tình hình như thế, các lãnh đạo Hội Thánh phải nổi lên như
là những người xây dựng hòa bình. Để giải quyết các vấn đề và các xung đột này,
các phương pháp và các kỹ năng phải được thúc đẩy ở mọi bình diện.
Cả người lãnh đạo cũng như người dân cần phải học cách giải
quyết các vấn đề và các xung đột. Hội Thánh phải có những bước đi nhằm tạo ra một
tiến trình chữa lành trong một thế giới bị xâu xé và đổ vỡ.
“Tại nhiều nơi trên thế giới, cần có những con đường cho hòa
bình để chữa lành những vết thương chưa được chữa lành. Cũng cần có những con
người xây dựng hòa bình, những người nam người nữ được đào tạo để hoạt động một
cách mạnh bạo và sáng tạo nhằm khởi xướng những tiến trình chữa lành và gặp gỡ
mới mẻ.”[30]
Đương nhiên Hội Thánh không làm chính trị, nhưng chắc chắn Hội
Thánh có thể dấn thân bênh vực công lý và hòa bình một cách nghiêm túc hơn.
Trong vài thế kỷ, Hội Thánh tại Châu Á đã có một sự cống hiến
quyết định cho sự biến đổi xã hội, và sự cống hiến này đã được đánh giá cao bởi
những tín đồ của các tôn giáo khác. Tại Ấn Độ, chẳng hạn, vai trò rõ rệt của
các nhà truyền giáo trong tiến trình khó khăn của việc biến đổi xã hội đã rất
được hoan nghênh. Nhiều nhà cải cách, nhiều lãnh tụ xã hội, chính trị và quốc
gia của Ấn Độ đã được cảm hứng rất nhiều bởi các giá trị Kitô giáo mà họ đã được
hấp thụ trong nền giáo dục Phương Tây.
“Loan báo Tin Mừng có nghĩa là đem Tin Mừng vào trong mọi
giai tầng của nhân loại, và nhờ ảnh hưởng của Tin Mừng mà biến đổi và đổi mới
nhân loại từ bên trong.”[31]
Loan báo Tin Mừng không phải là một cái gì ở bên ngoài và vô
dụng. Đúng hơn, nó giống như men, dù chỉ một dúm nhỏ nhưng đủ tác động để làm
cho bột dậy men từ bên trong. Tại các nước Châu Á, vì Hội Thánh chỉ là một thiểu
số, khái niệm loan báo Tin Mừng rộng rãi có ý nghĩa đặc biệt. Có một phạm vi rộng
cho việc thực thi một việc rao giảng biến đổi cuộc sống khi chúng ta nghĩ đến
những căn bệnh tràn lan như nghèo đói, bất bình đẳng, bóc lột, hệ thống đẳng cấp,
mù chữ, kỳ thị giới tính, v.v… Nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng tuy gặp nhiều khó
khăn, nhưng hoạt động vì sự đổi mới xã hội có thể là một con đường êm ả hơn để
đi đến đối thoại liên tôn và rao giảng Đức Giêsu.
Truyền thông xã hội
Tại Châu Á, chúng ta phải kiên trì sử dụng các phương tiện
truyền thông xã hội để thúc đẩy Tin Mừng. Các tiện ích như mạng Internet, You
Tube, Facebook, email, v.v…, có thể được sử dụng một cách thận trọng để phục vụ
việc rao giảng. Vì việc rao giảng minh nhiên có những khó khăn của nó trong việc
thông truyền sự sống và sứ điệp của Đức Giêsu, các giá trị Tin Mừng và giáo huấn
xã hội của Hội Thánh có thể được truyền đạt một cách dễ dàng và mau chóng hơn rất
nhiều cho mọi người nhờ các phương tiện truyền thông xã hội.
“Các phương tiện ấy là những ân huệ của Chúa và là cơ hội để
kiến tạo các mạng lưới kết nối xã hội và vun đắp tình bạn và sự hiệp thông.
Chúng tôi cũng nhìn nhận tiềm năng và những cơ hội vô biên mà các phương tiện mới
cống hiến cho việc giáo dục, loan báo Tin Mừng và giáo dục đức tin.”[32]
Kết luận
Văn kiện này với các suy tư của nó về Đối thoại và Rao giảng
phải được hoan nghênh vì cách trình bày rất tích cực, cởi mở một cách mạnh dạn
và toàn diện về thần học. Sứ vụ rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh cần phải được
bền bỉ cập nhật trong tinh thần cuộc tân Phúc âm hóa. “Nhìn về tương lai với sự
dấn thân cho một cuộc Phúc Âm hóa mới mẻ, mới trong nhiệt huyết, mới trong
phương pháp, và mới trong cách diễn đạt.”[33]
Loan báo Tin Mừng không thể được thực hiện một cách máy móc và khuôn sáo. Nó cần
những sáng kiến giàu tính sáng tạo dưới ánh sáng của tình hình thay đổi không
ngừng trong Hội Thánh, xã hội và thế giới.
Với tất cả sự mãn nguyện, chúng ta phải ghi nhận tính cởi mở
và sự quý trọng mà Văn kiện này dành cho các tôn giáo khác và các truyền thống
của họ, đồng thời tuân giữ lệnh truyền vĩnh viễn phải rao giảng. Tuy nhiên, các
quan điểm chung của Văn kiện phải được áp dụng với sự thận trọng và phân định
sáng suốt trong bối cảnh thực tế phức tạp của Châu Á. Được sinh động bởi văn kiện
mục vụ rất soi sáng này, sứ vụ đầy thách thức của Đối thoại liên tôn và Rao giảng
chắc chắn có thể được thúc đẩy xa hơn.
Chuyển ngữ: Lm
Đaminh Ngô Quang Tuyên
Từ: Tập san Pro Dialogo số
167 (LVI) 01/2021 của Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn, link tại dimmid.org
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 136 (Tháng 7 & 8 năm 2023)
[2] Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn (Pontifical
Council for Interreligious Dialogue – viết tắt là PCID) là một cơ quan của giáo
triều Rôma, đã được thiết lập bởi ĐGH Phaolô VI ngày 19 tháng 5, 1964 với tên gọi
là ‘Văn phòng cho những người ngoài Kitô giáo’, sau này được ĐGH Gioan Phaolô
II đổi tên vào ngày 28 tháng 6, 1988.
[3] Văn kiện này của PCID có nhan đề: Dialogue and Proclamation: Reflection and
Orientations on Interreligious Dialogue and the Proclamation of the Gospel of
Jesus Christ, được công bố ngày 19 tháng 5, 1991 – Từ đây được viết tắt là
D&P, tại https://www.vatican.va/roman_curia/pontifical_councils/interelg/documents/rc_pc_interelg_doc_19051991_dialogue-and-proclamatio_en.html
[4] Xem DAP các số 2,3,9,10, 14–54 và 55–76. The
following two sections form the major part of the discussion on Dialogue and
Proclamation, respectively.
[7] Xem Jacques Dupuis, chủ biên, The Christian Faith in the Doctrinal Documents of the Catholic Church,
ấn bản 6, New York, Alba House, 1995, số 1031, 399.
Đây là bản thánh ca từ quyển Brihadaranyaka Upanisad, 1,3,28 của Ấn
giáo. Và Đại hội Thánh Thể Quốc tế lần thứ 38 tại Bombay, Ấn Độ, 1964.
[8] Xem D&P, số 1, cũng nhắc đến tầm quan trọng của
việc rao giảng bên cạnh việc đối thoại trong NA số 2.
[9] Theo số liệu cuộc điều tra dân số năm 2011 của Ấn Độ.
Xem https://en.wikipedia.org/wiki/Religion_in_India;
truy cập ngày 12 tháng 1, 2021.
[10] Những lời phát biểu này – được gợi hứng bởi Gaudium et Spes,số 35 – được trích từ
“The Final Statement of the 7th Plenary Assembly of the Federation
of Asian Bishops’ Conferences (FABC), Samphran, Thailand, 3-12 tháng 1, 2000,
Phần I, n.5; bản văn đầy đủ có thể truy cập tại: https://www.ucanews.com/story-archive/?post_name=/2000/04/11/final-statement-of-seventh-fabcplenary-assembly&post_id=1116#accessed on January 12, 2021.
[22] Lấy từ một bài giảng của ĐTC ngày Chúa nhật,
12-3-2000, được Hồng y Blasé J. Cupich dẫn trong “Evangelization: What is it?
What is it not?”, có thể truy cập tại: https://www.chicagocatholic.com/cardinal-blase-j.-cupich/-/article/2018/02/07/evangelization-what-is-it-what-is-it-not-
[23] Để biết thêm chi tiết về lịch sử Kitô giáo tại Ấn Độ,
xem John Dayal, Dominic Emmanuel và Francis Gonsalves, “Christians in India,”
trong The Other Side: Redefining Bharat,
ed., idem., New Delhi, Vitasta and Times Group Books, 2012, tr. 1-32.
[24] Chẳng hạn, xem Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng của ĐGH
Gioan Phaolô II năm 1999, Ecclesia in
Asia, ch. I và số 20.
[26] Xem Falcao, Nelson. The Kristapurana of Tomas Stephens, S.J. (15491619) – An EnglishTranslation. Kristu Jyoti College,
Bangalore 2012 và The Kristapurana of
Tomas Stephens, S.J. (1549-1619) – A
Marathi Translation. Kristu Jyoti College, Bangalore 2009. Gioan Phaolô II,
Tông huấn Ecclesia in Asia, ch.1 và số
20 trích dẫn Giovanni da Montecorvino, Matteo Ricci và Roberto de Nobili.
[27] Xem chi tiết tại: https://religiondocbox.com/65950006-Christianity/Consultation-on-evangelization-and-inculturation.html;
truy cập ngày 13-1-2021
[28] Các giá trị này được thấy trong Văn kiện về Tình Huynh đệ Nhân loại cho Hòa bình Thế giới và Sống Chung,
được ký chung bởi Đức giáo hoàng Phanxicô và lãnh tụ Hồi giáo Ahmad Al-Tayyeb của
Al-Azhar, ngày 4-2-2019. Bản văn được truy cập tại: http://www.vatican.va/content/francesco/en/travels/2019/outside/documents/papa-francesco_20190204_documento-fratellanza-umana.html;
truy cập ngày 13-1-2021.
[29] Xem Báo cáo của Ngân hàng Thế giới 2018. Đại dịch
Covid-19 đã làm cho tình hình này còn tồi tệ hơn.
[32] Hội nghị 8 của “Viện Giám mục về Truyền thông Xã hội”
(BISCOM VIII), Tuyên bố chung, Bangkok, Thái Lan, 3–9 tháng 9, 2012.
[33] ĐGH Gioan Phaolô II, Diễn từ cho các Giám mục Châu Mỹ Latinh, 1983.