ĐỂ TÂN-PHÚC-ÂM HÓA ĐỜI SỐNG
GIÁO XỨ
Gm. Giuse Trần Xuân Tiếu
WHĐ (23.6.2020) –
Để hưởng ứng công cuộc Tân-Phúc-âm hóa đời sống giáo xứ, có rất nhiều việc phải
làm, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. Tất cả đều cần thiết. Nhưng việc trực tiếp
canh tân gia đình, giáo xứ sao cho công cuộc loan báo Tin mừng, với cung cách mới
mẻ, khả thi và hiệu quả nhất, phải được coi là việc làm hết sức thiết yếu.
Xin phép được
trích lại nơi đây lời dạy về Tân-Phúc-âm hóa trong Thư chung gửi Cộng đồng Dân
Chúa của Hội đồng Giám mục Việt Nam “Hội
thánh Công giáo tại Việt Nam và công cuộc Tân Phúc-âm-hóa” (năm 2013), số
4. Trong đó, theo tinh thần của Thư chung, chúng ta có thể thích ứng để lập luận
thật rõ ràng rằng: công cuộc Tân-Phúc-âm hóa được nói đến nơi đây, không phải
là một hoạch định gì quá mới mẻ như thể chúng ta có một Đức Giêsu Kitô khác để
loan báo; cũng không phải là một hoạch định gì quá mới mẻ như thể chúng ta có một
Phúc âm mới để rao giảng. Bởi lẽ, “Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như
hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời” (Dt 13,8).
Tuy nhiên, Thư
chung rất muốn công cuộc Tân-Phúc-âm hóa phải có cái mới. Đó là: “... mới về
lòng nhiệt thành, mới trong phương pháp, và mới trong cách diễn tả”[1].
“mới về lòng nhiệt thành là làm mới lại tương
quan giữa bản thân chúng ta với Đức Giêsu Kitô, để mối tương quan ấy hướng dẫn
toàn bộ đời sống chúng ta. Mới trong phương pháp là biết vận dụng những phương
pháp thích hợp để đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng của thời đại về nhiều mặt,
văn hóa, xã hội cũng như kỹ thuật. Mới trong cách diễn tả là cố gắng nghiên cứu
và sử dụng những cách diễn tả phù hợp, để con người hôm nay có thể hiểu và lĩnh
hội được sứ điệp Phúc âm”[2].
GIỚI THIỆU MÔ HÌNH THAM GIA ĐỒNG TRÁCH NHIỆM
Để có thể “mới về
lòng nhiệt thành, mới trong phương pháp, và mới trong cách diễn tả” đối với
công cuộc canh tân gia đình, giáo xứ trong định hướng loan báo Tin mừng, từ những
hướng dẫn của Giáo hội, tôi có thể khẳng định rằng một cơ cấu lãnh đạo nào
trong Giáo hội, nếu muốn thích đáng, thì đều phải có tính cách tham gia và san
sẻ trách nhiệm chung (đồng trách nhiệm) với vị mục tử.[3]
Mô hình tham gia
đồng trách nhiệm là mô hình gồm những thành viên sống tích cực trong gia đình của
Chúa: gia đình giáo xứ, gia đình giáo phận...
Rảo qua các hướng dẫn
Xét như là những
môn học đích thực, khoa học xã hội hay tự nhiên thì các môn học nhà đạo - trong
đó môn quản trị giáo xứ, gia đình giáo xứ, chiếm một vị trí thực sự quan trọng
trong việc xây dựng giáo hội địa phương - quả đã là những bộ môn được không ít
người yêu thích, say sưa nghiên cứu. Tuy nhiên, các môn học nhà đạo nói chung,
môn quản trị giáo xứ nói riêng...
“... không chỉ là một khoa học, mà còn là một nghệ
thuật. Khoa học quản trị về mục vụ cung cấp những nguyên tắc vàng trong ứng xử
(đối nhân) và trong công việc (theo sự). Nghệ thuật khéo léo, uyển chuyển “nhiều
hay ít” trong lãnh vực mục vụ sẽ giúp đưa những nguyên tắc vàng đến thành công
trong hiện thực nhiều hay ít. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở điểm này thôi thì những
hành vi đó vẫn chưa thể gọi là hành vi quản trị mục vụ - dù rằng tác nhân vẫn
đang quanh quẩn trong lãnh vực mục vụ. Mục vụ quản trị và quản trị mục vụ, trước
hết và trên hết, phải được nhìn trong chiều kích ân huệ, ân sủng, đặc sủng...
mà Thiên Chúa tình yêu phú ban cho loài người”[4].
Thế nên, với ơn của
Chúa, không chỉ có giáo sĩ mà cả tu sĩ và giáo dân đều có thể và phải tham gia
vào sự lãnh đạo duy nhất trong Giáo hội, sự lãnh đạo của Chúa Kitô Mục Tử Nhân
Lành.
Công đồng Vatican
II đã tận lực kêu mời tất cả các giáo dân hãy quảng đại, mau mắn đáp lại tiếng
Chúa Kitô mời gọi, cũng như hưởng ứng đà thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.[5] Công
đồng nhắc đi nhắc lại lời kêu mời này trong nhiều văn kiện.[6]
Sắc lệnh về tông đồ giáo dân (Apostolicam
actuositatem) viết: “... các Kitô hữu giáo dân giữ một phận vụ cá biệt và
thiết yếu trong sứ mệnh của Giáo hội”.[7] Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới
ngày nay (Gaudium et spes) lên tiếng
khẳng định:
“Giữa những phận vụ sinh động cần được thi hành
trong đời sống Giáo hội toàn thể, không những người giáo dân có sứ mạng đưa
tinh thần Kitô giáo thấm đượm vào trong thế giới, mà còn được kêu gọi để làm chứng
cho Đức Kitô trong mọi hoàn cảnh, ngay giữa lòng cộng đoàn nhân loại”[8].
Tông huấn Kitô hữu giáo dân còn đưa ra nhận định rất hay là: việc giáo dân
được tham gia vào các hội đồng cố vấn sẽ thực sự giúp cho tiến trình phục vụ,
tham khảo...
“... cũng như nguyên tắc hợp tác mà trong một số
trường hợp có thể bao gồm cả những thể thức để lấy quyết định được áp dụng cách
rộng rãi và kiên định hơn”[9].
Việc giáo dân
tham gia như thế còn giúp chính giáo dân ý thức rõ ràng Giáo hội là tất cả dân
Chúa chứ không phải là của riêng các giáo sĩ, và cũng giúp một số giáo sĩ biết
tránh thái độ cư xử kiểu “chủ nhân ông”. Bởi thật ra, các ngài cũng chỉ là những
người phục vụ trong cương vị quản lý.
Mọi Kitô hữu -
giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân - cần ý thức rằng, nếu biết trân trọng đủ những thiện
chí và tài năng của giáo dân thì những bổn phận, tác vụ chăm lo cho các linh hồn
và quản lý tài sản của Giáo hội sẽ trở nên dễ dàng và hữu hiệu hơn rất nhiều.
Chính vì vậy mà Tông huấn Kitô hữu giáo dân, thành quả của
Thượng Hội đồng Giám mục năm 1987, đã được coi là hiến chương của giáo dân. Bởi
lẽ, một cách lý tưởng, những người đã lãnh nhận các bí tích khai tâm Kitô giáo
và sống tinh thần của các bí tích này - một cách cơ bản hoặc tối thiểu: những
người đã lãnh nhận bí tích Thánh tẩy - là những người đứng ở mặt trận tiền
phong trong đời sống của Giáo hội. Nhờ các vị này,
“Giáo hội trở nên nguyên lý sự sống cho xã hội
loài người. Vì thế, chính họ phải ý thức ngày càng rõ rệt là họ không những thuộc
về Giáo hội mà là Giáo hội, nghĩa là cộng đồng các tín hữu trên mặt đất, dưới sự
hướng dẫn của vị thủ lãnh chung là đức giáo hoàng và các giám mục hiệp thông với
ngài. Họ là Giáo hội”[10].
Để chu toàn sứ mệnh
“những người đứng ở mặt trận tiền phong”, trước hết giáo dân phải thực sự nên
thánh theo ơn gọi và thể cách riêng của mình, phải biết sống hiệp thông với
Giáo hội và áp dụng những ân huệ của Thánh Thần để phụng sự Giáo hội Chúa và phục
vụ mọi người. Trong việc xây dựng sự hiệp thông trong Giáo hội, điều hiển nhiên
cần quan tâm xây dựng là tích cực củng cố, bồi đắp vào sự hiệp thông giữa các
thành phần trong Giáo hội, trong dân Chúa theo mọi chiều kích khả dĩ. Thật vậy,
Giáo hội là của mọi người tín hữu...
“... nên mọi thành phần trong Giáo Hội đều phải
liên kết với nhau và cùng chia sẻ trách nhiệm. Vẫn biết không dễ gì hiện thực
ngay được ý thức đó trong đời sống, thế nhưng, đây lại chính là điều cần làm
ngay”[11].
Trong một môi trường
như thế, các Kitô hữu sẽ dễ cảm nhận cách sống động hơn: mình thực sự là phần tử
của Giáo hội. Nhờ thế, ai nấy đều có thể coi công việc của Giáo hội nói chung,
giáo phận và giáo xứ của mình nói riêng, là công việc của chính bản thân mình.
Và vì vậy, trên cơ sở giáo luật, Kitô hữu giáo dân cần tham gia vào việc điều
hành giáo xứ cách thích đáng nhất có thể.
Mà thật thế, vì một
giáo xứ luôn có địa bàn mục vụ và cộng đoàn mục vụ với các đơn vị cơ bản là
giáo họ, giáo khu,[12]
liên gia,[13] gia
đình... nên chính người giáo dân thuộc các địa bàn này phải tự ý thức tham gia
cách tích cực hoặc được mời gọi tham gia trước nhất vào việc điều hành giáo xứ
của mình. Để thống nhất, động viên, hướng dẫn đời sống đức tin của cộng đoàn
giáo xứ, việc tổ chức và điều hành mục vụ tại giáo xứ cần dựa trên những định
hướng rõ rệt qua các hội đồng, hội đoàn, các ban chuyên trách mà tuyệt đại đa số
các thành viên chính là những giáo dân.
Trong khi đó,
giáo luật cũng nói rất rõ về vai trò của vị linh mục chánh xứ, chủ chăn riêng của
giáo xứ. Linh mục chánh xứ là:
“Chủ chăn riêng của giáo xứ đã được giao phó, và
thi hành việc săn sóc mục vụ của cộng đoàn được ủy thác dưới quyền của giám mục
giáo phận, vì được gọi thông phần với giám mục vào tác vụ của Đức Kitô, ngõ hầu
chu tất nhiệm vụ giảng dạy, thánh hóa và quản trị đối với cộng đoàn ấy, với sự
cộng tác của các linh mục khác hoặc với các phó tế và cả sự hợp lực của các
giáo dân, theo quy tắc luật định”[14].
Thật vậy, Huấn thị
về một số vấn đề liên quan đến sự hợp tác của các tín hữu không có chức thánh
vào tác vụ của các linh mục cũng đã được ban hành ngày 15 tháng 8 năm 1997, nhằm
giúp thăng tiến sự hợp tác lãnh đạo trong hội đồng, hội đoàn giáo xứ.[15]
Huấn thị này là một
bước tiến trong quá trình thực hiện lời Công đồng Vatican II mời gọi canh tân
Giáo hội bằng sự tham gia tích cực và hiệu quả hơn của giáo dân vào những công
tác mục vụ phong phú, đặc biệt là lãnh đạo mục vụ.[16]
Thế nên, khi luận
bàn về vai trò quản trị (hay đúng hơn là hoạt động lãnh đạo mục vụ) của vị mục
tử, tiến sĩ Manickavasagam[17] đã
ví vị mục tử giống như “... người điều
khiển một dàn nhạc giao hưởng. Ngài không cần phải biết chơi từng nhạc cụ. Tuy
nhiên, ngài phải biết khi nào có những thanh âm chỏi ra...”[18].
Vậy các nhạc công
là ai, nếu không phải là những tín hữu, cách riêng những Kitô hữu giáo dân, những
người đã, đang và sẽ sử dụng nhiều loại nhạc cụ khác nhau để tham gia hòa tấu
bài ca đức ái Kitô giáo. Giáo dân là những thành viên không thể thiếu; họ cần
tích cực tham gia vào dàn nhạc quản trị giáo xứ.
Tham gia vào việc quản trị giáo xứ
Trong chiều kích
Giáo hội là thân mình mầu nhiệm của Đức Kitô, mọi Kitô hữu, giáo dân hay giáo
sĩ, đều có thể tham gia vào sự lãnh đạo duy nhất của Chúa Kitô, Đấng là Đầu của
thân mình mầu nhiệm đó. Chính Ngài là Đường, là Sự thật, và là Sự sống cho những
ai muốn đến cùng Thiên Chúa Cha. Thật vậy, thánh Tôma đã từng thưa với Đức
Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được
đường?”,[19] và
chính Chúa Giêsu đã trả lời: “Chính Thầy
là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua
Thầy. Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy...” (Ga 14,6-7).
Với ý thức rằng
giáo xứ là một cộng đoàn tín hữu được thiết lập cách bền vững ở trong giáo hội
địa phương, và việc săn sóc mục vụ được ủy thác cho một linh mục làm chủ chăn
riêng, dưới quyền của giám mục giáo phận,[20] người
giáo dân càng có bổn phận phải cùng với vị chủ chăn riêng của mình mà tham gia
tích cực vào việc quản trị giáo xứ. Do bí tích Thánh tẩy và bí tích Thêm sức,
các Kitô hữu giáo dân cũng được Thiên Chúa sai đi làm việc tông đồ. Thật vậy,
tín hữu giáo dân...
“... hoặc đứng riêng rẽ từng người hoặc tập họp
trong các đoàn thể, có nghĩa vụ chung và quyền lợi phải ra sức làm cho mọi người
trên khắp hoàn cầu hiểu biết và đón nhận Tin mừng cứu độ của Thiên Chúa; nghĩa
vụ này còn cấp bách hơn trong những trường hợp mà chỉ nhờ họ người ta mới có thể
nghe Tin mừng và nhận biết Đức Kitô”[21].
Nghĩa là, theo địa
vị riêng trong môi trường sống của mình, các Kitô hữu giáo dân còn có nhiệm vụ
đặc biệt là làm cho trật tự các thực tại trần thế thấm nhuần tinh thần Phúc âm.
Thật vậy, tín hữu giáo dân có bổn phận và cũng là ưu thế để “... làm chứng cho Đức Kitô cách đặc biệt trong
việc điều hành những thực tại trên và trong việc thi hành những nghĩa vụ trần
thế”[22].
Tại những nơi thiếu
linh mục, chính người giáo dân điều khiển việc cử hành phụng vụ lời Chúa, làm
thừa tác viên Thánh Thể, thừa tác viên bí tích Thánh tẩy, bí tích Hôn phối,
tuyên úy bệnh viện, nhà tù.[23]
Trong các hội đồng,
hội đoàn thuộc giáo xứ, người giáo dân tích cực sống ơn gọi làm người Kitô hữu
giáo dân của mình, góp phần điều hành giáo xứ, đồng cảm, chia sẻ, nâng đỡ
nhau... nâng cao trình độ phục vụ, giúp nhau thực hiện những công tác mục vụ
như: thăm bệnh nhân, tiếp xúc với anh chị em tôn giáo bạn, ủy lạo người nghèo,
nâng đỡ người khô khan yếu đuối, bảo trì, tu dưỡng, làm vệ sinh những nơi thờ
phượng, giữ xe cho người tham dự thánh lễ...[24] Những việc
làm đầy ý thức như thế, trong cái nhìn của thần học về giáo hội địa phương, đã
thực sự đưa người giáo dân vào vai trò lãnh đạo hợp tác.
“Những hiện thân hay những thể hiện địa phương
này xây dựng nên Giáo hội từ phía hạ tầng. Họ được liên kết với Giáo hội rộng lớn
hơn qua sự hiện diện phẩm trật và việc bổ nhiệm các mục tử, nhưng tự thân họ
chính là dân thánh của Thiên Chúa (plebs sancta), một cộng đoàn bao gồm cả linh
mục và giáo dân”[25].
Tương quan trong việc lãnh đạo giáo xứ
Một trong những
tương quan rất tế nhị giữa giáo dân và giáo sĩ thường bị hiểu sai: mối tương
quan giữa ban thường vụ hội đồng mục vụ giáo xứ và vị linh mục chính xứ của họ.
Hay nói sát hơn, mối tương quan giữa cha xứ và ông hoặc bà chủ tịch hội đồng mục
vụ giáo xứ thường không được hiểu cho đến nơi đến chốn.
Thật ra, nhiệm vụ
của linh mục chính xứ là: “... chủ chăn riêng của giáo xứ”, chịu trách nhiệm hướng
dẫn tinh thần và sinh hoạt mục vụ của giáo xứ. Theo đó, linh mục chính xứ:[26]
● nên mời
linh mục phụ tá và đại diện các tu sĩ tham gia vào sinh hoạt của hội đồng mục vụ
giáo xứ;[27]
● phải là người chủ trì và chịu trách nhiệm về các
phiên họp, các cuộc sinh hoạt của hội đồng mục vụ giáo xứ (khi vắng mặt, có thể
ủy nhiệm cho linh mục phụ tá hoặc cho vị chủ tịch hội đồng mục vụ giáo xứ);[28]
● cần tạo bầu khí đối thoại, trợ lực, hiệp thông và
hợp tác lành mạnh: “thống nhất trong điều chính, tương nhượng trong điều phụ,
bác ái trong mọi sự”;[29] tiếp
nhận, duyệt xét và phê chuẩn những kiến nghị được đa số các thành viên tán
thành (tôn trọng đúng mức tính tư vấn của hội đồng mục vụ giáo xứ);[30]
● hãy lo liệu việc huấn luyện và bồi dưỡng cho các
thành viên hội đồng, hội đoàn trong giáo xứ về phương diện thiêng liêng, nhân bản,
chuyên môn nhằm nâng cao năng lực phục vụ và làm việc tập thể; nhờ đó, góp phần
hoàn thành sứ mệnh yêu thương và phục vụ;
● nên chuyển dần sự lãnh đạo và điều hành của mình
trong tư cách là chủ chăn riêng của giáo xứ được giám mục giáo phận trao phó:[31] từ
truyền lệnh sang chỉ dẫn, kế tiếp là trợ lực, sau cùng là ủy thác nhằm tạo nhiều
thuận lợi cho các thành viên hội đồng mục vụ giáo xứ, để các vị ngày càng có thể
chủ động và tích cực hơn trong việc góp phần xây dựng giáo xứ.[32]
Trong khi đó,
ngoài nhiệm vụ chung của ban thường vụ,[33] vị
chủ tịch hội đồng mục vụ giáo xứ là người cùng với linh mục chính xứ và dưới sự
hướng dẫn của ngài mà:
● chịu
trách nhiệm chung về hội đồng mục vụ giáo xứ trong việc lãnh đạo và điều hành,
hoạch định chương trình mục vụ... để giáo xứ được thăng tiến trong chính sứ vụ
của giáo xứ;
● quán
xuyến cách tổng quát mọi sinh hoạt mục vụ, động viên cộng đoàn giáo xứ, cách
riêng các thành viên hội đồng mục vụ, nhất là các thành viên ban thường vụ, nhằm
tạo bầu khí đối thoại, hiệp thông, hợp tác lành mạnh...;
● khi
được uỷ nhiệm của linh mục chính xứ, chủ trì các phiên họp của hội đồng mục vụ
giáo xứ, các buổi sinh hoạt của ban thường vụ;
● thay
mặt cho cộng đoàn giáo xứ trong những trường hợp được ủy nhiệm, nhưng không có
quyền đồng thuận những gì trái nghịch quyền lợi của giáo xứ.[34]
Và vì hiểu không
đúng, chuyện “trống đánh xuôi kèn thổi ngược” vẫn hay xảy ra, thay vì cùng nhau
hòa tấu, thay vì cùng nhau hợp tác lãnh đạo, thay vì cùng nhau làm thể hiện
giáo xứ... để giáo xứ làm hiện hữu Giáo hội toàn cầu. Các giáo xứ... “thể hiện”,
làm hiện hữu Giáo hội toàn cầu. Các giáo xứ hiện thực hoá Giáo hội, đặc biệt
khi tín hữu đoàn cùng với vị mục tử của mình cử hành bí tích Thánh Thể vào ngày
Chúa nhật.[35]
Từ một góc nhìn
căn bản mà nói, vị chủ tịch hội đồng mục vụ giáo xứ có thể được phép điều hành
các buổi họp của hội đồng mục vụ giáo xứ; trong khi đó, vị linh mục chính xứ mới
là người chủ tọa các buổi họp của hội đồng, và chính ngài mới có quyền triệu tập
các buổi họp.[36]
Thế nhưng, tại một
số giáo xứ, nơi các vị mục tử thường được đặt lên đài cao và “nền văn hóa nể trọng”
tạo ảnh hưởng mạnh mẽ đến dân chúng, đôi khi tổ chức giáo xứ vẫn được coi như một
“chế độ độc tài thiện tâm”.[37] Điều
này hàm ý rằng cách tổ chức ấy có thể phục vụ tốt về mặt truyền thống, nhưng lại
có vẻ không thích hợp dưới con mắt của giáo dân ngày nay.
Do đó, theo giáo
huấn của Giáo hội, việc đề xuất mô hình tham gia đồng trách nhiệm là rất thích
hợp đối với việc lãnh đạo giáo xứ, là hữu dụng một cách cần thiết. Tin tưởng
vào sự hiện diện của Thiên Chúa và hoạt động của Chúa Thánh Thần trong Giáo hội,
đề xuất này sẽ nêu ra những quan điểm về mô hình lý tưởng của một giáo xứ.[38]
Mô hình tham gia
đồng trách nhiệm muốn: (1) chứng tỏ sự cần thiết phải giao các trách nhiệm giáo
luật và mục vụ vào tay vị mục tử, trong khi chia sẻ (tối đa có thể) quyền hạn
cho các hội đồng và các hội đoàn trong giáo xứ; (2) tập trung giáo xứ vào công
tác mục vụ với những chủ điểm Thánh kinh đặc biệt liên quan đến trách vụ của vị
mục tử; (3) đưa ra một cách hiểu tốt hơn về các cơ hội phục vụ nhằm cổ võ giáo
dân tham gia thích đáng vào các hoạt động giáo xứ; và (4) củng cố hội đồng mục
vụ giáo xứ bằng sự tham dự của đại diện mọi thành phần dân Chúa, đặc biệt là sự
tích cực tham gia của mọi hội đồng, hội đoàn trong giáo xứ với tinh thần đồng
trách nhiệm.
Trách nhiệm giáo luật và mục vụ
Trong một tổ chức
có phẩm trật như Giáo hội Công giáo, ta có thể nhận ra một số yếu tố của sự
tham gia dân chủ. Mô hình tham gia đồng trách nhiệm (cơ cấu dân chủ theo Giáo hội)
sau đây có những ưu điểm so với ba cơ cấu: cơ cấu chuyên quyền, tức “mô hình kim
tự tháp”;[39] cơ
cấu quy hợp, tức “mô hình quá dân chủ”;[40] và cơ cấu
cộng đồng, tức “mô hình dân chủ thế tục”.[41]
Mối tương giao
căn bản giữa vị mục tử với mọi thành viên trong giáo xứ, chủ yếu được kiến tạo
qua các hội đồng, hội đoàn giáo xứ, sẽ được hiện thực hóa trong mô hình tham
gia đồng trách nhiệm.
Cơ cấu chuyên quyền
Cơ cấu chuyên quyền,
cơ cấu mang tính cách truyền thống nhất trong ba cơ cấu nói trên, không phải
lúc nào cũng hàm chỉ sự độc đoán mặc dù người ta dễ dàng nhận thấy cơ cấu
chuyên quyền hợp với việc quản trị hơn là việc lãnh đạo.
“Quản trị là thực hiện những hoạt động và nắm vững
các thông lệ, trong khi lãnh đạo là gây ảnh hưởng lên người khác và tạo ra những
lối nhìn hướng đến sự thay đổi”[42].
Cơ cấu này không
phải lúc nào cũng tạo ra tình trạng lãnh đạm và não trạng “độc đoán-chuyên quyền”
kiểu “tôi-nó” trong một giáo xứ. Hội đồng Giáo xứ và lãnh đạo các hội đoàn, đặc
biệt là vị mục tử, duyệt xét các vấn đề hay các vụ việc được trình bày và đưa
ra quyết định riêng.[43] Các
thành viên trong các hội đồng, hội đoàn giáo xứ sẽ phải thực hiện những nhiệm vụ
cần thiết như đã được các vị lãnh đạo của họ ấn định.
Thật ra, cơ cấu
chuyên quyền rất hiệu quả trong những cộng đồng sống theo truyền thống; kính trọng
và vâng nghe vị lãnh đạo xét vì địa vị của ngài và vì truyền thống. Đó là một
nét đặc trưng của “nền văn hóa nể trọng”.[44] Tức là những
luật lệ của cộng đồng được truyền lại và được chấp nhận như tập tục. Các vai
trò được định sẵn từ trước. Loại hình lãnh đạo này vẫn có thể có chiều kích thiết
yếu trong công tác mục vụ và không nên bị coi thường.
Tuy nhiên, trong
một cộng đồng như thế, thành công phần nhiều tùy thuộc vào trách nhiệm của người
lãnh đạo. Ngài chỉ thành công nếu như may mắn có được một tầm nhìn tinh tường
và vạch ra được một sứ mệnh rõ ràng cho giáo xứ. Châm ngôn “Ở đâu không thấy, ở
đấy người ta chết” xem ra rất đúng cho cơ cấu này, tức là cơ cấu kim tự tháp.[45]
Cơ cấu quy hợp
Cơ cấu quy hợp có
sự khác biệt rất lớn so với cơ cấu kim tự tháp ở trên. Trong mọi hình thức của
cơ cấu này luôn có yếu tố hợp tác lãnh đạo. Dường như cơ cấu này dành cho các
phần tử một tiếng nói lớn hơn tiếng nói của vị mục tử; đề xuất của vị mục tử và
của các người lãnh đạo các hội đồng, hội đoàn thường có trọng lượng tương đương
như nhau. Tuy nhiên, ngay trong trường hợp này, nếu như vị mục tử có tài năng xứng
hợp cũng như nhiều kinh nghiệm, sự lãnh đạo của ngài sẽ ít gặp nguy cơ bị thách
thức.
Như thế, trong một
cộng đồng giáo xứ có cơ cấu quy hợp, khả năng cùng với kinh nghiệm sống của vị
mục tử là điều rất quan trọng, không những vì vị trí lãnh đạo của ngài mà còn
vì tính hiệu quả của các hoạt động của giáo xứ nữa.
Do đó, cơ cấu này
cũng có những thuận lợi và bất lợi. Chẳng hạn, một trong những thuận lợi là các
quyết định được thông qua bằng sự đồng thuận nhờ đối thoại và dung hòa cho đến
khi đạt được một giải pháp khả thi.[46] Vị mục tử
của một giáo xứ có thể nhận thấy cơ cấu quy hợp thực ra là một hình thức cùng
hoạt động “cách dân chủ”.
Còn điểm bất lợi
là ý kiến của tất cả các thành viên liên quan đến mọi vấn đề thông thường sẽ
không được cứu xét kịp thời cách hiệu quả và thực tế. Phải mất quá nhiều thời
giờ và sức lực cho các buổi họp, chẳng còn lại bao nhiêu để thể nghiệm các công
việc thực sự.
Ngoài ra, việc phối
hợp các tác vụ khác nhau sẽ rất khó khăn vì ai nấy hoạt động “độc lập”. Hơn nữa,
chỉ vị mục tử nào có tài lãnh đạo và có thể hướng dẫn thành công vấn đề tinh thần
bằng gương sáng mới có thể hoạt động trong một giáo xứ có cơ cấu quy hợp. Mô
hình này có thể được gọi là một mô hình quá dân chủ.
Cơ cấu cộng đồng
Một giáo xứ với
cơ cấu cộng đồng, ban đầu, có thể được nhìn nhận như một đoàn dân được Thiên
Chúa tuyển chọn cách “nhưng không”, như một cộng đồng đức tin đích thực trong một
Thánh Thần, một đức tin, một phép rửa.[47] Những người
đề xướng cơ cấu này tin rằng không thể nào điều hành một giáo xứ như một công
ty hoặc như một thể chế dân chủ.
Cơ cấu cộng đồng
sẽ sinh hiệu quả trong điều kiện vị mục tử được tôn kính như người đại diện
đích thực của Chúa Kitô. Mục tử và giáo dân phải tôn trọng vị trí của mỗi người
trong cộng đồng đã được Thiên Chúa ban. Mục đích của họ là hoạt động cho Thiên
Chúa và nước của Ngài nhờ mọi người trong cộng đồng. Là Đức Kitô khác (Alter Christus), vị mục tử phải tỏ ra
tinh tế trước những nhu cầu của dân chúng.
Cơ cấu cộng đồng
đòi phải có sự lãnh đạo mục vụ và liên hệ hỗ tương giữa các thành phần dân
Chúa, các hội đồng, hội đoàn giáo xứ. Giáo xứ cần sự hỗ trợ của nhiều khả năng,
tài lực và phục vụ khác nhau của giáo dân trong giáo xứ, nam cũng như nữ, để hoạt
động theo một kế hoạch chung. Như thế hoạt động của nhiều người phải được điều
phối bởi sự liên lạc cởi mở giữa vị mục tử với các thành viên của các hội đồng,
hội đoàn giáo xứ. Trong quá trình phân định tại các cuộc họp của hội đồng, hội
đoàn... vị mục tử tham gia các cuộc thảo luận không những như một thành viên,
mà hơn thế, còn như một người có quyền phê chuẩn, “đồng thuận” với các quyết định
được đưa ra trong những phiên họp ấy.[48]
Trong cơ cấu này,
vị mục tử cần thấu hiểu các nhu cầu của giáo xứ để có thể giữ gìn sự hiệp thông
đúng mức với giáo phận, sao cho giáo xứ tự nhận thức là một cộng đồng nhỏ bé và
tùy thuộc trong giáo hội lớn hơn và độc lập hơn (giáo phận), và cả với Giáo hội
phổ quát.[49] Vị
mục tử cần có sự khôn ngoan và ân sủng nhiều hơn các người lãnh đạo khác. Ngài
phải biết cách làm việc với những người có tâm tánh dị biệt và không có cùng
hoàn cảnh như nhau.
Cả ba cơ cấu đều không hoàn hảo
Trên lý thuyết lẫn
thực hành, những kết quả thuộc lãnh vực mục vụ trong ba cơ cấu trên đều không
thể hoàn hảo, không thể hoàn toàn chắc chắn như lẽ thường giáo huấn Giáo hội
trông đợi.
Cơ cấu chuyên quyền
hình kim tự tháp không bao giờ có thể là mô hình tốt nhất đối với một giáo xứ,
xét như một cộng đồng, nơi mọi người đều bình đẳng trước mặt Thiên Chúa.
Về tính hiệu quả
cho các hoạt động giáo xứ, cơ cấu quy hợp cũng chẳng phải là một mô hình phù hợp
lắm đối với cộng đồng. Để có thể đưa ra một quyết định cần có sự đồng thuận, cơ
cấu này sẽ đòi hỏi quá nhiều thời gian cho hội họp.
Cơ cấu cộng đồng
cũng không thể là mô hình hoàn toàn lý tưởng đối với một giáo xứ, trừ phi mọi
người không những tích cực tham gia xây dựng giáo xứ mà còn biết rõ tầm quan trọng
về địa vị của vị mục tử và vì sao lại cần đến ngài. Hơn nữa, cơ cấu này cũng
đòi vị mục tử phải có sự khôn ngoan và ân sủng nhiều hơn các người lãnh đạo
khác để có thể sẵn sàng đón nhận sự hỗ trợ của nhiều tài năng khác.
Vì thế, cần thiết
phải tìm kiếm một cơ cấu phù hợp hơn cho tổ chức giáo xứ như một cộng đoàn đức
tin đích thực. Cơ cấu này phải: (1) “dân chủ”, (2) hợp tác, và (3) lấy vị mục tử
làm tâm điểm.
Tìm một mô hình từ ba cơ cấu nêu trên
Từ việc nghiên cứu
ba cơ cấu trên: cơ cấu chuyên quyền (mô hình kim tự tháp), cơ cấu quy hợp (mô
hình quá dân chủ), và cơ cấu cộng đồng (mô hình dân chủ trần thế), ta có thể thấy
nhiệm vụ quan trọng của vị mục tử lẫn giáo dân là phải làm thăng tiến giáo xứ của
mình như một tổ chức sao cho giáo xứ có thể được hưởng bầu khí “dân chủ” nhiều
nhất trong khi vẫn hiệu quả và mang tính hợp tác trong bản tính phẩm trật của
Giáo hội.
Sau đây là đề nghị
về một mô hình, được gọi là “mô hình tham gia đồng trách nhiệm”, cho tổ chức
giáo xứ. Mô hình này có đặc điểm độc đáo là giữ lại những trách vụ giáo luật và
mục vụ trong tay vị mục tử, trong khi chia sẻ quyền hạn tối đa cho các đại diện
thuộc các hội đồng, hội đoàn giáo xứ, tức là vào tay giáo dân.
Như thế, sự căng
thẳng có thể có giữa vị mục tử với những vị chủ tịch, những vị trưởng hoặc những
thành viên thuộc các hội đồng, hội đoàn có thể giảm xuống đến mức tối thiểu. Mặc
dù đặc ân “tác vụ bí tích” không miễn trừ cho vị mục tử khỏi phải ân cần luyện
tập các kỹ năng lãnh đạo (điều hành), nhưng mô hình tham gia đồng trách nhiệm
thể hiện một hình thức dân chủ của Giáo hội và nhìn nhận trách nhiệm đặc biệt của
vị mục tử trong mọi hoạt động mục vụ.
Thật vậy, các điều
khoản 515 §1 và 519 của giáo luật đã giải thích những trách nhiệm của vị mục tử
như người lãnh đạo tinh thần của một giáo xứ. Giám mục giáo phận ủy thác giáo xứ
ấy cho ngài như vị mục tử riêng. Với những trách nhiệm được giáo luật và quy chế
của giáo phận ban cho, vị mục tử phải là người chịu trách nhiệm chủ yếu trong
việc lãnh đạo mục vụ trong giáo xứ của ngài. Ngài là người:
● cử
hành bí tích Thánh tẩy;
● cử
hành bí tích Thêm sức cho những người đang nguy tử, theo quy tắc của điều 883,
số 3;
● ban Của
Ăn Đàng và cử hành bí tích xức dầu, tuy vẫn tôn trọng quy tắc của điều 1003,
triệt 2 và 3; và ban phép lành Tòa thánh cho các bệnh nhân;
● chứng
giám Hôn phối và làm phép cưới;
● cử
hành lễ nghi an táng;
● làm
phép giếng rửa tội trong mùa Phục Sinh, chủ sự các cuộc rước ngoài thánh đường,
ban phép lành trọng thể ngoài thánh đường;
● cử
hành thánh lễ cách trọng thể hơn trong các Chúa nhật và các ngày lễ buộc.[50]
Có thể nói chắc
chắn rằng mô hình tham gia đồng trách nhiệm là một cơ cấu thích hợp cho các
giáo xứ khi giáo huấn của Giáo hội về “giáo xứ là gia đình của Chúa” được hiểu
đúng, và dĩ nhiên, cả khi các vị mục tử biết sống theo mẫu gương Mục Tử tuyệt vời
của chính Chúa Kitô:
“Như mọi tín hữu khác, với tinh thần vâng lời của
người Kitô hữu, giáo dân cũng hãy mau mắn chấp nhận những điều mà các chủ chăn
có nhiệm vụ thánh đại diện Chúa Kitô, đã quyết định với tư cách là những thầy dạy
và những nhà lãnh đạo trong Giáo hội; làm như thế, giáo dân đã theo gương Chúa
Kitô, Đấng đã vâng lời cho đến chết, để mở đường hạnh phúc của sự tự do con cái
Thiên Chúa cho tất cả mọi người”[51].
Với mô hình tham
gia đồng trách nhiệm, giáo dân được mời gọi cầu nguyện cho các vị lãnh đạo của
mình, phó dâng các ngài cho Thiên Chúa để các ngài hoan hỉ thi hành nhiệm vụ
chăm sóc các linh hồn, nhiệm vụ mà các ngài sẽ phải trả lẽ.[52] Giáo dân
cũng rất cần phải thường xuyên cầu nguyện cho nhau, để mọi người có thể thực sự
sẵn sàng tham gia cách tích cực vào công việc chung. Đó phải là một sự tham gia
tích cực, chân thành... và luôn gắn bó chặt chẽ với vị mục tử là chủ chăn riêng
của mình.
“Phần các chủ chăn có chức thánh, các ngài phải
nhìn nhận và nâng cao phẩm giá và trách nhiệm của giáo dân trong Giáo hội, các
ngài nên sẵn sàng chấp nhận những ý kiến khôn ngoan của họ, tin cẩn giao cho họ
những công tác để họ phục vụ Giáo hội, cho họ tự do và quyền hạn để hành động;
hơn nữa, các ngài cũng nên khuyến khích họ tự đảm lấy trách nhiệm theo sáng kiến
của họ. Với tình cha con, các ngài hãy cẩn thận xem xét, trong Chúa Kitô, những
kế hoạch, thỉnh cầu, và khát vọng của họ (x. 1Tx 5,19 và 1Ga 4,1).
Đàng khác, các chủ
chăn phải nhìn nhận và tôn trọng sự tự do chính đáng của mọi người trong lãnh vực
trần thế”[53].
Để hướng giáo xứ
tập trung vào công tác mục vụ, vào sứ mệnh của giáo xứ, thành viên các hội đồng,
hội đoàn giáo xứ của mô hình tham gia đồng trách nhiệm sẽ phải nhận định xem
hình thức phục vụ nào hay sự thay đổi nào là thực sự cần thiết. Hiểu rõ những bổn
phận và trách vụ của mình, với sự đặc biệt coi trọng việc tham gia đầy đủ vào
các hoạt động của giáo xứ, họ cần quán xuyến những gì được giao phó, dưới quyền
của vị mục tử - người sẵn sàng chia sẻ quyền hạn cho họ.
Vị mục tử trong
mô hình này nên cố gắng làm các việc đúng hơn là làm đúng cách.[54] Thật
ra, là mục tử riêng, ngài được mong đợi không chỉ làm các việc đúng mà còn làm
các việc cho đúng cách nữa. Ngài thi hành tác vụ của mình theo gương Chúa
Giêsu:
“Chủ chăn tốt chính là Ta! Ta biết chiên của Ta,
và chiên của Ta biết Ta, như Cha biết Ta, và Ta biết Cha và Ta thí mạng sống Ta
vì đàn chiên. Ta còn những chiên khác nữa, không thuộc ràn này; các con chiên ấy,
Ta cũng phải chăn dắt, và chúng sẽ nghe tiếng Ta; và sẽ thành một đàn chiên, một
chủ chiên” (Ga 10,14-16).
THAY LỜI KẾT
Chính trong sự
chung sức chung lòng “chăm lo cho các linh hồn và quản lý tài sản của Giáo hội
mà bất cứ mô hình quản trị nào - cách riêng mô hình tham gia đồng trách nhiệm -
với tính chất tham gia và đồng trách nhiệm của mô hình, mới có sự hài hòa cần
thiết để hưởng ứng công cuộc “... Tân-Phúc-âm hóa đời sống giáo xứ. Tuy nhiên,
bởi ta không thể quên rằng: ... mọi ơn cứu độ chỉ có thể xuất phát từ Chúa Kitô
là Đầu và qua Thân Thể Người là Giáo hội”.[55] Theo
đó, để thực sự gọi là tham gia cách mạnh mẽ và góp phần hiệu quả to lớn hơn
trong việc xây dựng Giáo hội, với ước muốn mưu cầu ơn cứu độ mà Đức Giêsu Kitô
là Đầu đã thiết lập cho toàn thân, thì tính chất “đồng trách nhiệm” là cụm từ hết
sức cần thiết, để nhắc ta quy hướng mọi sự vào Vị Mục Tử Tối Cao là Đức Giêsu
Kitô. Với tinh thần đó, mô hình tham gia đồng trách nhiệm trong các hội đồng, hội
đoàn mời gọi sự tham gia cách thiết thực và góp phần cách hiệu quả trong việc
xây dựng sự hiệp thông, hiệp nhất trong các hội đồng, hội đoàn của “giáo xứ là
gia đình của Chúa”. Vậy để:
“... thực hiện những mục tiêu trên, xin anh chị
em hãy xây dựng gia đình (giáo xứ) mình thành một cộng đoàn cầu nguyện, sống
tình yêu hợp nhất thủy chung, phục vụ sự sống và hăng say loan báo Tin Mừng”[56].
Với bài chia sẻ
này về mô hình tham gia đồng trách
nhiệm, ta hãy thêm hai từ “giáo xứ” vào ngay sau hai từ “gia đình” để có công
cuộc Tân-Phúc-âm hóa đời sống giáo xứ một cách mới mẻ: “... xây dựng gia đình (giáo xứ) mình thành một cộng
đoàn cầu nguyện, sống tình yêu hợp nhất thủy chung, phục vụ sự sống và hăng say
loan báo Tin Mừng”.[57]
Trích Tập
san Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 90 (tháng 9
& 10 năm 2015)
[3] Đồng trách nhiệm qua việc khởi
đi từ, và luôn quy hướng về, vị Mục Tử (viết hoa) là chính Đức Giêsu Kitô.
Chính Người là vị Mục Tử mà mọi hoạt động trong Giáo hội đều phải quy hướng về,
và để những hoạt động ấy thực sự là mục vụ. Bởi lẽ, sự hợp tác, hiệp thông,
tham gia phục vụ là một trong những dấu chỉ đích thực của lãnh đạo học, quản trị
học trong Giáo hội.
[4] Tạ, Quản trị giáo xứ: Lãnh đạo hợp tác, Tập II, (nguyên tác: A Training Program to Promote Collaborative Leadership in a Parish Pastoral Council of
Vietnamese People (Washington, DC: The Catholic University of America,
2005), 3.
[6] Hiến
chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay (Gaudium et spes) đã lên tiếng phàn nàn tình trạng cách biệt giữa đức
tin các Kitô hữu tuyên xưng và cuộc sống thường nhật của một số người là một
trong những sai lầm trầm trọng của thời đại.
[11] X. Hội đồng Giám mục Việt
Nam, Đề cương Giáo hội tại Việt Nam: Mầu nhiệm – Hiệp thông – Sứ vụ (TP. Hồ Chí
Minh: Ban Tổ chức Năm Thánh 2010, 2008), 37 (số 20).
[12] Khi một giáo họ có số giáo
dân tập trung đông trên một địa bàn rộng thì thường được phân chia thành các
giáo khu để dễ dàng điều hợp công tác mục vụ.
[15] Muốn tìm hiểu nhiều hơn, xin
đọc tác phẩm A Training Program to
Promote Collaborative Leadership in a Parish Pastoral Council of Vietnamese
People (Chương trình huấn luyện giúp
thăng tiến sự lãnh đạo hợp tác trong hội đồng mục vụ giáo xứ của người Việt Nam)
của Ta (Washington, DC: The Catholic University of America, 2005), một tài liệu
hướng dẫn khá chi tiết đã được thực hiện ở một số nơi với hiệu quả rất khả
quan. Chương trình được sử dụng để huấn luyện các thành viên hội đồng, hội đoàn
giáo xứ, những người có chức thánh và những người không có chức thánh, tại các
giáo xứ, nơi mà nền “văn hóa nể trọng” ảnh hưởng rất lớn đến thái độ và hoạt động
của họ. Chương trình đào tạo này muốn cổ động và hỗ trợ tất cả các tham dự viên
dấn thân tích cực vào đời sống và sứ mệnh của giáo xứ (parish mission).
[16] Trước thời Công đồng Vaticanô
II, công tác mục vụ thường được coi là lãnh vực chuyên biệt của hàng giáo sĩ và
tu sĩ. Tuy nhiên, ngay cả sau Công đồng Vaticanô II, giáo dân Việt Nam tại các
giáo xứ, với nền văn hóa nể trọng các vị thẩm quyền, vẫn tránh né việc đưa ra
các sáng kiến mạnh dạn để tham gia và giúp các mục tử thực thi quyền lãnh đạo của
mình cho xứng hợp.
[17] Tiến sĩ Manickavasagam đã từng
là giáo sư môn Quản trị giáo xứ (PS 702:
Parish Management) tại Washington Theological Union (Washington DC) của Hoa
Kỳ.
[18] X. Joseph Manickavasagam, The Catholic Parish and Management Training (Washington
DC: Washington Theological Union, 2003), 23.
[23] Trong một mức độ nào đó, những
người giáo dân này đang thi hành chức vụ “tư tế, ngôn sứ và vương giả” của
mình.
[24] Ngoài ra, một số giáo dân còn
tham gia vào những công việc mà trước đây dường như chỉ giới giáo sĩ mới có khả
năng làm: suy tư và nghiên cứu thần học, dạy triết học, thần học, chú giải
Thánh kinh, cộng tác vào việc huấn luyện, đào tạo chủng sinh, tu sĩ, viết sách
báo thần học, tích cực hợp tác với các thừa tác viên có chức thánh để góp phần
chăm sóc mục vụ cho dân, nghiên cứu và đề nghị những hướng đi cho giáo hội địa
phương. Tại một số giáo phận, có giáo dân còn được bổ nhiệm làm chưởng ấn (chancellor) tại các tòa giám mục.
[25] James A. Coriden, The Parish in Catholic Tradition (Giáo xứ trong truyền thống Công giáo)
(New York: Paulist Press, 1997), 43.
[29] Câu Latinh nổi tiếng
này “In necessariis unitas, in dubiis
libertas, in omnibus caritas” được gán cho Thánh Âu Tinh là tác giả. Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã sử dụng câu này
trong Thông điệp Ad Petri cathedram (về
chân lý, hiệp nhất, bình an trong tinh thần bác ái), ban hành ngày 29 tháng 6
năm 1959.
[32] Ủy ban Giáo dân (HĐGMVN), Gợi ý cho một quy chế hội đồng mục vụ giáo xứ,
điều 13 (TP. HCM: UBGD, 2010); x. Bạn Hữu MTCĐ, Kitô hữu giáo dân với hội đồng mục vụ trong gia đình giáo xứ (TP. HCM: Nxb. Phương Đông, 2013),
156-8.
[33] Nhiệm vụ của ban thường vụ Hội
đồng Mục vụ Giáo xứ là: “Cộng tác chặt chẽ và thường xuyên
với linh mục chính xứ trong việc quản trị giáo xứ, ban thường vụ Hội đồng Mục vụ
giáo xứ cùng với linh mục chính xứ (và dưới sự hướng dẫn của ngài): (1) thực hiện
việc lãnh đạo và quản trị, tổ chức và điều hành giáo xứ (quan tâm đặc biệt đến
những vấn đề cấp giáo xứ); (2) soạn thảo chương trình nghị sự cho các phiên họp
của giáo xứ, kế hoạch mục vụ của từng dịp lễ (theo mùa), đề xuất những sáng kiến
mục vụ phù hợp với nhu cầu và hoàn cảnh của giáo xứ, trao đổi với các thành
viên liên hệ nhằm chuẩn bị cho việc phân công thực hiện, tích cực thi hành và
giúp người khác thi hành thật tốt các nghị quyết đã được phê duyệt; (3) phát
triển, nâng cao đời sống tôn giáo và xã hội của mọi người trong giáo xứ, đặc biệt
của những gia đình lâm cảnh túng nghèo và những người bị bỏ rơi” (Ủy ban Giáo
dân, Gợi ý cho một quy chế Hội đồng Mục vụ
giáo xứ, điều 12 [TP. HCM: UBGD, 2010]).
[34] Bạn Hữu MTCĐ, Kitô hữu giáo dân với hội đồng mục vụ trong
gia đình giáo xứ (TP. HCM: Nxb. Phương Đông, 2013), 160-1.
[36] Điều 536: §1. Nếu giám mục
giáo phận xét là thuận lợi, sau khi đã tham khảo ý kiến hội đồng linh mục, thì
trong mỗi giáo xứ nên thành lập hội đồng mục vụ, do linh mục chính xứ chủ tọa,
và trong đó các tín hữu cùng với những người, chiếu theo chức vụ tham gia vào
việc săn sóc mục vụ trong giáo xứ cùng đóng góp sự cộng tác của mình vào việc cổ
võ sinh hoạt mục vụ. §2. Hội đồng mục vụ chỉ có quyền tư vấn, và được điều hành
theo các quy tắc do giám mục giáo phận đã ấn định.
[37] Trong phần Dẫn nhập của quyển
The Gift of the Church: A Textbook on
Ecclesiology in Honor of Patrick Granfield (Tặng ân của Giáo hội: Quyển giáo khoa Giáo hội học để tôn vinh Linh mục
Patrick Grandfield), tác giả đã giả định rằng, nếu Linh mục Granfield sống
tại Việt Nam, thì có lẽ ngài sẽ được cư xử như thế này: “Ngài sẽ được dành cho
tước hiệu ‘Cha đáng kính’. Trong những lễ hội công cộng, ngài sẽ ngồi bàn danh
dự cùng với các quan chức và được ân cần phục dịch. Vì là giáo sư, ngài sẽ được
mọi người xưng thưa là ‘thầy’, và các môn sinh của ngài sẽ mãi mãi gọi ngài bằng
tước hiệu ấy, với lòng kính trọng và yêu mến, cho dù họ đã tiến xa và nắm giữ
những địa vị cao trong xã hội. Và vì là linh mục, ngài sẽ luôn được các giáo hữu
chào thưa bằng những lời kính cẩn (chẳng hạn, ‘Lạy cha, con xin phép được lạy
cha’), chứ không bao giờ, nói phải tội, bằng những lời bình dân như “Pat, chào
nhé!” (Peter, Introduction to
The Gift of the Church: A Textbook on Ecclesiology in Honor of Patrick
Granfield, ed.
(Collegeville, MN: The Liturgical Press, 2000), xiii).
[38] Vị mục tử đích thực của mọi tổ
chức trong Giáo hội chính là Đức Giêsu Kitô, Vị Mục Tử Nhân Lành.
[39] X. 1Rm 13,1-7; Dulles, Models of the Church (Các mô hình Giáo hội), (Garden City, NY:
A Division of Double-day & Company, Inc., 1978); Tạ, Vài mô hình tổ chức (Some
Organizational Models) (TP. Hồ Chí Minh, LHNB, 2000), 49-53.
[42] To
manage means to accomplish activities and master routines, while to lead means
to influence others and create visions for change (x. “Session 9” of the course
PS 702: Parish Management in the fall
semester 2004 at Washington Theological Union, Handout on October 30, 2004).
[44] X. “An Impact of the
Vietnamese Culture of Respect on the Pastor- Parishioners Relationship” in the
Introduction; Stephen B. Clark, “Pastoral Leadership” in Building Christian
Community: Strategy for Renewing the Church (Xây dựng cộng đồng Kitô hữu: Chiến lược đổi mới Giáo hội) (Ave
Maria Press, 1992), lấy ngày 10 tháng 4 năm 2005, từ http://
www.rc.net/cka/html/chap-ter5.html.
[45] Where
there is no vision, the people perish (x. William J. Rademacher and Marlis
Roger, The New Practical Guide for Parish
Councils [Mystic, CT: Twenty-Third Publications, 1988], 159).
[54] A
good pastor is supposed to do not only the right things but also the things
right (x.
“Session 9” of the course PS 702: Parish
Management in the fall semester 2004 at Washington Theological Union
(Handout on October 30, 2004).
[57] Ibid.