CHÚNG TÔI CÙNG ĐI VỚI ANH
(Tìm hiểu khái quát về ý nghĩa “HIỆP HÀNH - SYNODALITY)[1]
Lm. Giuse Trương Đình
Hiền
Ngày 30.9.2021
DẪN NHẬP: Cùng nhau về đích
Trong cuộc sống đời thường, đặc biệt, trong lãnh vực thể
thao, thể dục, cứ sự thường, đã nói đến thi đấu, cuộc đua, là phải nói đến chiến
thắng, về đích, đoạt huy chương…
Nhưng đôi khi cũng xảy ra “những chuyện không như thế”!
Trong lịch sử thi đấu của các đại hội Olympic thế giới cũng như khu vực, đặc biệt,
thế vận hội dành cho những người khuyết tật, có một kỳ “thế vận hội đặc biệt” được tổ chức tại Seattle, tiểu bang
Washington, Hoa Kỳ năm 2018[2], đã để lại trong lòng khán
giả thế giới một ấn tượng sâu sắc, cảm động và đầy tính nhân văn. Và đây là câu
chuyện cảm động đó:
“Tại Thế Vận Hội đặc
biệt Seattle (dành cho những người tàn tật) có 9 vận động viên đều bị tổn
thương về thể chất hoặc tinh thần, cùng tập trung trước vạch xuất phát để tham
dự cuộc thi chạy đua 100m. Khi cờ hiệu phất lên, tất cả đều lao đi với quyết
tâm chiến thắng. Trừ một cậu bé. Cậu cứ bị vấp té liên tục ngay sát vạch xuất
phát. Đầu gối của cậu đập mạnh xuống đường, da của cậu bị trầy xước, rớm máu.
Và cậu bật khóc. Khi tám người kia nghe tiếng khóc, giảm tốc độ và ngoái lại
nhìn. Rồi, họ quay trở lại. Tất cả, không trừ một ai! Một cô gái bị hội chứng
Down dịu dàng cúi xuống hôn cậu bé: “Như thế này, em sẽ thấy tốt hơn”. Cả 7 người
còn lại cùng ngồi xuống quanh cậu bé, ánh mắt lộ rõ sự lo lắng. Một lúc, cô gái
cất tiếng hỏi tiếp: “Em đã thấy đỡ hơn chưa?”. Cậu bé đưa tay lau nước mắt, mỉm
cười gật đầu. Cả chín người cùng đứng dậy, họ khoác tay nhau cùng sánh bước về
vạch đích.”[3].
Vâng, không để ai bị bỏ
lại đằng sau, tất cả cùng dìu nhau để cùng về đích, đó lại không phải là thể
hiện sự “đồng hành” đúng nghĩa sao !
Và đó lại chính là ý
nghĩa, trọng tâm, và là chủ đề được chọn cho Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới
của Giáo Hội Công Giáo sắp sửa khai mạc vào Chúa Nhật 10 tháng 10 tới đây: “Vì một Giáo hội hiệp hành: hiệp thông, tham
dự và sứ vụ”[4].
Như một chút sẻ chia góp vào nhịp sống đức tin của Dân Chúa
Việt Nam, hay như một gợi ý để cùng nhau “Sentire cum Ecclesia”, qua tài liệu
“Tính Hiệp Hành trong đời sống và sứ mệnh của Giáo Hội” (Synodality in the Life and Mission of the Church) của “Uỷ Ban Thần
học Quốc tế”[5], xin khái quát đôi nét về ý
nghĩa “Hiệp Hành” (Synodality), một chiều kích sống đạo hay hoạt động tông đồ
mang tính thời sự của Giáo Hội Công Giáo hôm nay.
I. DANH TỪ MỚI TRONG KHÁI NIỆM CŨ
1. Đã có một “tên gọi” như thế:
Không kể văn bản ngoại ngữ, “HIỆP HÀNH”[6],
một từ rất mới trong ngôn ngữ giáo lý, thần học, mục vụ của Giáo Hội tại Việt
Nam. Thật vậy, đây là một từ ghép gốc Hán lần
đầu tiên xuất hiện trong một văn kiện Huấn quyền (Christus Vivit) tiếng Việt.
Cũng cần ghi nhận rằng: có một số dịch giả khi chuyển ngữ từ “SYNODALITÉ,
SYNODALITY” sang tiếng Việt thì dùng từ “Đồng Nghị”: Vũ Văn An trong “Tính
Đồng Nghị trong Đời sống và Sứ mệnh
của Giáo Hội “[7], hay “tính Hội Đồng” như dịch
giả của bài viết “Un Moment MEP sur la
“mission de l'Eglise” – La synodalité
missionnaire: un style pour la mission en Asie của tác giả BRUNO LEPEU: Một thoáng MEP về “sứ vụ truyền giáo của
Giáo Hội” – Tính hội đồng trong truyền
giáo: một phong cách truyền giáo tại châu Á?[8].
Cũng có chỗ dịch là “tính Đồng Bộ”[9]
hoặc “tính Liên Hợp”[10]...
Riêng Tự Điển Công Giáo của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam,
trong mục từ “HIỆP”, có 5 từ ghép với “Hiệp” (HIỆP ĐẠO, HIỆP LỄ, HIỆP SĨ, HIỆP THÔNG, HIỆP ƯỚC)[11], nhưng không có “Hiệp
Hành”. Chỉ có mục từ có liên quan xa là “THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC”
(Synodus Episcoporum…)[12].
Không chỉ trong “làng văn hoá đức tin”, từ “Hiệp Hành”[13] cũng không thấy xuất
hiện trong các tự điển Hán Việt, Hán Nôm, ít nhất là 2 cuốn: HÁN VIỆT TỰ ĐIỂN của
Đào Duy Anh, và HÁN VIỆT TỰ ĐIỂN của giáo sư Nguyễn Lân.
2. Tìm lại một “khái niệm” bị lãng quên:
Nếu trong Kinh Thánh, trong các văn kiện Huấn Quyền, trong
văn chương thần học, tu đức và nhiều lãnh vực khác trong nhịp sống đức tin,
chúng ta thường xuyên gặp các hạn từ với các nội dung ý nghĩa hàm chứa trong đó
như “xuất hành”, “lữ hành”, “đồng hành”…
thì trong những ngày này, Dân Chúa được nhắc nhở “tập chú” tới chiều kích “hiệp
hành” (synodality), một khái niệm không phải là mới, nhưng hình như đã có một
thời bị lãng quên (ít ra cho tới trước Công Đồng Vatican II), như nhận xét sau
đây của Uỷ Ban Thần Học Quốc Tế: “những
thập kỷ gần đây, người ta thấy xuất hiện một hạn từ mới, “tính hiệp hành -
synodality”… Kiểu nói “lạ tai” này, một khi được thần học làm sáng tỏ cách
nghiêm túc, sẽ là dấu chỉ của một điều mới mẻ đang chín mùi trong ý thức Giáo hội,
(một chiều kích) đã được khơi mào từ Giáo Huấn của Công Đồng Vatican II…”[14].
Theo nhận định của tác giả Bruno LEPEU, khái niệm “HIỆP
HÀNH” là một tầm nhìn quan trọng của triều đại Giáo hoàng Phanxicô, được phản ảnh
qua nhiều phát biểu quan trọng (từ khi ngài còn làm Giám mục ở Argentina cho tới
những sự kiện gần đây trên Ngai toà thánh Phêrô)[15].
Trong khi đó, tác giả Christopher R. Altieri thì nhận xét rằng: Đức Phanxicô “khăng khăng kêu gọi cần phải có một Giáo hội
mang tính hiệp hành. “Hiệp hành” là một từ ‘thời thượng’ - thậm chí là một ‘từ
khóa’ – thuộc triều đại giáo hoàng của ngài[16].
Xin đan cử, ít ra hai lần có thể được coi như “điểm nhấn tiêu
biểu”, Đức Phanxicô đã trân trọng nhắc đến “chiều kích hiệp hành” (synodality,
synodalité) trong các giáo huấn của ngài trong những năm đầu thực thi sứ vụ:
- Trong diễn từ ngày 17.10.2015, nhân dịp kỷ niệm 50 năm
ngày Đức Phaolô VI thiết lập cơ cấu “Thượng Hội Đồng Giám Mục” (Synode des
Évêques): Hiệp hành là “căn tính” của Giáo Hội và là “con đường Giáo Hội phải
đi trong thiên niên kỷ ba:
“Là một chiều kích tạo
nên Giáo Hội, tính “hiệp hành” (synodalité) cung cấp cho ta một cái khung giải
thích rất phù hợp để thấu đáo về chính thừa tác vụ phẩm trật. Nếu đồng quan niệm
như Thánh Gioan Kim Khẩu đó là “Giáo Hội và thượng hội đồng (synode) luôn đồng
nghĩa với nhau”, vì Giáo Hội chính là cuộc đồng hành của Đoàn Chiên Chúa trên
các nẻo đường lịch sử hướng về cuộc gặp gỡ với Chúa Kitô, thì ta sẽ hiểu được rằng
ở giữa lòng Giáo Hội, không ai tự cho mình vượt trội những người khác. Trái lại,
trong Giáo Hội, mỗi người cần phải “hạ mình xuống” để phục vụ anh chị em trên nẻo
đường hành lữ.”[17].
Uỷ Ban Thần học Quốc tế đã nhắc lại những lời tuyên bố nầy: “Hiệp hành chính là con đường Thiên Chúa muốn
Giáo hội bước đi trong thiên niên kỷ thứ ba: Đây là chương trình đã được Đức
Giáo hoàng Phanxicô xác nhận nhân dịp lễ kỷ niệm 50 năm ngày Đức Giáo Hoàng
Phaolô VI thành lập cơ cấu Thượng Hội đồng Giám mục. Đức Phanxicô nhấn mạnh rằng,
thực ra, tính hiệp hành là “một chiều kích thiết yếu của Giáo hội”[18].
- Trong tông huấn Christus Vivit về “Mục vụ Giới trẻ”: một nền
mục vụ mang tính hiệp hành:
“Mục vụ giới trẻ phải
“mang tính hiệp hành” (synodale), nghĩa là có khả năng liên kết trong một “hành
trình chung”, điều đó bao hàm “sự quý trọng các đặc sủng mà Chúa Thánh Thần ban
cho mỗi thành viên trong Giáo Hội theo ơn gọi và vai trò của mình, đồng thời sẽ
thúc đẩy mọi thành viên tham gia gánh vác trách nhiệm...” (CV số 206).
II. “HIỆP HÀNH” TRONG CÁI NHÌN TỔNG QUAN (GIỚI THIỆU
KHÁI QUÁT)
Để biết Giáo Hội quan niệm thế nào về “chiều kích Hiệp Hành”
và đề xuất những “áp dụng mục vụ cụ thể”, thiết tưởng chúng ta phải căn cứ vào
một tác phẩm “có thẩm quyền” về chuyên đề nầy: Synodality in the Life and Mission of the Church[19] của Uỷ Ban Thần học
Quốc tế vừa được “trình làng” vào tháng 3 năm 2018, dưới sự chuẩn nhận của
chính Đức Giáo Hoàng Phanxicô, như “ghi chú sơ khởi” của tác phẩm đã hé mở cho
biết: “Bản văn hiện tại được đa số các
thành viên bỏ phiếu tán thành và được Ủy ban phê chuẩn trong Phiên họp toàn thể
năm 2017. Sau cùng, đã được chuẩn nhận bởi Đức Hồng y Luis F. Ladaria S.J, Tổng
trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, người đã cho phép phổ biến công khai vào ngày 2
tháng 3 năm 2018, sau khi nhận được sự đáp ứng thuận lợi từ Đức Giáo hoàng
Phanxicô”[20].
Sau đây, xin nêu lên cách khái quát “một số” nội dung chính
(mang tính “tiếp cận khái niệm”) được trình bày trong tác phẩm nầy[21]:
- Giới thiệu tổng quan
về ngữ nghĩa.
- Một thoáng Thánh
Kinh, Thánh Truyền và lịch sử liên quan đến khái niệm “hiệp hành”.
- Các điểm nhấn của thần
học về “tính hiệp hành”.
1. Giới thiệu tổng quan về từ ngữ và ý nghĩa.
Uỷ Ban Thần học quốc tế dùng nguyên Phần Dẫn Nhập để “xác định các dữ kiện có tính tầm nguyên và
khái niệm cần thiết cho việc minh giải sơ khởi nội dung và việc sử dụng hạn từ
“Hiệp Hành” (Synodality); sau đó, đặt
ý nghĩa nầy vào ngữ cảnh của một giáo lý mới và quan trọng mà Huấn Quyền đề nghị
để tiếp nối giáo huấn của Công Đồng Vatican II”[22].
Xin lược tóm các nội dung trên qua các điểm chính như sau:
1.1. Tương quan của 3 hạn từ:
Công Nghị, Công Đồng, Hiệp Hành
1.1.1. Công nghị (Synod): từ cội nguồn Mạc khải: Trên con đường của
Chúa Giêsu:
“Synod” là một từ cổ
xưa và đáng kính trong Truyền thống của Giáo hội, mà ý nghĩa của nó được căn cứ
trên các chủ đề sâu sắc nhất của Mặc Khải. Bao gồm một giới từ συν (sun - với)
và danh từ όδός (odos - đường), từ nầy diễn tả con đường mà Dân Chúa cùng đi.
Cũng vậy, từ đó cũng ám chỉ Chúa Giêsu, Đấng đã tự tỏ mình là “đường, sự thật
và sự sống” (Ga 14,6), và liên quan đến các Kitô hữu, những kẻ theo Ngài, mà
ngay từ thuở ban đầu, vẫn được gọi là “người theo Đạo (Đường)” (xem Công vụ
9,2; 19,9.23; 22,4; 24,14.22).
Trong ngôn ngữ Hy Lạp
của Giáo Hội, từ σύνοδος -Sunodos diễn tả việc các môn đệ của Chúa Giêsu được
kêu gọi quy tụ thành một cộng đoàn, và trong một số trường hợp, từ nầy cũng được
hiểu là “cộng đoàn Giáo hội”. Chẳng hạn, Thánh Gioan Kim Khẩu viết rằng Giáo Hội
là ‘tên viết tắt’ (name standing) của ‘cùng đi với nhau’ (walking together -
σύνοδος)”. Ngài giải thích rằng Giáo hội thực sự là cộng đồng được triệu tập
như một ca đoàn để tạ ơn và tôn vinh Chúa, một thực tại hài hòa liên kết với
nhau (σύστημα - systima), vì thế, bằng các mối quan hệ hỗ tương và phẩm trật,
những người làm nên cộng đoàn đó quy tụ trong “tâm đầu (αγάπη - agape) ý hợp
(όμονοία - ómonoía)” (tâm trí hoà hợp)[23].
1.1.2. Từ “Công nghị” (Synod) tới “Công Đồng” (Council) qua dấu chỉ “Hiệp
hành” (Synodality):
- Công nghị (Synode): Một sinh hoạt đã hiện hữu từ lâu trong
đời sống Giáo Hội: “Từ những thế kỷ đầu
tiên, từ “synod”, với một ý nghĩa cụ thể, được áp dụng cho các cuộc triệu tập
công nghị của Giáo Hội ở nhiều cấp độ khác nhau (giáo phận, giáo tỉnh, giáo miền,
đại giáo khu (Thượng phụ) hoặc toàn thế giới) để nhờ ánh sáng Lời Chúa và lắng
nghe Chúa Thánh Thần, biện phân các vấn đề về giáo lý, phụng vụ, giáo luật và mục
vụ đang hiện diện giữa dòng thời gian”[24].
- Công nghị (Synode), Công đồng (Concilium) trong viễn tượng
“Cuộc triệu tập Dân Chúa”: “Chữ Hy Lạp
σύνοδος (sunodos) được dịch sang tiếng Latin là synodus hoặc concilium.
Concilium, trong ngôn ngữ thế tục, đó là một hội đồng được triệu tập bởi một thẩm
quyền hợp pháp. Mặc dù hai từ “công nghị - synod” và “công đồng - council” khác
nhau về ngữ nguyên, nhưng lại đồng quy về ý nghĩa. Thực ra, từ “công đồng -
council” đã làm phong phú thêm nội dung ngữ nghĩa của từ “công nghị - synod”
khi tham chiếu một từ Do Thái là קָהָל
(qahal), có nghĩa là “cộng đoàn được Chúa triệu tập” mà Tân Ước dịch sang tiếng
Hy Lạp là έκκλησία (ekklesia), một thực tại chỉ về cuộc tập hợp cánh chung của
Dân Chúa trong Chúa Kitô”[25].
- Công nghị, Công đồng và sự phân biệt ý nghĩa của Giáo Luật
(1983): “Trong Giáo hội Công giáo, sự
phân biệt trong cách dùng các từ ngữ “công đồng - council” và “công nghị -
synod” chỉ mới xuất hiện gần đây. Tại Công Đồng Vatican II, hai từ nầy đồng
nghĩa với nhau, cả hai đều đề cập đến phiên họp của công đồng. Chính Bộ Giáo Luật
của Giáo Hội (1983) đã chỉ ra sự phân biệt các hạn từ: Một đàng là phân biệt giữa
các Công đồng địa phương (Công Đồng miền hoặc Công đồng giáo tỉnh) và Công đồng
Chung; đàng khác, phân biệt giữa Hội nghị Giám mục và Công nghị giáo phận.”[26].
- Công nghị, Công đồng” và chiều kích Giáo Hội của Vatican II: “Hiệp hành” (Synodality): “Trong văn chương thần học, giáo luật và mục
vụ của những thập kỷ gần đây, người ta thấy xuất hiện một hạn từ mới, “tính hiệp
hành - synodality”, danh từ nầy tương hợp với tính từ “mang tính hiệp hành-
synodal”, cả hai xuất phát bởi từ “synod”. Do đó, người ta nói “tính hiệp hành
- synodality” là chiều kích cấu thành Giáo hội hay nói ngắn gọn, Giáo Hội chính
là “Hội Thánh hiệp hành”. Kiểu nói “lạ tai” này, một khi được thần học làm sáng
tỏ cách nghiêm túc, sẽ chính là dấu chỉ của một điều mới mẻ đang chín mùi trong
ý thức Giáo hội, (một chiều kích) đã được khơi mào từ Giáo Huấn của Công Đồng
Vatican II, trải qua kinh nghiệm sống động của các Giáo hội địa phương và Giáo
hội hoàn vũ kể từ ngày kết thúc Công Đồng cho đến ngày hôm nay”[27].
1.2. Tương quan giữa Hiệp thông, Hiệp hành, Tập đoàn tính (Giám Mục
đoàn).
1.2.1. Từ “Hiệp thông” tới “Hiệp
hành” trên nền tảng “Bí tích”:
“Mặc dù “tính hiệp
hành” không được tìm thấy cách minh nhiên như một thuật ngữ hoặc một khái niệm
trong giáo huấn của Công Đồng Vatican II, nhưng phải công nhận rằng, tính hiệp
hành là cốt lõi của công việc canh tân mà Công đồng đã khuyến khích.
Khoa giáo hội học về
Dân Chúa nhấn mạnh đến phẩm giá và sứ mệnh chung của tất cả những người được rửa
tội, những kẻ đang thực hiện sự phong phú đa dạng mang tính phẩm trật của các đặc
sủng, ơn gọi và thừa tác vụ của họ. Trong bối cảnh này, khái niệm hiệp thông thể
hiện bản chất sâu xa của mầu nhiệm và sứ mệnh của Giáo hội, mà nguồn cội và đỉnh
điểm của nó là cộng đoàn Thánh Thể (Eucharistic synaxis). Đây chính là thực tại
(res) của Bí tích Hội Thánh (Sacramentum Ecclesiae): kết hiệp với Thiên Chúa Ba
Ngôi và hiệp nhất muôn người, được thực hiện nhờ Chúa Thánh Thần trong Chúa
Giêsu Kitô.
Trong ngữ cảnh mang
tính giáo hội này, hiệp hành chính là tính đặc thù của “kiểu thức sống và hoạt
động” (modus vivendi et operandi) của Giáo hội, đoàn Dân Chúa. Chính tính hiệp
hành nầy sẽ làm cho người ta nhận rõ hơn chiều kích hiệp thông của Giáo Hội, khi
tất cả các thành viên của Giáo Hội cùng nhịp bước, quy tụ và tham gia tích cực
vào sứ mệnh truyền giáo”[28].
1.2.2. Từ “Hiệp hành” đến “Tập đoàn tính”: trên nền tảng Hội Thánh Chúa
Kitô:
“Trong khi khái niệm về
tính hiệp hành đề cập đến sự dấn thân và tham gia của toàn thể Dân Chúa trong đời
sống và sứ mạng của Giáo hội, thì khái niệm về “tập đoàn tính (Giám Mục đoàn -
collegiality) xác định ý nghĩa thần học với hai chiều kích sau:
- Việc thực hành thừa
tác vụ của các Giám mục tại Giáo hội địa phương được giao phó cho các ngài chăm
sóc.
- Sự hiệp thông giữa
các Giáo hội địa phương với Giáo hội hoàn vũ của Chúa Kitô, được thể hiện qua sự
hiệp thông phẩm trật giữa tập thể Giám mục với Giám mục Rôma.
Do đó, “tập đoàn tính”
(hay Giám Mục đoàn) chính là hình thức cụ thể để nhờ đó tính hiệp hành
(synodality) của Giáo hội được biểu lộ và làm cho hiện thực qua thừa tác vụ của
các Giám mục, trên bình diện hiệp thông của các Giáo hội địa phương trong một
khu vực, cũng như hướng đến sự hiệp thông của tất cả các Giáo hội trong Giáo hội
hoàn vũ. Dấu chỉ đích thực của tính hiệp hành (synodality) đương nhiên đòi hỏi
việc thực thi thừa tác vụ tập đoàn tính của các Giám mục”[29]. (x. BRUNO CHENU)[30].
1.3. Hiệp hành trong viễn tượng của
Công Đồng Vatican II:
1.3.1. Giáo Hội cần tiếp tục con
đường khai mở của Vatican II: “Cuộc canh
tân của Công đồng Vatican II đã mang lại nhiều hứa hẹn phong phú và quý giá, đó
là: thúc đẩy sự hiệp thông giáo hội, tập đoàn tính của Giám mục, tư duy và hành
động mang tính ‘hiệp hành’. Tuy nhiên, con đường mà Công đồng vạch ra để Giáo Hội
thực hiện vẫn còn dài thăm thẳm. Trên thực tế, ngày nay, nỗ lực tìm kiếm một
hình thức thích hợp cho một Giáo hội hiệp hành - mặc dù nó được chia sẻ rộng
rãi và được đưa vào thực hành theo những cách tích cực - dường như đang cần các
nguyên tắc thần học rõ ràng và các định hướng mục vụ dứt khoát”[31].
1.3.2. Hiệp hành chính là sự “lựa
chọn về nguồn” thích hợp nhất của Hội Thánh hôm nay: “Do đó, Đức Giáo hoàng Phanxicô mời gọi chúng ta vượt qua đoạn đường mới.
Kế thừa di sản của Công Đồng Vatican II, tiếp bước những người tiền nhiệm, Đức
Giáo Hoàng khẳng định rằng tính hiệp hành diễn tả hình ảnh của Giáo hội đến từ
Tin Mừng của Chúa Giêsu, một Giáo Hội vừa hội nhập trong dòng lịch sử, vừa
trung thành cách sáng tạo với Truyền thống”[32].
1.3.3. Hiệp hành: điều kiện tiên
quyết trong mục vụ truyền giáo: “Phù hợp
với giáo huấn của Lumen Gentium, Đức Giáo hoàng Phanxicô đặc biệt nhận xét rằng
tính hiệp hành “cung cấp cho chúng ta khuôn khổ phù hợp nhất để hiểu chính chức
vụ theo phẩm trật của mình và, dựa trên học thuyết “cảm quan đức tin của tín hữu”
(Sensus fidei fidelium), tất cả các thành viên của Giáo hội là tác nhân của việc
truyền giáo. Do đó, việc biến một Giáo hội mang tính hiệp hành thành hiện thực
là một điều kiện tiên quyết không thể thiếu đối với một năng lực truyền giáo mới
liên quan đến toàn thể Dân Chúa”[33].
1.3.4. Hiệp hành: con đường dẫn đến
đại kết: “Bên cạnh đó, tính hiệp hành là
cốt lõi của quyết tâm đại kết của các Kitô hữu, là tiếng gọi mời đồng hành trên
con đường hướng tới sự hiệp thông trọn vẹn; và - khi được hiểu chính xác – chiều
kích nầy sẽ cung cấp kiến thức và kinh nghiệm về Giáo hội, là nơi những khác biệt
chính đáng tìm thấy chỗ đứng trên căn bản tương giao quà tặng và trong ánh sáng
của chân lý.”[34].
2. Các chiều kích hiệp hành trong Giáo Hội hôm nay:
2.1. Chiều kích hiệp hành theo Đức
Giáo Hoàng Phanxicô:
Ngoài những ý nghĩa mà Uỷ Ban Thần Học vừa quảng diễn, chúng
ta có thể lắng nghe chính Đức Giáo Hoàng Phanxicô cắt nghĩa, đặc biệt, qua hai
diễn từ quan trọng: diễn từ ngày 17.10.2015, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Đức
Phaolô VI thiết lập cơ cấu “Thượng Hội Đồng Giám Mục”; và mới đây nhất, diễn từ
hôm thứ Bảy 18/9 vừa qua, khi nói với giáo phận Roma.
Linh mục Trần Đức
Anh đã tóm tắt mấy ý như sau:
2.2: Hiệp hành: Giáo Hội “lắng
nghe, quan tâm mục vụ” thay vì duy giáo sĩ và cứng nhắc:
“trong diễn văn dài 40
phút với 4 ngàn đại biểu của Giáo phận Roma hôm 18/9/2021, Đức Thánh Cha giải
thích “sinodalità”, sự hiệp hành, như một lối sống và hành động của Giáo Hội: lắng
nghe nhau và có thái độ mục vụ, đặc biệt đứng trước cám dỗ của chủ nghĩa duy
giáo sĩ và thái độ cứng nhắc. Đức Thánh Cha nói: “đề tài hiệp hành, sinodalità, không phải là một chương trong khảo luận Giáo hội học, và càng
không phải là một kiểu thời trang, một khẩu hiệu hay một từ ngữ mới cần sử dụng
hoặc lèo lái trong các cuộc gặp gỡ của chúng ta. Không phải vậy, sinodalità biểu
lộ bản chất của Giáo Hội, hình thể, kiểu sống và sứ mạng của Giáo Hội.” Và Đức
Thánh Cha dựa vào sách Tông Đồ công vụ, với nhiều giai thoại để chứng tỏ Giáo Hội
là hiệp hành”[35].
2.3. Hiệp hành: Vai trò của cộng
đoàn (giáo phận, giáo xứ):
“Đức Thánh Cha nhấn mạnh
rằng “Trong tiến trình hiệp hành, giai đoạn giáo phận rất quan trọng, vì thực
hiện sự lắng nghe toàn thể các tín hữu đã chịu phép rửa. Ngài nhận xét: có nhiều đối kháng chống lại
việc vượt qua hình ảnh một Giáo Hội được phân biệt cứng nhắc giữa các thủ lãnh
và những người bề dưới, giữa người giảng dạy và người phải học hỏi, mà quên rằng
Thiên Chúa muốn đảo lộn các vị trí: “Ngài lật đổ những người cường quyền khỏi
tòa cao, và nâng cao những người hèn mọn” (Lc 1,52)”[36].
2.4. Hiệp hành: Một Giáo Hội
“hàng ngang”, ở giữa nhau và cùng nhau:
“Việc hiệp hành khám
phá chiều ngang của Giáo Hội hơn là chiều dọc. Giáo Hội hiệp hành tái lập chân
trời từ đó mặt trời của Chúa Kitô mọc lên: dựng lên những đền đài phẩm trật có
nghĩa là che phủ mặt trời Chúa Kitô. Các mục tử bước đi với dân, khi thì đi trước,
khi thì đi giữa, lúc thì đi sau. Đi trước để hướng dẫn, đi giữa để khuyến khích
và không quên mùi của đoàn chiên, đi sau vì dân có “mũi”, có khứu giác trong việc
tìm ra những con đường mới để đi, hoặc để tìm lại con đường đã lạc mất”[37].
2.5. Ý nghĩa “Synodus” nơi các Hội
Thánh khác:
“Nơi các Giáo Hội
Chính Thống hoặc Công Giáo Đông phương, “Santo Sinodo”, Thánh Hội Đồng, là cơ
quan cai quản Giáo Hội gồm vị Thượng Phụ hoặc tương đương, cùng với các Giám Mục
thành viên được bầu lên. Trong Hội đồng này, Đức Thượng Phụ cũng chỉ có 1 phiếu
như các giám mục thành viên khác. Đối với nhiều Giáo Hội Tin Lành khác, như
Giáo Hội Valdese ở Ý, Sinodo là khóa họp lập pháp thường niên của tất cả các mục
sư với các thành viên giáo dân được bầu, để ban hành các qui luật, cũng như điều
hành Giáo Hội”[38].
2.6. Ý nghĩa hiệp hành trong
“ngôn ngữ cụ thể của dân Chúa”:
Hôm 16/9 vừa qua, Phó
Tổng thư ký Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới, nữ tu Nathalie Becquart, giải
thích một cách đơn sơ cho các phụ nữ Công Giáo và tín hữu Ba Lan về từ “tính hiệp
hành”, Sinodalità, là chuyển tiếp từ chữ “tôi” đến chữ “chúng ta”. Nữ tu
Becquart đưa ra một thí dụ cụ thể để hiểu tính hiệp hành mà Đức Thánh Cha muốn
Giáo Hội thi hành: ví dụ trong một giáo phận, tính hiệp hành hệ tại luôn đồng
hành với nhau, và một người không thể tự mình quyết định mà không tham khảo ý
kiến người khác, các Linh Mục phải tham khảo ý kiến giáo dân. Hiệp hành là đi từ
chữ “tôi” đến chữ “chúng ta”. “Chúng ta” ở đây là mọi tín hữu đã chịu phép rửa.
Đây là định nghĩa ngắn nhất về “Tính hiệp hành”[39].
III. HIỆP HÀNH TRONG VIỄN TƯỢNG THÁNH KINH, TRUYỀN
THỐNG VÀ LỊCH SỬ
1. Một thoáng Thánh Kinh liên quan đến khái niệm hiệp
hành.
1.1. Cựu ước và cuộc “Triệu tập
dân Chúa” (qahal /‘edah – Ekklesia):
1.1.1. Thiên Chúa giàu lòng thương xót muốn quy tụ nhân loại sau biến cố
sa ngã để cứu độ:
“Tuy nhiên, Thiên Chúa
giàu lòng thương xót, không ngừng canh tân giao ước của Ngài để mang tất cả những
gì đã bị phân tán trở lại con đường hiệp nhất, chữa lành tự do của con người và
hướng nó đến để chào đón và sống món quà kết hiệp với Thiên Chúa và hiệp nhất với
anh chị em của chúng ta trong công trình sáng tạo, như trong một gia đình” (St
9,8-17; 15; 17; Xh 19-24; 2 Sm 7,11)[40].
1.1.2. Cuộc “triệu tập dân Chúa” (קָחַל/עֵדה (qahal /‘edah) qua ơn gọi Abraham, được củng cố với
Giao ước Sinai, tiên báo “đoàn dân của Giao ước mới là Giáo Hội (έκκλησία –
Ecclesia):
“Khi thực hiện kế hoạch
của Ngài, Thiên Chúa kêu gọi Áp-ra-ham và con cháu của Ngài (St 12,1-3; 17,1-5;
22,16-18). Cuộc triệu tập này (קָחַל/עֵדה -
qahal /‘edah - thuật ngữ đầu tiên thường được dịch sang tiếng Hy Lạp là
έκκλησία - ekklesia), được củng cố trong giao ước Sinai (Xh 24,6-8; 34,20tt),
làm cho Dân được giải thoát khỏi kiếp nô lệ và xứng đáng đối thoại với Thiên
Chúa; trong cuộc xuất hành, họ tập hợp để tôn thờ Thiên Chúa và sống theo luật
pháp của Ngài, và để họ nhận ra rằng họ thuộc về một mình Ngài (Đnl 5,1-22; Gs
8; Nkm 8.1-18).
קָחַל / (qahal / edah) là hình thức đầu tiên
trong đó ơn gọi mang tính hiệp hành (synodal vocation) của Thiên Chúa được biểu
lộ. Trong sa mạc, Thiên Chúa ra lệnh điều tra dân số của các chi tộc Israel,
theo từng đơn vị (Ds 1-2). Tâm điểm của cuộc tập họp (dân Chúa), với tư cách là
người hướng đạo và mục tử duy nhất, là Chúa, người hiện diện qua chức vụ của
Mô-sê (Ds 12; 15-16; Gs 8,30-35), …. Công hội của Thiên Chúa không chỉ bao gồm
đàn ông (Xh 24,7-8) mà còn cả phụ nữ, trẻ em và thậm chí cả người ngoại kiều
(Gs 8,33,35)...”[41].
1.1.3. Các ngôn sứ loan báo sứ điệp hoán cải để trung thành với Giao ước
khi thiết lập những mối tương quan bác ái với anh em đồng loại:
“Các ngôn sứ loan báo
cho Dân Chúa sứ điệp về sự cần thiết của những khó khăn trong lịch sử để trung
thành với giao ước. Đó cũng là lý do các ngôn sứ mời gọi hoán cải cõi lòng trở
về với Thiên Chúa và thực thi công chính trong tương quan với những người xung
quanh, nhất là những người nghèo, những người bị áp bức, khách kiều cư…, hoán cải
nên nhân chứng hữu hình cho lòng thương xót của Thiên Chúa (Gr 37,21; 38, 1)[42].
1.2. Tân ước và cuộc “quy tụ xung
quanh Đức Kitô”:
1.2.1. Một đoàn dân của Giao ước mới quy tụ chung quanh Đức Kitô nhờ mầu
nhiệm Vượt Qua:
“Thiên Chúa hoàn tất giao ước mới mà Ngài đã
hứa trong Chúa Giêsu thành Nazareth, Đấng Cứu Thế và Ngôi Lời. Bằng chính cuộc
sống và con người, Tin mừng của Ngài (kérygma) đã mặc khải rằng Thiên Chúa
chính là một hiệp thông của tình yêu; trong ân sủng và lòng thương xót, Ngài muốn
ôm ấp toàn thể nhân loại trong sự hiệp nhất. Chúa Giêsu Con Thiên Chúa, từ cõi
vĩnh hằng đã hiện hữu nơi cung lòng Chúa Cha (Ga 1,1.18), đã làm người khi tới
thời viên mãn (Ga 1,14; Gl 4) để hoàn thành chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa
(Ga 8,29; 6,39; 5,22.27). Ngài không bao giờ tự ý hành động một mình, nhưng
trong mọi việc, Ngài thi hành ý muốn của Chúa Cha: Chúa Cha ngự trong Ngài và
thực hiện công việc qua Người Con mà Chúa Cha đã ban cho thế gian (Ga
14,10).(…). Mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Giêsu là cuộc xuất hành mới, quy tụ
trong sự hiệp nhất tất cả những ai tin vào Ngài (Ga 11,52), và Ngài biến đổi họ
qua Bí tích Rửa tội và Thánh Thể. Công trình cứu rỗi chính là sự hiệp nhất
trong lời nguyện tế hiến trước cuộc Khổ nạn của Ngài: “để tất cả nên một, như
Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta. Như vậy, thế
gian sẽ tin rằng Cha đã sai con.” (Ga 17,21)[43].
1.2.2. Một Giáo Hội đang lữ hành trên đường cùng nhau nhờ Lời
và Bánh Hằng sống của Đấng Phục Sinh đang đồng hành:
“Chúa Giêsu là người lữ
hành loan báo tin mừng về Nước Thiên Chúa (Lc 4,14-15; 8,1; 9,57; 13,22;
19,11), dạy “con đường của Thiên Chúa" (Lc 20,21) và dẫn lối đưa đường (Lc
9,51-19,28). Thật ra, chính Ngài là “con đường” (Ga 14,6) dẫn đến Chúa Cha;
trong Chúa Thánh Thần (Ga 16,13) Ngài chia sẻ với mọi người sự thật và tình yêu
hiệp thông với Thiên Chúa và với anh chị em của chúng ta. Sự hiệp thông sống động
theo tiêu chuẩn của điều răn mới của Chúa Giêsu có nghĩa là cùng nhau bước đi
trong lịch sử như là đoàn Dân của giao ước mới, theo cách phù hợp với hồng ân
đã lãnh nhận (Ga 15,12-15). Thánh sử Luca cho chúng ta một biểu tượng sống về
Giáo hội là Dân Chúa được Chúa phục sinh dẫn dắt trên đường qua trình thuật hai
môn đệ trên đường Emmaus, người đã thắp sáng họ bằng Lời và nuôi dưỡng họ bằng
Bánh Sự Sống (Lc 24,13-35)[44].
1.2.3. Mô hình đầu tiên của một "Giáo Hội hiệp hành”: Công nghị các Tông
Đồ:
“Công vụ Tông đồ ghi lại
một số thời khắc quan trọng trên con đường của Giáo hội Tông truyền khi Dân
Chúa được gọi là cộng đồng để biện phân ý muốn của Đấng phục sinh. Nhân vật
hàng đầu dẫn đường và đưa ra phương hướng là Chúa Thánh Thần, tuôn tràn trên
Giáo hội vào ngày Lễ Ngũ Tuần (Cv 2,2-3). Các môn đệ, khi thực hiện các vai trò
khác nhau của mình, phải lắng nghe tiếng nói của Thánh Linh và biện phân đường
nào phải đi (Cv 5,19-21; 8,26,29,39; 12,6-17; 13,1-3 ; 16,6-7,9-10; 20,22). Đây
là những ví dụ điển hình: sự lựa chọn “bảy người có tiếng tăm, tràn đầy Thánh
Linh và khôn ngoan”, được các Tông đồ giao phó với nhiệm vụ “phân phát thực phẩm”
(Cv 6,1-6); và biện phân các vấn nạn quan trọng trong sứ mạng dành cho dân ngoại
(Cv 10). Vấn nạn này được giải quyết theo truyền thống được gọi là “Công nghị
các tông đồ tại Giê-ru-sa-lem” (Cv 15, và cả Gl 2,1-10). Ở đó, chúng ta có thể
thấy sự xuất hiện của tính hiệp hành, trong đó, Giáo hội tông truyền, trong một
thời điểm quyết định của sự phát triển, thực hiện ơn gọi trong viễn tượng truyền
giáo, được giác ngộ bởi sự hiện diện của Chúa phục sinh. Trải qua nhiều thế kỷ,
sự kiện này đã được coi như là mô hình mẫu cho các Công nghị được Giáo hội cử
hành.”[45].
1.2.4. Giáo Hội hiệp hành qua các đoàn sủng và chức vụ:
“Quyền năng của Chúa
Kitô được thể hiện trong Giáo hội thông qua nhiều linh ân hay các đặc sủng khác
nhau mà Chúa Thánh Thần ban phát cho Dân Chúa để xây dựng một Thân thể Chúa
Kitô. Khi thực hiện đặc sủng, chúng ta cần tôn trọng mỗi cá nhân, để đặc sủng
có thể phát triển hài hòa và sinh hoa trái mưu ích cho tất cả mọi người (1 Cr
12,28-30; Êp 4,11-13). Các Tông đồ chiếm vị trí ưu tiên trong số họ - cùng với
vai trò đặc biệt và ưu việt được Chúa Giêsu dành cho Thánh Phêrô (Mt 16,18...,
Ga 21,15...): Thật ra, họ được giao phó sứ mệnh hướng dẫn Giáo hội trung thành
với kho tàng đức tin (1 Tm 6,20; 2 Tm 1,12,14). Nhưng thuật ngữ Charisma cũng gợi
lên tính cách nhưng không và đa dạng trong sáng kiến tự do của Chúa Thánh Thần,
Người ban cho mỗi người ân huệ riêng để hướng đến lợi ích chung (x. 1 Cr
12,4-11; 29-30; Ep 4,7), để tùng phục và nâng đỡ nhau (1 Cr 12,25): vì ơn cao
trọng nhất chi phối tất cả chính là tình yêu” (1 Cr 12,31)[46].
2. Truyền Thống và lịch sử liên quan đến khái niệm
hiệp hành:
2.1. Giáo huấn về hiệp hành nơi
các Giáo Phụ trong ba thế kỷ đầu
- Giáo phụ Ignatiô thành Antiokia: Nhấn mạnh tính “hiệp
hành” qua “Cộng đoàn Thánh Thể”: “Vào đầu
thế kỷ thứ hai, thánh Ignatiô thành Antiokia cho thấy rằng nhận thức mang tính
hiệp hành của các Giáo hội địa phương đó là tự coi mình là hiện thân của một
Giáo hội. Trong bức thư gửi cho giáo đoàn Êphêsô, ngài nói rằng tất cả các
thành viên của giáo đoàn đều là ‘bạn đồng hành’, nhờ chính phẩm giá của phép Rửa
và tình bạn với Chúa Kitô. Hơn nữa, ngài đề cao trật tự thiêng liêng là yếu tố
làm cho Giáo hội trở nên một thân thể duy nhất, được kêu gọi ca ngợi sự hiệp nhất
với Chúa Cha trong Chúa Giêsu Kitô: linh mục đoàn là nghị viện của Giám mục và
các thành viên khác của cộng đoàn, dù vai trò có khác nhau, tất cả đều được kêu
gọi chung tay xây dựng. Tính hiệp thông của giáo hội được thể hiện cách rõ ràng
nhất qua cộng đoàn Thánh thể do Đức Giám mục chủ trì; cộng đoàn nầy nuôi dưỡng
niềm tin và niềm hy vọng cánh chung, lúc Thiên Chúa tập hợp trong Vương quốc của
Ngài tất cả các cộng đoàn đang sống và cử hành Thánh Thể trong đức tin.”[47].
- Giáo phụ Cypryano thành Carthage: Nhấn mạnh tính “hiệp
hành” qua vai trò của “Tông Đồ đoàn”, và “Giám mục đoàn”: “Các đặc điểm để nhận Giáo hội thật đó là: trung thành với giáo huấn của
các Tông đồ và cử hành Bí tích Thánh Thể dưới sự hướng dẫn của Đức Giám mục,
người kế vị các Tông đồ; việc truyền chức; ưu tiên xây dựng hiệp thông trong việc
phục vụ lẫn nhau để ca ngợi và tôn vinh Ba Ngôi: Cha, Con, Thánh Thần. Thánh
Cyprianô thành Carthage, người kế thừa và giải thích truyền thống vào giữa thế
kỷ thứ ba, đã xây dựng nguyên tắc liên quan đến giám mục và tính hiệp hành đó
là phải điều hợp cuộc sống và sứ vụ vừa mang tính địa phương vừa trên phạm vi
phổ quát: Giáo hội địa phương không làm gì được nếu không có Giám mục - nihil
sine episcopo - cũng vậy, không làm gì được nếu không có công đồng (Bao gồm cả
linh mục và Phó tế) - nihil sine consilio vestro - hoặc không có sự đồng thuận
của mọi người - et sine consensu plebis - luôn luôn giữ theo quy tắc nầy: Hàng
Giám mục là một, trong đó mỗi thành viên đều có chỗ - episcopatus unus est
cuius a singulis in solidum pars tenetur.”[48].
2.2. Tính “hiệp hành” qua vai trò
của các “Toà Thượng Phụ” và “Toà Thánh Rôma”
“Từ thế kỷ thứ tư trở
đi, các giáo tỉnh được thành lập; các giáo tỉnh nầy đã minh chứng và cổ vũ sự
hiệp thông giữa các Giáo hội địa phương và được lãnh đạo bởi một Thượng phụ
Giáo chủ. Theo quan điểm của công luận, bấy giờ đã có các công nghị giáo tỉnh,
như những công cụ chuyên biệt nhằm thực hiện tính hiệp hành của Hội Thánh. Khoản
luật thứ 6 của Công đồng Nicea (325) đã xác nhận tính ưu tiên và trổi vượt của
các toà Rôma, Alexandria và Antiokia. Toà Constantinople đã được thêm vào danh
sách các toà chính khi diễn ra Công đồng Constantinople I (381): Riêng khoản luật
3 đã trao chức chủ tịch danh dự cho vị Giám mục Rôma, Công đồng Chalcedon (451)
đã xác nhận tước hiệu nầy, khi toà Giêrusalem được thêm vào danh sách. Ở phương
Đông, chế độ “ngũ toà” này được coi là mô hình bảo đảm việc thực thi mối giây
hiệp thông và tính hiệp hành giữa năm Toà Thượng phụ này. Trong khi công nhận
vai trò của các Thượng phụ phương Đông, thì Hội Thánh phương Tây không coi Giáo hội Rôma như là một trong các
tòa thượng phụ khác, mà trao cho toà Rôma vị thế đặc biệt là trung tâm của Giáo
hội hoàn vũ.”[49].
2.3. Tính hiệp hành được biểu lộ
qua cơ cấu “Công đồng”:
“Vào cuối thế kỷ thứ
ba và nổi tiếng ở phương Đông, Tông Tắc
34 đã xác định rằng bất kỳ quyết định nào vượt quá năng quyền của Giám mục
địa phương phải được xử lý bởi Công nghị: “Các Giám mục của mỗi quốc gia phải
xác nhận một người trong số họ là vị đứng đầu, và không làm gì đáng kể nếu
không được vị nầy đồng ý… nhưng vị đứng đầu cũng không được làm gì nếu không có
sự đồng thuận của tất cả.”[50].
“Từ thế kỷ thứ ba trở
đi, mặc dù các Công nghị được thực hiện định kỳ ở cấp giáo phận và giáo tỉnh
liên quan đến các vấn đề kỷ luật, phụng tự và giáo lý tại địa phương, vẫn có một
xác tín rằng các quyết định được đưa ra là sự thể hiện sự hiệp thông các Giáo hội.
Cảm quan mang tính giáo hội này là một dấu chỉ cho thấy rằng mỗi Giáo hội địa
phương là biểu hiện một Hội Thánh Công giáo duy nhất; ….”[51].
“Về cách tiến hành thực
hiện, các Công nghị địa phương trong Thiên niên kỷ thứ nhất, một mặt, theo Truyền
thống Tông đồ và, mặt khác, theo các diễn trình thực tế, chịu ảnh hưởng bởi nền
văn hóa của nơi tổ chức. Trong trường hợp Công nghị diễn ra tại một Giáo hội địa
phương, về nguyên tắc, cả cộng đồng tham gia, mỗi nhóm theo vai trò tương ứng của
mình. Trong các Công nghị cấp tỉnh, những người tham gia là các Giám mục của
các Giáo hội khác nhau, mặc dù các giáo sĩ và tu sĩ có thể được mời đóng góp.
Chỉ có các Giám mục tham gia các Công đồng Chung được cử hành trong Thiên niên
kỷ thứ nhất. Chủ yếu chính các Công nghị Giáo phận và giáo tỉnh đã định hình thủ
tục mang tính “thượng hội đồng” được chấp nhận trong Thiên niên kỷ thứ nhất.”[52].
2.4. “Dáng đứng hiệp hành” thời
Trung cổ:
- Cách vận dụng giữa Đông và Tây: “Kể từ đầu thiên niên kỷ thứ hai, tiến trình Công nghị dần dần mang những
hình thức khác nhau giữa Đông phương và Tây phương, đặc biệt là sau biến cố
phân ly giữa Giáo hội Constantinople và Giáo hội Rôma (thế kỷ 11), và khi các
lãnh địa giáo hội thuộc các toà Thượng phụ Alexandria, Antiokia và Giêrusalem nằm
dưới quyền kiểm soát chính trị của Hồi giáo. Trong các Giáo hội Đông phương, thủ
tục của Công nghị vẫn theo truyền thống của các Giáo phụ, đặc biệt Công nghị cấp
Toà Thượng phụ và Tổng Giáo phận, nhưng cũng có các Công nghị đặc biệt, trong
đó các Thượng phụ Giáo chủ và Tổng Giám Mục tham gia. Ở Constantinople, sinh hoạt
của một Công nghị thường trực được củng cố mạnh mẽ; sinh hoạt nầy cũng đã từng
được biết đến từ thế kỷ thứ tư ở Alexandria và Antiokia, qua các công nghị thường
trực để xem xét các vấn đề phụng vụ, giáo luật và thực hành với các hình thức
khác nhau trong thời kỳ Byzantine và, sau năm 1454, trong thời kỳ Ottoman. Công
nghị thường trực còn tồn tại cho tới ngày hôm nay nơi các Giáo Hội Chính thống.”[53].
- Áp dụng nguyên tắc hiệp hành giữa hai thẩm quyền: Giáo Hoàng và Công Đồng: “Vào cuối thời Trung cổ, một tình huống duy nhất đã xảy ra trong cuộc
ly giáo ở Phương Tây (1378-1417)[54],
vào thời điểm một lúc có hai, thậm chí sau đó tới ba vị xưng danh là Giáo
Hoàng. Công đồng Konstanz (Constance) (1414-1418) đã giải quyết vấn đề phức tạp
này bằng cách áp dụng giáo luật khẩn cấp dự kiến trong tư duy giáo luật thời
trung cổ, và tiếp tục bầu Giáo hoàng hợp pháp. Tuy nhiên, trong tình huống này,
ý tưởng “duy công đồng” (conciliarist) đã phát triển, đi tới chỗ đặt Công đồng
thường trực trên uy quyền nguyên thủy của Đức Giáo hoàng. Biện minh thần học và
ứng dụng thực tế của chủ nghĩa duy công đồng được đánh giá là không phù hợp với
Truyền thống. Tuy nhiên, nó để lại một bài học cho lịch sử Giáo hội: luôn có
nguy cơ ly giáo nằm chờ, một điều không thể xem thường, và việc thường xuyên
canh tân Giáo hội từ đầu cho tới chi thể (in capite et membris) sẽ không khả
thi nếu không sử dụng đúng tiến trình hiệp hành, một cơ chế gắn kết với Truyền
thống và truy nhận thẩm quyền tối thượng của Giáo hoàng như một bảo đảm cần thiết.”[55].
2.5. Hiệp hành trong thời cận đại
và hiện đại
- Công đồng Trentô và các cơ cấu chuẩn về các loại hình Công
đồng, Công nghị: “Một thế kỷ sau, để đáp ứng
với cuộc khủng hoảng Cải cách Tin lành, Giáo hội Công giáo đã triệu tập Công Đồng
Trentô. Đó là Công đồng đầu tiên trong thời hiện đại với những đặc điểm nhất định:
nó không còn là Công đồng Kitô giáo như thời Trung cổ; những người tham gia là
các Giám mục cũng như Bề trên các Dòng tu và các Đan viện, trong khi các khâm sứ
của các ông hoàng được tham dự nhưng không có quyền bỏ phiếu. Công đồng đã thiết
lập một cơ cấu chuẩn là các Công nghị giáo phận nên diễn ra hàng năm, các Công
nghị giáo tỉnh cứ ba năm một lần, như một cách truyền lại động lực canh tân của
Công đồng Trento cho toàn Giáo hội. Một ví dụ điển hình là những gì Thánh
Charles Bôrômêo đã thực hiện với tư cách là Tổng Giám mục của Milan. Trong chức
vụ lâu dài của mình, ngài đã triệu tập năm Công nghị Giáo tỉnh và mười một công
nghị giáo phận. Ở Mỹ, thánh Turibius của Mogrovejo đã thực hiện một điều tương
tự: ông đã triệu tập ba Công nghị giáo tỉnh và mười ba giáo phận. Cũng có ba
công nghị giáo tỉnh ở Mexico trong cùng thế kỷ. Để phù hợp với văn hóa của thời
đại, các công nghị giáo phận và giáo tỉnh được cử hành theo mô hình Công đồng
Trento, không nhằm đến sự tham gia tích cực của toàn thể Dân Chúa – đoàn thể
giáo dân (Congregatio fidelium) - nhưng để thông qua, ban hành các quy tắc và
quyết định của Công đồng…”[56].
- Chiều kích “hiệp hành” và sự đóng góp của các Giáo Hội Cải
cách: “Các cộng đồng giáo hội được sinh
ra từ cuộc Cải cách Tin lành thúc đẩy một cách tiếp cận nhất định mang tính hiệp
hành, dựa trên giáo thuyết và thực hành mang chiều kích giáo hội, bí tích và
truyền giáo theo Truyền thống Công giáo…”[57].
- Công đồng Vatican II và “định hướng mục vụ mang tính hiệp
hành”: “Công đồng Vatican II tiếp tục đường
hướng của Vatican I và biến nó thành một phần của chương trình “cập nhật hoá”
(aggiornamento), thu lượm những lợi ích của những năm bản lề rồi tổng hợp lại
cách phong phú dưới ánh sáng của Truyền thống….”[58].
- Hiện thực hoá tinh thần hiệp hành của Vatican II với định
chế “Thượng Hội đồng Giám Mục”: “Về
phương diện tái thực thi “chiều kích hiệp hành” trên tầm mức Giáo hội hoàn vũ,
Chân phước Phaolô VI đã thiết lập Thượng hội đồng Giám mục. Đó là một “Công nghị
Giám mục thường trực cho Giáo hội hoàn vũ”, trực tiếp và tức thời chịu quyền lực
của Đức Giáo hoàng, “cung cấp thông tin và đề xuất ý kiến tư vấn”, “cũng có thể
được quyền quyết định khi được Đức Giáo Hoàng uỷ quyền”[59].
IV. HIỆP HÀNH VÀ CÁC “ĐIỂM NHẤN THẦN HỌC”
1. Hiệp hành và các “nền tảng thần học”:
1.1. Hiệp hành trên nền tảng “mầu
nhiệm Ba Ngôi”
“Giáo hội là Đoàn dân
hiệp nhất từ Chúa Ba Ngôi (de Trinitate plebs adunata), được gọi và đủ tư cách
là Dân Chúa để ra đi thực hiện sứ mệnh của mình “đến với Chúa Cha, qua Chúa
Con, trong Chúa Thánh Thần”. Cũng vậy, trong Chúa Kitô và nhờ Chúa Thánh Thần,
Giáo hội chia sẻ đời sống hiệp thông Ba Ngôi, một đời sống muốn ôm lấy toàn thể
nhân loại. Trong ân huệ và sự cam kết hiệp thông, có thể được tìm thấy cội nguồn,
mô thức và phạm vi của tính hiệp hành, vì nó thể hiện phương thức sống và hoạt
động (modus vivendi et operandi) loại biệt của Dân Chúa trong sự tham gia có
trách nhiệm và trật tự của tất cả các thành viên vào việc phân định và thực
hành để hoàn thành sứ vụ của mình. Thực hiện tính hiệp hành sẽ giúp con người
thực sự sống hiệp thông, điều này xuất phát từ sự tự hiến chân thành, kết hiệp
với Thiên Chúa và hiệp nhất với anh chị em trong Chúa Kitô.”[60].
1.2. Hiệp hành trên nền tảng “Nhiệm cục cứu độ” (trong Đức Kitô cùng với
Chúa Thánh Thần)
“Để thực hiện chương
trình cứu rỗi, Chúa Giêsu phục sinh đã ban tặng ân huệ Chúa Thánh Thần cho các
Tông đồ (Ga 20,22). Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, Thần Khí Chúa đã tuôn đổ trên mọi người,
bất kể đến từ đâu, để nghe và đón nhận Tin Mừng (kérygma), tiên báo việc tập họp
tất cả các dân tộc trong một Dân Chúa (Cv 2,11). Trong sâu thẳm trái tim của họ,
Chúa Thánh Thần đã làm phát sinh và định hình sự hiệp thông và sứ mạng của Giáo
hội, Thân thể Chúa Kitô và Đền thờ sống động của Chúa Thánh Thần (Ga 2,21; 1 Cr
2.1-11)[61]…
1.3. Hiệp hành trên nền tảng của “mầu nhiệm Giáo Hội”:
1.4. Hiệp hành trên nền tảng “mầu
nhiệm Thánh Thể”:
“Con đường hiệp hành của
Giáo hội được hình thành và nuôi dưỡng bởi Bí tích Thánh Thể. Đó là "trung
tâm của toàn bộ đời sống Kitô hữu cho Giáo hội phổ quát và địa phương, cũng như
cho mỗi tín hữu riêng lẻ. Cội nguồn và chóp đỉnh của hiệp hành chính là việc cử
hành phụng vụ - nhất là khi tham dự cử hành Thánh Thể cách duy nhất, trọn vẹn,
ý thức và sinh động. Vì sự thông hiệp của chúng ta với Mình và Máu Chúa Kitô,
“nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể, vì tất cả chúng ta đều
chia sẻ cùng một tấm bánh” (1 Cr 10,17)[63]…
2. Hiệp hành trong chiều kích “lữ hành-thừa sai”:
2.1. Đức Kitô là “con đường” để
Dân Chúa hiệp hành:
“Chiều kích hiệp hành
thể hiện tính cách 'hành hương' của Giáo hội. Hình ảnh của Dân Chúa, được tập hợp
từ giữa các quốc gia (Cv 2,1-9; 15,14), thể hiện tính cách xã hội, lịch sử và
truyền giáo của Giáo Hội, tương ứng với điều kiện và ơn gọi của mỗi người là một
khách lữ hành (homo viator). Con đường là hình ảnh làm sáng tỏ mầu nhiệm Chúa
Kitô là Con đường dẫn đến Chúa Cha. Chúa Giêsu là con đường từ Thiên Chúa đến
con người và từ con người đến Thiên Chúa. Để ân sủng tuôn tràn, Ngài tự biến
mình thành một người hành hương bằng cách cắm lều cư ngụ giữa chúng ta (Ga
1,14); sự kiện đó đang diễn ra trên nẻo đường hiệp hành của Giáo hội.”[64].
2.2. Giáo Hội hiệp hành trong cuộc
lữ hành với Đức Kitô:
“Giáo hội đang lữ hành
với Chúa Kitô, qua Chúa Kitô và trong Chúa Kitô. Ngài, người dẫn đường, Con đường
và quê hương của chúng ta, ban cho chúng ta Thánh Thần tình yêu của Ngài (Rm
5,5) để trong Ngài, chúng ta bước đi trên "con đường hoàn hảo nhất"
(1 Cr 12,31). Giáo hội được mời gọi tiếp nối bước chân của Chúa cho đến khi
Ngài trở lại (1 Cr 11,26). Giáo Hội là Dân lữ hành (Cv 9,2; 18,25; 19,9) hướng
về Nước trời (Pl 3,20). Hiệp hành là mô thức lịch sử của cuộc hành trình hiệp
thông hướng tới sự sau cùng (Hr 3,6;4,14). Đức tin, Đức Cậy và Đức Mến hướng dẫn
và thông báo cho cuộc hành hương về sự tập hợp của Chúa "trong viễn cảnh của
đô thành tương lai" (Hr 11,10). Kitô hữu là "lữ hành và khách lạ"
trên thế giới (1 Pr 2,11), được vinh dự với ân huệ và trách nhiệm loan báo Tin
Mừng của Nước Trời cho mọi người.”[65].
3. Hiệp hành với một Giáo Hội hiệp thông mang hình
“Kim tự tháp ngược”:
3.1. Hiệp hành khi tất cả đều là
“chủ thể”:
“Hiệp hành có nghĩa là
toàn thể Giáo hội là một chủ thể và mọi người trong Giáo hội cũng là một chủ thể.
Các tín hữu là những người đồng hành, cùng tiến bước trên đường. Họ được kêu gọi
đóng vai trò tích cực khi cùng chia sẻ chức vụ tư tế của Chúa Kitô, điều đó
cũng có nghĩa họ được Chúa Thánh Thần ban các đặc sủng khác nhau tuỳ theo thiện
ích chung. Đời sống mang tính hiệp hành cho thấy một Giáo hội bao gồm các chủ
thể tự do và khác nhau, liên kết trong mối giây hiệp thông, được thể hiện như một
chủ thể hợp đoàn linh động được xây dựng trên Chúa Kitô, hòn đá góc và trên các
Tông đồ, những trụ cột, như những viên đá sống làm nên "ngôi nhà thiêng
liêng" (1 Pr 2,5), "nơi Thiên Chúa ngự trong Chúa Thánh Thần"
(Ê-phê-sô 2,22)[66].
3.2. Hiệp hành khi Giáo Hội mang
hình “Kim tự tháp ngược”:
“Mang quan điểm giáo hội
của Vatican II, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã phác họa hình ảnh của một Giáo hội
hiệp hành là “một kim tự tháp ngược” bao gồm Dân Chúa và Thượng Hội Đồng Giám mục;
Người kế vị Thánh Phêrô cũng là một thành viên trong số đó, có sứ mệnh kiến tạo
sự hiệp nhất cách đặc biệt. Ở đây, chóp đỉnh trở thành bệ đáy…. Tính Hiệp Hành,
với tư cách là một yếu tố cấu thành của Giáo hội, mang đến cho chúng ta khuôn
khổ diễn giải phù hợp nhất để hiểu chính thừa tác vụ phẩm trật. Chúa Giêsu đã
thành lập Giáo hội bằng cách đặt cộng đoàn Tông đồ làm đầu, trong đó Tông đồ
Phêrô là 'tảng đá' (Mt 16,18), người có trách nhiệm kiên vững đức tin cho anh
em (Lc 22,32). Nhưng trong Giáo Hội này, như trong một kim tự tháp ngược, đỉnh
nằm dưới chân đế, những người thực thi quyền lực lại được gọi là “người phục vụ”,
bởi vì, theo nghĩa gốc của từ này, họ là người nhỏ nhất “[67].
4. Một kết hợp hài hoà trên nền tảng “cảm thức đức
tin” của Dân Chúa:
4.1. Hiệp hành khi kết hợp hài
hoà 3 nhân tố: “mọi người”, “một số người” và “một người”
“Có thể đào sâu chiều kích thần học của tính
hiệp hành trên nền tảng học thuyết về “cảm thức đức tin” (sensus fidei) của Dân
Chúa và tính bí tích của Giám Mục đoàn trong mối giây hiệp thông phẩm trật với
Giám Mục Rôma. Nhãn quan Hội Thánh này mời gọi chúng ta thể hiện sự hiệp thông
mang tính hiệp hành giữa “mọi người”, “một số người” và “một người”. Giữa mọi người là khi ám chỉ việc thực
thi cảm thức đức tin của toàn thể tín hữu nơi các Hội Thánh địa
phương với các cấp độ và mô hình khác nhau, hoặc các miền của Hội thánh địa
phương với Hội Thánh hoàn vũ; giữa “một
số người” khi nhắm đến thừa tác vụ hướng dẫn của Giám Mục Đoàn, hoặc của mỗi
vị với linh mục đoàn; và “một người”
khi nhắm đến tác vụ hiệp nhất của Giám Mục Rôma. Do đó, tính hiệp hành sẽ cho
thấy sự năng động của chiều kích hiệp thông của toàn thể Dân Chúa, của Giám mục
đoàn khi thi hành tác vụ Giám Mục và của tác vụ tối cao của Giám Mục Rôma. Mối
tương quan này thăng tiến sự hiệp nhất giữa tín hữu và Mục Tử, hình ảnh của hiệp
nhất vĩnh cửu trong Chúa Ba Ngôi”. Vì thế “Giáo Hội luôn hướng tới sự viên
mãn của chân lý thần linh, cho đến khi các lời của Thiên Chúa được hoàn tất nơi
chính Giáo Hội”[68].
Có một vấn đề thời sự khá “nóng” của Giáo Hội hoàn vũ liên quan đến
nguyên tắc hiệp hành cơ bản, đó là Hội Đồng Giám Mục Đức đang chuẩn bị một “tiến
trình công nghị với hiệu lực ràng buộc” bất chấp “ý kiến chỉ đạo” của Đức Giáo
Hoàng Phanxicô. Đây là công nghị, theo Hội Đồng Giám Mục Đức, nhằm giải quyết dứt
điểm các vấn đề nảy sinh từ khủng hoảng lạm dụng tình dục nơi hàng giáo sĩ như:
luật độc thân linh mục, vấn đề phong chức linh mục cho phụ nữ, giáo lý về đạo đức
tình dục, các kết hiệp đồng tính, và chủ nghĩa giáo sĩ trị[69]. Chúng ta cầu nguyện cho sự kiện
đặc biệt nầy.
4.2. Hiệp hành khi thể hiện vai
trò “tham gia”:
“Một Giáo hội hiệp
hành là một Giáo hội tham gia và đồng trách nhiệm. Trong khi thực hiện chiều
kích hiệp hành, Giáo Hội mời gọi tất cả mọi người cùng tham gia, theo ơn gọi
riêng của mỗi người, cùng với thẩm quyền được Đức Kitô trao cho Giám mục đoàn
có Giáo hoàng đứng đầu. Sự tham gia hệ tại việc tất cả các tín hữu đều có đủ điều
kiện và được kêu gọi phục vụ lẫn nhau nhờ những ân huệ của Chúa Thánh Thần. Thẩm
quyền của các vị Mục tử là một món quà cụ thể của Thần Linh Đức Kitô, với tư
cách là Đầu để xây dựng toàn bộ Cơ thể, chứ không phải là một chức năng được ủy
thác và mang tính đại diện...”[70].
KẾT LUẬN: “Chúng tôi cùng đi với anh” (Ga 21,3)
Đã nói tới “hiệp hành” thì không thể nói ngắn và đứt đoạn,
vì “đi chung” và “chỉ trên một con đường” cho tới đích, chắc chắn phải “dài đường”.
Quả thật câu chuyện “hiệp hành” là “câu chuyện dài” của lịch
sử “lữ hành” của Giáo Hội muôn nơi muôn thuở, ít ra, là câu chuyện đã diễn ra
như một “xuất phát điểm” sau ngày Chúa Phục Sinh tại bờ biển Ti-bê-ri-a của hai
ngàn năm trước: Ông Si-mon Phê-rô nói với
các ông: “Tôi đi đánh cá đây.” Các ông đáp: “Chúng tôi cùng đi với anh.” Rồi mọi
người ra đi, lên thuyền…” (Ga 21,3).
Trên “con thuyền của Thánh Phêrô” hôm nay, mọi người chúng
ta, không trừ ai, đều được gọi mời “cùng
đi với nhau và với Thánh Phêrô”. Dĩ nhiên, đó mới chỉ là công việc khởi đầu,
nhưng là bước căn bản, để “tấm lưới Nước Trời” được buông trên biển đời dương
thế; nếu không có sự “hiệp hành” nầy, thì “người khách lạ đứng trên bờ” có đợi
chờ thâu đêm suốt sáng cũng chẳng có “cơ hội” để thể hiện quyền năng “cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, sẽ
bắt được cá” (Ga 21,6).
Vì thế cho nên, như câu ngạn ngữ từ ngàn xưa của các dân tộc
Phi Châu mà Đức Phanxicô đã lấy lại để ân cần nhắc nhở các bạn trẻ trong tông
huấn Christus Vivit: “Nếu bạn muốn đi
nhanh, hãy đi một mình. Nếu bạn muốn đi xa, hãy đi với những người khác”[71], công cuộc tông đồ của cho
người trẻ hôm nay nói riêng, hay cuộc sống và sứ vụ của Hội Thánh nói chung, phải
mang tính “hiệp hành”. Bởi vì, đúng như cách định nghĩa của Thánh Giáo phụ
Gioan Kim Khẩu: “Hiệp hành (Sunodos)
chính là danh hiệu đặc trưng của hội thánh”[72].
[1] Bài viết nầy được rút ra và nhuận chính lại từ bài “Muốn đi xa phải đi cùng nhau” trong
TRƯƠNG ĐÌNH HIỀN, Mẹ tôi là thế đấy, Suy
tư, bình luận, nghiên cứu về Mẹ Giáo Hội, nxb An Tôn & Đuốc Sáng 2019, tr.
365-424.
[2] Thế vận hội đặc biệt Hoa Kỳ (The Special
Olympics USA Games): Thế vận hội đặc biệt Hoa Kỳ là một sự kiện Thế vận hội đặc
biệt quốc gia được tổ chức bốn năm một lần tại Hoa Kỳ. Đây là một tổ chức thể
thao dành cho trẻ em và người lớn bị thiểu năng trí tuệ ở Hoa Kỳ. Nó là một phần
của phong trào Thế vận hội đặc biệt toàn cầu. Thế vận hội đặc biệt được thành lập
vào năm 1968 với mục tiêu chính là chấp nhận và chào đón các cá nhân như chính
hiện hữu của riêng mình. Thế vận hội đặc biệt còn cung cấp chương trình đào tạo
thường niên các môn thể thao Olympic và có trụ sở tại 170 quốc gia. Thế vận hội
Hoa Kỳ đặc biệt 2018 được tổ chức tại Seattle, Washington từ ngày 1-6 / 7 /
2018. Hơn 4.000 vận động viên và huấn luyện viên đại diện cho 50 tiểu bang và
Quận Columbia, cùng với sự hỗ trợ của hàng chục ngàn tình nguyện viên và khán
giả, sẽ thi đấu trong 14 môn đồng đội và các môn thể thao cá nhân. Tất cả các sự
kiện thể thao đều miễn phí và mở cửa cho công chúng.
Website https://en.wikipedia.org/wiki/Special_Olympics_USA#cite_note-2010USANationalGames-2,
https://www.specialolympicsusagames.org/
[3] THU PHẠM, Hãy cùng nhau chiến
thắng, Blog của Thu Phạm: https://aba.edu.vn/hay-cung-nhau-chien-thang.html
[4] G. TRẦN ĐỨC ANH, O.P, Hướng
đến tiến trình hiệp hành Đức Thánh Cha đề xướng, Vatican News (26/9/2021).
[5] UỶ BAN THẦN HỌC QUỐC TẾ (International
Theological Commission): “Ủy ban Thần học Quốc tế gồm một nhóm thần học gia
Công Giáo tiếng tăm trên thế giới, được thành lập năm 1969 và được đặt dưới sự
chủ tọa của vị tổng trưởng Bộ Giáo Lý Đức Tin nhằm mục đích nghiên cứu những vấn
đề tín lý quan trọng để trợ giúp cho Đức Giáo Hoàng và Bộ Giáo lý Đức tin”, website
http://www.vietcatholic.org/News/Home/Article/129896. (x. Những văn kiện của Uỷ Ban Thần học Quốc tế, website https://catechesis.net/nhung-van-kien-cua-uy-ban-than-hoc-quoc-te/
)
[6] Ngược lại với “HIỆP HÀNH” thì từ “HÀNH HIỆP” (làm việc nghĩa) lại
được dùng nhiều, nhất là trong văn chương tiểu thuyết kiếm hiệp, võ hiệp: “hành hiệp giang hồ”, “hành hiệp trượng
nghĩa”…(Chú thích của người viết).
[7] UỶ BAN THẦN HỌC QUỐC TẾ (INTERNATIONAL
THEOLOGICAL COMMISSION), Vũ Văn An dịch, Tính Đồng Nghị trong Đời sống và Sứ mệnh của Giáo Hội
(Synodality in the Life and Mission of the Church), website http://ghhv.quetroi.net/60VUVANAN/TinhDongNghiTrongDoiSongVaSuMenhCuaGiaoHoi.pdf
, đăng tháng 11.2019.
[8] BRUNO LEPEU, Un Moment Mep,
Để tỏ lòng tri ân, ôn lại kỷ niệm,
hướng về tương lai. Sài Gòn, 25-26.6.2019, Tính
Hội Đồng trong truyền giáo: một phong cách truyền giáo tại Châu Á, tr. 92.
[9] TÀI LIỆU LÀM VIỆC (INSTRUMENTUM LABORIS) của THĐGM XV, Vũ Văn An
dịch, website http://www.giaoly.org/vn/tai-lie%cc%a3u-lam-vie%cc%a3c-thuo%cc%a3ng-ho%cc%a3i-dong-ve-gioi-tre%cc%89/, đăng ngày 02.01.2019, Số 140: “Hành trình đồng bộ, vốn là một “con đường chúng ta cùng đi với
nhau”, bao gồm một lời mời khẩn cấp để tái khám phá sự phong phú trong căn tính
“dân Chúa”, vốn là thuật ngữ để định nghĩa Giáo Hội như dấu chỉ có tính tiên
tri về sự hiệp thông trong một thế giới thường bị chia rẽ và bất hòa xé nát”.
[10] ĐGH PHANXICÔ, Đức Kitô Hằng
Sống (Christus Vivit), Tông huấn hậu Thượng Hội Đồng, Bản dịch của lm. Lê
Công Đức, pss, nxb Đồng Nai 2019, tr. 136.
[11] HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM, UỶ BAN GIÁO LÝ ĐỨC TIN, BAN TỪ VỰNG
CÔNG GIÁO, Tự điển Công giáo, nxb Tôn
Giáo 2016, tr. 391-393.
[12] Sđd., mục từ Thượng Hội đồng Giám mục,
tr. 875: Thượng: đi; hội: họp; đồng: cùng; giám: coi sóc; mục: chăm sóc. Thượng
hội đồng, có gốc tiếng Hy Lạp là σύνοδος
(sunodos)- được ghép bởi σύν (sun – cùng nhau) và οδος (odos – đường) -, nghĩa
là cùng nhau đi chung con đường.
[13] Để thống nhất theo cách dùng chính thức của HĐGMVN (qua tông huấn
Christus Vivit), chúng ta sẽ sử dụng từ “HIỆP HÀNH” xuyên suốt trong bài khảo
luận nầy (ngay cả những tư liệu được trích dẫn. Riêng bản dịch Việt ngữ tài liệu
“Synodality in the Life and Mission of the Church” của tác giả Vũ Văn An, xin
được chỉnh sửa đôi từ cho phù hợp với ngữ cảnh toàn văn).
[15] BRUNO LEPEU, ibid., tr.
92-93. (Đặc biệt xem phần Ghi chú số 34. Trong nguyên bản tiếng Pháp (tr.
57-58) với Ghi chú “2”, tr. 93: “Điều nầy
được đề cập trong văn kiện Aparecida (tháng 5 năm 2007) về Hoán cải mục vụ và đổi
mới truyền giáo của các cộng đồng (số 369). Từ “tính hiệp hành” (synodalité)”
đã xuất hiện trong bài giảng của Đức Giáo Hoàng Phanxicô, tại Vương cung thánh
đường Vatican, ngày thứ bảy 29 tháng 6 năm 2013, nhân Thánh lễ và nghi thức
trao dây Pallium cho các tân tổng giám mục giáo chủ. Sau đó, ngài đã nhắc lại từ
nầy trong chương trình phỏng vấn với Antonio Spadaro ngày 26 tháng 9 năm 2013:
với ý nghĩa là “cùng đi: giáo dân (dân chúng), các giám mục và giáo hoàng”,
ngài gắn liền khái niệm nầy với việc đối thoại cùng người chính thông giáo
trong văn kiện Ravena năm 2007. Một lần nữa trong Evangelii Gaudium 246, Đức
Phanxicô lại đề cập đến tinh thần hiệp hành như một trong những hoa trái có thể
trổ sinh từ việc đối thoại đại kết…”
[16] CHRISTOPHER R. ALTIERI, Synodality
vs. Synodality, The Catholic world REPORT: “Pope Francis has been vocal and insistent in his calls for a more
synodal Church. “Synodality” is a buzzword — even a keyword — of his
pontificate.”. Nguồn: https://www.catholicworldreport.com/2018/06/17/synodality-vs-synodality/
[17] PAPE FRANÇOIS, Commémoration du
50e anniversaire de l'institution du synode des évêques: “La synodalité, comme dimension constitutive
de l’Église, nous offre le cadre d’interprétation le plus adapté pour
comprendre le ministère hiérarchique lui-même. Si nous comprenons que, comme
dit Saint Jean Chrysostome, “Église et Synode sont synonymes” – parce que
l’Église n’est autre que le “marcher ensemble» du troupeau de Dieu sur les
sentiers de l’histoire à la rencontre du Christ Seigneur – nous comprenons
aussi qu’en son sein personne ne peut être «élevé» au-dessus des autres. Au
contraire, il est nécessaire dans l’Église que chacun s’«abaisse» pour se
mettre au service des frères tout au long du chemin.”, website
[19] Tác phẩm Synodality in the
Life and Mission of the Church (tính Hiệp hành trong Đời sống và Sứ vụ của Hội
Thánh): Ngoài hai phần DẪN NHẬP (THỜI SỰ CỦA TÍNH HIỆP HÀNH) và KẾT THÚC (ĐỒNG
HÀNH TRONG SỰ BẠO DẠN CỦA THẦN KHÍ), tác phẩm trên gồm có 4 Chương:
- Chương 1: TÍNH HIỆP HÀNH TRONG
THÁNH KINH, THÁNH TRUYỀN VÀ LỊCH SỬ.
- Chương 2: THẦN HỌC CỦA TÍNH HIỆP
HÀNH.
- Chương 3: THỰC THI HIỆP HÀNH: ĐỐI
TƯỢNG, CẤU TRÚC, QUY TRÌNH VÀ SỰ KIỆN.
- Chương 4: HOÁN CẢI ĐỂ CANH TÂN
TÍNH HIỆP HÀNH.
[21] Bản văn tài liệu được sử dụng ở đây có tham khảo bản dịch Việt ngữ
của tác giả Vũ Văn An cùng với một vài thay đổi cách dùng từ cho phù hợp với bối
cảnh hiện tại.
[30] BRUNO CHENU, Disciples
d'Emmaüs, Bayard, Paris, 2003, p. 147: “Khái
niệm “HIỆP HÀNH” (SYNODALITÉ), trong cái nhìn bao gồm nhiều ý nghĩa, gần như ít
được chú trọng nơi Giáo Hội Phương Tây trong suốt thiên niên kỷ hai. Ngày nay,
thuật ngữ này được nhiều người sử dụng, nhưng thường lẫn lộn giữa hai khái niệm
“công đồng tính” (conciliarité) và “tập thể tính” (collégialité). “Một đàng cho
rằng: “tính hiệp hành” (synodalité) ám chỉ kế hoạch của Giáo hội địa phương
trong khi “tính công đồng” (conciliarité) nhằm đến chương trình của Giáo Hội
hoàn vũ... Đàng khác lại hiểu rằng: ‘tính hiệp hành’ (synodalité) hướng đến
tương quan tín hữu thuộc tập thể tính (collégialité) của hàng Giám Mục” (Giám Mục
đoàn). Như vậy, hạn từ “hiệp hành” vừa mang ý nghĩa “công đồng tính” khi nói đến
mối tương quan giữa các cộng đoàn Giáo Hội, vừa mang ý nghĩa “tập thể tính” khi
quy chiếu về những liên hệ giữa các Giám Mục. Như thế, “hiệp hành” (synodalité)
chính là “thực tại mang tính hiệp thông của Giáo hội đang được thể hiện.” Vì thế,
việc áp dụng thực hành (nguyên tắc) “hiệp hành” luôn dành ưu tiên hướng đến
giáo phận và giáo xứ.”, website https://fr.wiktionary.org/wiki/synodalit%C3%A9.
[54] Đây là cuộc ly giáo thuộc nội bộ Giáo Hội phương tây, chủ yếu đến
từ hai Giáo Hội Pháp và Ý kể từ cuộc bầu cử tân Giáo Hoàng Urbano VI (năm
1378), kế nhiệm Giáo hoàng Gregorio XI, người vừa dời toà Thánh từ Avignon
(Pháp) về lại Rôma (1376) sau gần 70 năm đặt tại Avignon (1309-1377). Sau đó ít
lâu, một số lớn hồng y (Pháp) không chấp nhận Giáo hoàng Urbano VI và đã bầu chọn
một Giáo hoàng là Clêmentê VII; vị nầy tái lập toà Avignon để đối lập với Giáo
hoàng Urbano VI ở Rôma. Cho tới năm 1409, một Công đồng không chính thức họp tại
Pisa đã bầu chọn thêm một Giáo hoàng là Alexandre V. Kể từ đó, Giáo Hội phương
Tây có 3 Giáo hoàng. Mãi cho đến năm 1414, 3 Giáo hoàng đương nhiệm khi ấy là:
Toà Rôma: Đức Gregorio XII; Toà Avignon: Đức Bênêđictô XIII, và Toà Pisa: Đức
Gioan XXIII. Vào năm 1414, Đức Gioan XXIII triệu tập Công Đồng tại Konstanz (Đức)
nhờ uy tín của vua Sigismund với sự đồng thuận của Đức Grêgôriô XII (Rôma)
nhưng Đức Bênêđictô XIII (Avignon) không chấp nhận. Công Đồng diễn ra hơn 4 năm
(1414-1418) và đã quyết nghị: cả 3 Giáo hoàng phải từ chức và bầu ra một tân
giáo hoàng. Đức Gioan XXIII (Pisa) bỏ trốn và bị kết án (di giáo, ly giáo, mại
thánh, phản luân lý…), Grêgôriô XII chấp nhận từ nhiệm. Đức Bênêđictô XIII
(Avignon) bất tuân và bị rút phép thông công. Đức Giáo Hoàng mới được Công Đồng
Constance bầu lên là Martino V, chấm dứt 40 năm phân ly, rạn nứt (1378-1418),
tái lập sự hiệp nhất cho Giáo Hội Tây phương. (Nguồn tổng hợp).
[57] Sđd,
số 36: “Trong
cơ cấu vận hành mang tính “hiệp hành” của cộng đồng giáo hội, các tín hữu, nhờ
chức tư tế cộng đồng của bí tích rửa tội, được tham gia nhiều hơn; và cơ cấu nầy
được coi là cấu trúc phù hợp nhất với đời sống của cộng đồng Kitô giáo theo
Lutheran. Tất cả các tín hữu không những được mời gọi tham gia vào cuộc tuyển
chọn các thừa tác viên mà còn có trách nhiệm củng cố sự trung thành với giáo lý
Tin Mừng và trật tự Hội thánh… Các cộng đồng giáo hội cải cách theo học thuyết
“4 tác vụ” của Jean Calvin (Mục sư, giảng viên, linh mục và phó tế), theo đó,
linh mục chỉ là đại diện cho phẩm giá và uy quyền được trao cho mọi tín hữu nhờ
phép Rửa tội. Do đó, các linh mục, cùng với các Mục sư, chịu trách nhiệm về cộng
đoàn địa phương, và trong tiến trình công nghị, luôn dự kiến sự có mặt của hội
đồng giảng viên và các thừa tác viên khác, với một đại đa số tín hữu trung
kiên.
Các công đồng (công nghị) luôn là một phần trong cuộc sống
của Cộng đồng Anh giáo ở tất cả các cấp - địa phương, quốc gia và quốc tế. Điều
đó có thể được diễn tả bằng nguyên tắc sau: Giáo Hội được điều hành với công đồng
nhưng được hướng dẫn bởi Giám mục (synodically governed, but episcopally led);
điều đó không đơn giản chỉ là sự phân quyền giữa lập pháp (thuộc về các Công đồng,
trong đó Dân Chúa được tham gia tất cả các lĩnh vực) và hành pháp (cụ thể là
Các giám mục), nhưng đúng hơn, một mặt chính là sự hiệp lực giữa đặc sủng và uy
quyền cá nhân của Đức Giám mục, và mặt khác, đó là chính ân huệ Chúa Thánh Thần
tuôn tràn trên toàn thể cộng đồng.”
[58] Sđd, số 40: Hiến
chế tín lý Lumen Gentium đưa ra một
tầm nhìn về bản chất và sứ mệnh của Giáo hội chính là sự hiệp thông, với các tiền
đề thần học làm sống lại chiều kích hiệp hành: Giáo hội trong cái nhìn thần bí
và bí tích; bản chất của Giáo Hội là Dân Chúa lữ hành qua lịch sử tiến về quê
trời, đó là đoàn dân bao gồm tất cả các thành viên nhờ phép Rửa tội, có chung
phẩm giá con Chúa và được sai đi cùng một sứ vụ; học thuyết mang chiều kích bí
tích về chức giám mục và Giám mục đoàn trong sự hiệp thông phẩm trật với Giám mục
Rôma.
Sắc lệnh
Christus Dominus nhấn mạnh Giáo hội địa phương là một chủ thể, khuyến
khích các Giám mục thực hiện việc chăm sóc mục vụ của Giáo hội được ủy thác cho
họ trong sự hiệp thông với hàng giáo sĩ, tận dụng sự hỗ trợ của ban tư vấn hoặc
hội đồng linh mục để thành lập một Hội đồng mục vụ trong mỗi Giáo phận, có sự
tham gia của các linh mục, tu sĩ và giáo dân. Sắc lệnh nầy cũng mong muốn rằng,
tuỳ theo mức độ hiệp thông giữa các Giáo hội trong khu vực, cần phục hồi định
chế đáng kính Thượng hội đồng và Công đồng, và đẩy mạnh các Hội nghị Giám mục.
Trong Sắc lệnh Orientalium Ecclesiarum,
thể chế của Toà Thượng phụ và mô hình thượng hội đồng của thể chế nầy cũng được
đề xuất trong mối tương quan với các Giáo hội Công giáo Đông phương.”
[59] Sđd,
số 41: “Cơ
cấu Thượng Hội Đồng nhằm mục đích để Dân Chúa tiếp tục hưởng những lợi ích từ mối
hiệp thông mà Công đồng mang lại. Thánh
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, nhân dịp Năm Thánh 2000, đã đưa ra một đánh giá về
con đường Hội Thánh trải qua – vừa thích nghi với giáo huấn của Vatican II – vừa
trung thành với căn tính cốt lõi của mầu nhiệm Hội Thánh với nhiều cấu trúc của
sự hiệp thông. Trong số nhiều vấn đề - ngài nhấn mạnh - "nhưng chắc chắn
còn nhiều việc phải làm, để nhận ra tất cả tiềm năng của những công cụ hiệp
thông này (và) để đáp ứng kịp thời và hiệu quả những vấn đề mà Giáo hội phải đối
mặt khi thời gian thay đổi nhanh chóng ".
Trong hơn năm mươi năm trôi qua kể từ Công đồng cho đến
ngày hôm nay, nhận thức về Giáo hội như sự hiệp thông đã phát triển trong các
lĩnh vực rộng lớn của Dân Chúa và đã có những kinh nghiệm tích cực về hiệp hành
ở cấp giáo phận, khu vực và toàn cầu. Cụ thể, đã có 14 cuộc họp thông thường của
Thượng hội đồng Giám mục; kinh nghiệm và hoạt động của các Hội nghị Giám mục đã
phát triển; ở khắp mọi nơi đã có các đại hội mang tính Thượng Hội Đồng. Các
Công đồng cũng đã ra đời để thúc đẩy sự hiệp thông và hợp tác giữa các Giáo hội
và Giám mục địa phương để phát triển các đường hướng mục vụ tại các vùng miền,
lục địa.”
[69] Đọc thêm các bài viết liên quan với các đường link sau:
- http://www.vietcatholicnews.org/News/Html/252216.htm
- http://www.vietcatholicnews.org/News/Html/252217.htm
- http://www.vietcatholicnews.org/News/Html/252218.htm
[72] UỶ BAN THẦN HỌC QUỐC TẾ, Tính
Đồng Nghị…, sđd, số 3.