CHỐNG LẠI
CHỦ NGHĨA ĐẮC THẮNG VÀ TINH THẦN THẾ TỤC
KỲ 2: “NHỮNG NHÂN VẬT CHÍNH” CỦA CUỘC CHIẾN
Diego
Fares, S.J
Nhìn bề ngoài, chủ nghĩa đắc thắng có vẻ giống
như mọi cơn cám dỗ khác, nhưng sâu xa bên trong, đó là gốc rễ của mọi cám dỗ
khác chống lại kế hoạch của Thiên Chúa.
Bối cảnh của ‘Những bức thư trong cảnh hoạn nạn’
Điều quan trọng cần nhớ là Đức Thánh Cha (ĐTC)
nói đến chủ đề “chủ nghĩa đắc thắng” trong bối cảnh nào. Ngài bàn về nó trong
thời kỳ hoạn nạn ở Córdoba, từ tháng 6 năm 1990 đến tháng 5 năm 1992. Vào tháng
12 năm 1990, ngài viết một loạt ghi chú, sau đó được xuất bản với tựa đề
“Silencio y Palabra”[1] –
như ngài giải thích trong phần giới thiệu – để giúp phân định “một cộng đồng
tôn giáo đang trải qua thời kỳ khó khăn”[2].
Nói cách khác, tính chất của bài viết rõ ràng mang tính mục vụ, nhắm đến một cộng
đồng cụ thể đang ở trong một hoàn cảnh cụ thể.
Austen Ivereigh – chắc chắn là người viết tiểu sử
giỏi nhất của ĐTC –nhận thấy văn bản này được viết trong thời kỳ hoạn nạn nên
có sức “hấp dẫn gấp đôi”: “Cộng đồng ở đây rõ ràng là tỉnh Dòng Tên Argentina,
và điều khiến cho sự phân định trở nên hấp dẫn gấp đôi là các sức mạnh tâm linh
mà ngài đã nhìn thấy ở đó, công việc trong cuộc khủng hoảng của nó cũng giống
như cách mà Đức Giáo hoàng Phanxicô sau này tìm cách đấu tranh trong toàn thể
Giáo hội”[3].
Chính điều này đã khiến tờ La Civiltà
Cattolica, với sự đồng ý của ĐTC, biên tập lại các Bức thư trong hoạn nạn
và bình luận về chúng. Thái độ kiểu mẫu về một “cuộc bách hại lớn”, chẳng hạn
như thái độ mà những Bức thư này xuất hiện, “cung cấp một khuôn mẫu tinh thần để
đối phó với bất kỳ cuộc bách hại nào khác. Nó tuân theo tinh thần của Thư Thánh
Phêrô là ‘đừng ngạc nhiên trước thử thách rực lửa’ xảy ra (1 Pr 4, 12) khi có sự
bách hại”
Đây là một văn bản tìm kiếm “sự an ủi của đức
tin chung” trong thời kỳ hoạn nạn. ĐTC tự áp đặt sự im lặng cho mình về hoàn cảnh
nặng nề mà ngài đang trải qua, và khi ngài quyết định lên tiếng để giúp đỡ người
khác, vì không thể “đưa ra một cái nhìn tổng thể rõ ràng” về cuộc xung đột,
ngài “đã tìm kiếm và tìm thấy” trong Kinh thánh, trong Bài tập Linh Thao và
trong các Bức Thư hoạn nạn, được “phương pháp đọc lịch sử”[5].
Chúng ta có thể nói rằng cách đọc lịch sử được
ngài áp dụng mang tính chiêm niệm trong hành động. Đó là một phương pháp bao gồm
những bước thực tế chứ không chỉ những bước lý thuyết để làm cho tinh thần xấu
của chủ nghĩa đắc thắng “lộ diện”. Ngài chọn một khoảng thời gian im lặng; ngài
tự rút lui và không thảo luận về vấn đề này; ngài buộc tội mình trước người
khác. Đây là những cách để nhường chỗ cho ánh sáng của Thiên Chúa. Cuối cùng,
ngài không làm gián đoạn sự im lặng để xây dựng một bài diễn văn trừu tượng,
nhưng để đưa ra một nhận định mang tính Tin Mừng về một tình huống thực tế[6]. Đối
với tình huống phức tạp này, cùng lắm, người ta chỉ có thể thêm “chú thích và
giải thích rõ ràng”, khi người ta thấy dấu hiệu của sự cám dỗ là xây dựng dự án
của riêng mình thay vì dự án của Chúa.
Phương cách và gốc rễ của
chủ nghĩa đắc thắng
Trong “Silencio y palabra”, ĐTC mô tả các thái độ
và tìm kiếm mối liên hệ giữa những cám dỗ khác nhau chống lại kế hoạch của
Thiên Chúa và những cám dỗ đặc trưng hơn của thời kỳ hoạn nạn. Một số trường hợp
như vậy đã xuất hiện trong tình huống cụ thể đó. Trong số những người khác, có
sự chia rẽ thành các phe phái nội bộ: “Người hoạt động của ‘phe phái’ là người
‘vượt ra ngoài’ cộng đồng, với dự án cá nhân của họ: họ là proagón (2Ga
1,9)”[7]. Một
cám dỗ khác là tham vọng được ngụy trang dưới dạng lòng đạo đức: “Người ta tìm
kiếm sự thăng tiến cho riêng mình, nhưng theo một cách lén lút […], trước đó đã
chọn con đường riêng của mình: ‘Tôi phục vụ bạn, nhưng theo cách riêng của tôi’”[8]. Một
cám dỗ khác là thiếu sự nghèo khó của bữa tiệc nhỏ, đến nỗi “bữa tiệc của
Chúa”, vốn luôn mang chiều kích cánh chung, bị thu gọn thành một phe phái nhỏ.
Một cám dỗ khác là sự gắn bó với vùng tranh tối
tranh sáng và sự ngờ vực. Người bất tín lại “sở hữu một sự tự tin gần giống với
chứng hoang tưởng tự đại, phát triển từ ít nhiều thành công mà họ có được”[9].
Sau đó là việc đàm phán: Nếu một người từ bỏ [một cuộc đàm phán xấu] thì đó sẽ
là dấu hiệu cho thấy người đó đang tìm kiếm lợi ích chung”[10].
Cuối cùng, chủ nghĩa đắc thắng và biểu hiện ngấm ngầm nhất của nó, tinh thần trần
tục, luôn luôn dẫn đến một số sự thù địch chống lại những người công chính[11].
Sức mạnh mà chúng ta nhận thấy trong những mô tả của ĐTC nằm ở chỗ ngài không
tính đến “ý tưởng” mà tính đến những tình huống thực tế. Mặt khác, ĐTC đào sâu
vào các cám dỗ cho đến khi ngài nhận ra căn nguyên chung của chúng: căn nguyên ấy
là việc thập giá bị từ chối và đi tìm vinh dự bản thân thay vì vinh quang lớn
hơn của Thiên Chúa. Sau đó, ngài tìm kiếm những biện pháp chữa trị cụ thể và cá
vị để khám phá, đối đầu và từ chối những cám dỗ như vậy, đồng thời chỉ ra “những
nhân vật chính thực sự” của cuộc chiến này: Thiên Chúa và Satan.
Chủ nghĩa đắc thắng có vẻ giống như bất kỳ cám dỗ
nào khác, nhưng vì nó nằm ở gốc rễ của mọi cám dỗ chống lại thập giá Chúa Kitô
và vinh quang của Chúa Cha[12],
nên ở đây nó lộ rõ sự chống đối chính kế hoạch của Thiên Chúa. Nói về các tu sĩ
Dòng Tên vào năm 1985, ĐTC bày tỏ một quan điểm có giá trị cho tất cả mọi người:
“Cốt lõi căn tính Dòng Tên được tìm thấy – như Thánh Ignatius đã nói – trong việc
gắn bó với thập giá (qua nghèo khó và tủi nhục); thập giá là sự khải hoàn đích
thực, tội căn bản của tu sĩ Dòng Tên chính xác là việc làm méo mó sự khải hoàn
của thập giá: ‘Chủ nghĩa đắc thắng’ trở thành linh hồn của mọi hành động của tu
sĩ; ‘huyền thoại về thành công’, việc theo đuổi tư lợi, sở thích riêng, quan điểm
riêng, được mến chuộng, quyền lực”[13].
(La Civiltà Cattolica, 1.10.2022)
Chuyển ngữ:
Uyên Thi, S.J
Nguồn: dongten.net (28.02.2024)
Xem Thêm:
[1] Tiêu đề này được lấy
cảm hứng từ Romano Guardini, người nói về sự căng thẳng giữa im lặng và lời
nói, khác xa với sự cực đoan của chủ nghĩa câm lặng và tiếng ồn (xem R.
Guardini, Etica, Brescia, Morcelliana, 2021).
[2] J. M. Bergoglio,
“Silencio y Palabra”, trong Reflexiones espirituales, Buenos Aires, USAL, 1992,
19. Hiện nay, trong Francis, “Silenzio e parola”, in Id., Non Fatevi rubare la
speranza, Milan, Mondadori, 2013, 85.
[3] A. Ivereigh, The Great Reformer. Francis and
the Making of a Radical Pope, New York, Henry Holt, 2014.
[4] D. Fares, “Contro lo
spirito di ‘accanimento’,” in J. M. Bergoglio-Francesco, Lettere della tribolazione, Milan, Àncora, 2019, 71.
[6] Yếu tố then chốt
trong sự phân định của ngài là việc coi chủ nghĩa đắc thắng như một cám dỗ có vẻ
ngoài tốt đẹp. Vì nó sở hữu một sự rõ ràng (ít nhất là trong cao trào của câu
chuyện kể), chúng ta không được phản đối nó nhiều hơn (nghĩa là chống lại một
công thức đắc thắng bằng những ý tưởng khác) mà phải dành thời gian. Vì ánh
sáng rực rỡ của nó giống như ánh chớp chứ không phải ánh sáng dịu dàng của Chúa
nên chúng ta phải đợi cho đến khi tia sáng chói lóa biến mất.
[11] “Các thượng tế cùng với
các thầy thông luật và các trưởng lão cũng chế nhạo Ngài rằng: ‘Nó đã cứu kẻ
khác mà không thể tự cứu mình. Ông là Vua của Israel; bây giờ hãy xuống khỏi thập
giá đi thì chúng ta mới tin’” (Mt 27:41-42).
[12] Ví dụ, trong Dante, tội
nguyên tổ và mong muốn được giống Chúa của Adam và Eva có mối liên hệ với nhau.
Chiếm đoạt thứ không phải của mình là kiêu ngạo.
[13] J.M. Bergoglio, Bài
phát biểu tại nhà thờ Dòng Tên ở Mendoza, ngày 23 tháng 8 năm 1985, trong bối cảnh
kỷ niệm 400 năm ngày các tu sĩ Dòng Tên đến vùng đất này. Bây giờ có trong Id.,
Cambiamo!, op. cit., 267.