BIỆN PHÂN ĐỨC TIN
TRONG MỘT NỀN VĂN HÓA HẬU KITÔ GIÁO
Tác giả: Paolo
Gamberini, SJ
Nguồn: laciviltacattolica.com
Ngày xuất bản: 4
tháng Sáu năm 2020.
Ngày cập nhật sau
cùng: 6 tháng Tám năm 2020.
Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung
WHĐ (30.8.2020)
– Trong bài phát biểu trước những người tham dự Hội nghị Hòa bình Quốc tế tại
Al-Azhar (Cairo, Ai Cập) vào ngày 28 tháng 4 năm 2017, Đức Thánh Cha Phanxicô
nhắc nhở thính giả rằng đối thoại trên bình diện toàn cầu có thể xảy ra nếu
tuân thủ ba nhiệm vụ cơ bản: tôn trọng bản sắc của chính mình và của người
khác, dũng cảm chấp nhận sự khác biệt, và sẵn sàng nhận ra sự chân thành trong
ý định của người khác.[1]
Trong Evangelii
Gaudium (EG), tông huấn của ngài về “Niềm vui Tin Mừng”, Đức Thánh Cha Phanxicô
nhắc lại rằng “sự cởi mở thực sự bao gồm việc luôn kiên định với những xác tín
sâu sắc nhất của mình, rõ ràng và vui vẻ trong bản sắc của chính mình, đồng thời
là ‘cởi mở để hiểu những điều của bên kia’ và ‘biết rằng cuộc đối thoại có thể
làm phong phú thêm cho mỗi bên” (251). Bắt nguồn từ truyền thống riêng của một
người và cởi mở với những người khác, cả hai là đặc điểm cấu thành đức tin Kitô
giáo.
“Logos”[2]
của đức tin
Ngay từ ban đầu, các lý lẽ của đức tin Kitô giáo đã bị ảnh hưởng bởi các bối cảnh văn hóa khác nhau: Hy Lạp hóa, Kinh viện Trung cổ, Cải cách, Khai sáng, Chủ nghĩa Hiện đại, Phong trào Về Nguồn và Đa nguyên thuyết. Làm thế nào để các lý lẽ của đức tin Kitô giáo vẫn trung thành với bản sắc của mình và đồng thời cởi mở với các tiến trình văn hóa đang diễn ra trong bối cảnh toàn cầu và đa tín ngưỡng của chúng ta?
Một cách để trả lời câu hỏi này là ghi nhớ bài diễn
văn mà Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI đã đưa ra tại Đại học Regensburg vào ngày 12
tháng 9 năm 2006. Trong bài phát biểu đó, ngài làm nổi bật cung cách đức tin
Kitô giáo phải gắn kết với sự xác tín rằng bạo lực không phù hợp với bản tính của
Thiên Chúa và bản chất của lý trí: không hành động một cách hợp lý (σὺν λόγω[3]), do đó, hành động thô bạo, là trái với
bản tính của Thiên Chúa. Theo đó, Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI đã gián tiếp liên
kết logos với agape[4],
là lý do để bất bạo động, và khẳng định rằng “Thiên Chúa thực sự là Thiên Chúa
đã tự mặc khải mình dưới dạng logos
và, trong tư cách logos, Ngài đã hành
động và tiếp tục hành động cách yêu thương thay mặt cho chúng ta.” Chúng ta được
nhắc nhở về điều kiện nhận thức luận của Augustinô: “Non intratur in veritatem
nisi per caritatem” (Một người không đi vào chân lý ngoại trừ thông qua lòng
bác ái).[5]
Tình bác ái làm cho các lý lẽ của đức tin Kitô giáo có thể mở ra
cho các tiến trình mà Giáo hội đang sống trong thế giới hiện đại mà không nhượng
bộ các hình thức của chủ nghĩa chính thống duy văn tự và tránh bất kỳ loại “Lựa
chọn Bênêđictô” nào.[6]
Trong cuộc phỏng vấn đầu tiên dành cho La Civiltà
Cattolica, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhận xét rằng “Thiên Chúa tỏ mình ra trong
mặc khải lịch sử, trong lịch sử. Thời gian bắt đầu các quá trình, và không gian
kết tinh chúng. Thiên Chúa ở trong lịch sử, ở trong các quá trình.”[7]
Các lý lẽ của đức tin Kitô giáo phải
được chuẩn bị để từ bỏ mọi hình thức kết tinh và cứng nhắc, và sẵn sàng trở
thành một quá trình phân định nhiều hơn trong thế giới và trong lịch sử của các
nền văn hóa của con người. Đức Thánh Cha Phanxicô mô tả tiến trình này là hoan
nghênh “các luồng tư tưởng khác nhau trong triết học, thần học và thực hành mục
vụ” (EG 40). Các lý lẽ định hình đức
tin Kitô giáo “không phải là một khối giáo thuyết được bảo vệ bởi tất cả mọi
người và không có chỗ cho sắc thái khác biệt” nhưng được định hình theo sự đa dạng
và thực chất giúp “làm nổi bật và phát triển các khía cạnh khác nhau của sự
phong phú không ngừng của Tin Mừng.”
Chúng ta sẽ hình
thành ba nguyên tắc cho tiến trình phân định này có thể hướng dẫn chúng ta
trong nhiệm vụ đại kết và giúp chúng ta dung hòa các giáo lý đức tin giữa các
Giáo hội Kitô. Nguyên tắc đầu tiên là “hệ thống phẩm trật của sự thật”; thứ
hai, nguyên tắc “sự tiến hóa của tín điều”; và thứ ba, nguyên tắc “đức tin sống
động”.
Với mục đích tranh luận của chúng ta, các thuật
ngữ “giáo thuyết” và “tín điều” được coi là từ đồng nghĩa, gạt bỏ câu hỏi về thẩm
quyền mà cái sau được phân biệt với cái trước. Ở một khía cạnh nào đó, không phải
tất cả các giáo lý đức tin và luân lý đều trở thành tín điều, mà chỉ những giáo
lý nào đã được tuyên bố là do Thiên Chúa mặc khải, hoặc về bản chất gắn liền với
Mặc khải do cơ quan quyền lực cao nhất của Giáo hội, các Công đồng và Huấn quyền
không thể sai lầm của Đức Giáo Hoàng… Mặt khác, cả giáo thuyết và tín điều đều
được coi là giáo lý của Giáo hội Công giáo có giá trị ràng buộc đối với tất cả
các tín hữu.
Sự phân biệt giữa giáo thuyết "của" và
"trong"
Trong Evangelii
Gaudium, Đức Thánh Cha Phanxicô nêu bật nguyên tắc đầu tiên trong biện phân
giáo thuyết. Trích dẫn đoạn 11 của Sắc lệnh Đại kết, Unitatis Redintegratio[8], Đức
Thánh Cha Phanxicô chỉ ra “phẩm trật của các chân lý”. Các tín điều về đức tin
và luân lý “thay đổi theo mối quan hệ của chúng với nền tảng của đức tin Kitô
giáo” (EG 36). Đặc biệt giải quyết vấn đề đối thoại đại kết trong cùng một lời
khuyến dụ, Đức Giáo hoàng Phanxicô nhấn mạnh nguyên tắc phân định này: “nếu […]
chúng ta ghi nhớ nguyên tắc về phẩm trật chân lý, chúng ta sẽ có thể đi đến, một
cách dứt khoát, những cách diễn đạt chung về việc loan báo, phục vụ và làm chứng
[…] Biết bao điều
quan trọng gắn kết chúng ta! Nếu chúng ta thực sự tin vào sự hoạt động tự do dồi
dào của Chúa Thánh Thần, chúng ta có thể học hỏi lẫn nhau rất nhiều điều!” (EG
246).
Nguyên tắc thứ
hai trong biện phân giáo thuyết là nguyên tắc về sự tiến triển của giáo lý, như
John Henry Newman giải thích trong bài tiểu luận Về sự phát triển của giáo lý Kitô giáo. Sự phát triển của giáo lý
không chỉ đơn giản bao gồm sự thay đổi hình thức bên ngoài của giáo lý, với cốt
lõi và bản chất là bất biến. Sự tiến hóa như vậy sẽ chỉ bao gồm một chuyển động
từ cũ sang mới, chỉ làm rõ ràng những điều đã có sẵn trong giáo thuyết, mà
không chú ý đến các yếu tố bên ngoài. Trong trường hợp như vậy, tiến trình truyền
thống sẽ không ảnh hưởng từ bên trong sự mặc khải chân lý. Walter Kasper giải
thích: “Truyền thống không thể được so sánh như một đồng xu chết được truyền từ
tay này sang tay khác; nó không bao gồm trong các công thức chết mà bạn chỉ cần
lặp lại. Nó không chỉ đơn giản là phát triển những tiền đề đã có trước. Sức sống
của truyền thống thậm chí không nằm ở sự thay đổi cách diễn đạt sao cho phù hợp
hơn với thời thế thay đổi nhưng vẫn giữ nguyên nội dung. Về mặt thần học, chúng
ta hiểu được lịch sử tính khi chúng ta nhận ra rằng cũng một truyền thống đó
nhưng luôn bị đặt lại nghi vấn khi phải đối mặt với những hoàn cảnh lịch sử mới.”[9]
Nguyên tắc thứ ba
của biện phân giáo lý về đức tin, đức tin sống động, có thể được suy luận trong
Evangelii Gaudium, nơi Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc lại rằng: “Có những lúc các
tín hữu, khi nghe ngôn ngữ hoàn toàn chính thống, họ loại bỏ một điều gì đó xa
lạ với Tin Mừng đích thực của Chúa Giêsu, bởi vì ngôn ngữ đó xa lạ với cách họ nói với nhau và hiểu nhau.
Với mục đích thánh thiện là truyền đạt chân lý về Thiên Chúa và loài người, đôi
khi chúng ta lại trao cho họ một vị thần giả tạo và một lý tưởng nhân loại không phải là Kitô giáo. Làm như thế, chúng
ta bám chặt vào một thứ công thức hóa nhưng không truyền tải được bản chất của
nó”(EG 41).
Chúng ta phải ghi
nhớ rằng chứng từ của đức tin không phải là chứng từ duy lý, vì hành vi đức tin
đòi hỏi sự đồng ý của ý chí thì mới thực hiện được.[10] Không bao
giờ có thể vượt qua được sự căng thẳng luôn năng động giữa chứng tá đức tin, do
tác động bên ngoài của ý chí và chứng từ duy lý. Sự căng thẳng như vậy tạo ra
những tình huống bất đồng giữa trí thông minh bám chặt vào giáo lý đức tin và
trí thông minh bám chặt vào sự thật không thể chối cãi. Đó là sự khác biệt dẫn
đến việc nghiên cứu, thẩm tra và khám phá trong cùng một niềm tin gắn bó không
thể chối cãi và không thể lay chuyển. Hành vi đức tin không loại bỏ sự chuyển động
của trí thông minh đi tìm bằng chứng của những gì được tin tưởng, và do đó, thừa
nhận sự khác biệt giữa “tin tưởng” và “suy nghĩ”. Sự căng thẳng nói trên xác định
mối ràng buộc tin tưởng giữa lương
tâm và niềm tin được hiểu như một mối ràng buộc sống động, trong khi niềm tin khi đã chết thì làm mờ đi sự khác biệt
giữa “tin tưởng” và “suy nghĩ”, coi “giáo lý” là không thể thay đổi. Sự sai lệch
chân lý đức tin như vậy làm cho các giáo lý về đức tin trở thành những kiểu
công thức hóa cứng nhắc.
Giữa thực tại
“khách quan” (fides quae) và thực tại “chủ quan” của đức tin (fides qua) có một
sự vận động thấu nhập tương thuộc lẫn
nhau, do đó “tính khách quan” của việc tuyên bố giáo điều (niềm tin) nằm trong chứ không nằm ngoài hành vi đức tin (tin tưởng). Một mệnh đề được xác định rõ
ràng về đức tin (niềm tin) sẽ không
được hiểu và giải thích một cách chính xác nếu về bản chất nó không hàm ý có sự
dính dáng của niềm tin trong cuộc sống. “Chân lý” trong các công thức giáo điều
không phải là thứ phải được khách quan hóa và sửa đổi, nằm ngoài quá trình tin
tưởng và sự đồng ý tự do của chủ thể tuyên xưng chân lý đó. Bất kỳ cách diễn đạt
giáo điều nào cũng mất giá trị của mình, ngay cả “bản chất” của nó, nếu nó
không thể đánh thức hành vi đức tin nơi người tin. Thánh Tôma Aquinô nhận định
rõ ràng: “Actus credendi non terminatur ad enuntiabile sed ad rem.[11]”[12]
Tại Đại hội của Giáo Hội Ý ở Florence vào tháng 11 năm 2015, Đức Giáo Hoàng
Phanxicô nhắc nhở những người Công giáo rằng “Giáo lý Kitô giáo không phải là một
hệ thống khép kín không thể đưa ra câu hỏi, nghi ngờ, hỏi han, nhưng sống động,
biết cách khuấy động tâm trí, biết cách làm sinh động tâm hồn.”[13]
Trong Amoris
Laetitia (AL), tông huấn về “Niềm vui của Tình yêu”, Đức Thánh Cha Phanxicô
công nhận nhiệm vụ quyết định mà các tín hữu phải có trong việc “thực hiện sự
phân định của chính mình trong những tình huống phức tạp. Chúng ta đã được mời
gọi để đào luyện lương tâm, chứ không phải để thay thế chúng”(AL 37). Sự biện
phân không chỉ có nghĩa là áp dụng các giáo lý hoặc quy tắc vào cuộc sống thực
tế; sự biện phân là năng động và “nó phải luôn luôn mở ra cho các giai đoạn
phát triển mới và mở ra cho các quyết định mới có thể giúp lý tưởng được thực
hiện đầy đủ hơn” (AL 303).
Những tuyên bố
chung gần đây giữa Giáo hội Công giáo và các Giáo hội khác, chẳng hạn như,
Tuyên bố chung về Kitô học giữa Giáo hội Công giáo và Giáo hội Assyria ở phương
Đông (1994) và Tuyên bố chung về Giáo lý Công chính hóa (1999), đã cho thấy rõ
ràng làm thế nào việc biện phân không chỉ tham gia vào đời sống của Giáo Hội ở
cấp độ mục vụ và cá nhân mà còn ở cấp độ tín lý và đại kết.
Tuyên ngôn chung
về Kitô học đã nói rằng quá trình đối thoại và biện phân đã giúp các Giáo hội
hiểu rõ hơn rằng những khác biệt về giáo lý trong quá khứ, ngày nay không còn được hiểu là mâu
thuẫn. Những khác biệt đó chủ yếu là do sự hiểu lầm và không nên bị coi là
những niềm tin không chính thống khi chưa được tra vấn. Trong Tuyên bố chung giữa
những người Công giáo và những người Tin lành Luther, người ta nói rằng cả hai
Giáo hội “giờ đây đã có thể trình bày rõ ràng một sự hiểu biết chung” tạo ra “sự
đồng thuận về những chân lý cơ bản của giáo lý công chính hóa và cho thấy rằng
những khác biệt còn lại trong việc giải thích giáo lý đó không còn là dịp cho
những lời lên án về tín lý nữa”(số 5).
Phân định và hóa giải những khác biệt trong việc
tìm kiếm sự hợp nhất của thân mình Chúa Kitô thuộc về cốt lõi của lý lẽ của đức tin Kitô giáo. Trong bài
giảng tại Nhà thờ Tin lành Luther ở Lund[14] vào ngày
31 tháng 10 năm 2016, Đức Thánh Cha Phanxicô thừa nhận rằng vào thời điểm Cải
cách cả hai phía Công giáo và Luther đều có một ý chí chân thành “tuyên xưng và
duy trì đức tin chân chính,” nhưng đồng thời “vì sợ hãi và thiên vị, chúng tôi
đã khép kín đối với đức tin mà những người khác tuyên xưng bằng một giọng và
ngôn ngữ khác.”[15]
Trong chuyến hành trình gần đây hơn đến Ai Cập, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói
chuyện với Đức Thượng Phụ Tawadros II vào ngày 28 tháng 4 năm 2017, và nhắc lại
rằng “không còn có thể ẩn náu sau những cái cớ giải thích khác nhau, chưa kể đến
những thế kỷ khi lịch sử và truyền thống đã làm chúng ta xa rời nhau.”[16]
Lý lẽ của đức tin Kitô giáo thúc giục các Kitô hữu vượt ra khỏi hình thức lý lẽ biện giáo, được xác định theo nguyên tắc đồng nhất của Parmenides[17]
trong đó tertium non datur (khả năng
thứ ba không được đưa ra) để nắm lấy một hình thức lý lẽ đối thoại - chủ đề của thập tự giá (ὁ λόγος τοῦ σταυροῦ[18]) - trong đó luận chứng hợp lý (elenchus[19])
được đưa ra bởi một lý lẽ tự hủy (kenotic), một logos tự hủy ra không. Logos của đức tin sẽ có hình dạng Thiên Chúa
hoặc hình dạng Chúa Kitô khi nó từ bỏ việc nắm giữ chân lý như một thứ gì đó để
sở hữu, và chọn buông bỏ bất kỳ sự nắm bắt nào, từ bỏ “tư duy kép” kiểu tertium non datur. Một hình thức tự hiểu
khác của Kitô hữu như vậy không phải là một sự thỏa hiệp hay một cách thoát khỏi
sự khắt khe của trí tuệ mà là một phẩm chất suy lý, một phương pháp tư duy nghịch
lý thấm nhuần logic Ba Ngôi không tiến
hành bởi “một trong hai / một hoặc hai” mà là bởi “cả hai / và cả hai” trong đó
Thánh Thần được trao ban (datur). Bằng cách làm này, các lý lẽ Kitô giáo sẽ khám phá
lại “tính công giáo” và “tính bao hàm” của “cả hai / và cả hai” thay vì “một
trong hai / một hoặc hai”.
Chúng ta tìm thấy
một ví dụ theo kiểu kể truyện về các lý lẽ
khác nhau này trong câu trả lời mà Chúa Giêsu đưa ra cho câu hỏi của người phụ
nữ Sa-ma-ri. “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa
Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Các người thờ Đấng các
người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất
từ dân Do-thái. Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người
thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa
Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và
những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật” (Gioan 4:
21-24).
Sự đối lập giữa
Núi Gêrizim và Núi Sion (Giêrusalem) tượng trưng cho tư duy kép trong đó một
bên đang thắng (chúng ta biết những gì chúng ta tôn thờ) và bên kia thua (bạn
tôn thờ những gì bạn không biết), trong khi tư duy bất nhị lại được minh họa bằng
câu trả lời mà Chúa Giêsu dành cho người phụ nữ. Để nhận biết Thiên Chúa, chúng
ta cần vượt ra ngoài lý lẽ của cái
cao hơn (tượng trưng bằng ngọn núi) và đặt mình vào lòng trí của Chúa Kitô[20]
(Lu-ca 9: 46-50), một biểu tượng “bất nhị” bao hàm sự đối lập và mâu thuẫn giữa
các bên “trong tinh thần và chân lý” và tiến tới xác định các học thuyết với
bên kia chứ không phải không có bên kia, để quá trình biện phân của giáo thuyết và trong giáo thuyết có thể xảy ra, vì “ai không chống lại anh em là ủng
hộ anh em” (Luca 9: 50).
Trong bài giảng của
mình trong buổi cử hành ban chiều Lễ Kính Thánh Phaolô trở lại vào ngày 25
tháng 1 năm 2015, Đức Thánh Cha Phanxicô đã bình luận về những lời này với người
phụ nữ Samari, rằng Chúa Giêsu “không đứng về phía núi hay đền thờ, nhưng sâu sắc
hơn nhiều. Chúa Giêsu đi vào trọng tâm của vấn đề, phá vỡ mọi bức tường ngăn
cách. Thay vì nói đến ý nghĩa của sự thờ phượng thật, Chúa Giêsu nói: “Thiên
Chúa là thần khí, và những ai thờ phượng Ngài phải thờ phượng bằng thần khí và
sự thật” (Gioan 4:24). Rất nhiều cuộc tranh cãi trong quá khứ giữa các Kitô hữu
có thể được giải quyết khi chúng ta gạt bỏ mọi cách tiếp cận bút chiến hoặc biện
giáo và thay vào đó tìm cách nắm bắt đầy đủ hơn những gì kết hợp chúng ta, đó
là, lời kêu gọi của chúng ta chia sẻ mầu nhiệm tình yêu của Chúa Cha được Chúa
Con mặc khải cho chúng ta qua Chúa Thánh Thần. Sự thống nhất của Kitô giáo –
chúng tôi tin chắc – sẽ không phải là kết quả của những cuộc thảo luận lý thuyết
tinh vi, trong đó mỗi bên cố gắng thuyết phục bên kia về tính đúng đắn của ý kiến
của mình. Khi Con
Người đến, Ngài sẽ thấy chúng ta vẫn đang tranh luận! Chúng ta cần nhận ra rằng,
để tìm hiểu mầu nhiệm sâu thẳm của Thiên Chúa, chúng ta cần có nhau; chúng ta cần
gặp gỡ nhau và thử thách lẫn nhau dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, Đấng
hòa hợp các đa dạng, khắc phục xung đột, hòa giải các khác biệt.”[21]
Thiên Chúa không chỉ là 'Công giáo'
Để phân định giáo
lý và hòa giải những khác biệt về tín lý, cần phải ghi nhớ hai điều kiện. Trước
tiên, người Công giáo phải nhớ rằng chân lý không bao giờ có thể được sở hữu một
cách trọn vẹn; thứ hai, kiến thức về chân lý bị
điều kiện hóa do sự tiếp nhận nó trong thời gian. Trong “Thư gửi một người
không tin” (ngày 4 tháng 9 năm 2013), Đức Thánh Cha Phanxicô đã trả lời Eugenio
Scalfari, cựu biên tập viên và nhà báo của tờ báo La Repubblica, và nhận xét rằng
đối với các tín hữu “chân lý là một mối tương quan. Như vậy, mỗi người chúng ta
tiếp nhận sự thật và thể hiện nó từ bên trong, nghĩa là, theo hoàn cảnh, văn
hóa và tình huống của riêng một người trong cuộc sống.”[22]
Các lý lẽ của đức tin Kitô giáo được duy trì
bởi cả ý niệm về chân lý như là mối tương
quan và ý niệm về Chúa như là magis[23].
Cả hai ý niệm đều đồng nhất “đối tượng” của giáo thuyết (Đấng Siêu việt), là mầu
nhiệm Thiên Chúa đang mở ra (Deus semper maior[24]), với
“phương cách” (transcendere[25]),
là quá trình liên tục vượt qua bất cứ sự nắm bắt mầu nhiệm nào. Chân lý không
vượt qua chúng ta dưới hình thức một lời phát biểu, mà là một Ai Đó chúng ta cảm
nghiệm và là Đấng cần được gặp đi gặp lại nhiều lần.
Nhu cầu vượt lên
trên các học thuyết và công thức giáo điều được thể hiện rõ ràng trong
Evangelii Gaudium: Giáo hội “cần phát triển trong việc giải thích Lời mặc khải
và trong sự hiểu biết chân lý của mình. […] Đối với những người khao khát một
giáo thuyết chắc như đá nguyên khối được tất cả mọi người bảo vệ và không có chỗ
cho sắc thái khác biệt, điều này có vẻ là không đáng mong muốn và dẫn đến nhầm
lẫn. […] Bằng cách này, chúng ta bám chặt vào một công thức mà không truyền tải
được bản chất của nó. Đây là mối nguy hiểm lớn nhất. Chúng ta đừng bao giờ quên
rằng ‘sự thể hiện chân lý có thể có những hình thức khác nhau. Việc đổi mới những
hình thức diễn đạt này trở nên cần thiết để truyền đi sứ điệp Tin Mừng cho con
người ngày nay theo ý nghĩa không thay đổi của nó '”(EG 40-41).
Chúng ta có thể
nói rằng Đức Thánh Cha Phanxicô đã được truyền cảm hứng bởi nguyên tắc “an ủi
mà không cần nguyên cớ trước” mà Thánh Ignatiô thành Loyola giải thích trong
quy tắc phân định thứ tám cho tuần thứ hai của Linh Thao (số 336). Nhà thần học
dòng Tên Karl Rahner nói về “sự an ủi không có nguyên cớ trước” này như một cảm
nghiệm phi đối tượng vì đối tượng của nó là chỉ mình Thiên Chúa mà thôi. “Thiên
Chúa” không phải là một định nghĩa hay một khái niệm mà là chân trời vượt ra
ngoài bất kỳ khái niệm và định nghĩa nào. Sự an ủi không có nguyên cớ trước là
một tiền giả định quan trọng và siêu nghiệm khiến mọi thứ khác đều tương đối.
Inhaxiô cẩn thận phân biệt khoảnh khắc siêu
việt, khi Thiên Chúa hoạt động với tư cách là nguyên nhân đệ nhất, với khoảnh
khắc thực tế, khi khả năng đáp ứng của
con người phù hợp và chuyển đổi hành động trực tiếp của Thiên Chúa nhờ ý nghĩ,
hình ảnh và lời nói.[26]
Sự phân biệt như vậy làm cho bất kỳ công thức giáo thuyết nào đều có tính tương
đối và tùy thuộc vào tính siêu việt năng động của Thiên Chúa, vốn được ngụ ý
trong khái niệm trổi vượt hơn (magis) của Inhaxiô.
Trong bối cảnh như vậy, Karl Rahner ủng hộ một
cách hiểu đúng đắn và phù hợp về thuyết bất khả tri.[27] Trong cuộc
phỏng vấn nói trên trên tờ La Civiltà Cattolica, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc lại
truyền thống thần bí của Dòng Tên: “Tu sĩ Dòng Tên phải là một người có tư tưởng
chưa hoàn thiện, theo nghĩa tư duy mở. Đã có những giai đoạn trong Hội Dòng khi
các tu sĩ Dòng Tên sống trong một môi trường suy tưởng khép kín và cứng nhắc”[28]
Đặc tính “vượt giới hạn” của tư duy “thần bí” này xác định và (tái) hình thành
bất cứ kinh nghiệm và hiểu biết nào về mầu nhiệm của Thiên Chúa. Ý nghĩa của từ
"vượt giới hạn" bắt nguồn từ tiếng Latin transgredior có nghĩa là "tiến lên và tiến xa hơn." Đức
Thánh Cha Phanxicô công nhận rằng chúng ta càng đến gần Thiên Chúa, thì sự
không chắc chắn của chúng ta càng lớn. “Nếu một người nói rằng anh ta đã gặp
Chúa một cách hoàn toàn chắc chắn và không bị một chút nghi ngờ nào chạm tới,
thì điều này là không tốt. Đối với tôi, đây là một chìa khóa quan trọng. Nếu một
người có câu trả lời cho tất cả các câu hỏi, thì đó là bằng chứng rằng Thiên
Chúa không ở cùng anh ta. Điều đó có nghĩa rằng anh ta là một tiên tri giả sử dụng
tôn giáo cho chính mình. Những nhà lãnh đạo vĩ đại của dân Thiên Chúa, như
Môisê, luôn để lại chỗ cho sự nghi ngờ. Bạn phải dành chỗ cho Chúa, không phải
cho sự chắc chắn của chúng ta; chúng ta phải khiêm tốn. Sự không chắc chắn có mặt
trong mọi sự biện phân thực sự, mở ra cho việc tìm kiếm sự củng cố an ủi thiêng
liêng.”[29]
Khoảng trống hay “cái chưa” bị bỏ ngỏ bởi sự không chắc chắn
này, xác định areopagus[30],[31]
một lĩnh vực đối thoại công khai, trong đó các cộng đoàn đức tin họp lại và trò
chuyện, cũng như thực hiện sự biện phân.
Do đó, sự biện
phân mang một chiều kích thần bí, vì chỉ có kiến thức theo kiểu phủ định về Thiên Chúa (deus definiri nequit[32])
mới có thể tạo ra một quá trình vượt qua. Trong cuộc phỏng vấn dành cho giám đốc
của La Civilità Cattolica, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Người ta gặp được Thiên
Chúa đang đi dọc con đường. […] Sự biện phân là điều cần thiết. Nếu Kitô hữu là
một người theo Thuyết vạn vật phục hồi (Origênê)[33], một người
duy luật pháp, nếu người ấy muốn mọi thứ rõ ràng và an toàn, thì người ấy sẽ
không tìm thấy gì cả. Truyền thống và ký ức về quá khứ phải giúp chúng ta có
can đảm để mở ra những lãnh vực mới cho Thiên Chúa. Những người ngày nay luôn
tìm kiếm các giải pháp mang tính kỷ luật, những người khao khát một “an ninh”
mang tính học thuyết cường điệu, những người cố gắng khôi phục quá khứ đã không
còn tồn tại: họ có một cái nhìn tĩnh tại và hướng nội về mọi thứ. Theo cách
này, đức tin trở thành một hệ tư tưởng trong số các hệ tư tưởng khác. Tôi có một
điều chắc chắn mang tính tín lý: Thiên Chúa ở trong cuộc đời của mỗi người.”[34]
Trong lá thư gửi
Scalfari, Đức Thánh Cha Phanxicô bình luận về những lời của Chúa Giêsu trong
Tin Mừng Thánh Gioan (14:26): “Ta là đường, là sự thật và là sự sống”: “Sự thật,
hoàn toàn là một với tình yêu, đòi hỏi sự khiêm nhường và một sự cởi mở để được
tìm kiếm, tiếp nhận và bày tỏ. Vì vậy, chúng ta phải hiểu đúng về các thuật ngữ
và có lẽ, để vượt qua việc sa lầy do những lập trường tuyệt đối mâu thuẫn,
chúng ta cần phải xác định lại các vấn đề một cách sâu sắc. Tôi tin rằng điều
này là hoàn toàn cần thiết để bắt đầu [một] đối thoại hòa bình và mang tính xây
dựng.”[35]
Trong Đối thoại và Tuyên bố (1991), Hội đồng
Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn khẳng định rằng sự hiểu biết về chân lý nhận
được trong Chúa Giêsu Kitô là “một tiến trình không ngừng”. “Trong khi giữ
nguyên bản sắc của mình, các Kitô hữu phải chuẩn bị để học hỏi và tiếp nhận từ
người khác và qua người khác những giá trị tích cực của truyền thống của họ.
Qua đối thoại, họ có thể được đánh động từ bỏ những định kiến đã ăn sâu, xem xét lại những ý tưởng đã
nhận thức trước đó, và thậm chí đôi khi cho phép sự hiểu biết về đức tin của họ
được thanh lọc ”(số 49). “Lòng trí của Chúa Kitô” (Philípphê 2: 5) định hình và
biến đổi lý lẽ của đức tin Kitô giáo.
Cuộc đối thoại giữa Kitô giáo và Do Thái giáo
cung cấp một ví dụ về cách thức diễn ra sự chuyển đổi lý lẽ của đức tin như vậy. Tài liệu của Ủy ban Kinh thánh Giáo
hoàng về việc giải thích Kinh thánh của người Do Thái công nhận việc người Do
Thái đọc các văn bản thiêng liêng là chấp nhận được và hợp pháp, và khẳng định
rằng hy vọng của người Do Thái vào Đấng Mêsia không phải là vô ích. Đối thoại
giữa người Do Thái và Kitô giáo là một ví dụ rõ ràng về cách lý lẽ của Kitô
giáo xem xét lại các quan niệm giáo lý của chính mình khi đến lúc phải xác định
giáo lý đức tin với những người khác,
trong trường hợp này là với những người Do Thái. Điều này đã xảy ra khi bác bỏ
ý tưởng “thần học thay thế[36]”,
quan điểm cho rằng “mới” (Kitô giáo) đã thay thế cho “cũ” (Do Thái giáo) bởi vì
nó tốt hơn.
Việc phân định, hòa giải và biến đổi các giáo lý
đức tin sẽ giúp chúng ta có thể “vạch mặt bạo lực” vốn trình bày các giáo lý đó
như một thứ gì đó linh thánh, một loại thần tượng, thay vì là một sự cởi mở
đích thực đối với Đấng Tuyệt đối, như Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc nhở chúng
ta trong bài diễn từ của ngài tại Al-Azhar.[37]
[1] Đức Giáo hoàng Phanxicô, Diễn văn trước những người tham gia Hội nghị Hòa bình Quốc tế, Trung tâm Hội nghị Al-Azhar, Cairo, ngày 28 tháng 4 năm 2017, tại www.vatican.va , Cf. cũng là A. Spadaro, “Ai Cập, Vùng đất của các nền văn minh và liên minh: cuộc hành trình đầy kịch tính, chữa lành và tiên tri của Đức Phanxicô,” trong Civ. Catt. 2017 phiên bản tiếng Anh.
[6] Lựa
chọn rút lui khỏi thế giới. “Lựa chọn Bênêđictô” đề cập đến Thánh Bênêđictô
thành Nursia (mất giữa thế kỷ thứ sáu), người có ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống
tôn giáo ở phương Tây. Xem A. Gonçalves Lind, “Lựa chọn của Bênêđictô”:
Vai trò của các Kitô hữu trong xã hội ngày nay là gì?” trong Civ. Catt. Ấn bản
tiếng Anh 2018, www.laciviltacattolica.com
[9] W.
Kasper, Sự thật và tự do. Lời giải thích
về tự do tôn giáo của Công Đồng Vatican II. (Heidelberg: Carl Winter - Báo
chí trường Đại học, 1988), 37.
[13] Đức Phanxicô, Diễn văn trước các đại diện của Công ước Quốc gia lần thứ năm của Giáo hội Ý, Florence, ngày 10 tháng 11 năm 2015, www.vatican.va
[15] Đức
Phanxicô, Bài giảng, trong buổi cầu
nguyện đại kết ở Nhà thờ Luther của Lund, ngày 31 tháng 10 năm 2016, tại www.vatican.va, Cf
G. Pani, “ Hành trình của Đức Giáo Hoàng ở Svezia,” trong Civ. Catt. 2016 IV
381-392.
[16] Đức Phanxicô, Bài phát biểu, trong chuyến thăm xã giao Đức Thượng Phụ Tawadros II, ngày 28 tháng 4 năm 2017, tại www.vatican.va, Cf A. Spadaro, “Ai Cập, Vùng đất của các nền văn minh…,” cit.
[17] ND: Parmenides nêu ra hai quan điểm về thực tại. Trong "Con đường của chân lý" ("the way of truth"), ông giải thích thực tại là đơn nhất, thay đổi không thể xảy ra, sự tồn tại là duy nhất, vĩnh viễn, đồng nhất, cần thiết và không thay đổi vì thế giới không có cái gì nằm ngoài sự tồn tại.
[19] ND:
còn gọi là “Phương pháp Socrates” (Method of Elenchus/ Socratic method),
là một hình thức thẩm tra và thảo luận giữa những cá nhân với những quan điểm
trái ngược nhau. Nó được đặt nền trên những câu hỏi và trả lời để kích thích
suy tư có phê phán và soi sáng ý tưởng. Nó là một phương pháp đối thoại (dialectical
method), thường bao gồm những thảo luận có tính đối kháng mà ở đó việc bảo vệ một
quan điểm được đưa ra để chống lại quan điểm khác; một người đối thoại có thể dẫn
người còn lại đi đến chỗ đối nghịch với quan điểm trước đây của người đó.
[20] ND: Ðã nảy tranh luận giữa họ là ai lớn hơn trong nhóm họ. Nhưng Ðức Giêsu biết được tranh luận nơi lòng họ. Ngài kéo lại một đứa trẻ, đặt bên mình Ngài, và nói với họ: "Kẻ nào tiếp đón trẻ nhỏ này vì danh Ta, tức là tiếp đón Ta; và kẻ tiếp đón Ta; là tiếp đón Ðấng đã sai Ta. Vì chưng ai nhỏ hơn trong các ngươi thì kẻ đó là lớn!" Gioan cất tiếng nói: "Thưa Thầy, chúng tôi thấy người kia lấy Danh Thầy trừ quỉ, và chúng tôi cố ngăn cản, vì hắn không theo chúng tôi". Ðức Giêsu nói với ông: "Chớ ngăn cản! vì ai không chống lại các ngươi là ủng hộ các ngươi".
[21] Đức
Phanxicô, Bài giảng trong Lễ cử hành
Kinh chiều nhân Lễ trọng thể Thánh Phaolô Tông đồ, tại w2.vatican.va
[26] W.H.
Longridge, Các bài tập linh thao của Ignaxiô Loyola. Được
dịch từ tiếng Tây Ban Nha với lời bình luận và bản dịch Hướng dẫn thực hành, Robert Scott, London, 1922, 193.
[27] K.
Rahner, "Biện minh cho đức tin trong một thế giới bất khả tri," trong
Karl Rahner, Những thẩm vấn thần học,
tập. XXI, New York, Crossroad, 1988, 130-136, tại 136.
[29] Như trên, 469.
[30] ND: Ngọn đồi trở thành nơi xét xử các vụ giết người, phản quốc và tham nhũng trước Hội đồng Areopagus. Vào năm 51 sau Công nguyên, Thánh Phaolô đã đưa ra 'Bài giảng Areopagus' nổi tiếng của mình tại đây: “Khi nhìn lên những nơi thờ phượng của quý vị, tôi đã thấy có cả một bàn thờ, trên đó khắc chữ: "Kính thần vô danh". Vậy Đấng quý vị không biết mà vẫn tôn thờ, thì tôi xin rao giảng cho quý vị.” (Những từ này được viết bằng tiếng Hy Lạp trên một tấm bảng bằng đồng nằm trên sườn đồi.Từ đó, Thánh Paul đã có được người cải đạo Athens đầu tiên của mình là Dionysos, ông đã trở thành vị thánh bảo trợ của thành phố. Và vì lý do này, Giáo hoàng luôn đến thăm đỉnh đồi khi đến Athens.
[31] ND:
Lúc Phaolô đến Athens, khoảng năm 52, thì Athen đã mất hết nét huy hoàng và giầu
có ngày xưa. Dân số chỉ con chừng 10 ngàn người. Nhưng hội trường Areopagus,
nơi thị dân Athens thường tụ họp, vẫn là chỗ lý tưởng để bắt đầu một bài giảng.
Areopagus vừa là một công trường, vừa là tên của Hội đồng thành phố Athens.
Areopagus, tên Hy lạp, có nghĩa là “Ngọn đồi của Ares”. Theo thần thoại Hy Lạp, Ares là thần Chiến Tranh. Ông đã bị các thần khác đem ra xử án xem coi có phạm tội giết Alirrothios con của thần Poseidon hay không. Ông được trắng án. Nhưng vụ xử án này được coi là vụ xử án đầu tiên trên thế gian. Từ đó, ngọn đồi nơi xử án thần Ares được gọi là Areopagus. Người Hy Lạp dùng tên này để gọi một ngọn đồi cao chừng hơn 100 thước, nằm về phía tây bắc ngọn đồi Acropolis. Nơi đây, ngày trước, hội đồng nhân dân thành phố Athens, cũng gọi là Areopagus, tụ tập để giải quyết những vấn đề quan trọng của thành phố, như xét xem có nên đi đánh nhau không, hay xử các vụ trọng án trong thành phố, như cướp của giết người.
Việc Phaolô ra “điều trần” trước hội đồng Areopagus không có nghĩa là ngài bị xử án về tội gì, nhưng vì trước đó, Ngài hay thảo luận với những người qua lại tại quảng trường này, nên đã lôi kéo được sự chú ý của những người trong hội đồng areopagus. “Vậy ông thảo luận trong hội đường với những người Do-thái và những người tôn thờ Thiên Chúa, và ngoài quảng trường mỗi ngày với những người qua lại. Có mấy triết gia thuộc phái Khoái Lạc và phái Khắc Kỷ cũng trao đổi với ông. Kẻ thì nói: "Con vẹt đó muốn nói gì vậy? " Người khác lại bảo: "Hình như ông ta rao giảng về những thần xa lạ", vì ông Phao-lô loan báo Tin Mừng về Đức Giêsu và về sự Phục Sinh.” (Cv 17,17-18). Tại ngonsu.quetroi.net
[32] ND: Thiên Chúa không thể định nghĩa được.
[33] ND: Restorationism hoặc Apocatastasis, Phục hồi tình trạng ban đầu. Một tên gọi cho phái thần học tin rằng sẽ đến một lúc khi tất cả các thụ tạo tự do, ngay cả ma quỷ và linh hồn bị hư mất, sẽ chia sẻ ơn cứu độ. Theo niềm tin này, lý do mà hỏa ngục tồn tại là để chia tách thiện ác khỏi linh hồn. Vì vậy, nó không phải là hình phạt vĩnh cửu, mà là một sự cải hóa. Sẽ đến một lúc khi tất cả mọi điều xấu xa chấm dứt, vì nó không có sự tồn tại của riêng nó ngoài ý chí tự do.
[36] ND:
Supersessionism, còn gọi là
Replacement Theology: thần học thay thế. Một số Kitô hữu tin rằng người
Do Thái là người được Thiên Chúa chọn lựa (Đệ Nhị Luật 14:2),
nhưng vì họ từ chối Chúa Giêsu, nên các Kitô hữu lại nhận được địa vị đặc biệt
đó (Roma 11:11-24).
Cách suy nghĩ như vậy được biết đến là học thuyết Supersessionism.
[37] Đức
Giáo Hoàng Phanxicô, Diễn văn với những
người tham gia Hội nghị Hòa bình Quốc tế, đd.