Về các thánh và những vị anh hùng trong Tông Huấn ‘Gaudete et Exsultate’
Một giáo
sư đại học Pháp đã rất thành công khi xuất bản gần đây một cuốn sách có tính
học thuật cao nhưng khá thú vị mang tựa đề “Comment parler des livres
qu’on n’a pas lu” (Làm thế nào để nói về những cuốn sách mà ta không
đọc). Một cuốn sách mà mọi người ngay lập tức nói về nó mà chưa đọc. Thật sự,
đây là vấn đề lười biếng thông thường của thông tin đại chúng khi bình luận về
những tác phẩm hay những bản văn trang trọng dài nhằng mà chỉ dựa vào thông cáo
báo chí đơn giản. Thông tin có chất lượng nghèo nàn này đủ để bùng lên cuộc
thảo luận. Thật lỗi thời, nhưng đó là điều thú vị, khi đọc sách và nói về nó
sau khi đã có những cố gắng. Là một nhà báo, tôi vẫn muốn thực hành nghệ thuật
này mà một vài người cho là kỳ cục.
Trước và
sau khi đọc, tôi cũng muốn quay lại với cuốn sách và đọc những trích dẫn, những
tham khảo và chú thích. Ta thường khám phá ra một hình ảnh ở đấy, một vẻ đẹp
trí thức, một cảnh tượng đầy hứng khởi. Tôi đã làm thế với Tông huấn Gaudete
et Exsultate. Sau khi đọc toàn bộ bản văn, tôi trở lại với cây bút đánh dấu
ở trong tay. Tôi tìm gì? Những tên tuổi và địa danh. Những tên tuổi gắn liền
với địa danh, với nền văn hóa. Đức Thánh Cha đã nhận xét trong bản văn rằng:
“Chúng ta không bao giờ hoàn toàn là chính mình trừ khi ta thuộc về một dân
tộc”. Ngài đã hài hước trong hành lang đền thờ Thánh Phêrô ở Rôma ngay buổi
chiều ngày ngài được bầu chọn: “Dường như các anh em hồng y của tôi đã đi đến
tận cùng trái đất để tìm ra một giáo hoàng”. Như vậy, địa lý cá nhân của tác
giả Tông Huấn này là gì? Con đường nào ngài đã chọn để nắm bắt được những ý
tưởng, để chạm đến chúng ta? Ngài nhắc đến những ông những bà nào? Và trên hết
tất cả, những vị thánh là ai? Tôi không định sáng tạo ra một khoa học, nhưng
điều này thật cần thiết, có lẽ chúng ta nên gọi nó là ‘hagio-geography’ (địa lý
thánh), và đây chính là điều mà tôi trình bày trong bài viết này.
Khắp vùng
địa lý thiêng liêng này, ta sẽ không ngạc nhiên khi thấy đề cập đến bốn
lần Poverello [vị thánh nghèo Phanxicô] (và cùng với ngài là
Thánh Antôn Padua), cũng như Thánh Ignatiô Loyola, người được nhắc tới bốn lần,
mà một lần gợi lại lời mời gọi “sự dửng dưng thánh” (holy indifference). Hai tu
sĩ dòng Tên khác cũng xuất hiện trong bản văn, Đức Hồng Y Martini và Hans Urs
von Balthasar (người sau liên hệ mật thiết hơn với Đức Ratzinger). Tông Huấn cũng
đề cập đến các Giáo Phụ và Tiến Sĩ Hội Thánh: Augustinô, Tôma Aquinô,
Bonaventura, Basil Cả, Gioan Kim Khẩu... và dĩ nhiên các Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II và Phaolô Paul VI. Những đề cập này là điều cố hữu đối với loại tài
liệu này. Khi cố vạch ra một tấm bản đồ nội tâm nguyên thủy dựa trên các nền
tảng này, nó sẽ dẫn ta tiến đi rất xa. Càng có ý nghĩa hơn, qua các truyền
thống và các giai đoạn thời gian, các Dòng bác ái và khất thực đã được nhắc đến
như Dòng Phanxicô, những nhà sáng lập dòng Tôi tớ Đức Mẹ (Servants of Mary), hoặc
nhiều hơn hết là người bạn chí thiết của Đức Gioan Phaolô II, Mẹ Teresa
Calcutta. Cuối cùng, không tránh được là Thánh Philip Neri, người Florentine,
vị sáng lập Dòng Các Cha Diễn Thuyết (Oratorians), không chỉ vì ngài là nhân
vật nổi trội của phong trào chống cải cách (Counter-Reformation), mà còn vì
ngài có biệt danh là “ông thánh vui” (the joyful saint).
Bản văn
chủ ý đặt sự thánh thiện trong tầm với của mọi người, theo cách hầu như rất là
thực tiễn, và đôi khi với một giọng điệu có tính đối thoại. Như vậy, một mâu
thuẫn nổi lên ở đây: một khoa thần bí bao trùm lên những trang tài liệu này;
một khoa thần bí đem lại cho Kitô giáo một vài kiệt tác linh đạo chính - nhưng
đây cũng là một kiệt tác văn chương và đầy thi vị. Nên lưu ý rằng linh đạo
Carmelite đóng vai trò quan trọng ở đây: trước hết là Gioan Thánh Giá, được
nhắc đến bốn lần, và cùng với ngài là Teresa Avila,Teresa Benedicta Thánh Giá
hay còn được biết đến là Edith Stein, và Thérèse Lisieux, được trích dẫn hay
nhắc đến bốn lần. Đức Phanxicô thu nhặt thông tin từ nhiều nguồn Kitô giáo khác
nhau, như cuốn The Pilgrim’s Tale (tường thuật của một người
hành hương Nga). Tuy nhiên, ngài quan tâm đặc biệt đến các nhà thần bí nữ giới.
Trong tài
liệu, độc giả bắt gặp Hildegard thành Bingen, Bridget Thụy Điển, Catherine
thành Siena, Faustina Kowalska, không kể đến các vị “Teresa” mà tôi mới kể ở
trên. Không ai trong họ mờ nhạt đâu. Có người đã giúp triều đại giáo hoàng vượt
qua những cơn khủng hoảng và sa sút. Hơn nữa, Đức Phanxicô nhắc đến “những kiểu
nên thánh nữ tính” của họ, nêu bật lên tầm quan trọng của họ “trong các thời
đại mà phụ nữ có khuynh hướng bị lờ đi”. Rất nhiều nhân vật nữ xuất hiện trong
tài liệu như Thánh Monica và Maria Gabriella Sagheddu, một nữ tu người Ý thuộc
Dòng Trappist mà Đức Gioan Phaolô II đã phong thánh.
Bây giờ
chúng ta hãy quay lại với tấm bản đồ để có một nhận xét khác, cụ thể là “địa lý
thánh” của Đức Phanxicô hầu như dành riêng cho người châu Âu. Tôi đã sớm nhắc
đến Faustina Kowalska, được Đức Gioan Phaolô II phong chân phước và phong
thánh, là vị thánh điển hình nhất trong triều đại giáo hoàng của Wojtyła. Qua
ngày lễ Lòng Chúa Thương Xót, vị nữ tu qua đời ngày 5 tháng Mười năm1938 tại
Krakow, dường như đã kéo sợi chỉ vô hình giữa người Argentine và người Ba Lan đưa dẫn
độc giả trở về Lục Địa Cũ.
Ta sẽ
không trôi đi quá xa giữa những trang của Tông huấn Gaudete et
Exsultate. Ta sẽ không đi qua dòng nước của sông Río de la Plata, nhưng sẽ
trôi giạt bên bờ Vistula, con sông Rhine, Arno và Tiber, hay dòng sông Thames
với Thánh Thomas More. Ta sẽ thường xuyên vượt qua cao nguyên Castilian khắc
nghiệt, chạy qua khắp xứ Tây Ban Nha bí ẩn và thơ mộng mà Teresa Ávila và Gioan
Thánh Giá đã đi ngang qua. Như vậy, ta sẽ không khám phá nhiều về Tân Thế Giới.
Sự nhượng bộ duy nhất cho “sinh-địa lý” (bio-geography) là “thánh Cura
Brochero”, một linh mục Argentine chết vì bệnh phong, người được Đức Phanxicô
phong thánh vào tháng Mười 2016. Ngoài trường hợp đặc biệt này là Đức Hồng y
Việt Nam Nguyễn Văn Thuận, người phải đợi cho đến đoạn 141 (trong tổng số 177
đoạn của Tông Huấn) mới rời khỏi châu Âu để quay sang Công giáo toàn cầu, đến
với Paul Miki của Nhật, Andrew Kim Taegon của Hàn Quốc, hay Rocco González và
Alfonso Rodríguez ở Nam Mỹ.
Cuối
cùng, cho phép tôi được nêu lên sự kiện là “địa lý thánh” của Đức Phanxicô rất
là Pháp. Vị trí trước hết là thánh Thérèse Lisieux, rõ ràng là vị thánh phổ
thông nhất, Đấng Bảo Trợ công cuộc truyền giáo. Tông Huấn cũng đầy dẫy những
tham chiếu đến nước Pháp, “Trưởng nữ của Giáo hội”. Thật vậy, ta có thể vạch ra
một dàn bài về địa lý và lịch sử tôn giáo Pháp quốc. Ở đây, ta gặp thấy truyền
thống đan tu với Thánh Bernard Clairvaux, lòng bác ái truyền giáo với Thánh
Vincent de Paul, và tính hiền hậu tông đồ với Thánh Francis de Sales ở Savoy.
Cũng thật ý nghĩa khi lưu ý rằng đã có sự băng qua vùng Địa Trung Hải để gặp gỡ
Thánh Charles de Foucauld với các tu sĩ ở Tibhirine, những người mà Đức
Phanxicô quyết định phong thánh cùng với các vị tử đạo của Algeria. Thêm vào
danh sách các thánh nhân người Pháp là Joseph Malègue, một văn sĩ bị rơi vào
quên lãng, cũng như Léon Bloy, một văn sĩ mọi người đều biết nhưng rủi thay
không ai hay hầu như chẳng có ai đọc được ông. Với cảnh quan nội tâm này, đối với
tôi dường như một cuộc tông du của Đức Phanxicô đến nước Pháp đang được sắp
đặt.
Jean-Pierre Denis
Lm. Phaolô Nguyễn Minh
Chính
Chuyển ngữ
Nguồn: Giáo phận Qui Nhơn
- Các chiều kích thần học của linh đạo giáo lý viên: chiều kích trần thế ( 12/10/2023)
- Viết cho bạn – người giáo lý viên! ( 29/09/2023)
- Câu chuyện “con lừa” và “người thợ vườn nho” ( 08/08/2023)
- Lời Chúa là nền tảng và linh hồn của việc dạy giáo lý ( 15/07/2023)
- Các chiều kích thần học của linh đạo giáo lý viên: Chiều kích Giáo hội ( 16/05/2023)
- Các chiều kích thần học của linh đạo giáo lý viên - Chiều kích Ba Ngôi ( 26/04/2023)
- Tìm hiểu linh đạo giáo lý viên ( 11/04/2023)
- Bài giảng và Giáo lý Hội Thánh Công Giáo ( 04/03/2023)
- Thông điệp SPE SALVI của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI về Niềm hy vọng Kitô giáo ( 09/01/2023)
- Sách Giáo lý Giáo hội Công giáo tròn 30 năm ( 12/10/2022)