TỪ LOAN BÁO PHÚC ÂM ĐẾN TRUYỀN GIÁO VÀ TÂN PHÚC ÂM HÓA
Lm. Antôn Nguyễn
Mạnh Đồng
1. Dẫn nhập
Năm 2018 Giáo hội Việt Nam
có một biến cố đáng quan tâm và ghi nhớ đó là “cuộc Hội Thảo loan báo Tin Mừng:
được thanh tẩy và được sai đi”, tại Trung tâm mục vụ Huế. Đáng quan tâm và ghi
nhớ thứ nhất, vì đã chọn một đề tài liên quan đến mọi thành phần Dân Chúa được
thanh tẩy được sai đi và loan báo Phúc Âm. Xin lưu ý, trong bài viết này tôi
dùng Phúc Âm thay thế cho Tin Mừng, bởi vì từ Phúc Âm được dùng phổ biến trong
Giáo hội Việt Nam từ đầu cho tới thập niên 1990, sau đó mới được thay bằng từ
Tin Mừng và dùng cho đến nay. Rồi bất ngờ năm 2014 trong Bản Tin Hiệp Thông của
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam số 80, trong bài “Đọc Tông Huấn Evangelii Gaudium”,
Đức cha Phêrô Khảm đã đơn phương lội ngược dòng để dịch là Niềm Vui Phúc Âm.
Cha Stêphanô Huỳnh Trụ, chuyên viên về từ ngữ Công Giáo đã cho biết rằng: “Phúc
Âm với ý nghĩa triết lý Đông Phương rất sâu sắc, có thể diễn tả nội dung đúng
hơn Tin Mừng”. Vì thế tôi chọn từ Phúc Âm để khi còn phải dịch Nouvelle
Evangelisation thì dịch là tân Phúc âm hóa, chứ khỏi phải dịch là Tin Mừng hóa
mới, nghe có vẻ giả cầy - Đáng quan tâm và ghi nhớ thứ hai, vì cuộc Hội Thảo
quy tụ được mọi thành phần Dân Chúa, giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân... tất
cả 123 người thuộc 23/26 giáo phận. Đáng quan tâm và ghi nhớ thứ ba, vì tất cả đều
đóng góp những kinh nghiệm đa dạng và phong phú về: Loan báo Phúc Âm, truyền
giáo, tân Phúc âm hóa, nêu lên cả những cái tốt cũng như thiếu sót.
Tôi may mắn được Đức cha
Anphongsô Long gửi tặng tập tài liệu và xin tôi góp ý. Nhìn chung, đa số các
bài trình bày về loan báo Phúc Âm và truyền giáo hơn là Tân Phúc Âm hoá: Bài của
đức cha chủ tịch dùng 10 lần từ truyền giáo và 52 lần từ Tân Phúc Âm hoá; còn
bài của cha Lê Công Đức thì không thấy bóng từ truyền giáo nào, mà bất ngờ nêu
câu hỏi: “Tân Phúc âm hóa đã qua rồi hay chưa tới?”. Tôi sửng sốt vì nhớ cách
đây mới 8 năm Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI triệu tập Thượng Hội Đồng Giám Mục thế
giới lần thứ XIII năm 2012 về tân Phúc âm hóa thì cả hội nghị đã kết luận chọn
tân Phúc âm hóa là “tầm nhìn hay nhãn quan” (Vision) của Giáo hội hiện tại và
tương lai. Đây cũng là “khẩu lệnh” (mot d'ordre) cho việc mục vụ trong Giáo hội
(xem Kết luận số 24). Tôi sửng sốt nên chờ tìm hiểu rồi góp ý sau.
Đến tháng 7 năm 2020 Đức
cha Stêphanô Thiên đi họp “Hội thảo lần hai về loan báo Phúc Ân tại Vĩnh Long về,
ngài có cho tôi một tập sách nhỏ 118 trang khổ bỏ túi, do Đức cha Anphongsô
Long tặng ngài, ngài thấy cuốn sách thuật lại 15 câu chuyện rất hay đức
Phanxicô trò chuyện với ông Giovanni Valente về truyền giáo ngày nay. Tôi đã đọc
ngay và thấy gồm những câu nói, suy nghĩ, giáo huấn... rất lý thú, thực tế, ngắn
gọn, gây sốc, lại có tính cách dí dỏm hài hước, chẳng hạn như:
- Giáo hội hoặc
là đi ra, hoặc không còn là Giáo hội nữa,
- Việc truyền
giáo của Giáo hội không phải là chiêu dụ tín đồ, chiêu dụ tự bản chất luôn là bạo
lực, kể cả khi nó ngụy trang hay hành xử bằng đôi găng tay êm ái,
- Đừng để truyền
giáo được thực hiện như thể đó là một hoạt động kinh doanh,
- Có thể có một
hình thức truyền giáo “cưỡi ngựa xem hoa?”
- Đào một cái giếng,
thiết kế các sân bóng cho trẻ em, nữ tu làm nữ hộ sinh có phải là truyền giáo
không?
- Sau khi trao đổi
với Đức cha Stêphanô Thiên về tân Phúc âm hóa, ngài khuyến khích tôi viết bài
giúp độc giả hiểu chính xác hơn về loan báo Phúc Âm, truyền giáo, tân Phúc âm
hóa. Tôi xin vâng.
2. Nhìn chung về ý nghĩa, giá trị, ích lợi của ba việc loan báo Phúc
Âm, truyền giáo, tân Phúc âm hóa.
Tại sao lại chọn ba cụm từ
này? Xin tóm lược: Thiên Chúa vì yêu thương đã sáng tạo loài người, nhưng loài
người đã nghe ma quỷ cám dỗ để không phục Thiên Chúa. Ngài vẫn yêu thương và
sai Chúa Giêsu xuống thế làm người vừa để loan báo Phúc Âm cứu rỗi, vừa đích
thân thực hiện việc cứu rỗi. Rồi Chúa lập Giáo hội để sai Giáo hội tiếp tục việc
cứu rỗi cho đến tận thế. “Chính Chúa Giêsu, Phúc âm hóa của Thiên Chúa, đã là sứ
giả Phúc Âm đầu tiên và vĩ đại nhất” (Tông huấn Evangelii Nuntiandi số 7),
“Chúa Giêsu hôm qua cũng như hôm nay và như vậy mãi đến muôn đời” (Dt 13,8).
Còn Giáo hội Chúa đã thiết lập ở trần gian thì phải đối mặt với nhiều sân khấu
xã hội và văn hóa khác nhau cho đến tận thế, vì vậy mà Giáo hội bắt đầu loan
báo Phúc Âm, rồi truyền giáo và tân Phúc âm hóa, Giáo hội thực hiện trong 3 thời
kỳ liên tiếp nhau suốt 21 thế kỷ qua. Bây giờ ta đi vào từng việc một.
3. Riêng Việc loan báo Phúc Âm cứu rỗi từ thế kỷ
thứ I đến thế kỷ XVI
a. Ý nghĩa
Loan báo Phúc Âm cứu rỗi dịch
từ tiếng la tinh annunctio Evangelii (rút từ sách Isaia (Lc 4,16) và Phúc Âm
Thánh Mc 16,15) có nghĩa là rao giảng, truyền bá Phúc Âm hoặc Tin Mừng. Chữ Tin
Mừng là chữ nôm dễ hiểu nhưng chỉ có nội dung đơn giản là tin chiến thắng, tin
vui, tin lành. Còn chữ Phúc Âm là chữ hán từ xưa các vị thừa sai đã dùng, nhưng
đến thập niên 1990 thì bị thay thế bằng chữ Tin Mừng. Theo cha Stêphanô Huỳnh
Trụ chuyên gia về ngôn ngữ, “tiếng Phúc Âm có nội dung rất phong phú, sâu sắc,
bao hàm nhiều điều tốt đẹp may mắn trời đất cho, để con người được thoả mãn mơ
ước của mình, lại gần với triết lý văn hóa Đông Phương có Ngũ Phúc, nhất là có
thể hội nhập với giáo lý Kitô giáo trong Tám Mối Phúc”. Phúc Âm ở đây là tin
vui cứu rỗi hoặc cứu chuộc. Cứu rỗi là kéo ra khỏi sự dữ, sự hư hỏng do tội lỗi
và phục hồi sự toàn vẹn. Cứu chuộc là giải thoát bằng chuộc lại cái mình đã mất
hoặc là đền bù để khỏi bị phạt. Đó là ý nghĩa giá trị, ích lợi của cụm từ loan
báo Phúc Âm, không gì thay thế được.
b. Người loan báo Phúc Âm trong thời kỳ 16 thế kỷ
đầu
Người loan báo Phúc Âm đầu
tiên là Chúa Giêsu Kitô, Con Một của Thiên Chúa được sai xuống thế làm Người, để
vừa loan báo Phúc Âm vừa dùng cả cuộc đời để thực hiện việc cứu rỗi loài người.
Sau khi hoàn tất việc cứu rỗi, Ngài trao quyền và sai các Tông Đồ đi loan báo
Phúc Âm cho muôn dân. Các Tông Đồ họp thành Giáo hội của Chúa chọn các giám mục,
linh mục, phó tế, và cũng sai họ đi tiếp tục công việc của các ngài. Các ngài
theo lối cha truyền con nối để trao lại cho nhau trách nhiệm và giáo thuyết, vì
Giáo hội chưa tổ chức đại chủng viện để đào tạo. Như vậy, từ Chúa Giêsu với các
Tông Đồ là những người đánh cá, bình dân, không trí thức, không quyền lực,
không giàu sang... chỉ có niềm tin vào Phúc Âm Chúa Giêsu và tình yêu thương muốn
cứu rỗi mọi người; nhóm nhỏ đó đã làm đảo lộn cả đế quốc Rôma và sau này cả thế
giới. Còn Kitô hữu giáo dân thì chưa được đào tạo để tham gia.
c. Việc thực hiện loan báo Phúc Âm trong thời kỳ
16 thế kỷ đầu
Suốt 16 thế kỷ đầu Giáo hội
Chúa phải đối mặt với nhiều sân khấu xã hội và văn hóa khác nhau:
c.1. Xã hội và văn hóa của Do Thái và đế quốc Rôma.
Khi Chúa Giêsu loan báo
Phúc Âm cứu rỗi của Ngài thì giáo quyền Do Thái và chính quyền Rôma cấm đoán và
bách hại, Ngài sẵn sàng chịu tử đạo để làm chứng, còn các tông đồ bị bắt bớ thì
di tản đi khắp đế quốc Rôma. Khi được tự do các ngài tập họp nhau thành giáo
đoàn, tổ chức giảng Phúc âm, dự lễ Thánh Thể sống yêu thương bằng chia sẻ của cải
cho nhau. Khi bị đế quốc Rôma bách hại thì hàng trăm ngàn Kitô hữu đã chịu tử đạo.
Khi không còn được tử đạo, nhiều Kitô hữu hợp lại thành tu viện để tập sống
theo 3 lời khuyên Phúc Âm (dòng Biển Đức).
c.2. Xã hội và văn hóa của dân Mandi.
Khi đế quốc Rôma tan rã và
bị dân Mandi xâm chiếm, Giáo hội đã chinh phục các vua và dân Mandi theo Phúc
Âm một cách tập thể ồ ạt, Giáo hội không có người để dạy Phúc Âm cho họ, nên
Giáo hội tổ chức cho họ dự lễ Chúa nhật, đọc kinh sáng tối, lần chuỗi, đi đàng
thánh giá, ăn chay... dân Chúa phát triển mỗi ngày một đông đến nỗi sang thế kỷ
XII, Âu Châu trở thành một Thế giới Kitô giáo (Chrétienté).
c.3. Sân khấu xã hội và văn hóa theo chủ nghĩa nhân
văn
Đầu thế kỷ XIV Giáo hội phải
đối mặt với chủ nghĩa nhân văn (humanisme) đề cao tự do và chủ nghĩa cá nhân,
chống giáo sĩ, chạy theo thế tục hoá. rồi các tệ nạn như gia đình trị, giáo sĩ
trị, virus phong kiến quan liêu xâm nhập hàng giáo sĩ, gây gương xấu tới đỉnh
cao trong Giáo hội, chẳng hạn vụ buôn bán ân xá để lấy tiền xây Đền Thờ Thánh
Phêrô và Toà Thánh Vatican. Linh mục Luther đã phản đối và ly khai với Tòa
Thánh năm 1520. Mãi đến năm 1545 Công đồng Trentô mới họp để cải tổ: lập đại chủng
viện để đào tạo giáo sĩ, soạn sách giáo lý Rôma cho giáo dân, soạn sách lễ,
sách phụng vụ giờ kinh cho giáo sĩ. Cuộc ly khai của Giáo hội Tin Lành kéo theo
cả 40 triệu Kitô hữu, gây chia rẽ thù nghịch, có khi dẫn tới chiến tranh, khiến
nhiều Kitô hữu Công Giáo cũng như Tin Lành phải di tản sang Mỹ châu, Úc châu, Á
châu - khi Kitô hữu gặp tại địa phương những dân tộc chưa biết gì về Phúc Âm
thì họ muốn truyền giáo cho họ. Và có lẽ từ đó mà từ truyền giáo được dùng để truyền
đạo cho nhau.
4. Riêng Việc truyền giáo từ thế kỷ XVI đến thế
kỷ XXI
Vào đầu thế kỷ XVI các nước
Âu châu như, Bồ đào nha, Tây ban nha, Pháp, Anh ... muốn đi khám phá để tìm đất
đai của cải và buôn bán. Họ là Kitô hữu gặp được ở các địa phương mới khám phá
như Mỹ châu, Phi châu, Á châu. có nhiều dân tộc chưa biết gì về Phúc Âm và chưa
được khai hóa, họ xin Giáo hội sai giáo sĩ, tu sĩ cùng đi với họ đến truyền
giáo cho họ.
a. Ý nghĩa cụm từ truyền giáo.
Từ điển công giáo của Hội
Đồng Giám Mục Việt Nam (2011) cắt nghĩa truyền giáo: “Truyền là đem của người
này mà trao cho người khác, giáo là đạo. Truyền giáo là phổ biến đạo. Truyền
giáo có gốc từ tiếng Latinh missio do động từ mittere có nghĩa là sai đi”. Người
Pháp hiểu mission là sứ vụ nghĩa là việc sai đi để thực hiện, và missionaire là
người được dùng để sai đi chu toàn sứ vụ (theo Từ Điển Larousse 1999). Khi một
số nước Âu châu theo Kitô giáo như Bồ đào nha, Tây ban nha, Pháp, Anh . khám
phá thế giới mới ở Mỹ châu, Phi châu, Á châu. Họ vừa có tham vọng tìm đất đai của
cải và buôn bán, vừa gặp nhiều dân tộc chưa biết gì về Phúc Âm, về Kitô giáo, họ
xin Giáo hội sai giáo sĩ tu sĩ đi với họ đến để truyền giáo, truyền đạo. Do đó
mà có sự tranh giành nhau và Giáo hội phải lập ra Bộ truyền giáo để can thiệp
1622, tiếng Latinh là Congregatio de propaganda fide nghĩa là bộ truyền bá đức
tin, propaganda có nghĩa là hành động có tổ chức nhằm tuyên truyền để dư luận
chấp nhận một tư tưởng hay giáo thuyết nào đó (theo từ điển Larousse). Giáo hội
chọn truyền giáo trong một sân khấu xã hội và văn hóa Âu châu đang bị chủ nghĩa
nhân văn thời trung cổ và thời “Thế Kỷ ánh sáng” xâm nhập, nó đề cao tự do, cá
nhân chủ nghĩa, duy thế tục, duy vật vô thần. rồi truyền giáo còn bị lạm dụng
và bị gán cho nhiều ý nghĩa không tốt như chiêu dụ tín đồ, chiếm đất, thực dân.
Do đó sau Công Đồng Vatican II năm 1967 Đức Phaolô VI đã thay thế cụm từ truyền
giáo bằng cụm từ Phúc âm hóa. Như vậy, Giáo hội toàn cầu đã dứt khoát với truyền
giáo và chú tâm vào sứ vụ loan báo Phúc Âm và Phúc âm hóa các dân tộc từ 1967.
Còn ở Giáo hội Việt Nam thì sao?
Về ý nghĩa truyền giáo ở
sân khấu Giáo hội Việt Nam thì có nhiều cái độc đáo và phức tạp. Trước hết từ
truyền đạo đã có mặt trong Khâm Định Việt Sử: “năm 1533 đời vua Lê Trang Tôn,
có một thừa sai Tây Phương tên là I-Nê-Khu đã theo đường biển vào truyền đạo tại
hai làng Ninh Cường và Trà Lũ thuộc tỉnh Nam Định”. Điểm độc đáo thứ hai là các
vị thừa sai dòng tên (Cha Đắc Lộ) đã sáng tạo và hoàn thành chữ Quốc ngữ để các
ngài có thể giảng đạo bằng tiếng Việt. Nhưng về sau, truyền giáo đụng chạm với
các nước Kitô Giáo Âu châu, đụng chạm đến cả phong tục và văn hóa của vua quan
Việt Nam khiến truyền giáo mang nhiều ý nghĩa không tốt, lẫn lộn. Theo cha Huỳnh
Trụ “Missio được dịch ra là: Sứ vụ, sứ mạng, truyền giáo, thừa sai, khiến nhiều
người lẫn lộn, chẳng hạn sứ vụ không thể thay thế truyền giáo, không ai nói
cánh đồng truyền giáo là cánh đồng sứ vụ, Giáo hội phát sinh từ sứ vụ chứ không
phải từ truyền giáo...” Cha còn thêm rằng: “Nói truyền đạo đúng hơn truyền
giáo, vì truyền đạo để giữ đạo và sống đạo, không ai nói truyền giáo là dạy
giáo để giữ giáo hay sống giáo”. Và ai cũng biết Chúa Giêsu và các Tông đồ
không lập một tôn giáo mới, không truyền đạo hay truyền giáo, chỉ loan báo Phúc
âm cứu rỗi mà thôi.
Thực ra muốn hiểu cho thấu
đáo ý nghĩa truyền giáo phải để giờ đọc cuốn “Nhật Ký Truyền Giáo: Dân Làng Hồ”
của Linh mục Dourisboure (Thừa sai Pháp) suốt gần 40 năm truyền giáo bằng sống
“ba cùng” với đồng bào Tây Nguyên (1929); và đọc cuốn “Nhật Ký Truyền Giáo: Giọt
Nắng Đồi Trọc Kông chro” (2017) của hai nữ tu dòng Đa Minh, cũng sống “ba cùng”
trong 10 năm để truyền giáo như vậy, đến nỗi cha Adrien Launay trong bài mở đầu
tập Dân Làng Hồ đã viết: “Tất cả những ai có dịp đọc tác phẩm này đều hết lời
ca ngợi, và tôi biết đã từng có người quỳ xuống dâng lời khẩn nguyện sau khi đọc
lại trang nào đó trong quyển hồi ký này, mắt đẫm lệ (xem Dân Làng Hồ trang 6).
Ngày nay Kitô hữu Việt Nam
chỉ là thiểu số chiếm 8% trong đa số các người lương: theo Phật giáo, Khổng giáo,
Lão giáo, đạo Cao đài, Hòa hảo, Tin lành...họ tự hào có đạo trước các Kitô hữu
nữa. Chúng ta cảm nghĩ gì khi họ nghe ta “dốc toàn lực để truyền giáo cho họ?”
Đang khi Công đồng Vatican II, nhất là Thượng Hội Đồng Giám mục thế giới thứ
XIII năm 2012 chọn “khẩu lệnh” cho Giáo hội tại Á Châu là Phúc âm hóa họ bằng đối
thoại với các tôn giáo, với văn hóa, và với người nghèo.” Thực sự, cụm từ truyền
giáo được dùng từ đầu thế Kỷ XVI lúc đầu mang ý nghĩa tốt đẹp là loan báo Phúc
Âm, rất thích hợp với xã hội nhiều tính nhân văn thời đó, nhưng sau truyền giáo
vì hoàn cảnh chính trị đã bị lây nhiễm những ý nghĩa không tốt, có mùi tuyên
truyền để chiêu dụ tín đồ, xâm phạm phong tục tín ngưỡng, chẳng hạn thành kiến
“theo đạo là bỏ thờ cúng ông bà” mà tới nay vẫn chưa được xoá nhoà. Mặc dù cụm
từ truyền giáo được quen dùng từ 400 năm nay nhưng nó đã không hội đủ điều kiện
mà giáo sư Hoàng Xuân Hãn nêu ra về nội dung để tạo một từ chuyên biệt. Đó là:
“mỗi ý phải có một từ để gọi, từ ấy phải riêng về ý ấy, từ ấy phải làm cho dễ
nhớ đến ý ấy”. Đây là ý nghĩa, giá trị và ích lợi của cụm từ truyền giáo, có những
cái hay và có những cái thiếu sót, không ích lợi, cần chọn lựa.
b. Người truyền giáo trong thời kỳ II (Từ thế kỷ
XVI - XXI)
Trong thời kỳ này người
truyền giáo vẫn là các giáo sĩ, tu sĩ của các dòng như Đa minh, Phanxicô, dòng
tên. Các ngài được nhà dòng đào tạo, học ngôn ngữ phong tục của các nơi mà các
ngài được sai tới. Sau Công Đồng Trentô các ngài còn nhờ các đại chủng viện và
các đại học công giáo trau dồi về triết học, thần học, kinh thánh, mục vụ. để
loan báo Phúc Âm và truyền giáo. Và sau Công Đồng Vatican II, Kitô hữu giáo dân
được mời gọi sống đúng phẩm giá người được thanh tẩy và được sai đi” trong Giáo
hội để cộng tác với giáo sĩ trong công việc Phúc âm hóa. Như vậy người truyền
giáo trong thời kỳ này bao gồm giáo sĩ, tu sĩ và cả Kitô hữu giáo dân và chỉ
sau Công Đồng Vatican II họ mới được kêu gọi tham gia tích cực hơn về mọi mặt.
c. Việc thực hiện truyền giáo từ thế kỷ XVI -
XXI
c.1. Việc thực hiện truyền giáo ở các miền đất truyền
giáo
Vào đầu thế kỷ XVI các nước
Kitô giáo như Bồ đào nha, Tây ban nha, Pháp, Anh. khám phá ra thế giới còn nhiều
vùng đất ở Mỹ châu, Á châu, Phi châu. có những dân tộc chưa biết gì về Phúc Âm,
về Kitô giáo, họ xin Giáo hội sai tu sĩ, giáo sĩ đến loan báo Phúc âm. Giáo hội
xin các dòng tu chuẩn bị tu sĩ giáo sĩ, cho họ học ngôn ngữ, phong tục để dễ
hòa nhập và tổ chức dạy văn hóa, xây trường học nhà thương. Nơi nào mà chính
quyền và dân chúng không có sẵn những tôn giáo, phong tục không phù hợp với
Phúc âm thì dễ dàng đón nhận Phúc âm, và việc truyền giáo đem lại kết quả tốt,
chẳng hạn ở Mỹ châu, Phi châu tỉ lệ Kitô giáo là hơn 50%, ở Phi Luật Tân là
80%, nơi nào có những chính quyền theo một tôn giáo phong tục không phù hợp với
Phúc âm thì chính quyền xã hội chống đối, cấm đoán, bách hại, việc truyền giáo
không phát triển và tỉ lệ người theo Kitô giáo rất kém, chẳng hạn Ấn Độ theo đạo
Hindu chỉ có 1,2%, Nhật Bản theo đạo Shinto 0,39%, Trung Quốc theo Khổng Giáo
0,7%, Việt Nam theo Phật Giáo, theo Đạo ông bà 8%... cái khó khăn nhất là nhà
vua và xã hội cho rằng truyền giáo là tuyên truyền đạo ngoại lai, là không thờ
trời đất, thần thánh, ông bà tổ tiên, là đạo chiêu dụ các tín đồ tiếp tay cho
thực dân. Mặc dầu các dòng tu và Giáo hội đã lập Bộ Truyền giáo năm 1622 để
giúp đỡ giải quyết các khó khăn suốt 400 năm nay, nhưng làm sao kể hết được những
niềm vui Phúc âm và những nỗi đau gian khổ của các thừa sai truyền giáo: Cuốn
sách “Giáo hội Việt Nam Thời Các Thánh Tử Đạo”, sách “Dân Làng Hồ”, sách “Hạt Nắng
Đồi Trọc Kông Chro” chỉ nói lên được chút xíu về “mầu nhiệm giao thoa giữa ân sủng
Thiên Chúa và tự do con người” trong việc loan báo Phúc âm.
Đó là nói chung về việc
truyền giáo được các dòng tu và Giáo hội đã lập ra. Bộ Truyền giáo năm 1622 thực
hiện trong các miền mới được khám phá trên thế giới.
c.2. Còn riêng ở Việt Nam,
ta có thể tóm lược việc truyền giáo được thực hiện trải qua 3 thời kỳ:
- Thời
kỳ đặt nền móng (1600 - 1630).
Điểm đặc biệt ở Việt Nam
là sách Khâm Định Việt Sử có ghi: “Năm 1533 đời Lê Trang Tông có một thương
nhân tên I-Nê-Khu đi đường biển lén vào giảng đạo Gia Tô ở làng Ninh Cường Quần
Anh thuộc huyện Nam Chân, và ở Trà Lũ thuộc huyện Giao Thủy”. Đầu thế Kỷ XVII
các giáo sĩ Dòng Tên mới thực truyền giáo và đặt nền móng. Các ngài đã để lại
cho Giáo hội bốn công việc đáng ghi nhớ: Thứ nhất Cha Đắc Lộ cùng các bạn Việt
Nam đã phiên âm Tiếng Việt theo vần Latinh để làm thành chữ quốc ngữ ngày nay,
với cuốn từ điển Việt-Bồ-La và cuốn “Phép giảng Tám ngày” giúp học và dạy tiếng
Việt dễ dàng hơn để giảng đạo; Thứ hai các ngài thường nhắm làm quen với các
quan chức có ảnh hưởng lớn trong xã hội, tặng đồng hồ, máy móc khoa học hấp dẫn...
để vừa được bảo vệ và được giúp đỡ khi làm việc; Thứ ba giúp dân chúng từ bỏ mê
tín, dị đoan, bùa phép, đa thê., lập thành họ đạo để người theo đạo sống đạo,
đào tạo các thầy giảng (thầy giảng Anrê Phú Yên); thứ bốn, các ngài để lại cho
miền Bắc gần 300.000 giáo hữu và miền Nam khoảng 50.000. Các cha dòng Tên chưa
gặp công khai cấm đạo và bách hại, và đất nước đang trong thời kỳ phân tranh giữa
nhà Trịnh và nhà Nguyễn.
- Thời
kỳ xây dựng trong thử thách (1630 - 1820).
Về sân khấu xã hội giữa thế
Kỷ XVII nhà Trịnh muốn dẹp nhà Nguyễn nhưng mãi đến thế Kỷ XVIII nhà Tây Sơn
lên cầm quyền dẹp nhà Nguyễn ở Miền Nam rồi dẹp cả nhà Trịnh ở Miền Bắc, thống
nhất đất nước. Tuy nhiên Nguyễn Ánh là cháu của chúa Nguyễn Định Vương thoát nạn
và tìm cách khôi phục nhà Nguyễn nhờ sự yểm trợ của Pháp. Nhà Tây Sơn biết tin
đó nên cấm đạo gắt gao (biến cố người công giáo phải trốn trong rừng La Vang
1798). Nguyễn Ánh nhờ người Pháp giúp khôi phục nhà Nguyễn và lên ngôi hiệu là
Gia Long (1802). Vua Gia Long không cấm đạo, nhưng 3 vua con là Minh Mạng, Thiệu
Trị, Tự Đức thì ra tay cấm đạo, cho đạo công giáo là tà đạo, đạo ngoại lai,
theo Tây, không thờ trời đất, thờ vua, thờ ông bà tổ tiên. Các vua buộc các người
theo đạo phải bỏ đạo, không tuân lệnh thì bị tử hình ... còn về phía Giáo hội,
việc truyền giáo của nhóm cha Đắc Lộ được chuyển giao cho Hội Thừa Sai Truyền
Giáo Paris. Rồi Toà Thánh đã lập Bộ Truyền Giáo 1652 để giúp đỡ các miền
truyền giáo. Bộ gửi Đức Giám Mục Lambert de La Motte coi địa phận đàng trong (Nam Hà) và đưa giám mục Franẹois Pallu coi địa phận đàng ngoài (Bắc Hà), các ngài tổ
chức Nhà Đức Chúa Trời (có thầy giảng) và Dòng Mến Thánh Giá cho nữ tu (1670).
Để lo dạy giáo lý, coi các bệnh xá, làm thuốc nam chữa bệnh.
Năm 1742 sắc lệnh Tòa
Thánh kết án các nghi lễ thờ cúng trời đất, thần thánh, vua chúa, ông bà tổ
tiên. khiến các vua chúa vu cáo người Công Giáo không thờ vua và ông bà tổ
tiên, làm tay sai cho nước ngoài.
- Thời
kỳ bị bách hại (1820 - 1888).
Theo truyền thống Việt Nam
do ảnh hưởng Nho giáo, nhà vua là thiên tử (con trời), vua được thần thánh hóa,
không ai được trái lệnh vua. Nên khi người công giáo không thờ kính vua và ông
bà tổ tiên, không tuân lệnh cấm đạo của vua, thì vua coi đó là tà đạo làm đồi
phong bại tục. Khi vua Minh Mạng lên ngôi (1820 - 1841) vua ra chỉ cấm đạo, cô
lập các thừa sai, bắt giáo sĩ và giáo dân bản xứ bỏ đạo bằng cách bước qua thập
giá. Sang đời vua Thiệu Trị (1841 - 1847) cuộc cấm đạo giảm bớt. Nhưng đến thời
vua Tự Đức (1848-1883) cuộc cấm đạo gay gắt nhất. Vua bị quân đội Pháp đe dọa
can thiệp để bảo vệ quyền sống của người Pháp, nên ra nhiều chiếu chỉ cấm đạo
triệt để: bắt tất cả giáo sĩ giáo dân trong cũng như ngoài nước phải bỏ đạo,
phân rẽ các người công giáo ra rồi sáp nhập họ vào các làng bên lương, ai không
tuân lệnh thì bị xử tử hình. Trong hoàn cảnh đó, người công giáo đã không nổi dậy
hay bạo động, mà chỉ tìm cách làm chứng về niềm tin nơi Thiên Chúa. Phúc Âm của
Chúa Giêsu đã được gieo cấy và vun xới suốt 300 năm bằng máu của gần 130.000
Kitô hữu.
- Thời
kỳ trưởng thành (từ 1888) đến nay.
Sau khi vua Tự Đức mất
(1883) vua Hàm Nghi lên ngôi phát động phong trào Cần vương để diệt giặc cứu nước,
người công giáo còn bị người lương có ác cảm và nghi kỵ. Trong hoàn cảnh đó người
công giáo đã không nổi dậy hoặc dùng bạo lực, chấp nhận bị bách hại, tù đày, và
chịu chết vì đạo. Sau khi vua Hàm Nghi bị Pháp bắt, Giáo hội ở Việt Nam có cơ hội
để trưởng thành, nhưng phải cùng chung số phận với đất nước là chịu sự đô hộ của
Pháp (1888), dưới thời Pháp thuộc, Giáo hội không còn bị cấm đạo, nhưng trưởng
thành dưới sự hướng dẫn của bộ Phúc âm hóa các dân tộc và sự giúp đỡ của hội
truyền giáo hải ngoại Paris. Giáo hội cũng đã trải qua nhiều biến cố lịch sử
khó khăn và phức tạp vào năm 1945 (có chính phủ mới) năm 1954 (có cuộc di cư bắc
nam) năm 1975 (có cuộc vượt biên)... Nhưng theo đức tin Kitô giáo đó là những
biến cố để Giáo hội có thể có cơ hội loan báo Phúc âm và truyền giáo.
c.3. Việc thực hiện truyền giáo ở chính Âu châu
Đầu thế Kỷ XVI Giáo hội đã nhờ Công Đồng Trentô để canh tân, gửi thừa
sai đi loan báo Phúc âm và còn đang đào tạo hàng giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân về
giáo lý, về phụng vụ, nhưng Giáo hội vẫn đang đối mặt với sân khấu xã hội và
văn hóa đã ô nhiễm vì virus phong kiến thời trung cổ, lại còn chịu ảnh hưởng mạnh
mẽ của “Thế Kỷ ánh sáng”, cả hai loại virus đều đề cao tự do cá nhân chủ nghĩa,
loại trừ tôn giáo, chạy theo thế tục hóa. xã hội đó đã tiến tới cuộc Cách mạng
Pháp (1789), mở đường cho chủ nghĩa bình đẳng tự do phóng túng, tạo điều kiện
cho chủ nghĩa tư bản nổi lên bóc lột giới công nhân vô sản. Và khi các nước tư
bản công giáo như Pháp và Đức không giải quyết được các tranh chấp quyền lợi
thì chiến tranh thế giới thứ I (1914 - 1918) và thứ II (1939 - 1945) bùng nổ. Rồi
năm 1917 cuộc Cách mạng xô viết lật đổ chế độ Nga hoàng và lập chế độ cộng sản
duy vật vô thần. Đến 1949 cách mạng Trung Quốc thiết lập chế độ Cộng hòa nhân
dân, theo chủ nghĩa cộng sản, rồi cộng sản Trung Quốc nhập với cộng sản Liên Xô
thành khối cộng sản, đối nghịch với khối tự do của thế giới, gây ra chiến tranh
lạnh, đe doạ hoà bình của cả nhân loại - trong bối cảnh sân khấu xã hội thế giới
bị phân hóa như vậy, Giáo hội lúc đó đang ở tình trạng nội bộ chia rẽ Công Giáo
và Tin Lành, Giáo hội lại chưa kịp cải tổ phát triển thần học cũng như chú giải
Kinh Thánh để đáp ứng những đòi hỏi mới về khoa học (Vụ ông Galilê) về công bằng
xã hội (vụ bóc lột người vô sản), về thái độ đối với các tôn giáo và văn hóa (kỳ
thị, tự đắc tự tôn). Giáo hội chỉ khiêm tốn làm những việc có thể như lên tiếng
kết án các tội ác chiến tranh, lo cứu trợ các nạn nhân, nhất là cầu nguyện cho
thế giới thoát khỏi chiến tranh. Và Thiên Chúa đã can thiệp cho Đức Thánh Giáo
Hoàng Gioan XXIII triệu tập Công Đồng Vatican II để làm đẹp Giáo hội và để Giáo
hội góp phần làm đẹp thế giới.
5. Riêng Việc tân Phúc âm hóa từ thế kỷ XXI
Tới đây ta đã tìm hiểu ý
nghĩa, giá trị, ích lợi của hai việc trong hai thời kỳ mà Giáo hội phải đối mặt
với nhiều sân khấu xã hội và văn hóa khác nhau. Sang thời kỳ thứ ba Giáo hội phải
đối mặt với sân khấu xã hội và văn hóa Âu châu đã bị lây nhiễm virus của “chủ
nghĩa nhân văn” (từ thế kỷ XIV) và của “thế kỷ ánh sáng” (thế kỷ XVIII), sân khấu
của một xã hội xa lìa Phúc âm, rời bỏ Giáo hội, chạy theo duy vật vô thần, chủ
trương tất cả chỉ là tương đối... Vì thế mà sau Công Đồng Vatican II năm 1967
Giáo hội phải chọn Phúc âm hóa, rồi sân khấu bị ô nhiễm đó lây lan khắp các
châu lục, trở thành toàn cầu hóa, khiến năm 2012 Giáo hội phải chọn tân Phúc âm
hóa.
a. Ý nghĩa Tân Phúc Âm Hoá theo nghĩa riêng từng
chữ
Tân là: Mới, thay đổi cho
mới, những cái mới, những gì mới xuất hiện. - Phúc là: Những sự tốt lành, điều
may mắn, những điều tốt đẹp trời đất ban để thoả mãn nguyện của con người. - Âm
là: Tiếng phát ra bởi vật thể bị chấn động, tin tức. - Hóa là: Dạy, giáo dục,
thay đổi biến chất - Nếu đặt hóa sau danh từ thì hóa có nghĩa là chuyển biến trạng
thái hay tính chất của vật, làm cho trở thành, biến thành, làm cho thấm nhuần
(theo cha Stêphanô Huỳnh Trụ). Muốn hiểu đến nơi đến chốn tân Phúc âm hóa ta cần
hiểu 3 từ: Phúc âm hóa trước đã.
b. Ý nghĩa cụm từ Phúc âm hóa
Người có uy tín và thẩm
quyền nhất giúp ta hiểu là Đức Giáo Hoàng Phaolô VI. Bởi vì ngài đã nối ngôi Đức
Gioan XXIII để hoàn tất Công Đồng Vatican II, và đến năm 1967 ngài triệu tập
Thượng Hội Đồng Giám Mục thế giới lần thứ III. Đức Phaolô VI là giáo hoàng đầu
tiên dùng Phúc âm hóa, chính ngài đã biên soạn hết sức công phu và phong phú
Tông huấn về Phúc âm hóa, trong đó có 7 chương bao quát mọi vấn đề liên quan đến
Phúc âm hóa. Tông huấn ra đời vào 8 - 12 - 1975 trong bối cảnh đất nước ta vừa
thay đổi với biết bao bận tâm lo lắng. Cho nên mãi tới thập niên 2000, tôi gặp
được cha thư ký TGM Đà Lạt, ngài đã chia sẻ cho tôi tài liệu về học hỏi Tông huấn
và cả bản văn dịch Tông huấn của giáo phận Đà Lạt.
Ở đây tôi chỉ xin tóm lược
3 điểm độc đáo giúp hiểu ý nghĩa Phúc âm hóa là gì, người Phúc âm hóa là ai, những
việc phải làm để thực hiện việc Phúc âm hóa:
a) Phúc
âm hóa là một từ có thể xác định tất cả sứ mệnh của Chúa Giêsu, là một tổng hợp
đầy đủ ý nghĩa, nội dung, các cách thức để Phúc âm hóa như Chúa Giêsu đã quan
niệm và thực hiện (Tông huấn số 6, 7). Tông huấn định nghĩa “Phúc âm hóa là
mang Phúc âm vào tất cả mọi môi trường nhân loại và nhờ tác động của Phúc âm
làm biến đổi từ bên trong, đổi mới chính nhân loại (Tông huấn 18).
b) Người
Phúc âm hóa là toàn thể mọi thành phần trong Giáo hội. Ở thời kỳ I và II người
Phúc âm hóa chỉ là giáo sĩ, tu sĩ, viên chức chuyên môn... giáo dân không có chỗ
đứng. Tông huấn kể rõ mọi thành phần Giáo hoàng, Giám mục, Linh mục, Tu sĩ,
Giáo dân, gia đình, giới trẻ. dầu là người đã được loan báo, truyền giảng Phúc
Âm, tất cả vẫn luôn phải Phúc âm hóa. Tông huấn còn nhắc nhớ tất cả đều phải được
đào tạo nghiêm chỉnh và thích đáng (Tông huấn chương VI).
c) Những
việc phải thực hiện để Phúc âm hóa: Việc cốt yếu trước hết là làm chứng cho người
khác biết Thiên Chúa là Cha, đã sai Chúa Giêsu là Con cùng với Chúa Thánh Thần
đến cứu rỗi loài người sa ngã, giải thoát và thăng tiến họ để họ trở thành con
cái của Thiên Chúa. (Tông huấn chương III) làm chứng bằng biến đổi chính cuộc sống
của mình theo Chúa Giêsu, sống theo các mối Phúc thật: Hiền lành, thương xót...
Không chỉ loan báo hay tuyên truyền. (Tông huấn chương IV).
Ta vừa học hỏi về Phúc âm
hóa, công việc đã xảy ra trước đây vào năm 1975, nghĩa là cách đây 50 năm rồi,
bây giờ ta tìm hiểu về tân Phúc âm hóa. Ta đã biết sân khấu xã hội và văn hóa
đang đổi thay mau chóng không thể ngờ được, vì thế mà Giáo hội buộc phải họp
Thượng Hội Đồng Giám Mục lần XIII để bàn về tân Phúc âm hóa năm 2012, tính đến
nay đã 8 năm qua, để đối phó với những thách đố mới. Thượng Hội Đồng Giám Mục lần
XIII để lại cho ta hai tài liệu: Tài liệu làm việc năm 2011 và “Sứ điệp gửi dân
Chúa của Thượng Hội Đồng để tân Phúc âm hóa (2012). Nên nhớ Đức Thánh Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II là người đầu tiên dùng tân Phúc âm hóa khi ngài sang công
du sang Châu Mỹ La Tinh, rồi Đức Biển Đức XVI và đức Phanxicô cả hai tiếp tục tổ
chức hội nghị về tân Phúc âm hóa. Ở đây chỉ xin tóm lược những điểm độc đáo về
tân Phúc âm hóa mà trước đây Thượng Hội Đồng lần Thứ III chưa nói tới thôi:
a) Thượng Hội Đồng Giám Mục lần XIII cho biết Giáo hội
phải khẩn cấp tân Phúc âm hóa, vì bên trong Giáo hội
nhiều nơi đã được loan báo Phúc âm và truyền giáo nhưng còn thiếu sót, nông cạn,
kém hiệu lực; bên ngoài Giáo hội bị tác động bởi một xã hội và văn hóa Âu Châu
theo chủ nghĩa nhân văn (humanism) và “thế Kỷ ánh sáng” (Siècle des lumières)
nhằm dẹp bỏ tôn giáo, chủ trương duy tương đối, coi Thiên Chúa đã chết, muốn
cho con người được tự do cá nhân lên ngôi. Ảnh hưởng lây lan sang cả 5 Châu và
trở thành toàn cầu hóa. Đạo và đời ngày càng xa cách đối nghịch. Giáo hội có sứ
mệnh và bổn phận vừa lo tân Phúc âm hóa chính mình vừa lo tân Phúc âm hóa thế
giới (xem Tài liệu làm việc 2011, chương I).
b) Thượng Hội Đồng Giám Mục lần Thứ XIII lưu ý về những
người thực hiện tân Phúc âm hóa gồm mọi thành phần
trong Giáo hội, dù họ đã được loan báo Phúc âm và truyền giáo rồi nhưng họ vẫn
luôn luôn phải tự tân Phúc âm hóa, để góp phần với nhau xây dựng cho Giáo hội một
bộ mặt mới, một cách hiện diện mới; không phải giống như một “Thế giới Kitô
giáo” hay một “Vùng đất truyền giáo” xưa thời trung cổ, đã lỗi thời lạc hậu rồi,
mà các nghị phụ nói tới một Giáo hội mẫu mực mới, có thể là: Một Giáo hội tại
gia (domestique), một Giáo hội của đại chúng (Populaire), một Giáo hội là bệnh
viện dã chiến, một Giáo hội là nhà chung (Maison de Dieu), là “cái giếng đầu
làng” (un puits de village)... nơi mọi người dễ gặp gỡ nhau để trò chuyện thoải
mái (xem Tài liệu làm việc năm 2011 chương I).
c) Thượng Hội Đồng mời gọi mỗi Kitô hữu tân Phúc âm
hóa mình không phải chỉ biến đổi mình để theo một
tôn giáo, một lý thuyết, nhưng bằng cách chú tâm đi vào chiều sâu để gặp gỡ, tiếp
xúc, tạo mối tương quan cá vị, hiệp thông với một người là Chúa Giêsu, là lời sống
động của Thiên Chúa đã nhập thể, và Người cũng là chính Phúc âm. Cuộc gặp gỡ
này đem đến cho cuộc đời họ một chân trời mới là gặp gỡ được Chúa Thánh Thần, Đấng
sẽ dẫn dắt họ vào mối tương quan với Chúa Cha để họ trở thành con Thiên Chúa. Ở
Việt Nam ta chưa quen đi vào chiều sâu của cuộc gặp gỡ cá vị này với Chúa Giêsu
để ta có kinh nghiệm thân mật với Chúa. Có thể nói như đức Phanxicô đã so sánh
ta giống “như người cưỡi ngựa xem hoa”. (xem Tài liệu 2011 chương II).
d) Thượng Hội Đồng không những muốn mỗi Kitô hữu đi
vào chiều sâu tâm hồn mình để gặp gỡ, có tương quan
cá vị thân mật với Chúa Giêsu mà còn muốn mỗi người cùng với Giáo hội mở rộng
tâm trí và tâm hồn đến toàn diện, toàn bộ (holistic) của đời sống con người, đó
là các phương diện văn hóa, xã hội, kinh tế, chính trị, kỹ thuật, tôn giáo,
sinh thái hay môi trường... Kitô hữu phải biến đổi bản thân mình theo Phúc âm để
còn có thể biến đổi các bối cảnh trên theo đúng tinh thần Phúc âm. Nhất là Việt
Nam ở Á châu, các nghị phụ nhắn nhủ tân Phúc âm hóa đất nước mình bằng đối thoại
với các nền văn hóa, các tôn giáo, và những người nghèo (xem Tài liệu làm việc
chương I và III).
6. Để kết
Tôi đã cố gắng tìm cách
giúp độc giả hiểu cho thật rõ ràng cụ thể ý nghĩa, giá trị, ích lợi của các cụm
từ loan báo Phúc Âm, truyền giáo, tân Phúc âm hóa, nhờ đó độc giả chỉ cần dùng
lương tri và dõi theo sự hướng dẫn của các giám mục thế giới mà chọn lựa xem
mình phải thực hiện những gì để trước hết bản thân mình được biến đổi theo Phúc
Âm Chúa Giêsu “trong nhiệt tình mới, trong những phương pháp mới, trong những
cách diễn tả mới,” nhờ đó mình có thể biến đổi mọi người và thế giới theo Phúc
âm. Thượng Hội Đồng đã chọn tân Phúc âm hóa năm 2012 là “tầm nhìn” (vision) cho
Giáo hội hôm nay và ngày mai, và đã coi tân Phúc âm hóa là “huấn lệnh” (mot
d'ordre) cho mục vụ hiện tại và tương lai của Giáo hội.
Để giúp độc giả luôn nhớ
tân Phúc âm hóa mình, xin độc giả vui lòng xét mình dựa theo “những bộ ba” sau
đây, bộ ba nào biến đổi mình nên tốt thì theo, bộ ba nào biến đổi mình thành tồi
thì tránh:
1) Ba
nguyên nhân của mọi hư hỏng: Tiền, quyền, tình.
2) Ba
cái lầm chết người: Tưởng mình giỏi nhất, tưởng ai cũng thương mình, tưởng
không ai biết việc sai mình làm.
3) Ba
cái nghèo làm nghèo sứ vụ: Nghèo liên đới, nghèo lời khen, nghèo sáng kiến.
4) Ba
loại lời không được phép có nơi cửa miệng: Lời dơ bẩn, lời chê bai, lời gây
chia rẽ.
5) Ba
thực hành để nuôi sự thánh thiện: Chầu Mình Thánh Chúa, đọc sách thiêng liêng,
lẫn chuỗi.
6) Ba cố
gắng cần cho sự lớn lên mỗi ngày: Dứt ngay cơn giận, xua tan bất hòa, thật lòng
hồi tâm.[1]
Linh mục Antôn
Nguyễn Mạnh Đồng
Nhà Hưu
Dưỡng Linh Mục Cần Thơ
Chúa Nhật
15 - 11 - 2020
(Lễ Các
Thánh Tử Đạo VN).
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 122 (Tháng 01
& 02 năm 2021)
(Cập nhật lúc 11h30, ngày 18.6.2021)
[1] Trích từ bài '“Linh mục và những
bộ ba” của linh mục Jb. Trong sách Kỷ yếu Đại chủng viện Huế, 25 năm hoạt động
1994 - 2019